Một số giải pháp để góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng Công ty Chè Việt Nam

Lời cảm ơn Ngày còn nhỏ, tôi được bố nghe bố tôi nói: ”Thầy cô giáo là những người lái đò cần cù và. ...”, tôi chưa thực sự hiểu. Vâng, những người khách qua đò đó là chúng tôi, những thế hệ sinh viên cứ nối tiếp nhau được các thầy, các cô truyền đạt kiến thức nền tảng, tạo cho bước đi vững chắc cho con đường sự nghiệp sau này. Cho phép em được bày tỏ sự biết ơn tới các thầy giáo, các cô giáo trường ĐH Thương Mại – những người đã dạy dỗ, hướng dẫn em trong những năm tháng học tập tại trường.

doc129 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp để góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng Công ty Chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Em xin gửi lời cảm ơn tới thầy Nguyên Quang Hùng, người đã khuyến khích sở thích lâu dài của em trong việc nghiên cứu môn phân tích và tìm hiểu xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp như thế nào, tạo điều kiện cho em hoàn thành bản luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Tổng công ty Chè Việt Nam, đã cho em được tiếp cận với thực tế, có tác dụng như một ví dụ minh hoạ cho những kiến thức em đã được học tập tại trường ĐH Thương Mại. Em xin chân thành cảm ơn: -Bác Nguyễn Kim Phong – Tổng giám đốc Tổng công ty Chè Việt Nam - Cô Trần Thị Hoa – Trưởng phòng kế toán Tổng công ty Chè Việt Nam -Cô Mai Liên –Kế toán tổng hợp Tổng công ty Chè Việt Nam - Cô Thuỷ và các bác các cô phòng kế toán – tài chính của Tổng công ty đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc cung cấp thông tin có liên quan đến Tài chính của Tổng công ty và sự tận tình chỉ bảo trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Em xin được bày tỏ lời biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè –là chỗ dựa vững chắc giúp em thực hiện tốt việc học tập trong suốt bốn năm học tập. Em xin chân thành cảm ơn! Phần I Cơ sở lý luận của hoạt động phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp I / Bản chất chức năng tài chính doanh nghiệp. 1 / Bản chất, vai trò của tài chính doanh nghiệp. 1.1/ Bản chất của tài chính doanh nghiệp. 1.1.1/Nội dung của các mối quan hệ tài chính. Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả của sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục. Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối. Tài chính- thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ, như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ nghề nghiệp khác nhau và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy giữa tài chính và tiền là hai phạm trù kinh tế khác nhau. Tài chính cũng không phải là tiền tệ, và cũng không phải là quỹ tiền tệ. Nhưng thực chất tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn bên trong nó là những quan hệ kinh tế đa dạng. Nhân loại đã có những phát minh vĩ đại trong đó phải kể đến việc phát minh ra tiền, mà nhờ đó ngời ta có thể quy mọi hoạt động khác nhau về một đơn vị đo thống nhất, và trên cơ sở đó có thể so sánh, tính toán được với nhau. Như vậy tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực, nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng nhau, nhưng thật ra lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán và so sánh với nhau bằng tiền. Do vậy toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các quan hệ tài chính sau: + Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như những mối quan hệ về phân phối và phân phối lại dưới hình thức giá trị của cải vật chất sử dụng và sáng tạo ra ở các doanh nghiệp. Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức. Các mối quan hệ này đều thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính... nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước. Thể hiện trong việc các doanh nghiệp nộp thuế cho chính phủ và sự tài trợ của chính phủ trong một số trường hợp cần thiết để thực hiện vai trò can thiệp vào kinh tế của mình. ở nước ta do còn thành phần kinh tế quốc doanh nên sự tài trợ của nhà nước được thể hiện rõ bằng việc bảo đảm một phần vốn pháp định cho các doanh nghiệp.Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước sẽ được nhà nước chú trọng đầu tư vốn nhằm giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn. Cũng trong quá trình hoạt động kinh doanh này, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp các khoản thuế, phí, lệ phí như các doanh nghiệp khác và còn phải nộp thuế sử dụng vốn cho ngân sách nhà nước. Khoản thu này chiếm tỉ trọng lớn trong thu ngân sách giúp nhà nước có nguồn để phục vụ cho quốc kế dân sinh nói chung và tạo hành lang pháp lý để bảo vệ nền kinh tế cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế và hỗ trợ hoạt động cuả doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không hoạt động ở những then chốt, nhà nước sẽ cho cổ phần hoá. Nghĩa là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp theo dạng này sẽ bao gồm : Cổ phần của nhà nước, cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bán cổ phần của mình cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì lúc đó sẽ có các cổ phần của cán bộ công nhân viên. ở một chừng mực nào đó, khi thị trường chứng khoán Việt Nam vận hành thì cổ phần đó sẽ được mua đi bán lại trên thị trường và nảy sinh ra cổ phần xã hội. Trong điều kiện đó mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với doanh nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước còn tham gia vào nền kinh tế với tư cách là một cổ đông. + Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức tài chính trung gian. Hiện nay các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế. + Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau. Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình thanh toán các sản phẩm và dịch vụ, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại. Cùng với sự phát triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó dan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và khả năng thu hút lợi nhuận. + Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách mơ cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất. 1.1.2 Bản chất của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị, thông qua việc hình thành và sử dụng các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ nhằm đạt được cac lợi ích khác nhau, mục tiêu khác nhau của các chủ thể khác nhau đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường. 1.2 / Vai trò của tài chính doanh nghiệp. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được ví như những tế bào có khả năng tái tạo, hay còn được coi như “ cái gốc của nền tài chính”. Sự phát triển hay suy thoái của sản xuất – kinh doanh gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Vì vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh trước hết phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý ; sau đó nó còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Song song với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đãhoạch định hàng loạt chính sách đổi mới nhằm xác lập cơ chế quản lý năng động như các chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh, mở rộng khuyến khích giao lưu vốn. .. Trong điều kiện như vậy, tài chính doanh nghiệp có vai trò sau: 1.2.1/ Tài chính doanh nghiệp- một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh. Để thực hiện mọi quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có một yếu tố tiền đề - đó là vốn kinh doanh. Trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp nghiệp nhà nước được nhà nước tài trợ hầu hết. Vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đạt ra như một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn với doanh nghiệp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường đa thành phần, các doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận cùng song song tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển những ngành nghề mới nhằm thu hút được lợi nhuận cao... đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn, thì nảy sinh vấn đề cung ứng vốn. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh và phát triển của mình. 1.2.2/ Tài chíh doanh nghiệp có vai trò trong việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả. Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khe khắt; sản xuất không phải với bất kỳ giá nào. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, chỉ tiêu tài chính, bằng các số liệu của kế toán và bảng tổng kết tài sản. Với đặc điểm này, người cán bộ tài chính có khả năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh để một mặt phải bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. 1.2.3/ Tài chính doanh nghiệp có vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh doanh. Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế thị trường các quan hệ tài chính doanh nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống ngân hàng thương mại, với các tổ chức tài chính trung gian khác, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh và những quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp...Những quan hệ tài chính trên đây chỉ có thể được diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ của pháp luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, xác định lãi suất, tiền lương, tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh. 1.2.4/ Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Thông qua các chỉ tiêu tài chính như: hệ số nợ, hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu các thành phần vốn...có thể dễ dàng nhận biết chính xác thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra tài chính, đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựnghệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. 2./ Chức năng của tài chính doanh nghiệp. 2.1/ Chức năng huy động và phân phối nguồn vốn. Một doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất kinh doanh được thì cần phảI có vốn và quyền sử dụng nguồn vốn bằng tiền của mình một cách chủ động. Tuy nhiên cũng cần phảI làm rõ một vấn đề là: Các nguồn vốn được lấy ở đâu ? Làm thế nào để có thể huy động được vốn ? Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh đã tỏ ra sự yếu kém của mình. Thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay ? Chính sự bất ổn định này đã tạo ra một sự chưa được nhất quán trong việc định hình các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa thì mọi doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau: -Vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp đối với doanh nghiệp nhà nước được xác định trên cơ sởbiên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phảI có trách nhiệm bảo toàn và phát triển số vốn giao đó. Khi mới thành lập nhà nước hoặc cấp trên cấp vốn đầu tư ban đầu để công ty thực hiện sản xuất kinh doanh phù hợp với quy mô và nghành nghề. Số vốn này thường bằng hoặc lớn hơn số vốn pháp định. Sau quá trình hoạt động nếu thấy cần thiết, nhà nước sẽ cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp để phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh. Vốn tự bổ sung: là vốn nội bộ của doanh nghiệp bao gồm: + Phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp + Phần lợi nhuận sau khi đã nộp thuế + Phần tiền nhượng bán tài sản (nếu có) -Vốn liên doanh liên kết : đó là sự góp tiền hoặc góp tài sản của các doanh nghiệp khác để cùng với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. - Vốn vay: chủ yếu là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Ngoài các loại vốn nói trên, các doanh nghiệp cồn có thể huy động vốn của cán bộ công nhân viên và doanh nghiệp sẽ trả lãi cho số vốn vay đó theo lãi suất ngân hàng. 2.2/ Chức năng phân phối. Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho nên quy mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Sau mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi phí phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau: Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm: + Trị giá vốn hàng hoá + Chi phí lưu thông và các chi phí khácmà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu. + Khấu hao máy móc - Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh, trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp. 2.3 / Chức năng giám đốc. Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trịvà phương tiện thanh toán của tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, xquy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ. Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khác phục. Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm nghặt mọi hoạt động tài chính. Nội dung giám đốc tài chính là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính. Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc giám đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh. Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. II/ Khái niệm và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp. 1/ Khái niệm và mục đích phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.1/ Khái niệm Trước hết ta tìm hiểu xem phân tích như thế nào ? Phân tích trong lĩnh vực tự nhiên được hiểu là sự chia nhỏ sự vật hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó như phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng, phân tích các vi sinh vật bằng kính hiển vi. Còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. Do đó việc phân tích phải bằng những phương pháp trừu tượng. C Mác đã chỉ ra rằng “ Khi phân tích các hình thái kinh tế xã hội thì không thể sử dụng hoặc kính hiển vi, hoặc những phản ứng hoá học. Lực lượng của trừu tượng phải thay thế cái này hoặc cái kia” (Mác- Ănghen toàn tập, tập 23- NXB “ Tác phẩm chính trị” Matscova 1951 trang 6) Phân tích kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triềncủa các hiện tượng nghiên cứu. Phân tích kinh doanh gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất kinh doanh chưa phát triển, yêu cầu thông tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp, công việc phân tích cũng được tiến hành chỉ là những phép tính cộng trừ giản đơn. Khi nền kinh tế càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp, phân tích kinh doanh được hình thành và ngày càng hoàn thiện với hệ thống lý luận độc lập. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển các bộ môn khoa học. F Ănghen đã chỉ rõ “Nếu một hình thái vận động là do một hình thái vận động khác phát triển lên những phản ánh của nó, tức là những ngành khoa học khác cũng phải từ ngành này phát triển ra một ngành khác một cách tất yếu” ( F Ănghen : Phương pháp biện chứng tự nhiên NXB Sự thật 1963 trang 401-402). Là một môn khoa học độc lập,phân tích kinh doanh có đối tượng nghiên cứu riêng. Nói chung, lĩnh vực nghiên cứu của phân tích kinh doanh không ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh như là một hiện tượng kinh tế, xã hội đặc biệt: Để phân chia tổng hợp và đánh giá các hiện tượng của hoạt động kinh doanh, đối tượng nghiên cứu của phân tích kinh doanh là những kết quả kinh doanh cụ thể, được thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế, với sự tác động của các tác nhân kinh tế. Kết quả kinh doanh thuộc đối tượng phân tích có thể là kết quả riêng biệt của từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh như mua hàng, bán hàng, sản xuất ra hàng hoá, hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả một quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp. Vậy thế nào là phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ? Và mục đích của việc phân tích này ra sao ? Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. 1.2/ Mục đích. Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu – biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư, nhà cho vay,nhà cung cấp.. .Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu sau: -Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác để họ có thể ra các quyết định về đầu tư, tín dụng và các quyết định tương tự. Thông tin phải dễ hiểu đối với những người có một trình độ tương đối về kinh doanh và về các hoạt động kinh tế mà muốn nghiên cứu các thông tin này. -Phân tích tình hình tài chính cũng nhằm cung cấp thông tin quan trọng nhất cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì các dòng tiền của các nhà đầu tư liên quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên quá trình phân tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của các dòng tiền thu thuần dự kiến của doanh nghiệp. -Phân tích tình hình tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực kinh tế, vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết thêm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của những nghiệp vụ kinh tế, giúp cho chủ doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển doanh nghiệp trong tương lai. Qua đó cho thấy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh nghiệp với quá khứ để định hướng trong tương lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp sát thực để tăng cường các hoạt động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự đoán, dự báo xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2/ ý nghĩa của phân tích tình hình tài chính. Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài có liên quan đến tài chính của doanh nghiệp. 2.1/ Đối với nhà quản trị doanh nghiệp. Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tài chính tốt nhất. Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác nhau như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, hạ chi phí thấp nhất và bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được mục tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin nhằm thực hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua để tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết định của ban giám đốc tài chính, quyết định đầu tư,tài trợ, phân tích lợi tức cổ phần. 2.2/ Đối với các nhà đầu tư Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả nưng hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động công tác quản lý. Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà đầu tư. 2.3 / Đối với các nhà cho vay. Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Qua việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể so sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Giả sử chúng ta đặt mình vào trường hợp là người cho vay thì điều đầutiên chúng ta chú ý cũng sẽ là số vốn chủ sở hữu, nếu như ta thấy không chắc chắn khoản cho vay của mình sẽ đựoc thanh toán thì trong trường hợp doanh nghiệp đó gặp rủi ro sẽ không có số vốn bảo hiểm cho họ. Đồng thời ta cũng quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì đó chính là cơ sở của việc hoàn trả voón và lãi vay. 2.4 / Đối với cơ quan nhà nước và người làm công. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, sẽ đánh giá được năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước nữa hay không. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư... người lao động có nhu cầu thông tin cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. Sơ đồ : Nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng sử dụng khác nhau. Đối tượng sử dụng thông tin Cần quyết định cho các mục tiêu Yếu tố cần dự đoán cho tương lai Nhà quản trị doanh nghiệp Điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh - Lập kế hoạch cho tương lai. -Đầu tư dài hạn -Chiến lược sản phẩm và thị trường Nhà đầu tư Có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không -Giá trị đầu tư nào sẽ thu được trong tương lai -Các lợi ích khac có thể thu được Nhà cho vay Có nên cho doanh nghiệp vay vốn hay không -Doanh nghiệp có khả năng trả nợ theo đúng hợp đồng hay không -Các lợi ích khác đối với các nhà cho vay Cơ quan nhà nước và người làm công Các khoản đóng góp cho nhà nước Có nên tiếp tục hợp đồng hay không -Hoạt động của doanh nghiệp có thích hợp và hợp pháp không? -Doanh nghiệp có thể tăng thêm thu nhập cho người làm công không? Qua sơ đồ trên cho thấy doanh nghiệp là một tế bào của một nền kinh tế nên hoạt động của chúng phản ánh tình hình phát triển hay suy thoái của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Qua đó sẽ giúp cho các nhà quản lý tài chính ở tầm vĩ mô thấy được thực trạng của nền kinh tế quốc gia, xây dựng kế hoạch và các chính sách phù hợp nhằm làm cho tình hình tài chính doanh nghiệp nói riêng và tình hình tài chính quốc gia nói chung ngày càng có sự tăng trưởng. Kết luận: Phân tích tình hình tài chính có thể ứng dụng theo nhiều chiều khác nhau như với mục đích tác nghiệp ( chuẩn bị các quyết định nội bộ) và với mục đích thông tin (trong hoặc ngoài doanh nghiệp ). Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chínínẽ giúp cho người sử dụng thấy được thực trạng hoạt động tài chính, từ đó xác định được nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng đến từng hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh / Qua đó thấy được ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp mà công việc này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý, các tổ chức công cộng. Nhất là, thị trường vốn ngày càng phát triển đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. III/ Các phương pháp sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1/Phương pháp chung. Là phương pháp xác định trình tự bước đivà những nguyên tắc cần phải quán rệt khi tiến hành phân tích một chỉ tiêu kinh tế nào đó. Với phương pháp này là sự kết hợp triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác- LêNin làm cơ sở. Đônhg thời phải dựa vào các chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ. Phải phân tích đi từ chung đến riêngvà phải đo lường được sự ảnh hưởng và phân loại ảnh hưởng. Tất cả các điểm trên phương pháp chung nêu trên chỉ được thực hiện khi kết hợp nó với việc sử dụng một phương pháp cụ thể. Ngược lại ._.các phương pháp cụ thể muốn phát huy tác dụng phải quán triệt yêu cầu của phương pháp chung. 2/ Các phương pháp cụ thể. Đó là những phương pháp phải sử dụng những cách thức tính toán nhất định. Trong phân tích tình hình tài chính, cũng như phạm vi nghiên cứu của luận văn, em xin được đề cập một số phương pháp sau: 2.1/ Phương pháp so sánh. So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh phải giải quyết những vấn đề cơ bản, cần phải đảm bảo các điều kiện đồng bộ để có thể so sánh được các chỉ tiêu tài chính. Như sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán. Đồng thời theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. -Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu số gốc để so sánh là trị số của chỉ tiêu kỳ trước (nghĩa là năm nay so với năm trước ) và có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. -Kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo, kỳ kế hoạch. -Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian. Trên cơ sở đó, nội dung của phương pháp so sánh bao gồm: + So sánh kỳ thực hiện này vớikỳ thực hiện trước để đánh giá sự tăng hay giảm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó có nhận xét về xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp. +So sánh số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch, số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của doanh nghiệp khác để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp được hay chưa được. +So sánh theo chiều dọc để xem tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự thay đổi về lượng và về tỷ lệ của các khoản mục theo thời gian. 2.2/ Phương pháp cân đối Là phương pháp mô tả và phân tích các hiện tượng kinh tế mà giữa chúng tồn tại mối quan hệ cân bằng hoặc phải tồn tại sự cân bằng. Phương pháp cân đối thường kết hợp với phương pháp so sánh để giúp người phân tích có được đánh giá toàn diện về tình hình tài chính. Phương pháp cân đối là cơ sở sự cân bằng về lượng giữa tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn, giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các loại tài sản trong doanh nghiệp. Do đó sự cân bằng về lượng dẫn đến sự cân bằng về sức biến động về lượng giữa các yếu tố và quá trình kinh doanh. 2.3 / Phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính vì nó dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Phương pháp tỷ lệ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loatj tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Qua đó nguồn thông tin kinh tế và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn. Từ đó cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ như: + Tỷ lệ về khả năng thanh toán : Được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. + Tỷ lệ và khả năng cân đối vốn, cơ cấu vốn và nguồn vốn: Qua chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính. + Tỷ lệ về khả năng hoạt động kinh doanh : Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp. + Tỷ lệ về khả năng sinh lời: phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp. Kết luận: Các phương pháp trên nhằm tăng hiệu quả phân tích. chúng ta sẽ sử dụng kết hợp và sử dụng thêm một số phương pháp bổ trợ khác như phương pháp liên hệ phương pháp loại trừ nhằm tận dụng đầy đủ các ưu điểm của chúng để thực hiện mục đích nghiên cứu một cách tốt nhất. IV/ Nhiệm vụ, nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 1/Nhiệm vụ phân tích Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính là trên cơ sở các nguyên tắc về tài chính doanh nghiệp và phương pháp phân tích mà tiến hành phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động tài chính, vạch rõ những mặt tích cực và tiêu cực của việc thu chi tiền tệ, xác định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố. Từ đó đề ra các biện pháp tích cực nhằm nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Nội dung của phân tích. Xuất phát từ các nhiệm vụ trên ta thấy sự phát triển của một doanh nghiệp dựa vào nhiều yếu tố như: +Các yếu tố bên trong : Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, tính chất của sản phẩm, quy trình công nghệ, khả năng tài trợ cho tăng trưởng. + Các yếu tố bên ngoài: Sự tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trườngcó sự quản lý vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều được bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Đối với mỗi doanh nghiệp, ngoài chủ doanh nghiệp quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp còn có các đối tượng khác quan tâm đến như các nhà đầu tư, các nhà cung cấp, các nhà cho vay... Chính vậy mà việc thường xuyên phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thông tin nắm được thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính. Từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh. Từ những lý luận trên nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ đánh giá đầy đủ nhất và là bức tranh toàn cảnh khái quát về tình hình tài chính doanh nghiệp. V. Cơ sở nguồn tài liệu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Tài liệu quan trọng nhất được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là các báo cáo tài chính như : Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là những báo cáo được trình bày hết sức tổng quát, phản ánh 1 cách tổng hợp nhất về tình hình tài sản, các khoản nợ, nguồn hình thành vốn, tình hình tài chính, cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu để đánh giá tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua giúp cho việc kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn và khả năng huy động vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hệ thống báo cáo tài chính, Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một tư liệu cốt yếu trong hệ thống thông tin về các doanh nghiệp. 1. Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định ( thời điểm lập báo cáo). Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản, nguôn vốn và cơ cấu vốn hình thành các tài sản đó. Thông qua bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp sẽ có rất nhiều đối tượng qua tâm với mỗi đối tượng sẽ quan tâm tới một mục đích khác nhau. Tuy nhiên để đưa ra quyết định hợp lý, phù hợp với mục đích của mình cần phải xem xét tất cả những gì cần phải thông qua bảng cân đối kế toán để định hướng cho việc nghiên cứu tiếp theo. Bảng cân đối kế toán được trình bày thành hai phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn. Kết cấu của bảng cân đối kế toán tối thiểu gồm ba cột: Chỉ tiêu, số đầu năm, số cuối kỳ. Hai phần tài sản và nguồn vốn có thể được bố trí hai bên hoặc hai phần, cho nên tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn. Nếu cụ thể hoá ta có: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Hoặc Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn + Tài sản cố định và đầu tư dài hạn = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu Phần tài sản. Phản ánh toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. -Về mặt kinh tế: Phần tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các tài sản của doanh nghiệp đang tồn tại dưới mọi hình thức: Tài sản vật chất như tài sản cố định hữu hình, tồn kho, tài sản cố định vô hình như giá trị bằng phát minh sáng chế, hay tài sản chính thức như các khoản đầu tư, khoản phải thu, tiền mặt. Qua xem xét phần này cho phép đánh giá tổng quát năng lực sản xuất và quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của doanh nghiệp. - Về mặt pháp lý: Số tiền “tài sản” thể hiện số vốn thuộc quyền quản lý và sử dụng lâu dài của doanh nghiệp. Tài sản chia thành hai loại: + Loại A: Tài sản lưu động và vốn đầu tư ngắn hạn- Đây là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mà thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. + Loại B: tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Phản ánh toàn bộ giá trị còn lại của tài sản cố định, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản ký quỹ, ký cược của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Phần nguồn vốn Phản ánh những nguồn vốn mà doanh nghiệp quản lý và đang sử dụngvào thời điểm lập báo cáo - Về mặt kinh tế: Khi xem xét nguồn vốn các nhà quản trị doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng. - Về mặt pháp lý: Các nhà quản lý doanh nghiệp thấy được trách nhiệm của mình về tổng số vốn được hình thành từ các nguồn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng và các đối tượng khác, các khoản nợ phải trả, cá khoản nộp vào ngân sách. Các khoản phải thanh toán với công nhân viên. Các nguồn vốn + Loại A: Nợ phải trả: Đây là số vốn mà doanh nghiệp vay ngắn hạnhay dài hạn. Loại vốn này, doanh nghiệp chỉ được dùng trong một thời kỳ nhất định, tới kỳ hạn phải trả lại cho chủ nợ. + Loại B: Vốn chủ sở hữu: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, các quỹ doanh nghiệp và phần kinh phí sự nghiệp được ngân sách nhà nước cấp. Bảng cân đối kế toán của một doanh nghiệp như sau Mẫu số B01-DN Tài sản Nguồn vốn A/. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn I. Tiền II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn III. Các khoản phải thu IV. Hàng tồn kho V. Tài sản lưu động khác B/. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn I. Tài sản cố định II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang IV. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn A/. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn III. Nợ khác B/. Nguồn vốn chủ sở hữu I. Nguồn vốn- quỹ II. Nguồn kinh phí Tổng tài sản Tổng nguồn vốn 2) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được chi tiết theo hoạt động sản xuất kinh doanh chính, phụ, các hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động bất thường phát sinh trong kỳ báo cáo. Ngoài ra còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Cũng qua số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh người ta có thể nhận biết sự dịch chuyển của tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời nó cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh là lãi hay lỗ trong năm. Ngoài ra, nó còn giúp nhà phân tích so sánh với các kỳ trước và với các doanh nghiệp khác cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp và xu hướng vận động nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù hợp. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh được chia làm 3 phần + Phần I: báo cáo lãi, lỗ Phần này phân tích kết quả hoạt động kinh doanh và có thể khái quát phần lãi, lỗ qua sơ đồ sau: Phần II. Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Phần này bao gồm các chỉ tiêu phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước về các khảon như: nộp thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn... Các chỉ tiêu phản ánh trong phần này theo dõi số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang; số phải nộp phát sinh trong kỳ, số còn phải nộp chuyển sang kỳ sautheo cột tương ứng. Trong đó: Số còn phải nộp chuyển sang kỳ sau = Số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang + Số phải nộp trong kỳ - Số đã nộp trong kỳ Phần III. Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm Phần này gồm các chỉ tiêu phảnánh số thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ vf còn được khấu trừ; số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại; số thuế GTGT được miễn giảm, đã miễn giảm và còn được miễn giảm. Tóm lại, do những thông tin mà bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp phục vụ đắc lực cho công tác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nên đây là những tài liệu chủ yếu được sử dụng trong phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, để việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chính xác, sát với tình hình thực tế chungcủa nền kinh tế người phân tích cần kết hợp sử dụng các thông tin trong các tài liệu khác như: + Báo cáo lưu chuyểntiền tệ + Báo cáo chi tiết về các khoản công nợ phải thu và phải trả theo các đối tượng + Báo cáo giải trình và tình hình tăng giảm tài sản, nguồn vốn. Phần II Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty chè Việt Nam I/ Vài nét về đặc điểm kinh doanh của Tổng công ty. 1/ Đặc điểm của Tổng công ty chè VN. Trong sự biến động chung của tình hình kinh tế trong nước và thế giới và sự biến động của thị trường chè nói riêng trong những năm gần đây thì sự hoạt động rời rạc của các xí nghiệp chế biến công nông nghiệp chè không còn phù họp nữa, cho nên, Tổng công ty chè Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số 90/Ttg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ và theo Quyết định số 394 Nhà nước - TCCB/QĐ ngày 29/12/1995 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm 22 công ty và 6 đơn vị sự nghiệp, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực sản xuất, chế biến và kinh doanh chè. Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập này là có được một tổ chức Nhà nước chuyên quản lý về chè và các lĩnh vực liên quan đến chè để khai thác thế mạnh của nông nghiệp Việt nam, tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động cũng như làm nhiệm vụ xuất khẩu quan trọng đối với quốc gia và đóng góp rất căn bản cho sự phát triển kinh tế – xã hội vùng trung du, miền núi. Tổng công ty chè Việt nam có trụ sở chính đặt tại 46 Tăng Bạt Hổ, Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội, với tổng số nhân viên là 200 người. Hình thức hoạt động chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu các loại nông sản, chè, vật tư, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng, hình thức sở hữu vốn là sở hữu nhà nước. Tiền thân của Tổng công ty là liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt nam. Ngoài việc tiến hành sản xuất, chế biến, kinh doanh, Tổng công ty còn giúp bộ chủ quản thực hiện một số chức năngquản lý nhà nước đối với ngành chè. Từ khi thành lập đến nay, Tổng công ty đã trỏ thành một tổ chức sản xuất kinh doanh tập trung vào nhiệm vụ xuất khẩu chè và phát triển trên cơ sở sản xuất kinh doanh đa dạng, là đơn vị sản xuất kinh doanh lớn nhất trong ngành chè, nòng cốt của Hiệp hội chè Việt nam, tiêu biểu về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và các thử nghiệm, cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý liên tục trong hệ thống quốc doanh nông nghiệp. Thành tích của Tổng công ty là một quá trình tích tụ kinh nghiệm hoạt động trong 1/4 thế kỷ qua, đặc biệt thể hiện tập trung trong thời kỳ đổi mới(1989-1999). Tổng công ty có nhiệm vụ kinh doanh chè; bao gồm xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư, nghiên cứu cải tạo giống chè, trông trọt, chế biến, tiêu thụ, xuất nhập khẩu sản phẩm chè, vật tư, thiết bị ngành chè, tiến hành các hoạt động kinh doanh khác theo pháp luật, cùng với chính quyền địa phương chăm lo phát triển kinh tế- xã hội ở các vùng trồng chè, đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng kinh tế mới... xây dựng mối quan hệ kinh tế và hợp tác đầu tư khuyến nông khuyến lâm với các thành phần kinh tế để phát triển trồng chè, góp phần thực hiện việc xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và cải tạo môi sinh. Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế, lãnh đạo Tổng công ty đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý để phục vụ các mục tiêu chiến lược lâu dài, mạnh dạn thử nghiệm đổi mới toàn diện và liên tục các mặt cơ bản như: + Thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp + ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển công nghệ mới. + Đầu tư xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu và hiện đại hoá công nghiệp chế biến. + Mở rộng thị trường. Nên trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tích xuất sắc. Cho đến nay sau 25 năm hoạt động, Tổng công ty chè đã đựơc tặng thưởng 2 Huân chương lao động hạng nhì, 18 Huân chương lao động hạng 3, 15 bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và 15 cờ thi đua của Bộ cùng nhiều phần thưởng và danh hiệu cao quý của Đảng, nhà nước các đoàn thể và tổ chức xã hội. Tổng công ty chè Việt nam là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng được mở tài khoản tại các ngân hàng theo quy định của nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ mẫu về tổ chức hoạt động của Tổng công ty. 2/ Tổ chức bộ máy của Tổng công ty. Tổng công ty chè Việt nam bao gồm 10 phòng ban với 22 đơn vị đầu mối trực thuộc, nằm ở toàn bộ các tỉnh ở Việt nam, do vậy mô hình bộ máy quản lý của văn phòng Tổng công ty là: Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức bộ máy của văn phòng Tổng công ty Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Các hội đồng tư vấn Ban kiểm soát Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Các phòng kinh doanh Phòng kế hoạch đầu tư Phòng tài chính kế toán Phòng tổ chức lao động thanh tra Phòng kỹ thuật công nghiệp Phòng kỹ thuật nông nghiệp Văn phòng Tổng công ty Trạm vật tư Cổ Loa Chi nhánh Tổng công ty tại Hải Phòng Chi nhánh Tổng công ty tại HCM Như vậy, Tổng công ty chè Việt nam là đơn vị sản xuất kinh doanh có quy mô tương đối lớn. ở văn phòng Tổng công ty, hội đồng quản trị(HĐQT) thực hiện các chức năng quản lý, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao, giúp việc cho HĐQT là ban kiểm soát và các hội đồng tư vấn. Người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng công ty là Tổng giám đốc, là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT, trước Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty. Phó Tổng giám đốc giúp việc Tổng giám đốc theo sự phân công của Tổng giám đốc, một người phụ trách mảng kinh doanh chung của toàn Tổng công ty, người thứ hai phụ trách về công việc đầu tư sản xuất của Tổng công ty. Còn các phòng ban chức năng tiến hành các hoạt động theo chuyên môn và theo qui định của Tổng công ty. Như phòng kế toán-tài chính : Tập trung sổ sách tài khoản, là nơi thực hiện quản lý, kiểm tra tài chính, tổng hợp số liệu kế toán toàn Tổng công ty, kiểm tra và hướng dẫn việc thực hiện chế độ tài chính – kế toán và công tác kế toán tại các đơn vị trực thuộc, đồng thời cung cấp số liệu kịp thời đầy đủ, chính xác cho Ban giám đốc. * Tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh của Tổng công ty bao gồm 22 đơn vị thành viên và mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty. Tổng công ty tổ chức công tác theo hình thức phân tán: áp dụng đối với các đơn vị trực thuộc có tổ chức kế toán riêng từ khâu lập chứng từ, các nghiệp vụ phát sinh từ cơ sở và ghi vào sổ kế toán, cuối tháng gửi toàn bộ về Tổng công ty để kiểm tra, tổng hợp lên báo cáo chung toàn Tổng công ty. Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty. Kế toán Tổng công ty Chi nhánh hải phòng Chi nhánh t.p hồ chí minh Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập Đối với mô hình kế toán tập trung bao gồm hai chi nhánh Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh. Chi nhánh Hải Phòng, không có tổ chức kế toán riêng tổ chức kế toán ở đơn vị này chỉ giải quyết việc thu thập chứng từ ban đầu phát sinh ở đơn vị mình cuối tháng gửi toàn bộ về văn phòng kế toán Tổng công ty để kiểm tra và tổng hợp. Chi nhánh ở TP. Hồ Chí Minh có điểm khác biệt là: bộ phận kế toán ở đay vẫn tiến hành hạch toán quyết toán cuối cùng nhưng hàng năm kế toán ở văn phòng Tổng công ty cử người vào kiểm tra để đưa vào báo cáo tổng hợp của văn phòng Tổng công ty. Tổng công ty chè Việt nam áp dụng hình thức kế toán: Chứng từ ghi sổ, về báo cáo tài chính, Tổng công ty áp dụng các loại biểu: Biểu 01-DN –“Bảng cân đối kế toán” Biểu 02-DN –“Kết quả hoạt động kinh doanh “ Biểu 03-DN –“ Lưu chuyển tiền tệ” Biểu 09-DN –“Thuyết minh báo cáo tài chính “ Về hệ thống chứng từ kế toán, Tổng công ty áp dụng hệ thống chứng từ kế toán theo quy định số186 TC /CĐKT ngày 14/03/1995 của Bộ Tài Chính Về chế độ kế toán áp dụng hệ thống kế toán doanh nghiệp theo quy định số 1141TC /CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài Chính. Về phương pháp kế toán, Tổng công ty áp dụng phương pháp kế toán kê khai thường xuyên và niên độ kế toán từ 01/01/N đến 31/12/N. Ta có thể khái quát mô hình tổ chức bộ máy kế toán của văn phòng Tổng công ty.(Trang bên). Kế toán trưởng phụ trách chung về toàn bộ công tác hạch toán kế toán, thống kê của Tổng công ty, có các quyền hạn và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Phó phòng kế toán I phụ trách từng khâu trong toàn bộ công tác hạch toán kế toán, vừa tiến hành kế toán từng nghiệp vụ nhỏ vừa kiểm tra tổng thể cân đối, đảm bảo chính xác và nhanh chóng. Thủ quỹ chịu trách nhiệm bảo quản, thu chi tiền mặt theo đúng chế độ hiện hành. Sơ đồ 4: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán ở văn phòng Tổng công ty Trưởng phòng kế toán Phó phòng i Phó phòng II Xuất khẩu uỷ thác ngoại tệ Trả tiền chè cho CSSX Nhập khẩu mua bán thiết bị vật tư Tài sản cố định và sản xuất KHTC toàn ngành Thanh toán tiền mặt chuyển khoản Công nợ Tổng hợp quyết toán thuế Tổng hợp sản xuất kinh doanh toàn ngành Thủ quỹ Kế toán bộ phận II / Phân tích tình hình tài chính tại Tổng công ty chè Việt nam 1/Đánh giá khái quát về tình hình tài chính doanh nghiệp Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ cung cấp một cách tổng quát nhất tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh là khả quan hay không khả quan. Điều đó cho phép chủ doanh nghiệp thấy rõ thực chất của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và dự báo được khả năng phát triển hay chiều hướng suy thoái của doanh nghiệp, trên cơ sở đó có những giải pháp hữu hiệu. Trước hết, ta so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm. Bằng cách này sẽ thấy được quy mô vốn mà đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Qua phụ lục 1 ta thấy: ± Tổng tài sản = Số cuối năm - Số đầu năm - 4.469.924(nđ) = 425.474.560 - 519.944.484(nđ) Tổng số tài sản cuối kỳ so với đầu năm giảm đi 94.469.924(nđ) cho thấy quy mô kinh doanh của doanh nghiệp có phần giảm đi và nguyên nhân này ta sẽ đi sâu vào phân tích phần sau. Vì qua số liệu giảm trên chưa thể biểu hiện đầy đủ tình hình tài chính của đơn vị được. Bên cạnh việc huy động vốn và sử dụng vốn, khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính cũng cho thấy một cách khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, cần tính ra và so sánh chỉ tiêu “Tỉ suất tài trợ” Nguồn vốn chủ sở hữu Tỉ suất tài trợ = Tổng số nguồn vốn Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp, vì tài sảnmà doanh nghiệp hiện có đều được đầu tư bằng số vốn của mình. Ta có số liệu của Tổng công ty chè Việt nam qua bảng tính toán sau: ĐVT:1000đ Thời điểm Nguồn vốn CSH Tổng nguồn vốn Tỷ suất tài trợ 01/01/1999 61.727.652 519.944.484 0,12 31/03/1999 65.811.966 431.095.668 0,15 30/06/1999 70.921.385 436.085.117 0,16 30/09/1999 120.102.388 430.116.541 0,28 31/12/1999 149.278.561 425.474.560 0,35 Qua đó ta thấy tỷ suất tài trợ cuối năm 1999 tăng so với đầu năm là 0,23 mặc dù khả năng tự chủ về mặt tài chính thấp nhưng Tổng công ty đã có xu hướng ngày một tăng nguồn vốn chủ sở hữu lên tạo cho Tổng công ty chủ động được trong kinh doanh. Tình hình tài chính doanh nghiệp lại được thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán thì tình hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại. Do vậy, khi đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp không thể không xem xét khả năng thanh toán đặt biệt là khả năng thanh toán ngắn hạn. Để xem xét khả năng thanh toán ngắn hạn, khi phân tích cần tính toán và so sánh các chỉ tiêu sau: Tổng số tài sản lưu động * Tỉ suất thanh toán hiện hành(ngắn hạn) = Tổng số nợ ngắn hạn Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn(phải thanh toán trong vòng một năm hay trong một chu kỳ kinh doanh) của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Với số liệu thu thập được Tổng công ty chè Việt nam ta lập bảng tính toán sau: ĐVT 1000đ Thời điểm Tổng số TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn Tỷ suất thanh toán hiện hành 01/01/99 478.184.897 366.141.847 1,31 31/03/99 453.622.389 361.483.447 1,25 30/06/99 421.117.092 321.096.873 1,34 30/09/99 400.721.803 231.834.286 1,73 31/12/99 388.212.660 209.195.999 1,86 Từ bảng tính toán trên ta có sơ đồ sau: Ta thấy, tỷ suất thanh toán hiện hành luôn luôn >1, chứng tỏ doanh nghiệp nghiệp có đủ khẳ năng thanh toán cá khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là khả quan. *Tỷ suất thanh toán của vốn lưu động = Tổng số vốn bằng tiền Tổng số tài sản lưu động Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền củaTSLĐ. Chỉ tiêu này tính ra mà lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt vì sẽ gây ứ đọng vốn hoặc thiếu tiền để thanh toán. Với số liệu thu thập được tại Tổng công ty chè Việt nam ta có ĐVT:1000đ Thời điểm Tổng số vốn bằng tiền Tổng số TSLĐ Hệ số thanh toán của vốn lưu động 01/01/1999 43.276.533 478.184.897 0,09 31/03/1999 42.831.795 453.622.389 0,094 30/06/1999 42.979.608 421.117.092 0,1 30/09/1999 44.183.202 400.721.803 0,11 31/12/1999 42.527.632 388.212.660 0,12 Từ đó ta có sơ đồ biểu diến sau: Tỷ suất thanh toán 6 tháng đầu năm của doanh nghiệp < 0,1 ị Như vậy doanh nghiệp bị thiếu tiền để than htoán các khoản nợ ngắn hạn nhưng 6 tháng cuối năm hệ số này tăng lên, khả năng thanh toán được cải thiện. Tỷ suất thanh toán tức thời = Tổng số vốn bằng tiền Tổng số nợ ngắn hạn Với số liệu thu thập được ta có bảng tính sau: ĐVT:1000đ Thời điểm Tổng số vốn bằng tiền Tổng số nợ ngắn hạn Tỉ suất thanh toán tức thời 01/01/1999 43.276.533 366.141.847 0,12 31/03/1999 42.831.795 361.483.447 0,12 30/06/1999 42.979.608 321.096.873 0,14 30/09/1999 44.183.202 231.834.286 0,19 31/12/1999 42.527.632 209.195.999 0,20 Từ đó ta có sơ đồ sau: Thực tế cho thấy, mặc dù doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn nhưng nếu muốn thanh toán ngay thì doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, do đó doanh nghiệp nghiệp có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Vì thế, doanh nghiệp phải có biện pháp thu hồi các khoản nợ, thu sao cho nhanh nhất nhằm đáp ứng khả năng thanh toán ngay. Qua phần 1, ta thấy có một cái nhìn khái quát về tình hình tài chính của Tổng công ty chè Việt nam. Mặc dù quy mô kinh doanh của Tổng công ty có phần nào đó bị thu hẹp. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa thể thấy rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải phân tích các mối quan hệ giữa các khoản mục, các bảng cân đối kế toán. 2 / Phân tích mối quan hệ và tình hình biến động của các khoản mục trong BCĐKT. 2.1/ Phân tích mối quan hệ giữa TS và NV. Muốn nắm được tình hình chung về hoạt động tài chính của doanh nghiệp ta cần phải xen xét mối quan hệ này. Trên phương diện lý thuyết, mỗi doanh nghiệp đều có nguồn vốn chủ sở hữu để trang trải cho các loại tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà không phải đi vay, đi chiếm dụng. Theo quan điểm của luân chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp có hai loạibao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai loại này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu.Tức là: Cân đối1:B.Nguồn vốn = A. Tài sản [I +II + IV + V(2,3) + VI ] + B, Tài sản (I,II,III) Cân đối 1 : Chỉ là cân đối mang tính lý thuyết, nghĩa là với nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp đủ trang trải các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc đi chiếm dụng. Trong thực tế thường xảy ra một trong hai trường hợp. Vế trái > Vế phải. Trường hợp này doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng. Vế trái < Vế phải: Do thiếu nguồn vốn để trang trải tài sản nên chắc chắn doanh nghiệp phải đi vay hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoaì. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khi nguồn vốn chủ sở hữu không đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh thì doanh nghiệp được phép đi vay để bổ sung vốn kinh doanh. Loại trừ các khoản vay quá hạn thì các khoản vay ngắn hạn, dài hạn chưa đến hạn trả, dùng cho mục đích kinh doanh đều được coi là nguồn vốn hợp pháp. Do vậy về mặt lý thuyết ta lại có: Cân đối 2: B. Nguồn vốn + A. Nguồn vốn [ I (1,2) + II ] = A. Tài sản ( I + II + IV + V(2,3) + + VI) + B. Tài sản ( I + II + III ) Cân đối 2 hầu như không xảy ra mà trên thực tế thường xảy ra một trong hai trường hợp: -Vế trái > Vế phải. thể hiện việc không sử dụng hết nguồn vốn chủ sở hữuvà nguồn vốn vay cho quá trình kinh doanh, nên bị các đơn vị khác chiếm dụng. Trong trường hợp này số vốn công ty bị chiếm dụng lớn hơn số vốn đi chiếm dụng, cụ thể: [(3-8 ) I + III ] A. Nguồn vốn < [ III + (1+4+5) V ] A. Tài sản + IV. B. Tài sản - Vế trái lớn hơn số vốn bị chiếm dụng, ta có [(3-8 ) I + III ] A. Nguồn vốn > [ III + (1+4+5) V ] A. Tài sản + IV. B. Tài sản Mặt khác, do tính chất cân bằng của bảng cân đối kế toán, tổng số tài sản luôn luôn bằng tổng số nguồn vốn nên tổng hợp cân đối 1 và 2 ta có: Cân đối 3: (A + B ) Tài sản = (A + B ) Nguồn vốn Căn cứ vào s._.ây dưa mất uy tín trong kinh doanh. Xét về cơ cấu tỷ trọng của từng loại công nợ ta thấy nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng giảm 4,06% so với đầu năm, trong khi đó nợ dài hạn và nợ khác lại có xu thế chiếm tỉ trọng cao, nhưng với mức tăng là 2,19% ( nợ dài hạn) và 1,37%( nợ khác) không nhiều lắm nên vẫn có thể khẳng định được rằng Tổng công ty vẫn thực hiện tốt các khoản đi chiếm dụng. Qua đó ta thấy, Tổng công ty đã dần tạo được uy tín của mình đối với các bạn hàng cũng như với ngân sách nhà nước. Điều đó giúp cho hoạt động kinh doanh của Tổng công ty có hiệu quả hơn, giảm nhẹ được nợ vay và tự chủ được về mặt tài chính. 5.1.2/ Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để có cơ sở đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng trong thời gian tới, cần đi sâu phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khi phân tích cần dựa vào các tài liệu hạch toán liên quan, tiến hành sắp xếp các chỉ tiêu phân tích theo một trình tự nhất định. Với nhu cầu thanh toán các chỉ tiêu được sắp xếp theo mức độ khẩn trương (thanh toán ngay, chưa cần thanh toán ngay). Còn đối với khả năng thanh toán thì các chỉ tiêu lại xếp theo khả năng huy động (huy động ngay,huy động trong thời gian tới). Biểu phân tích có dạng sau: Biểu số 20: Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán. ĐVT:1000đ Nhu cầu thanh toán Cuối năm 1998 Cuối năm 1999 Khả năng A/ Các khoản cần thanh toán ngay A/Các khoản có thể dùng thanh toán ngay 1. Nộp NSNN 3.232.680 0 1.Tiền mặt 105.203 291.042 2. Phải trả ngân hàng 316.862.733 180.300.009 2. tiền gửi ngân hàng 43.171.329 46.236.590 3.Phải trả CNV 1.173.298 827.390 4. Phải trả người bán 810.685 800.390 3. Tiền đang chuyển 5. Phải trả người mua 512.669 1.795.681 B/ Các khoản thanh toán trong thời gian tới B/ cá khoản có thể dùng thanh toán trong thời gian tới 1. Phải nộp NSNN 0 2.421.000 1. Khoản phải thu 373.843.328 297.134.565 2. Phải trả người bán. 12.298.643 9.006.000 2.Hàng hoá 45.858.944 34.281.443 3. Phải trả trước. 25.468.103 12.330.053 3. hàng gửi bán 7.706.129 5.021.936 4. Chi phí phải trả. 3.520.352 5.880.241 Cộng 363.879.163 213.360.755 Cộng 470.684.933 382.965.576 Biểu phân tích trên ta xác định được tỷ suất về khả năng thanh toán - Tỷ suất thanh toán = Khả năng thanh toán Nhu cầu thanh toán Nếu tỷ suất khả năng thanh toán ³ 1. Chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán nguồn vốnà tình hình tài chính khả quan. Nếu tỷ suất thanh toán < 1: chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán. Ta có Tỷ suất thanh toán đầu năm = 470.684.933 363.879.163 = 1,29 Tỷ suất thanh toán cuối kỳ = 382.965.576 213.360.755 = 1,79 Ta thấy trong năm 1999 doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng thanh toán, mặ dù khả năng thanh toán đầu năm chỉ bình thường do công nợ của Tổng công ty ở tình trạng còn cao,nhưng đến cuối kỳ một phần do nỗ lực của tập thể Tổng công ty cho nên hoạt động kinh doanh có hiệu quả đẩy nhanh tốc độ thu hồi công nợ nên đảm bảo được khả năng thanh toán và tình hình tài chính của Tổng công ty là khả quan vì tỷ suất khả năng thanh toán đạt 1,79 > 1. 5.2 / Phân tích tình hình và khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. 5.1.1/ Phân tích tình hình chung + Nguồn vốn chủ sở hữu phản ánh nguồn tài trợ bên trong của doanh nghiệp thể hiện mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các nguồn sau: Nguồn vốn được hình thành ban đầu: là nguồn vốn phát sinh khi thành lập doanh nghiệp nó có thể do ngân sách cấp hoặc các cổ đông đóng góp. Nguồn vốn được bổ sung từ kết quả kinh doanh : đó là nguồn vốn có trích lợi nhuận để lại để bổ sung vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn này thực chất được bổ sung thêm sau mỗi kỳ kinh doanh có kết quả, số tiền được bổ sung tuỳ thuộc vào lãnh đạo doanh nghiệp xác định. Nguồn vốn do các bên góp vào để tham gia liên doanh. Nguồn vốn đầu tư XDCB có thể do ngân sách cấp hoặc khấu hao để lại cho doanh nghiệp. Nguồn vốn các qỹ của doanh nghiệp chưa sử dụng hết. Nguồn lợi nhuận chưa phân phối. Phương pháp phân tích : Khi phân tích chung cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu, căn cứ vào nguồn vốn chủ sở hữu thực tế có phát sinh tại doanh nghiệp rồi lập biểu so sánh để phân tích nhằm xác định sự tăng giảm về số tiền, tỉ lệ, tỷ trọng của cơ cấu nguồn vốn. Từ đó nhận xét sự biến động giữa các nguồn vốn có hợp lý hay không ta sử dụng chỉ tiêu sau: Hệ số bảo toàn hoặc tăng trưởng VCSH = Vốn chr sở hữu cuối kỳ Vốn chủ sở hữu ban đầu * IP Nếu hệ số trên > 1 được đánh giá là tốt nhất, và < 1 thì đánh giá là không bảo toàn được vốn chủ sở hữu. Để phân tích ta lập biểu sau: Biểu số 21: Phân tích nguồn vốn chủ sở hữu. ĐVT: 1000đ Chỉ tiêu Cuối năm 1998 Cuối năm1999 So sánh Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Số tiền Tỷ lệ TT 1. NV kinh doanh 96.258.133 64,48 22.228.722 36,01 70.029.411 333,03 +28,47 -NSNN cấp 60.106.211 40,26 12.807.102 20,75 47.299.109 369,3 +19,51 -Tự bổ sung 36.151.922 24,22 9.421.620 15,26 26.730.302 284,12 +8,96 2. Các quỹ 35.953.923 24,09 22.139.954 35,88 13.813.969 62,36 -11,7 -Quỹ PTKD 6.403.101 4,29 4.260.151 6,9 2.142.950 50,3 -2,61 -Quỹ dự trữ tài chính 3.581.585 2,4 2.295.600 3,72 1.285.985 56,02 -1,32 -Quỹ dự trữ hợp tác 25.037.200 15,77 14.794.600 23,97 10.242.600 69,23 -7,2 -Quỹ KT- PL 932.037 0,63 789.603 1,29 142.434 18,04 -0,66 3. Chênh lệch TG 16.419.345 11,0 16.331.905 26,46 87.440 0,54 -15,46 -Ngoại tệ 451.243 0,3 363.803 5,89 87.440 24,03 -5,59 - Hàng hợp tác 15.968.102 10,7 15.968.102 20,51 - - -9,81 4. NVĐTXDCB (20.981) -0,14 (16.692) 025 (4.289) +25,69 +0,01 5. Nguồn kinh phí 668.141 0,45 1.044.019 1,96 -375.878 -36 -1,4 -Quỹ quản lý cấp trên - 738.800 1,2 -738.800 - -1,2 - Quỹ hh chè 389.753 0,26 237.234 0,38 152.519 64,29 -0,12 - Nguồn kinh phí sự nghiệp 278.388 0,19 67.985 0,11 210.403 309,45 0,08 Cộng 149.278.561 100,0 61.727.651 100,0 87.550.910 141,83 0 Căn cứ vào số liệu tính toán ở bảng trên ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu năm 1999 có số cuối năm tăng 141,83% tương ứng tăng 87.550.910 so với cuối năm, điều này được đánh giá tình hình nguồn vốn chủ sở hữu là tốt. Và có được kết quả vậy là do các nguyên nhân sau: Nguồn vốn kinh doanh của Tổng công ty cuối năm tăng so với đầu năm là 333,03% tương ứngtăng 70.029.411(nđ), song trong từng nguồn vốn cụ thể có sự tăng giảm khác nhau ; ta thấy: Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấpcuối năm so với đầu năm tăng là 369,3%, tương ứng tăng 47.299.109(nđ).Trong khi đó nguồn vốn tự bổ sung cũng tăng và chiếm tỷ lệ tăng là 284,12%, với số tiền tăng 26.730.302(nđ) được thể hiện qua kết quả hoạt động kinh doanh hoặc từ các quỹ của doanh nghiệp. - Các quỹ cuối năm tăng lên so với đầu năm là 62,36%, tương ứng tăng 13.813.969(nđ), trong đó +Quỹ phát triển kinh doanh tăng 50,3 % so với đầu năm, mặ dù tỷ trọng của nó giảm nhưng số giảm của đó không ảnh hưởng nhiều đến việc phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp. + Quỹ dự trữ tài chính và quỹ dự trữ hàng hợp tác cũng tăng và chiếm tỷ trọng giảm so với đầu năm, nhưng ta thấy Tổng công ty đã chú ý đến các quỹ này nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn về vốn cần phải dùng ngay. + Quỹ khen thưởng phúc lợi cũng tăng, mặc dù nó chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng cũng khẳng định được là Tổng công ty biết quan tâm đến CBCNV, để chi khen thưởng tạo điều kiện tốt giữa lãnh đạo với CBCNV. Nguồn kinh phí cuối năm giảm 36% so với đầu năm, tức là giảm 375.878(nđ). Trong đó quỹ quản lý cấp trên cuối năm giảm 738.800(nđ) so với đầu năm còn quỹ hiệp hội chè lại tăng 64,29% (152.519 nđ). Nguyên nhân giảm nguồn quỹ quản lý của cấp trên là do trong năm Tổng công ty đã chi cho hội chợ triển lãm “ Tuần văn hoá chè “ tại Hà Nội. Như vậy cuối năm 1999 Tổng công ty còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng thông qua hệ số bảo toàn = 149.278.561 / 61.727.651 = 2,42 đã thấy sự tăng trưởng của Tổng công ty một phần do Tổng công ty chủ động trong kinh doanh, một phần do có sự quan tâm của nhà nước, cơ quan chủ quản nên có sự tăng trưởng hơn đầu năm. 5.1.2/ Phân tích khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Thông qua chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, giúp cho người phân tích có thể đánh giá được khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 5.1.2.1. Đánh giá chung. Vì đây là một trong những nội dung phân tích được nhà đầu tư, các nhà tín dụng quan tâm đặc biệt, nó gắn liền với lưọi ích của họ cả về hiện tại và tương lai. Để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu cần tính ra và so sánh chỉ tiêu” Hệ số doanh lợi” của vốn chủ sở hữu giữa kỳ phân tích với kỳ gốc. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lợi của chủ sở hữu. Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = Lãi ròng trước thuế(LN) Vốn chủ sở hữu bình quân Trong đó vốn chủ sở hữu bình quân được tính theo phương pháp bình quân giản đơn, ngoài ra người ta còn xem xét thêm các chỉ tiêu sau: Hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu: là chỉ tiêu phản ánh vốn chủ sở hữu trong kỳ kinh doanh quay được bao nhiêu vòng. Hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu = Doanh thu thuần Vốn chủ sở hữu bình quân Hệ số doanh lợi doanh thu thuần: phản ánh 1 đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần Hệ số doanh lợi doanh thu thuần = Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần Suất hao phí của vốn : Là chỉ tiêu phản ánh việc doanh nghiệp đầu tư bao nhiêu đồng vốn để có một đồng doanh thu thuần. Suất hao phí của vốn = Vốn chủ sở hữu bình quân Doanh thu thuần Căn cứ vào số liệu thu thập được của Tổng công ty chè Việt nam ta lập biểu phân tích sau: Biểu số 22: Biểu phân tích chung khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. ĐVT: 1000đ Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 So sánh Số tiền Tỉ lệ(%) 1. Doamh thu thuần. 1.117.428.554 974.791.418 -142.637.136 -12,76 2. Lợi nhuận thuần trước thuế 68.240.046 50.244.909 -17.995.137 -26,37 3.Nguồn vốn CSH bình quân 72.893.559 105.503.107 +32.609.548 +44,74 4. Hệ số doanh lợi của VCSH 0,9362 0,4762 -0,459 -49,0 5. Hệ số quay vòng của VCSH 15,33 9,24 -6,09 -39,72 6. Hệ số doanh lợi DTT 0,061 0,052 -0,009 -14,75 7. Suất hao phí của vốn 0,065 0,108 0,043 +66,15 Qua số liệu trên ta thấy khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu năm 1999 thấp hơn năm 1998, thể hiện ở những mặt sau: Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu năm 1999, ta thấy 1 đồng vốn chủ sở hữu bình quân mang lại 0,476 đ lợi nhuận, thấp hơn so với năm 1998 là 0,46 đ. Hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu, năm 1999 quay được 9,24 vòng thấp hơn so với năm 1998 là 6,09 vòng tương ứng giảm 39,72 %. Hệ số doanh lợi doanh thu thuần, ta thấy 1 đồng doanh thu thuần năm 1999 chỉ đem lại 0,052 đ lợi nhuận, giảm so với năm trước là 0,009 đ, tương ứng giảm tỷ lệ là 14,75%. Trong khi đó suất hao phí của vốn năm 1999 để có 1 đồng doanh thu thuần doanh nghiệp phải đầu tư 0,108 đ vốn, tăng so với năm 1998 là 0,043 đ, tương ứng tăng 66,15%. Qua phân tích trên ta thấy khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu cũng như hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty năm 1999 thấp hơn so với năm 1998. 5.1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Từ công thức tính “ Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu “ và mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng ta có: Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu * Lợi nhuận Doanh thu thuần = Hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu * Hệ số doanh lợi doanh thu thuần Ta ký hiệu : -Hệ số doanh lợi của vốn CSH = HD -Hệ số quay vòng của vốn CSH = HV -Hệ số doanh lợi DTT = HT Dựa vào công thức trên ta thấy hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố: Hệ số quay vòng và hệ số doanh lợi doanh thu thuần. áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn ta có: (+) ±HD do HV Về số tiền = HV1 x HT0 – HV0 x HT0 = 9,24 x 0,061 – 15,33 x 0,061 = 0,56364 – 0,93513 = - 0,37149 Về tỷ lệ: = ±HD do HV HD0 * 100 = 0,37149 0,936 * 100 = -39,69% (+) ±HD do HT Về số tiền = HV1 * HT1 - HV1 * HT0 = 9,24 * 0,052 - 9,24 * 0,061 = 0,48048 - 0,56364 = - 0,08315 Về tỷ lệ = ±HD do HV HD0 * 100 = -0,08316 0,936 * 100 = -8,88% ị Tổng cộng ảnh hưởng của Hv, HT đến ồHD Số tiền ±HD = -0,37419 + (-0,08315) = -0,045464 lần ±HD = -39,69 % + ( -8,88%) = -48,57% Nhận xét: Nhân tố hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu : do hệ số quay vòng của vốn chủ sở hữu năm 1999 giảm so với năm 1998 nên khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu giảm 0,37149 lần, tương ứng giảm 39,69% Trong khi đó nhân tố hệ số doanh lợi doanh thu thuần cũng giảm so với năm 1998 nên đã làm giảm khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu là 0,0083 lần, tương ứng giảm 8.88%. Do chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố trên làm cho khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu năm 1999 giảm 0,45464 lần tương ứng giảm 48,57% so với năm 1998. Nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng như vậy là do nhân tố chủ quan và khách quan của doanh nghiệp, trong đó nhân tố khách quan là nhiều hơn như giá cả ở trên thị trường thế giới không ổn định nên Tổng công ty cũng bị tác động rất nhiều. Kết luận: Một yêu cầu lớn đặt ra đối với Tổng công ty chè là phải quan tâm hơn nữa tới các biện pháp để tăng vòng quay của vốn vì có những nhân tố khách quan có thể tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty. Điều đó dặt ra cho Tổng công ty là nên tìm kiếm mở rộng thị trường chè, có thể giảm giá để tăng số lượng bán ra, đồng thời Tổng công ty cũng cần có những kế hoạch sử dụng vốn cho phù hợp để tăng khả năng sinh lời của vốn chủ tới mức cao nhất có thể. Muốn vậy ta hãy xem sơ đồ sau để thấy được khả năng sinh lời của vốn chủ và các nhân tố ảnh hưởng, từ đó giúp doanh nghiệp có những định hướng trong kinh doanh. PHầN 3 một số giải pháp để góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty Chè việt nam I. Đánh giá chung về tình hình tài chính của Tổng công ty. Qua phân tích trên ta nhận thấy Tổng công ty chè Việt nam có khả năng tự chủ về mặt tài chính, mặc dù kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty năm 1999 có giảm so với năm 1998 là do chịu ảnh hưởng bất lợi của thị trường chè trên thế giới nên đã làm cho doanh thu và lợi nhuận giảm nhưng Tổng công ty vẫn đứng vững và làm ăn có lãi, tăng được vốn chủ sở hữu, thanh toán được các khoản công nợ đến hạn khẳng định được vị trí và uy tín của Tổng công ty trên thị trường. Ta thấy Tổng công ty đã giảm được công nợ phải trả rất nhiều làm cho cơ cấu của doanh nghiệp thay đổi mạnh vào cuối năm. Bên cạnh đó nguồn vốn chủ sở hữu năm 1999 tăng lên so với năm 1998 là 87.550.910 (nđ) chiếm tỷ lệ tăng 141,83% và tỷ trọng đã tăng 23,22%. Từ đó thấyđược Tổng công ty có khả năng thanh toán tốt và giảm được sức ép về công nợ. Hàng tồn kho của Tổng công ty cũng giảm với tỷ lệ là 24,96% ứng với giảm 13.371.716 (nđ) đó cũng là một phần nhỏ góp vào việc giúp cho hiệu quả sử dụng TSLĐ ngày một nâng cao. Để đạt được kết quả như vậy là do Tổng công ty đã biết khai thác và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả thông qua các biện pháp như: Tăng nguồn vốn kinh doanh bằng cách vay vốn ngân hàng, ODA, tận dụng nguồn tiền nhàn rỗi trong đơn vị cũng như đẩy nhanh tốc độ thanh toán với khách hàng, với nhà nước. Tuy nhiên Tổng công ty cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục như : - Kết cấu TSLĐ và TSCĐ còn chưa hợp lý vì ngoài nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu chè, Tổng công ty còn có hoạt động sản xuất nên việc đầu tư thêm trang thiết bị mới để phục vụ cho việc chế biến chè là rất cần thiết. Như ta đã biết, Tổng công ty đầu tư vào TSCĐ mới ở mức độ nhỏ, chưa đi vào chiều sâu nhiều. Vậy doanh nghiệp cần tập trung vốn để đầu tư thêm TSCĐ mới để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm chè đáp ứng yêu cầu mới của thị trường. - Nguồn vốn công nợ phải trả tuy đã giảm xuống, nhưng vẫn còn ở mức độ cao do đó Tổng công ty vẫn cần phải quan tâm để giảm nguồn công nợ này trong những năm tới. - Hiệu quả sử dụng TSLĐ và TSCĐ trong năm 1999 giảm so với năm 1998 nên Tổng công ty cũng cần xem xét vấn đề này. -Các khoản công nợ phải thu vẫn còn nhiều, điều đó khiến cho Tổng công ty không đẩy nhanh được vòng quay vốn và bị các đơn vị khác chiếm dụng. Để khắc phục những hạn chế trên, em xin đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty. II/ Những giải pháp đề xuất nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty. Việc nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp là rất quan trọng và cần thiết. Nó sẽ đưa ra cho doanh nghiệp những hướng giải quyết nhất định tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp nào nắm bắt và áp dụng được một cách linh hoạt sẽ đem lại kết quả kinh doanh cao. Muốn vậy ta có thể khái quát khái niệm về khả năng tài chính như sau: “ Khả năng tài chính của mỗi doanh nghiệp là những khả năng mà doanh nghiệp đó có sẵn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chính là phần năng lực kinh doanh chưa sử dụng vì những nguyên nhân chủ quan, khách quan nào đó trong công tác quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Đó cũng chính là phần doanh nghiệp có thể tự mình hoàn thành một chu kỳ kinh doanh mà không cần có một sự hỗ trợ, vay mượn nào từ bên ngoài. Ngoài ra, khả năng tài chính trong kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm khả năng về nguồn vốn, khả năng về tài sản, điều kiện huy động và sử dụng vốn, về vị trí và mặt hàng kinh doanh”. Với mỗi doanh nghiệp thì khả năng tài chính nội tại là rất nhiều vấn đề đặt ra như đi sâu vào khả năng tài chính nào có tác dụng cụ thể trong quá trình kinh doanh. Từ đó có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp. Trong cơ chế cạnh tranh gay gắt như hiện nay để tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có khả năng tự chủ về mặt tài chính. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nên em đã nghiên cứu tình hình tài chính của Tổng công ty chè Việt nam - để có một số đề xuất với Tổng công ty như sau: Thứ nhất: Về vốn kinh doanh của Tổng công ty cần được bổ sung thêm với mục đích đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu và thực tại của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời tăng khả năng tự chủ về tài chính mà không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài điều đó yêu cầu Tổng công ty cần thực hiện một số nội dung sau: + Lập dự án tiền khả thi để qua đó thu hút các nguồn vốn đầu tư, liên doanh góp vốn, hoặc có kế hoạch của các bên đối tác như mua máy móc, nguyên liệu, công nghệ sau đó trả dần bằng các sản phẩm như các đối tác Liên Xô(cũ), Irắc và một số các nước khác mà Tổng công ty đã thực hiện để từ đó tăng thêm nguồn vốn tự có góp phần tăng nguồn vốn kinh doanh. + Tổng công ty có thể tập trung huy động vốn kinh doanh thông qua hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong CBCNV. + Có chính sách thu hút vốn hướng vào nội bộ thông qua quá trình phân phối lợi nhuận. Phải đảm bảo các nguồn vốn và doanh thu thu được để tái đầu tư( nếu cần thiết) vào hoạt động sản xuất kinh doanh. + Mặt khác có thể xin ngân sách nhà nước cấp thêm vốn và tranh thủ các khoản viện trợ vốn ODA -FDI. + áp dụng hình thức bán chè non chấp nhận tiền trước của khách hàng với giá ưu đãi để sử dụng vốn đó cho sản xuất. Thứ hai: Về TSLĐ và TSCĐ ta thấy kết cấu chưa phù hợp vì TSCĐ chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số tài sản của doanh nghiệp. Để thuận tiện cho khâu chế biến chè thì Tổng công ty cần phải đầu tư hơn nữa vào TSCĐ như ta đã biết thì hầu hết các trang thiết bị của Tổng công ty đều đã cũ và lạc hậu nhất là khâu chế biến chè cần phải nâng cấp tất cả các cơ sở chế biến chè để tất cả các nhà máy đều có sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Những hạng mục thiết bị cần đầu tư là: Bổ sung dàn héo tự nhiên hiện đại hoá bộ phận ép của máy vò, cải tiến hộp số máy sấy, thay tốc vòng quay của máy vò cho phù hợp với nguyên liệu chế biến, hiện đại hoá phòng lên men. Và khi đã trang bị những thiết bị như vậy thì cần phải có kế hoạch quản lý và sử dụng TSCĐ một cách hợp lý như phải bố trí dây truyền sản xuất, phải thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng TSCĐ tránh để hư hỏng. Còn đối với TSCĐ có khả năng sử dụng kém hoặc không sử dụng, nhanh chóng thu hồi vốn để có điều kiện mua sắm TSCĐ mới. Khi đầu tư vào TSCĐ là phải xây dựng việc dự toán vốn đầu tư đúng đắn, sai lầm trong khâu này sẽ gây ra những hậu quả không tốt cho doanh nghiệp. Cho nên, khi đi đến một quyết đầu tư, đặc biệt là quyết định đầu tư theo chiều sâu Tổng công ty cần phải xem xét và phân tích các nhân tố ảnh hưởng như: +Vấn đề khả năng tài chính của Tổng công ty là rất quan trọng, Tổng công ty cần phải có kế hoạch nguồn vốn đầu tư và phương hướng đầu tư trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo dần hiẹen đại hoá việc sản xuất trên cơ sở không ảnh hưởng tới hoạt động chung của doanh nghiệp. +Xem xét ảnh hưởng của lãi suất tiền vay ( phản ánh chi phí vốn -giá vốn) và chính sách thuế vì đó là những nhân tố ảnh hưởng tới chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải xem xét xem việc đầu tư đó có mang lại hiệu quả không, khả năng sinh lợi như thế nào và liệu chúng có bù đắp đầy đủ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra hay không. Bến cạnh đó, việc xem xét các chính sách thuế cũng rất quan trọng vì nó có thể khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. + Tổng công ty phải chú trọng vào việc tìm hiểu tiến bộ khoa học –kỹ thuật đặc biệt là những dây truyền sản xuất. Tổng công ty nên nhập các thiết bị chế biến chuyên dùng của Công ty cơ khí chè và ngừng việcnhập các thiết bị nước ngoài để giảm bớt phần chi phí cho doanh nghiệp. Thứ ba: Tổng công ty cần phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả vốn lưu động. Hiệu quả của vốn lưu động có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả tiết kiệm vốn.Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động Tổng công ty có thể tiến hành như sau: +Tăng cường công tác quản lý vốn lưu động, tìm mọi biện pháp để rút ngắn thời gian ở mỗi khâu mà vốn đi qua. Làm được điều này giúp cho Tổng công ty rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn lưu động trong lưu thông hàng hoá, từ đó có thể giảm bớt được một số vốn lưu động cần thiết. +Bên cạnh đó, Tổng công ty có thể tăng được tốc độ chu chuyển vốn lưu động, sẽ giảm được một số vốn lưu động nhất định mà vẫn đảm bảo được khối lượng công việc kinh doanh như cũ. +Còn quá trình chu chuyển vốn thường xuyên nằm ở các khâu dự trữ và lưu thông vì vậy, cần phải áp dụng các biện pháp thích hợp ở từng khâu, để từ đó góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty như: - Trong khâu dự trữ cần xác định đúng đắn nhu cầu dự trữ cần thiết, tối thiểu để đảm bảo công tác kinh doanh diễn ra liên tục. Tránh dự trữ thừa, gây ứ đọng vốn hoặ dự trữ thấp gây ảnh hưởng đến khâu bán ra. Bên cạnh đó Tổng công ty phải thường xuyên xác định mức dự trữ hợp lý theo từng tháng, từng quý tuỳ theo nhu cầu của thị trường. -Trong khâu lưu thông để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Tổng công ty nên áp dụng một số giải pháp. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tiền mặt, chế độ thanh toán, cần nhanh chóng giải quyết công nợ để thu hồi đủ vốn cho Tổng công ty. Tổ chức việc vận chuyển lưu thông hàng hoá phải có trách nhiệm cao vì đây là mặt hàng dễ thay đổi chất lượng do ảnh hưởng của môi trường. Phải có trách nhiệm bảo hiểm cho hàng hoá tránh rủi ro bất trắc xảy ra. Đi sâu tìm hiểu phân tích nhu cầu thị trường nắm bắt thi hiếu người tiêu dùng giúp cho Tổng công ty có thể xác định mặt hàng kinh doanh cho phù hợp. Thứ tư: Tổng công ty cần đảy nhanh tốc độ bán hàng để tăng doanh thu từ đó nâng cao lợi nhuận. Để đẩy nhanh tốc độ bán hàng Tổng công ty có thể sử dụng các biện pháp sau: +Phải thường xuyên nghiên cứu và tổ chức sản xuất các loại chè ướp hương hoa quả, các loại nước chè đóng hộp, các loại kẹo chè bánh chè, thay đổi mẫu mã, chất lượng bao bì, đầu tư thêm dây truyền sản xuất chè túi nhúng hiện đại hơn. Để thực hiện được Tổng công ty nên khuyến khích khả năng sáng tạo của người lao động cũng như phải thường xuyên tiến hành chất lượng sản phẩm công nghiệp quy chế chất lượng tiêu chuẩn tối thiểu phải đạt tiêu chuẩn Việt nam cương quyết loại bỏ những mặt hàng có chất lượng quá xấu. Xử lý kịp thời những hành vi của các Công ty cơ sở , các cá nhân có hiện tượng tiêu thụ chè có chất lượng kém trên thị trường làm mất uy tín về chất lượng chè của Tổng công ty. +Mở rộng thêm các đại lý trong và ngoài nước. -Đối với thi trường trong nước: Mở rộng các đại lý, cửa hàng chuyên kinh doanh chè ở các tỉnh, thành phố, thị trấn vừa để tăng mức tiêu thụ vừa để nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng chè của từng địa phương. Khuyến khích việc bán hàng đại lý bằng cách cho các đại lý hưởng hoa hồng tính theo doanh số bán ra hoặc theo tỷ lệ hoa hồng mà đại lý được hưởng theo doanh thu bán ra. -Còn thị trường xuất khẩu : mở rộng thêm nhiều đại lý đặc biệt là Mĩ, Nhật Bản, Trung cận đông, Tây Âu và cũng không được nới lỏng thị trường đã có từ đóa tạo thành một mạng lưới thường xuyên nắm bắt được những thông tin về nhu cầu của từng quốc ra. + Bên cạnh đó tiến hành một đợt quảng cáo khuyến khích các mặt hàng của Tổng công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước. Tổ chức đợt khuyến mại tham gia các hội chợ Việt nam và quốc tế. + Muốn tiêu thụ được hàng hoá và tạo uy tín thì Tổng công ty cần củng cố tổ chức nhân sự và trang bị phương tiện hiện đại cho các trung tâm kiểm tra chất lượng có đủ năng lực để kiểm tra sản phẩm chè trước khi đưa ra thị trường. Thứ năm: Tình hình công nợ phải thu, phải trả của Tổng công ty còn chiếm tỉ trọng rất cao nhất là các khoản nợ phải trả và phải thu khách hàng. Như vậy Tổng công ty có vốn bị chiếm dụng nhiều, vốn đi chiếm dụng cũng nhiều, do vậy Tổng công ty phải thường xuyên theo rõi các đối tượng nợ khi cần có thể nhanh chóng thu hồi đủ vốn, mặt khác phải thanh toán kịp thời các khoản nợ đến hạn, tăng vốn chủ sở hữu để giảm các khoản nợ vay. Đồng thời cần hạn chế việc bán hàng chịu nợ, chỉ cho nợ một phần tiền hàng hợp lý với từng đối tượng khách hàng như đối với những bạn hàng đáng tin cậy, hoặc những khách hàng đó đã thanh toán hết các khoản nợ trước. Còn các khoản nợ của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể để thanh toán tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng vay nợ trong thời gian tới. Thứ sáu: Tổng công ty cần phấn đấu giảm chi phí kinh doanh, nhất là chi phí bán hàng và chi phí giao dịch. Vì chi phí là một bộ phận ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh. Do đó muốn tăng được lợi nhuận thì ngoài kinh doanh có hiệu quả, việc giảm chi phí kinh doanh là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao được khả năng tài chính. Muốn vậy lãnh đạo Tổng công ty cần phải phối hợp trực tiếp với các nhân viên thực hiện kinh doanh tìm ra những bất hợp lý trong khâu mua hàng và dự trữ hàng hoá. Từ đó phân loại chi phí trực tiếp và có kế hoạch thực hiện giảm chi phí phát sinh trong khâu này. Còn đối với các chi phí gián tiếp như chi phí quản lý, loại chi phí này rất khó quản lý vì không có định mức rõ ràng nhất là các khoản chi phí khác trong chi phí quản lý. Vì vậy biện pháp tốt nhất để tiết kiệm chi phí là sự đồng lòng từ ban giám đốc đến toàn thể CBCNV phải có ý thức tiết kiệm chi phí trong từng công việc và hành động của mình để sử dụng chi phí hợp lý nhất. Thứ bảy: những biện pháp góp phần nâng cao khả năng doanh lợi Tổng công ty cần tiến hành các biện pháp sau: +Tổng công ty phải xác định được điểm hoà vốn trong quá trình kinh doanh công việc này áp dụng thông qua công thức FC H = 1-V Trong đó H-doanh thu hoà vốn FC -Chi phí cố định V-Chi phí biến đổi Đối với Tổng công ty thì việc giảm chi phí biến đổi là hết sức cần thiết cho việc hạ thấp doanh thu hoà vốn để nâng cao được lợi nhuận. Chi phí biến đổi được hạ thấp bằng cách: -Quản lý chặt chẽ giá mua vào, giảm việc vận chuyển qua kho, tăng cường vận chuyển thẳng. -Tăng vòng quay vốn bằng cách nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường, sản xuất hàng hoá đáp ứng thị hiếu tiêu dùng, bán với giá cả hợp lý và áp dụng các biện pháp như quảng cáo, giảm giá cho khách mua nhiều. + Để nâng cao doanh lợi Tổng công ty cũng cần phải chú ý đến nguồn vốn huy động nhằm giúp Tổng công ty vừa tạo thế chủ động trong kinh doanh, vừa đảm bảo chi phí về vốn thấp, có đủ thu nhập để trang trải cho chi phí và có lãi, tránh tồn quỹ, lượng tiền mặt quá lớn, dự trữ hàng hoá quá cao so với nhu cầu làm chậm tốc độ chu chuyển tài sản và tăng chi phí. +Ngoài ra Tổng công ty cần nắm được chiến lược kinh tế chung của Đảng và nhà nước nhằm có những xu hướng phát triển sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Từ đó xây dựng kế hoạch tích tụ, tạp trung vốn trong điều kiện cho phép Tổng công ty nên huy động thêm vốn để tăng vòng quay công nợ phải trả nhằm tạo ra uy tín cho Tổng công ty và vừa tận dụng được vốn. Đông thời Tổng công ty cũng nên tăng vòng quay công nợ phải thu vì nó giúp cho Tổng công ty tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Thứ tám: Phải có chương trình quản lý và công tác cán bộ như: +Tuyển mộ thu hút nhân tài từ bên ngoài vào, chuyển những người kém năng lực trong lĩnh vực kinh doanh vào các phòng ban khác hoặc giảm biên chế CBCNV. Để tạo ra đội ngũ CBCNV trong biên chế phải có trình độ chuyên môn cao, dễ dàng thích ứng với những thay đổi của việc hiện đại hoá sản xuất kinh doanh với yêu cầu của thị trường. +Phải tổ chức được hệ thống thông tin liên lạc ở các vùng chè vốn rất khó khăn như hiện nay để cho người làm chè hiểu biết được các thông tin mới kịp thời tham gia sản xuất ra các sản phẩm hợp thị hiếu người tiêu dùng. + Tổ chức các Công ty chuyên doanh để khai thác tiềm năng, thế mạnh từng Công ty, từng vùng, từng địa phương tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ khác. Thứ chín: Để nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty thì vấn đề cốt lõi là các đơn vị thành viên trong Tổng công ty phải cùng nhau xây dựng thực thi chiến lược các mục tiêu mà Tổng công ty đã đặt ra một cách hài hoà, đoàn kết cùng nhau đi theo con đường mà Tổng công ty đã lựa chọn tạo thành bức tường vững chắc cho sự phát triển lâu dài của Tổng công ty. Trên đây là một số gải pháp để góp phần nâng cao khả năng tài chính của Tổng công ty hi vọng nó đóng góp phần nào cho sự phát triển của Tổng công ty trong tương lai. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0078.doc