Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Lời nói đầu Trên thế giới này mỗi quốc gia đều muốn phát triển, đều muốn khẳng định thế mạnh của mình. Quốc gia này có thế mạnh về lao động, tài nguyên, văn hoá xã hội, thị trường; quốc gia khác lại có thế mạnh về vốn, công nghệ...Nó đều có thế mạnh riêng của mình, không có quốc gia nào là hoàn toàn mạnh cũng như không có quốc gia nào là hoàn toàn yếu. Những quốc gia hiện nay chưa phát triển, nguyên nhân chính là do chưa biết cách khai thác thế mạnh của mình, chưa đề ra được hướng đi cho mục ti

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu phát triển của mình, hay nói cách khác chưa tạo ra được tính hợp lý cho quá trình khai thác và sử dụng thế mạnh của mình. Để hoà nhập với xu hướng chung của thế giới, mỗi quốc gia đều vạch ra cho mình chiến lược phát triển kinh tế riêng. Với điều kiện nền kinh tế Việt Nam, đây cũng là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đảng và Chính phủ đã đưa ra mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhằm đưa đất nước đi lên thoát khỏi tình trạng ngèo nàn lạc hậu. Để thực hiện mục tiêu đó yêu cầu vê vốn là một trong những thách thức lớn nhất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Do đó Việt Nam đã tính đến khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế. Nhận thức được vị trí và vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài nên tháng 12 năm 1987 Chinhs phủ đã ban hành Luạt đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tưc nước ngoài vào Việt Nam. Do vậy để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam không thể phủ nhận vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để góp phần giải quyết những vướng mắc nói trên, trong phạm vi bài đề án này em xin được đề cập đến vấn đề: “Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp". Kết cấu của bài đề án này bao gồm ba phần: Phần I: Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân. Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua. Phần III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Phần I: Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân I. Khái niệm, các hình thức và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Khái niệm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối trọng mà họ bỏ vốn. 2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thực tiễn, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Những hình thức được áp dụng phổ biến là: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng - Doanh nghiệp liên doanh - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên đây được áp dụng khác nhau. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, Chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế hoặc là áp dụng các hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT) hay xây dựng – chuyển giao (BT) hay xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO) 3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài 3.1. Tác động tích cực 3.1.1. Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư - Có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do vậy, vốn đầu tư được sử dụng với hiệu quả cao. - Giúp các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại. - Do khai thác được nguồn nhân công với giá rẻ nên giúp họ giảm chi phí và nâng cao năng suất lao ddộng. - Do xây dựng được các doanh nghiệp nằm trong lòng nước sở tại vì thế mà tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại. 3.1.2. Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư - Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. - Tạo điều kiện cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. - Giúp cho các nước sở tại sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. 3.2. Tác động tiêu cực - Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI. - Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng. - Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ. - Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẩn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiểm môi trường II. Các xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Xu hướng tự do hoá đầu tư Xu hướng tự do hoá đầu tư được thể hiện trên ba bình diện là quốc gia, khu vực và quốc tế. Trên bình diện quốc gia, đó là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, về vốn góp, thuê mướn nhân công, đòi hỏi về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu,... Bên cạnh đó, các quốc gia cũng đang đưa ra các khuyến khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các khuyến khích về tài chính, ... Trên bình diện khu vực, đó là sự thành lập các khu vực đầu tư, việc ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương. 2. Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư Quốc tế Các tập đoàn xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh nhiệm quản lý chính trong đầu tư quốc tế. Nếu như năm 1990 có hoảng 37000 tập đoàn loại này với khoảng 170000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài thì đến 1995 đã có khoảng 39000 tập đoàn với khoảng 270000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài nắm gũ khoảng 2700 tỷ USD FDI, tương ứng với 10% GDP thế giới. Điều đặc biệt lưu ý là đa số các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển hầu hết tập trung ở Châu á. Bên cạnh đó, với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các tập đoàn xuyên quốc gia giờ đây đang chịu sự cạnh tranh đáng kể của các hãng có quy mô vừa và nhỏ trên toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ mà biểu hiện rõ nhất là các dịch vụ thông tin. 3. Địa bàn thu hút đầu tư Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển và tác động của quá trình toàn cầu hoá khu vực hoá, vốn FDI trên thế giới đang có những biến đổi theo xu hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào các nước đang phát triển, trong đó các nước đang phát triển ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương nổi lên là khu vực thu hút nhiều vốn đầu tư vào nhất. Trong giai đoạn 1990 – 1995, các dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển đã tăng khoảng 7,5 lần. Các nước đang phát triển khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 62% năm 1995 (so với 46% năm 1990) trong tổng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Khu vực Đông và Đông Nam á là khu vực thu hút nhiều đầu tư nước ngoài nhất những năm 90. Từ 1992, Trung Quốc nổi lên là một trong số các nước thu hút FDI lớn nhất trên Thế giới. 4. Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư mới trên thế giới Thực tiễn FDI thời gian qua trên thế giới cho thấy nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển đã tăng từ 6% trong tổng FDI của thế giới trong giai đoạn 1985-1989 lên tới 10% ở giai đoạn 1990-1994. Các quốc gia Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuộc Trung Quốc đã chuyển sang thành các quốc gia xuất khẩu vốn. Hồng Kông trong 3 năm qua đã xuất khẩu khoảng 20 tỷ USD/năm (Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan xuất khẩu khoảng 3 tỷ). Kể từ năm 1992, Trung Quốc và Malaysia cũng đã trở thành những nhà xuất khẩu vốn. Trong năm 1995, Trung Quốc, Hồng Kông thuộc Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan, Singapore và Thái Lan chiếm khoảng 100% vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển khu vực Châu á - Thái Bình Dương và 88% của các nước đang phát triển trên toàn thế giới. Tốc độ tăng vốn đầu tư ra nước ngoài khoảng 238% trong đoạn 1990-1995. 5. Lĩnh vực đầu tư Xu hướng chung của thế giới trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư là chuyển từ việc đầu tư khai thác các nguồn lực tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất, có sự chuyển dịch các ngành có hàm lượnglao động cao từ những nước có nền kinh tế phát triển kinh tế cao hơn sang những nước khác (mà mô hình”đàn ngỗng bay” ở Châu á là một ví dụ điển hình). Những nước ở nhóm trên bắt đầu thu hút FDI vào những ngành đòi hỏi sử dụng lao động có trình độ cao. ở các nước như Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan thì ngành chế tạo chiếm trên 50% vốn đầu tư thu hút được và các ngành dịch vụ cũng chiếm gần 50% trong giai đoạn 1989 – 1994. 6. Đầu tư với hiệu quả xã hội Vấn đề FDI hiện nay thường được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế-xã hội. Khi xem xét hiệu quả FDI, các nước tiếp nhận đầu tư thường gắn với việc xem xét các chỉ tiêu như tạo vốn, tạo việc làm, thu hút công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội... III. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực 1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN 1.1. Kinh nghiệm thu hút FDI của Malaysia Qua số liệu cho thấy sự tăng đáng kể về số lượng FDI vào Malaysia. Nếu tính chung toàn bộ FDI vào Malaysia thì trong giai đoạn 1960 – 1970 trung bình mỗi năm 200 – 300 triệu ringgit (tiền Malaysia). Từ 1970 – 1980 trung bình mỗi năm 1 tỷ ringgit chủ yếu tập trung vào các ngành dầu, khí đốt và điện tử, năm 1982 là 3,3 tỷ ringgit, năm 1989:4,5 tỷ ringgit, năm 1990: 6,3 tỷ ringgit và năm 1991 là 9,6 tỷ ringgit. Nguyên nhân thành công này là do: Về luật pháp: Luật công ty được ban hành năm 1965 và luật bảo đảm công nghiệp năm 1978 nhằm tạo ra trước hết một nền kinh tế và thị trường vốn lành mạnh sau nữa là bảo hộ cho các nhà đầu tư. Luật công ty năm 1965 bảo đảm đối xử công bằng và hấp dẫn mạnh người đầu tư. Luật bảo đảm công nghiệp được sửa đổi và bổ sung nhiều điều khoản mới năm 1983. Luật khuyến khích đầu tư được ban hành năm 1968 và dược sửa đổi bổ sung thay 1986. Luật thuế thu nhập cũng được thông qua năm 1867. Để triển khai các nguyên tắc của các bộ luật trên, Malaysia lập ra 5 cơ quan cấp Chính phủ: Uỷ ban các vấn đề vốn, Cơ quan đăng ký cho các công ty, Cơ quan tiếp quản và phối hợp nhằm hướng dẫn đầu tư và bảo về quyền lợi của bên đối tác có vốn pháp định ít, Uỷ ban đầu tư nước ngoài và Sở giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur. Chính phủ Malaysia rất coi trọng vai trò tài chính, tiền tệ và thị trường chứng khoán trong việc bảo đảm thị trường vốn và thu hút FDI. Đầu năm 1993 này, Hội đồng bảo đảm giao dịch được thành lập cũng nhằm để phát triển hơn nữa thị trường vốn. Malaysia đã thành công trong tạo ra thế tổng hợp của hàng loạt chính sách và biện pháp để thu hút FDI bao gồm tài chính, thương mại, tổ chức đầu tư, xây dựng hạ tầng cơ sở, ổn định chính trị, giáo dục và đào tạo... Một biện pháp hữu hiệu được Chính phủ thi hành là sửa đổi luật thuế thu nhập năm 1967. Từ 1986, các ngành công nghiệp, nông nghiệp và du lịch được hưởng nhiều khuyến khích về thuế như ngày nghỉ thuế, trợ cấp thuế đầu tư ... Nhà nước hủi bỏ 2% thuế phát triển và giảm 35% thuế hợp tác liên doanh cho các công ty, giảm gấp đôi mức thuế cho lĩnh vực đào tạo nhất là các chương trình nghiên cứu phát triển: giảm 50 đến 100% thuế quan cho việc nhập nguyên liệu và máy móc không có trên thị trường nội địa. Các ngành mới thành lập hoặc ít vốn không phải nộp thuế. Hàng loạt khuyến khích thuế khác được áp dụng cho việc nhận tín dụng, xây dựng, quản lý và bảo đảm nhiều khoản trợ cấp khác. Các nhà đầu tư tự do vay vốn nội địa và nước ngoài. Các nhà đầu tư tự do chuyển vốn và lợi nhuận về nước. Việc thuê nhân công cũng được khuyến khích gắn với đào tạo. Các công ty có vốn FDI có quyền đào tạo người bản xứ và thuê họ 10 năm. Nhà nước cố gắng giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết và tạo ra không khí hợp tác lành mạnh, tin cậy lẫn nhau. Để thu hút vốn đầu tư, Nhà nước chủ động xây dựng hạ tầng cơ sở. Hạ tầng cơ sở của Malaysia rất phát triển. Chính phủ khuyến khích sở hữu đối với người ngoại quốc. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép sở hữu 100% cổ phần nếu xuất khẩu được 80% sản phẩm của họ hoặc họ thực hiện các dự án mà người địa phương không có khả năng bỏ vốn. Nhà nước bảo đảm bằng luật pháp các hình thức sở hữu của người nước ngoài 1.2. Kinh nghiệm thu hút FDI của Thái Lan Suốt 30 năm qua Thái Lan đã đạt được những thành tựu nổi bật về kinh tế. Các mục tiêu đặt ra cho từng giai đoạn đều đạt và vượt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức 7,1% đến 10,5%. Thành tựu được đáng khích lệ và nhờ vào hàng loạt yếu tố trong cũng như ngoài nước trong đó có vai trò của FDI. Để triển khai và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan có nhiều biện pháp hữu hiệu. Các chính sách của chính phủ được thể chế hoá trong luật khuyến khích đầu tư năm 1962 và đã được bổ sung năm 1977 và năm 1991. Tuy nhiên mọi hoạt động đầu tư đều do Uỷ Ban đầu tư quản lý. Sau đây chúng ta xem xét một cách ngắn gọn nhất các khuyến khích FDI được ghi trong luật khuyến khích đầu tư. a. Bảo đảm của chính phủ: Không quốc hữu hoá, cạnh tranh của các xí nghiệp mới thành lập của Nhà nước; sự độc của nhà nước đối với việc bán các sản phẩm cùng loại nhưng do các nhà sản xuất được nhận khuyến khích chế tạo ra; cho phép kiểm tra xuất khẩu và miễn thuế nhập khẩu cho các cơ quan Chính phủ và các xí nghiệp Nhà nước. b. Các biện pháp bảo hộ: Cấm nhập các mặt hàng có tính cạnh tranh mạnh; cho phép chủ tịch Uỷ Ban đầu tư có quyền quyết định các hoạt động trợ giúp hoặc các biện pháp giảm thuế lợi tức cho các dự án khuyến khích. c. Cho phép kiều dân Thái: Tiến hành các hoạt động nghiên cứu khảo sát đầu tư và các nhà kỹ thuật ngoại quốc làm trong các dự án được khuyến khích; được sở hữu đất đai để tiến hành các hoạt động được khuyến khích; nhận hoặc chuyển ngoại tệ nước ngoài. d. Khuyến khích thuế: Thuế nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giảm đến 90%. Giảm thu nhập thuế của bên đối tác nước ngoài trong thời hạn từ 3 đến 8 năm; và nhiều hình thức khuyến khích khác. e. Các khuyến khích thêm cho xí nghiệp xuất khẩu: Giảm thuế cho việc nhập khẩu các mặt hàng tái xuất, giảm thuế xuất khẩu... Để thực thi các khuyến khích trên và thu hút FDI Chính phủ Thái Lan đã dùng biện pháp tài trính và tiền tệ là chủ yếu và nhất quán. Thái Lan đã tạo ra một môi trường tài chính hấp dẫn đặc biệt có khả năng hỗ trợ mạnh mẽ các luồng đầu tư từ bên ngoài. Chính phủ Thái Lan cho rằng tiền tệ và tài chính là một công cụ hữu hiệu nhất. Thứ nhất, phải ổn định tiền tệ, chống lạm phát đảm bảo cho sự phát triển và cán cân thanh toán. Điều đó vừa bảo đảm cho sự phát triển kinh tế vừa làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn ra. Chính phủ Thái Lan đã sử dụng bốn chính sách cơ bản để bảo đảm giá trị đồng Bạt: đồng Bạt có giá trị chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Giá trị đồng Bạt được kiểm soát rất chặt chẽ, có tính ổn định cao. Thiếu hụt nhân sách hàng năm của Chính phủ được luật pháp quy định; cuối cùng là luôn có sự điều chỉnh việc vay mượn của bộ phật kinh tế công cộng trách nhiệm quá dựa vào ngoại tệ và giảm mức nợ của dịch vụ. Chính phủ Thái Lan tạo ra dự trữ ngoại tệ ở mức 22 tỷ đô la Mỹ bảo đảm chi trả đủ cho nhu cầu đầu tư thương mại trong vòng 6 tháng trong trường hợp bất trắc xảy ra. Ngoài ra Thái Lan còn một hệ thống tiền tệ nội địa tự do nhưng có mối liên kết chặt chẽ. Hệ thống ngân hàng tiền tệ rất nhạy bén với tính chất thị trường của nền kinh tế. Thứ hai, đó là chính sách thuế. Chính phủ Thái Lan đã có chính sách thuế rất ưu đãi và mềm dẻo và nhanh chóng tham gia vào khu mậu dịch của ASEAN và tổ chức thuế quan đã điều chỉnh tốt thuận lợi của người đầu tư. Dĩ nhiên Chính phủ Thái Lan thực hiện nhiều biện pháp trên nhiều lĩnh vực khá nữa nhằm thu hút FDI nhưng biện pháp tiền tệ và tài chính là quan trọng và hữu hiệu nhất. Nếu xét tổng thể thì nền kinh tế Thái Lan có sáu yếu tố đã đạt được tạo ra có tác dụng thu hút FDI mạnh mẽ nhất. - Tính ổn định của nền kinh tế có vai trò quan trọng nhất. - Với dân số 56 triệu, giá công nhân còn thấp và đang di chuyển mạnh sang bộ phận kinh tế công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư. - Chính sách đối nội, đối ngoại ổn định kể cả khi chính phủ cầm quyền thay đổi đặc biệt là chính sách tư nhân hoá và ủng hộ kinh tế tư nhân và gần đây là việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Campuchia và Lào. - Sự thay đổi nhanh chóng về chính trị và kinh tế trên bán đảo Đông Dương tạo ra cho Thái Lan một cơ hội mới và một vị trí đặc biệt như cửa ngõ khu vực. - Xã hội Thái Lan mang đặc tính bình yên chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng phật giáo đã có sức hút mạnh các nhà đầu tư Nhật, Đài Loan, HK. - Các công ty hoạt động ở Thái Lan luôn được hỗ trợ ở các địa phương và các ngành công nghiệp khác. 2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước NICs châu á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singarpore và Hồng Kông Vào những năm 1950 - 1960 nền kinh tế của các nước NICs châu á rất lạc hậu, phát triển mất cân đối. GNP bình quân đầu người thấp 90 - 150USD/người/năm. Cả 4 nước trên đều nghèo về tài nguyên, đất hẹp, người đông, khí hậu kém thuận lợi. Lợi thế hầu như chỉ dựa vào biển và nguồn lao động rẻ tiền. Đến nay cả 4 nước NICs châu á đều trở thành các nước công nghiệp mới (Newly Industrial Countries) với tốc độ phát triển kinh tế cao. Một trong những nguyên nhân thành công là do mỗi nước tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của mình mà có chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế thích hợp. 2.1. Những tác động tích cực Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước NICs châu á đã góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, đồng thời thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp hoá (CNH) về hướng xuất khẩu được thực hiện trên cơ sở thu hút ngày càng đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài làm chuyển biến cơ cấu công nghiệp từ sự tồn tại phổ biến các ngành công nghiệp kỹ thuật thấp, thu hút nhiều lao động sang sự phổ biến của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn. Thập kỷ 60, ở NICs châu á chưa xuất hiện CNH dầu, đóng tàu, công nghiệp chế tạo, công nghệ sinh học, điện tử cao cấp, laze, chế tạo ô tô... mà chủ yếu là các ngành dệt da và các sản phẩm da, quần áo may sẵn, lắp ráp đồ điện, dày dép, tóc giả... Hiện nay các ngành sử dụng nhiều lao động một bộ phận được di chuyển sang các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn NICs, phần còn lại nước sở tại được nâng cấp bằng cách áp dụng công nghệ mới để chế tạo sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn về cả chất lượng và chủng loại.. Một tỷ lệ lớn những công nghệ mới này vẫn trông cậy trực tiếp vào FDI. FDI vẫn được các nước chủ nhà khuyến khích đi vào các ngành kỹ thuật cao, có hàm lượng vốn lớn mà các công ty địa phương không thể đảm nhiệm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh: Một thực tế hiển nhiên là các nước áp dụng CNH hướng về xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các quốc gia thi hành chiến lược CNH thay thế nhập khẩu. Điều dễ hiểu là chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua chế độ thuế quan và quota đã gây tâm lý ỷ lại và đẫn đến tình trạng kém hiệu quả kinh tế của các hãng công nghiệp, khả năng cạnh tranh của hãng thấp. Ngược lại, dưới tác động của chiến lược khuyến khích xuất khẩu, các hãng đều bình đẳng trong khuôn khổ chế độ pháp lý đối với hoạt động kinh doanh, họ phải đương đầu với thách thức cạnh tranh trên quy mô thế giới, vì vậy vấn đề hiệu quả được đưa lên hàng đầu. Một điều tra cho thấy chỉ số hiệu quả của hàng thay thế nhập khẩu trong công nghiệp điện tử Đài Loan là 60,4%, trong khi chỉ số phi hiệu quả hàng xuất khẩu (0,3292) thấp hơn chỉ số này ở các hãng thay thế nhấp khẩu (0,5042). Nhờ vậy mức chênh lệch giữa đầu ra thực tế với đầu ra tiềm năng thu hẹp lại mà về nguyên tắc, số chênh lệch này càng nhỏ, hiệu quả càng cao. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ: Những kỹ năng quản lý và các bí quyết kỹ thuật vào các nước sở tại. Trên thực tế, đây là vấn đề gây nên tranh cãi rất nhiều trong các nước đang phát triên. Vì rằng, khi nhìn vào nền kinh tế Thái Lan, người ta nhận thấy các công nghệ của Thái gần như sao chép công nghệ phương Tây, mức độ chuyển giao công nghệ của các hãng nước ngoài cho người địa phương (Thái) rất thấp và tiến hành chậm chạp (dường như có ý trì hoãn). Ngoài những tác động tích cực nổi bật trên, FDI còn tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động nước sở tại và cải thiện thu nhập. FDI ở Hồng Kông đem lại gần 100.000 việc làm năm 1993. Các hãng công nghiệp có vốn FDI ở Singapore thu hút tới gần 50% số lượng công nhân, Điều đáng kể hơn nữa là nếu số lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài, nếu tỏ ra có triển vọng, họ tiếp tục được đào tạo hoặc nâng cao nghiệp vụ nhờ vào những thu xếp của công ty khi cần thiết. 2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực - Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI. - Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng. - Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ. - Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua I. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư Sau khi ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam, năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án FDI vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 371,8 triệu USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế. Qua hơn 10 năm từ 1988 – 1998, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã tăng lên 2488 dự án nâng tổng số vốn đầu tư lên 35520,4 triệu USD Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 1988 – 1998 Năm Số dự án Tổng số vốn đăng ký (triệu USD) Vốn pháp định (triệu USD) 1988 37 371,8 288,4 1989 68 528,2 311,5 1990 108 839,0 407,5 1991 151 1322,3 663,6 1992 197 2165,0 1418,0 1993 269 2900,0 1468,5 1994 343 3765,6 1729,9 1995 370 6530,8 2986,6 1996 325 8497,3 2940,8 1997 345 4649,1 2334,4 1998 275 3897,0 1805,6 Tổng số 2488 35520,4 10260,3 Tính đến hết năm 1999, Việt Nam đã thu hút được 2937 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đang ký (kể cả tăng vốn) là 42,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 29 dự án hết hạn (289 triệu USD) va 561 dự án giải thể trước thời hạn (6,5 tỷ USD), thì còn 2347 dự án còn hiệu lực (35,88 tỷ USD). Trong đó có 1607 dự án đã triển khai với tổng số vốn thực hiện 15,2 tỷ USD, gồm 1127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu và 480 dự án đang xây dựng cơ bản. Tình hình cấp giấy phép đầu tư từ 01/01/2000 đến 31/05/2000 (Phân chia theo ngành) Đ.vị tính: USD STT Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định 1 Công nghiệp 88 176.255.702 92.607.174 2 GDĐT-y tế-VHTT 6 56.450.000 20.610.000 3 Dầu khí 2 32.200.000 10.200.000 4 Dịch vụ 11 14.261.428 3.915.714 5 Tài chính, Nghân hàng 1 10.000.000 5.000.000 6 KS, VP, DL Lữ hành 1 7.800.000 7.681.632 7 GTVT và XD 1 4.994.500 2.520.000 8 Nông, Lâm nghiệp 3 2.550.583 1.857.976 9 Ngư nghiệp 1 500.000 600.000 Tổng số 114 305.012.213 158.892.496 * Không tính các dự án địa phương cấp phép * Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài (Phân theo địa phương) Đ.vị tính: USD STT Địa điểm thực hiện Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định 1 Bình Dương 39 106.115.621 48.127.093 2 TP.Hồ Chí Minh 30 84.448.000 44.031.000 3 Hà Nội 13 20.820.000 11.889.000 4 Đồng Nai 6 19.580.000 13.590.000 5 Khánh Hoà 2 8.550.000 8.131.632 6 Quang Nam 2 5.065.928 2.555.714 7 Bình Phước 1 5.000.000 3.300.000 8 Nghệ An 1 4.511.626 3.961.626 9 Cần Thơ 1 2.700.000 1.120.000 10 Vĩnh Phúc 2 2.650.000 2.150.000 11 Bà Rịa-Vũng Tàu 2 2.545.455 2.545.455 12 Hải Phòng 1 1.500.000 1.200.000 13 Long An 1 1.500.000 1.000.000 14 Tây Ninh 2 1.325.000 418.000 15 Yên Bái 1 1.240.583 847.976 16 Đà Nẵng 1 1.000.000 365.000 17 Lao Cai 1 1.000.000 1.000.000 18 Thái Bình 1 900.000 700.000 19 Thanh Hoá 1 600.000 450.000 20 Lâm Đồng 1 560.000 560.000 21 Hoà Bình 1 500.000 150.000 22 Quảng Ninh 1 500.000 500.000 23 Thái Nguyên 1 200.000 100.000 Tổng số 114 305.012.213 158.892.496 * Không tính các dự án địa phương cấp phép * Không tính dự án đầu tư ra nước ngoài 2. Cơ cấu đầu tư Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam. 2.1. Cơ cấu ngành nghề: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 1988-1999 Năm Chỉ tiêu 1988-1990 1991-1995 1996-1999 CN và XD 41,47 % 52,74 % 49,66 % N-L-N Nghiệp 21,64 % 4,13 % 2,14 % Dịch vụ 36,899 % 43,13 % 48,2 % Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng hướng mục tiêu ban đầu: tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án và số vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với 15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án, số vốn là 2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với các lĩnh vực khác, trong đó nhỏ nhất là ngành thuỷ sản, chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án. Ngành công nghiệp và xây dựng có quy mô đầu tư trung bình là 12 triệu USD/dự án trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các ngành dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất, hơn 25 triệu USD/dự án tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây khách sạn, văn phòng, các dự án xây dựng hạ tầng, KCN, KCX... 2.2. Cơ cấu lãnh thổ: Phân tích trên cơ sở thống kê số liệu cho thấy cơ cấu FDI theo vùng lãnh thỗ không những không thực hiện được ý muốn chủ quan của Việt Nam là làm xích lại gần nhau hơn về trình độ và tộc độ phát triển giữa các vùng mà trái lại còn bị doãng xa hơn. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi giao thông thuỷ bộ, hàng không, sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo lực hấp dẫn FDI mạnh nhất: chiếm 57% về số dự án (1378 dự án), 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN trong cả nước có xu hướng tăng, từ 48,5% (năm 96) lên 66,6% năm 99, đặc biệt giá trị xuất khẩu chiếm tới 84%. Tp.HCM hiện vẫn đứng đầu trong vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (gồm Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương và Hưng Yên) là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dự án (chiếm 20,5% vốn đăng ký), 10,9 tỷ USD (chiếm 30%) và vốn thực hiện 3,8 tỷ USD (chiếm 25%). Tỷ lệ giải ngân trong vùng là 35%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước (42%), nếu không tính đến 2 dự án đầu tư xây dựng đô thị mới (2,3 tỷ USD) thì tỷ lệ giải ngân đạt 45%. Tuy nhiên, từ năm 96 đóng góp của khu vực FDI ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả nước có xu hướng giảm cả về tỷ trọng (từ 33% xuống 18%) và giá trị (từ 1,1 tỷ USD xuống 814,7 triệu USD). Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi), tuy đứng thứ ba về thu hút FDI nhưng so với hai vùng trên lại quá thấp, chỉ chiếm 3% về số dự án (72 dự án) và 5,5% về vốn đăng ký (1,978 tỷ USD). Nếu không tính đến dự án lọc dầu Dung Quất (1,3 tỷ USD), thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút FDI còn ít hơn nhiều so với vùng ĐBSCL (113 dự án và 1 tỷ USD vốn đăng ký). Miền núi, trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên là 2 trong số 6 vùng kinh tế có sức hút FDI kém nhất. Lý do chủ yếu là điều kiện cơ sở hạ tầng quá yếu kém, thiếu nguồn nhân lực có trình độ, khả năng đầu tư sinh lợi thấp, hoàn vốn chậm... nên các nhà đầu tư nước ngoài còn nhiều đắn đo, e ngại, trong khi chính sách khuyến khích của Nhà nước lại chưa rõ ràng và hấp dẫn. 3. Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư 3.1. Hình thức đầu tư: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 29/12/1987. Từ khi được ban hành đến nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi bốn lần năm 1990, 1992, 1996 và 2000. Các văn bản hướng dẫn thi hành có tới hơn 150 bản, quan trọng nhất là Nghị định 12/CP, 36/CP. Công văn số 1894/KTTH ngày 17/4/1997 và các văn bản khác quy định các tổ chứ, cá nhân nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây: - Doanh nghiệp liên doanh; - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; ngoài ra còn có hình thức ký hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao(BOT) với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Nhìn chung hình thức đầu tư được chính phủ khuyến khích nhất là hình thức Liên doanh. chiếm 49,1% dự án và hơn 66,1% vốn đầu tư.. Tuy nhiên từ năm 1998 trở lại đây, trong hoạt động FDI hình thức liên doanh không còn được các nhà đầu tư ưa chuộng nữa, số các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia tăng. Một số liên doanh đang hoạt động cũng muốn chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hiện nay hình thức BOT cũng đang có hiệu quả đầu tư cao, được nhận nhiều sự khuyến khích của chính phủ. Mặc dù chỉ chiếm 7% song hứa hẹn có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực có sở hạ tầng vốn là một trong những yếu tố còn lạc hậu dẫn đến suy giảm FDI trong những năm qua. 3.2. Đối tác đầu tư: Thời kỳ đầu khi mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công ty môi giới đầu tư vào Việt Nam. Phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực Đông á Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Tính đến năm 1998, 10 nước đầu tư vào Việt Nam bao gồm: Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Hồng Kông, Malaysia, Pháp, Thái Lan và Mỹ. Đầu tư vào Việt Nam theo chủ đầu tư từ ngày 01/01/2000 đến 28/09/2000 Đơn vị tính: 1000 USD STT Nước Số dự án Vốn đầu tư Vốn pháp định 1 Taiwan 76 145819 69507 2 British Virgin Island 11 85690 35988 3 Japan 15 55215 27834 4 Australia 2 53500 28600 5 Republic of Korea 22 46417 36516 6 France 5 26292 2543 7 Un._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35007.doc
Tài liệu liên quan