Một số giải pháp để phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội

Tài liệu Một số giải pháp để phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội: ... Ebook Một số giải pháp để phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp để phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Văn hóa là một sản phẩm do con người tạo nên, nó không do một cá nhân mà do cả một cộng đồng, một tập thể người. Tương ứng với mỗi thời kì phát triển của loài người là một nền văn hóa tập trung riêng. Đồng thời văn hóa tự đánh giá phần nào sự phát triển của văn minh nhân loại và ngày nay văn hóa còn là một yếu tố cấu thành, thúc đẩy động cơ đi du lịch. Mỗi một quốc gia và một dân tộc có những nét đặc trưng văn hóa riêng, do vậy để hiểu biết, giao lưu, tìm hiểu và thưởng thức buộc con người phải có hoạt động đi du lịch và thông qua du lịch cảm thấy gần gũi, thân thiết với nhau hơn. Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không coi trọng sự phát triển của du lịch văn hóa bởi đây là một loại hình du lịch có nhiều ưu điểm, không phụ thuộc vào thời tiết, có thể phát triển quanh năm. Nguồn thu từ du lịch văn hóa là nguồn thu ổn định với mức tăng trưởng ngày càng lớn, nó giúp con người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh. Điều đó rất phù hợp với thời đại ngày nay. Quan trọng hơn, việc khai thác tiềm năng văn hóa truyền thống trong kinh doanh du lịch cũng là một cách tốt nhất để bảo tồn và tôn tạo chúng Ở Việt Nam, bắt đầu từ nền văn hóa trải dài theo thời gian, thông qua năm tháng đã tích lũy được một kho tàng văn hóa lớn và nó ngày càng có sức thu hút sự quan tâm, chú ý của mọi người ở các quốc gia khác nhau. Hơn bất cứ một ngành nào du lịch ngày càng có mối quan hệ mật thiết với văn hóa. Văn hóa không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn được gọi là điểm tựa, là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Văn hóa du lịch đang trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lược trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế giới. Trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ : “Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa sinh thái, môi trường xây dựng các chương trình và các điểm hấp dẫn du lịch về văn hóa, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Trong bối cảnh việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong khi thời đại đang có những chuyển biến phức tạp thì thiết nghĩ, việc phải tạo dựng nên một "bản sắc văn hóa Việt Nam mới" là vấn đề rất quan trọng. Đó là công việc phù hợp với logic của phát triển, phù hợp với sự vận động nội tại của văn hóa dân tộc, phù hợp với những biến đổi trong quan hệ dân tộc và quốc tế. Hà Nội là cái nôi văn hóa của cả nước, nơi tập trung nhiều giá trị văn hóa gồm cả vật chất lẫn tinh thần, có sức thu hút lôi cuốn ngày càng nhiều khách du lịch. Vì thế yêu cầu phải có sự phát triển một cách hiểu quả các tiềm năng, khuyến khích sự phát triển của du lịch văn hóa trong giai đoạn mới là hết sức quan trọng. Trong khuôn khổ đề án môn học này, em xin được trình bày hiểu biết của mình về du lịch văn hóa và kiến nghị một số giải pháp để phát triển loại hình này ở Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn, đặc biệt là thầy Trần Đình Hòa – giáo viên trực tiếp hướng dẫn đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH VĂN HÓA . Văn hóa – cội nguồn của sự phát triển loài người Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh...Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa. Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh. Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thần. Nội hàm của văn hóa Văn hóa vật thể Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hoá nhân loại, thể hiện đời sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người. VHVT quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm của đối tượng thiên nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên thông qua sáng tạo của con người biến thành những sản phẩm vật chất giúp cho cuộc sống của con người. Trong văn hóa vật thể, người ta sử dụng nhiều kiểu phương tiện: tài nguyên năng lượng, dụng cụ lao động, công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống của con người, phương tiện giao thông, truyền thông, nhà cửa, công trình xây dựng phục vụ nhu cầu ăn ở, làm việc và giải trí, các phương tiện tiêu khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế... Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đều là kết quả lao động của con người. Văn hóa vật thể là một nguồn tài nguyên lớn và quan trọng để phát triển du lịch văn hóa nói riêng và du lịch nói chung. Văn hóa phi vật thể Văn hóa phi vật thể là một bộ phận của văn hoá nói chung. Theo nghĩa rộng, đó là toàn bộ kinh nghiệm tinh thần của nhân loại, của các hoạt động trí tuệ cùng những kết quả của chúng, bảo đảm xây dựng con người với những nhân cách, tác động dựa trên ý chí và sáng tạo. VHPVT tồn tại dưới nhiều hình thái. Đó là những tục lệ, chuẩn mực, cách ứng xử... đã được hình thành trong những điều kiện xã hội mang tính lịch sử cụ thể, những giá trị và lí tưởng đạo đức, tôn giáo, thẩm mĩ, xã hội, chính trị, hệ tư tưởng, vv. Theo nghĩa hẹp, VHPVT được coi là một phần của nền văn hóa, gắn với cuộc sống tâm linh của con người, thể hiện những giá trị, lí tưởng, kiến thức. Đó là một dạng tồn tại hay thể hiện của văn hóa không phải chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại khách quan trong không gian và thời gian, mà nó thường tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội, trong hoạt động tư tưởng và văn hóa – nghệ thuật mà thể hiện ra, khiến người ta nhận biết được sự tồn tại của nó. Có thể kể ra đây những dạng thức chính của văn hóa phi vật thể : ngữ văn truyền miệng, thần thoại cổ tích, truyền thuyết ca dao, thành ngữ, tục ngữ, vè, ngụ ngôn… Các hình thức diễn xướng và trình diễn bao gồm các hình thức ca múa, nhạc, sân khấu… Những hành vi ứng xử của con người, đó là ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân trong cộng đồng và giữa các cộng đồng với nhau. Các hình thức nghi lễ, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục, lễ hội như Phật giáo, Ki- tô giáo, Đạo giáo, thờ cúng tổ tiên, đạo Mẫu… Tri thức dân gian cũng là một lĩnh vực của văn hóa phi vật thể Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển Kinh tế xã hội nói chung và du lịch nói riêng Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế xã hội Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội, là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế hệ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa không ra đời một cách ngẫu nhiên mà hình thành, khẳng định và phát triển như sản phẩm của hoàn cảnh kinh tế, địa lý, của quá trình dựng nước và giữ nước, của quá trình sáng tạo những giá trị văn hóa "nội sinh" kết hợp với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa "ngoại sinh". Bản sắc văn hóa vừa gắn với các giá trị cơ bản, cốt lõi của một dân tộc, vừa biểu thị trong sinh hoạt hằng ngày. Để có những giá trị thiêng liêng tạo nên bản sắc văn hóa, dân tộc phải đổ mồ hôi và đổ cả máu mới có được. Xây dựng, bảo vệ bản sắc văn hóa là yêu cầu khách quan của mọi dân tộc khi gia nhập vào cộng đồng văn hóa nhân loại. Song sự nghiệp đó phải được kết hợp với tính tích cực năng động của nhân tố chủ quan để bảo đảm cho bản sắc văn hóa luôn là bộ phận hữu cơ của sự phát triển. Khi một dân tộc quay lưng với truyền thống văn hóa, đánh mất bản sắc văn hóa thì tâm lý sùng ngoại sẽ hoành hành và khả năng bị nô dịch về kinh tế, chính trị là khó tránh khỏi. Đánh mất bản sắc văn hóa là cắt đứt sợi dây thiêng liêng liên kết với quá khứ, để lại hậu quả không thể lường hết. Trước những thách thức của thời đại, bản sắc văn hóa dân tộc là động lực khơi dậy nguồn sinh lực từ lòng tự tôn dân tộc và chính bản sắc văn hóa sẽ tạo ra tính bản thể của sự phát triển dân tộc. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của du lịch Tiềm năng văn hóa là giá trị của toàn bộ những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn. Đó là những cảnh quan tự nhiên ấp ủ một truyền thuyết, một nỗi niềm, một bản lĩnh, một tư duy; là những di tích lịch sử, những lễ hội, những làng nghề thủ công cổ truyền, những trò vui dân gian… những cách thức ăn mặc, nói năng; những phong tục tập quán, tóm lại tất cả là những gì đã tạo nên một bản sắc văn hóa riêng của một địa phương, một khu vực. Thông qua các giá trị vật thể như di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc… và các giá trị phi vật thể như: nghệ thuật truyền thống, phong tục tập quán, tâm hồn cốt cách của con người, văn hóa có sức thu hút con người tìm đến với nhau để khám phá, chiêm nghiệm. Sức thu hút đó chính là cơ sở của ngành Du lịch, vì du lịch xét đến cùng là một hoạt động của con người nhằm thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo ở một nơi khác bên ngoài nơi cư trú. Do đó, phát triển du lịch phần lớn là khai thác tiềm năng văn hóa để đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là phát huy khả năng, phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác tiềm năng văn hóa Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch hoài cổ, du lịch khám phá, du lịch sinh thái, … Nhưng du lịch theo kiểu nào, nước nghèo hay nước công nghiệp phát triển, du lịch luôn bao giờ cũng gắn liền với văn hóa, với bản sắc của mỗi quốc gia. Văn hóa luôn tiềm ẩn, hóa thân trong hoạt động du lịch và hoạt động du lịch trước tiên là hoạt động nhằm đi tìm các giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại nhằm thưởng thức, khám phá, hưởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định rằng du lịch không thể tự mình phát triển được nếu không dựa trên một nền tảng văn hóa và ngược lại nhờ có du lịch mà các dân tộc hiểu biết được những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa nhân loại, tạo điều kiện cần thiết cho sự xích lại của các nền văn hóa khác nhau.Hoạt động du lịch càng hiện đại hóa thì càng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân tộc. Du lịch văn hóa Khái quát về du lịch văn hóa Có lẽ hiếm có một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển ngành du lịch của mình lại không coi trọng du lịch văn hóa. Nhưng không phải quốc gia nào cũng có điều kiện để phát triển loại hình du lịch này. Du lịch văn hóa chỉ thực sự phát triển ở những nơi có nền văn minh cổ đại nổi tiếng, có nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Có thể hiểu du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Du lịch văn hóa với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân thông qua các chuyến đi đến vùng đất mới hay tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương, đất nước đến du lịch hoặc là kết hợp với những mục đích khác nữa. Du lịch là nhằm mục đích chuyển hóa các giá trị văn hóa cả về vật chất lẫn tinh thần. Du lịch văn hóa vừa là phương tiện vừa là mục đích của kinh doanh du lịch. Nhận biết được vấn đề đó các nhà kinh doanh du lịch, các nhà quản lý kinh tế không những phải kiểm tra ngăn chặn những mặt phi văn hóa bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn là phải tạo ra sức hấp dẫn từ bản sắc, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo tồn và nâng cấp các di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc. Các loại hình du lịch văn hóa Tùy theo các tiêu thức khác nhau người ta có thể chia du lịch văn hóa ra thành nhiều loại: Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hóa : Mục đích chuyến đi là khảo cứu, nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc văn hóa vùng miền. Đối tượng chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên. Du lịch tham quan văn hóa : Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất. Du khách thường kết hợp giữa tham quan và nghiên cứu tìm hiểu văn hóa trong một chuyến đi. Đối tượng khách rất phong phú. Bên cạnh những khách kết hợp tham quan với nghiên cứu còn có khách chỉ đi chiêm ngưỡng, biết để thỏa mãn sự tò mò hay đi theo trào lưu. Do vậy trong một chuyến du lịch khách thường đi đến nhiều điểm, vừa có điểm du lịch văn hóa vừa có điểm du lịch núi, biển, du lịch dã ngoại, săn bắn,… Họ là những người ưa thích phiêu lưu mạo hiểm, thích sự mới lạ và chủ yếu là những người trẻ tuổi. Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hóa và các mục đích khác : Mục đích chính của khách trong chuyến đi là công tác nghề nghiệp, tham dự hội nghị, hội thảo, triển lãm… và có kết hợp với tham quan văn hóa. Đooid tượng khách này đòi hỏi trình độ phục vụ có chất lượng cao với một quy trình đồng bộ. Khả năng thanh toán cao nhưng họ rất ít có thời gian dành cho du lịch. Tuy nhiên cách phân loại du lịch văn hóa trên chỉ mang tính chất tương đối. Đây là loại hình du lịch tiềm năng, ít chịu sự chi phối của yếu tố thời vụ du lịch ( thời tiết, khí hậu ) nhưng nó phụ thuộc vào các đặc điểm nhân khẩu học như : giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tôn giáo, … của du khách. Điều kiện để phát triển du lịch văn hóa Để du lịch văn hóa phát triển thì nhất thiết phải có tài nguyên văn hóa, đây là yếu tố quyết định. Tài nguyên văn hóa với những đặc điểm kì diệu, thú vị, đa dạng độc đáo sẽ ngày càng thu hút khách du lịch đến tham quan nhằm thỏa mãn trí tò mò cũng như phần nào đáp ứng được lòng mong muốn hiểu biết sâu rộng về cái hay cái đẹp của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi đất nước. Tài nguyên văn hóa bao gồm những tài nguyên có giá trị về vật chất qua các di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam, thắng cảnh, các công trình kiến trúc… Ngoài ra nó còn thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hóa phi vật chất, đó là các loại hình nghệ thuật, phong tuc tập quán, những nét đặc sắc dân gian và chất liệu cho các lễ hội. Khác với nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hóa không hề cạn kiệt nếu chúng ta biết duy trì tôn tạo, bảo vệ và phát triển đừng để cho chúng bị suy thoái. Việc khai thác hợp lý nguồn tài nguyên văn hóa cho phát triển du lịch đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết cho các nhà quản lý hiện nay. Ngoài tài nguyên về văn hóa không thể không nhắc đến nền kinh tế và và các chính sách phát triển của bộ máy nhà nước. Một đất nước có nền kinh tế phát triển cao sẽ là điều kiện để phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng. Người dân với mức sống cao cũng sẽ có nhu cầu đi du lịch cao, đặc biệt là mong muốn hiểu biết nhiều hơn về văn hóa các vùng miền. Bên cạnh đó các chính sách khuyến khích du lịch văn hóa của nhà nước cũng rất quan trọng để phát triển du lịch văn hóa một cách hợp lý và có hiệu quả. CHƯƠNG 2 : TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TẠI HÀ NỘI 2.1 Tài nguyên du lịch văn hóa 2.1.1 Tài nguyên văn hóa vật thể Việt Nam là đất nước có truyền tống văn hiến. Cuộc đấu tranh trường kì của dân tộc trong lịch sử giữ nước là truyền thống, là điểm tựa vững chắc cho du lịch văn hóa. Đất nước với những chiến công hiển hách từ chống giặc phương Bắc ( Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…), những kì tích hào hùng qua cuộc kháng chiến chống Pháp ( 80 năm ), chống Mỹ ( 21 năm ). Do những chiến công mà mỗi mảnh đất, mỗi con sông, ngọn núi đều trở thành huyền thoại. Đặc biệt là Hà Nội ngàn xưa, chiếc nôi hồng lịch sử, trái tim thiêng liêng của đất nước, của mảnh đất Thăng Long. Hà Nội – đặc điểm về vị trí địa lý, địa thế Hà Nội nằm ở trung tâm Bắc Bộ, giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nổi tiếng là trù phú với diện tích 920,5 km². Trong đó nội thành có diện tích 40 km², ngoại thành là 880,5 km². Với vị trí địa lý và địa thế tự nhiên của mình, Hà Nội sớm có một vai trò đặc biệt trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ nghìn năm nay Hà Nội đã được ông cha ta chọn là thủ đô. “ … Thành Đại La nằm ở trung tâm của trời đất, có các hình thể như hổ phục rồng chầu đúng các vị trí bốn phương Đông Tây Nam Bắc, trước mặt và sau lưng đều có sự thuận tiện của sông núi. Đất rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa, dân cư không phải cái nạn tối tăm, ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giàu thịnh, đông vui. Xem khắp đất Việt, đó là chỗ danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương xum họp và là đô thành bậc nhất đáng đặt làm kinh sư cho muôn đời…” ( Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn ) Từ đó đến nay Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước. Đây cũng chính là tiềm năng cho Hà Nội trở thành trung tâm du lịch hàng đầu của nước ta. Hà Nội – vị trí đầu mối giao thông quan trọng Với vị trí trung tâm kinh tế chính trị của cả nước và với vị trí thuận lợi Hà Nội đã trở thành trung tâm đầu mối các hệ thống mạng lưới giao thông : đường bộ, đường sắt, đường không từ Hà Nội tỏa đi các vùng miền của cả nước, còn nối tiếp nước ta với các nước láng giềng và thế giới. Trong vòng bán kính xấp xỉ 60 – 80 km, khách du lịch có thể đến Đền Hùng, Tam Đảo, Hồ Đại Nải, Ba Vì, các làng quan họ Bắc Ninh, Côn Sơn Kiếp Bạc ( Hải Dương ), Hoa Lư – Cúc Phương – Nhà thờ đá Ninh Bình… Trong vòng bán kính xấp xỉ 100km khách có thể đến thăm quan cảng Hải Phòng, hải đảo Cát Bà, Vịnh Hạ Long… Tính đến năm 2000 thủ đô Hà Nội đã có 201 di tích. Mật độ di tích thuộc loại cao nhất cả nước ( 0,24 di tích/ 1km² ). Nhiều quận huyện có từ 20 – 50 di tích lịch sử , văn hóa, các danh thắng đã được xếp hạng. Một số di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng tiêu biểu ở thủ đô Hà Nội: ® Chùa Một Côt : Một trong những công trình tiêu biểu cho vẻ đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Được dựng năm 1049 chùa có tên là Diên Hựu, nghĩa là phúc ấm dài lâu. Sự độc đáo của kiến trúc chùa là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá cao 20m. Ở đây, có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ. Khối kiến trúc được phụ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịch. ® Chùa Kim Liên : Chùa Kim Liên ( bông sen Vàng ) nằm trên một doi đất bằng phẳng trong lòng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm – Hà Nội. Bao quanh đất chùa là gương nước Hồ Tây trong xanh. Có lẽ do bắt nguồn từ một cung điện nên phong cách kiến trúc tam quan chùa Kim Liên đượm dáng vẻ cung đình. Đây là một loại hình kiến trúc gỗ đặc sắc và quý hiếm trong kiến trúc chùa chiền ở nước ta. Trong chùa có rất nhiều tượng đẹp, nổi tiếng nhất là pho Quan Âm Thiên Phủ ngang hàng với những pho có giá trị nghệ thuật cao ở nước ta… Chùa Kim Liên được coi là ngôi chùa đẹp nhất Hà Nội. ® Chùa Trấn Quốc : Có thể coi đây là ngôi chùa vào loại cổ nhất nước ta, tương truyền là có từ thời Lý Nam Đế ( 544 – 548 ). Chùa còn giữ được lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa, phía trước là nhà Bắc Đường, rồi đến nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng. ® Văn Miếu – Quốc Tử Giám : Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 để làm nơi biểu dương cho Nho giáo. Sáu năm sau (1076) xây nhà Quốc Tử Giams ở kề sát Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong cả nước. Ngày nay ở đây được dùng làm nơi trưng bày chuyên đề về cổ sử của thủ đô. Du khách tới đây không chỉ tiếp xúc với một di tích văn hóa giáo dục có đủ 900 tuổi mà còn được giới thiệu thêm về lịch sử hình thành của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. ® Di tích thành cổ Hà Nội : Thăng Long là kinh đô từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã xây thành trải qua các đời Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn đều sử dụng thành này. Năm 1803, vua Gia Long nhà Nguyễn cho lệnh phá thành này để xây mới. Thành cổ đã bị thực dân Pháp phá hủy từ năm 1894 đến năm 1897. Ngày nay chỉ còn lại một di tích đáng kể là thềm điện Kính Thiên. ® Cột Cờ Hà Nội : Đây là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc khu vực thành cổ Hà Nội may mắn thoát khỏi sự phá hủy do thực dân Pháp tiến hành trong 3 năm 1894 – 1897. Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một cái lầu bát giác cao 3m có 8 cửa sổ tương ứng với 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn đường kính 40m cao đến đỉnh lầu là chỗ để cắm cán cờ cao 8m. Như vậy toàn bộ cột cờ bao gồm 3 tầng, đế cao gần 20cm và thân cao khoảng 40cm, là một điểm cao đáng kể ở nội thành thủ đô Hà Nội. ® Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn : Đây là một danh thắng nổi tiếng của Hà Nội. Hồ Gươm ở giữa Hà Nội, nơi đã từng gắn với bao sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc từ ngàn xưa để lại. Hồ Gươm là niềm tự hào không những của người Hà Nội mà của cả đồng bào ta. Ngày nay cùng với sự đi lên của đất nước, Hồ Gươm dù được nhà nước chú ý đến nhiều. Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc đã được sửa sang tu bổ, song không bao giờ Hồ Gươm mất đi nét cổ kính, tâm linh trong lòng người Hà Nội. Ngoài ra khi đến thăm Hà Nội, du khách có thể đến thăm các viện bảo tàng để tìm hiểu chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa của dân tộc Việt Nam như : Bảo tàng lịch sử, bảo tàng dân tộc học, bảo tàng Hồ Chí Minh,… Kiến trúc của Hà Nội cũng đặc sặc và rất đa dạng. Ở Việt Nam ngoài Hội An chỉ có Hà Nội là còn giữ được một khu phố cổ. Cái hấp dẫn của khu phố ở Hà Nội chính là tổng thể do con người sắp đặt thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít, gắn bó, kề tựa vai nhau mà sinh sôi… Ngoài những dãy nhà san sát nhau với cấu trúc đặc trưng còn có khá nhiều đình chùa, đền miếu nằm rải rác trên các khu phố. Sự tồn tại của chúng là bằng chứng tâm linh của người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hòa đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Thăng Long Hà Nội còn luôn luôn tìm cách hòa đồng với một thế giới tâm linh vì cùng với một không gian đô thị vật chất còn tồn tại một không gian đô thị huyền thoại và thiêng liêng, ở đó có thể giao hòa cùng quá khứ và tìm được ở đó một nguồn sinh lực tiềm ẩn. Ngày nay, mặc dù qua các biến động lịch sử, qua sự thích ứng với đời sống xã hội, khu phố cổ có biến động ít nhiều song bóng dáng của thời xưa vẫn còn lưu lại ở một vài nơi và đặc biệt ở cái không gian văn hóa vẫn đậm đà bản sắc cổ truyền. Cho nên khu phố cổ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, thanh tú, những con đường hẹp lòng nhưng ấm áp người qua lại, cả những không gian cây xanh mướt và ngọt ngào hương hoa nữa… tất cả làm nên một vẻ đẹp đô thị cổ mà chỉ thành phố Hà Nội mới có. Bên cạnh khu phố cổ là những khu phố kiến trúc theo kiểu Pháp thanh nhã, nhẹ nhàng làm giàu di sản kiến trúc Hà Nội và được rất nhiều du khách nước ngoài yêu thích. Hà Nội là thủ đô duy nhất trên thế giới có được một điều kì diệu đó là các làng Ngọc Hà, Nghi Tàm, Phương Liên, thanh nhàn,… với dáng dấp của các làng nông thôn vẫn còn giữ được nhịp thể giữa lòng thành phố. Nói theo cách nói Á Đông thì cấu trúc Hà Nội có cả âm – dương. Đó là làng và đô thị. Thêm vào đó nhiều làng quanh Hà Nội vẫn còn giữ được nghề truyền thống từ xa xưa như làng Gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xá, làng hoa Ngọc Hà… Nếu những làng nghề này tiếp tục được giữ gìn và phát triển thì sẽ trở thành tuyến điểm du lịch văn hóa hấp dẫn cho du khách. 2.1.2 Tài nguyên văn hóa phi vật thể Hà Nội luôn tự hào là thành phố có bề dầy truyền thống văn hóa lịch sử, mảnh đất ngàn năm văn hiến, là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong nước và quốc tế. Cùng với những thắng cảnh, di tích lịch sử, các loại hình văn hóa phi vật thể đang tạo bản sắc rất riêng cho thành phố du lịch này, nhất là khi nhiều loại hình văn hóa đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới, Hà Nội càng trở thành địa chỉ được quan tâm đối với khách du lịch. Lễ hội truyền thống Các hoạt động văn hóa văn nghệ có ý nghĩa rất to lớn đối với du lịch. Ở Hà Nội nổi bật là các hoạt động lễ hội. Trong những lễ hội này du khách sẽ được tiếp xúc, khám phá nền văn hóa dân tộc đậm đà bản sắc. Các lễ hội được biểu hiện thành lịch dưới đây. Dựa vào đó những người làm công tác du lịch có thể quảng cáo, mời chào khách và lập kế hoạch đòn tiếp du khách cho sát thực. Lễ hội ở Hà Nội ( cũ) tính theo âm lịch : Ngày tháng Tên lễ hội – Đặc điểm Nội dung – Nghi thức Tháng Giêng 1/1 Tết Nguyên Đán Tết đầu năm, lễ hội lớn nhất của người Việt. Đây là thời gian đoàn tụ gia đình, bàn về dòng họ, tưởng nhớ tổ tiên 1-3/1 Khai bút, đi thăm đi mừng Mùng 1 Tết ở nhà cha, mồng 2 ở nhà mẹ, mồng 3 ở nhà thầy. 4-6/1 Hội vật Mai Động-Xã Mai Động-Hai Bà Trưng Thờ bà Lê Chân và ông Tam Trinh, ông tổ nghề Vật,mở lò dạy vật ở làng. Lễ diễn lại cuộc thi vật để tuyển quân của bà Lê Chân, chọi gà, cờ tướng 4-7/1 Hội Sài Đồng huyện Gia Lâm Cầu mùa, chơi trò giả trang 5/1 Hội trận Đống Đa, quận Đống Đa Kỉ niệm chiến thắng 20 vạn quân Thanh của vua Quang Trung (1789) ở gò Đống Đa-Chùa Bộc : nơi thờ Quang Trung 6/1 Hội Gióng Sóc Sơn, huyện Đông Anh Thờ Thánh Gióng, thổ thần, sơn thần. Mồng 6 dâng hương, mồng 7 chính hội : lễ rước dâng hoa cướp lộc. Mồng 8 chọi gà, cờ tướng, đánh đàn, hát ca trù. 10-12/1 Hội làng Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì Thờ Phùng Hưng- thế kỷ 18, kỷ niệm lên ngôi, tế thần, chạy cờ duyệt quân đấu vật, đánh đu, múa lân, rồng. Tháng hai 5/2 Hội làng Nhân, quận Hai Bà Trưng 3/2 mở cửa đền, 5/2 lễ tắm tượng thờ, múa đèn cờ hoa, hát chèo. Tháng ba 3/3 Hội tết bánh trôi 7-8/3 Hội chùa Láng, xã Yên Lăng, huyện Từ Liêm Thờ Từ Đạo Hạnh 15-17/3 Hội đền Ninh Xá- Ninh Sở, huyện Thanh Trì Thờ 2 công chúa con vua Lý Nhân Tông 23/3 Hội làng Lệ Mật, xã Việt Hưng, Gia Lâm Thờ chàng trai họ Hoàng có công cứu công chúa bị Giao Long nhốt. Diễn lại sự tích đánh nhau với Giao Long Tháng Tư 8/4 Lễ phật Đản 9/4 Hội Gióng Phù Đổng- Đông Anh Thờ Thánh Gióng, lễ rước cỗ chay, rước ngựa. Hội trận lớn Gióng đánh giặc Ân, múa cờ, múa rối nước. Tháng Năm 5/5 Tết Đoan Ngọ Ăn hoa quả, giết sâu bọ 13/5 Hội Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì Thờ nàng Tía, diễn đánh trận giả. 15/5 Hội đền Chèm Thờ Lý Ông Trọng, rước và tắm giữa sông Hồng. Tháng Tám 15/8 Hội rằm Trung Thu Trẻ em được rước đèn hình trăng sao, ăn bánh nướng bánh dẻo Tháng Chạp 23/12 Tết Táo Quân Cúng cá chép để ông Táo lên chầu trời 24-30/12 Chợ hoa tết Hàng Lược Bán các loại hoa cắm ngày Tết 30/12 Chuẩn bị giao thừa Cúng gia tiên. Đêm : làm lễ Trừ tịch, cúng Giao thừa, đi hái lộc ở các đình chùa. Những lễ hội muôn màu muôn vẻ, mang ý nghĩa tâm linh, truyền thống cao đã góp phần làm cho Hà Nội thêm đậm đà bản sắc, hấp dẫn du khách thập phương muốn tìm hiểu văn hóa nơi đây. Không chỉ có lễ hội, Hà Nội còn có những ưu thế về âm nhạc và nhiều loại hình nghệ thuật đặc sắc với một kho tàng các loại nhạc cụ dân tộc phong phú, mang đậm chất Việt Nam với tính cách dân tộc rõ nét. Nói đến Hà Nội đầu tiên phải nhắc đến chèo, hát chầu văn và đặc biệt là múa rối nước – những loại hình nghệ thuật có từ lâu đời và chỉ Việt Nam mới có. Các kịch bản gắn liền với quá trình phát triển của dân tộc, cuộc sống, sản xuất đời thường giúp cho du khách hiểu thêm về đất nước và con người Việt, đặc biệt là người Hà Nội. Nét đẹp người Tràng An Hà Nội là thủ đô lâu đời, mảnh đất ngàn năm văn vật, sự hội tụ văn hóa qua cuộc sống lại được chắt lọc, phát huy và nâng cao sáng tạo ra nét văn hóa riêng của người Tràng An. Đó là một nếp sống thanh lịch, thân thiện, cởi mở luôn là niềm tự hào của người Hà Nội. “ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” Màu sắc ẩm thực đậm chất Hà Nội Hương vị những món ăn ở vùng đất Á Đông này đã được biết đến ở rất nhiều các quốc gia. Những quán ăn ở Hà Nội luôn sẵn sàng phục vụ du khách với nhiều món ăn cổ truyền, mang nét riêng của nơi này như : gạo Tám, phở bò, rau húng Láng, cá rô Đầm Sét, chả cá Lã Vọng, bánh tôm, cá chép Hồ Tây,… Việc nấu ăn của người Hà Nội đã trở thành nghệ thuật tiêu biểu cho cả nước, tạo ra các món ăn nổi tiếng, đi vào lòng người. Năm cửa ô Hà Nội đã và đang tiếp tục mở rộng. Những con đường lớn mở ra nhiều ngả đang sẵn sàng đón tiếp bạn bè quốc tế đến thăm một vùng đất giàu truyền thống anh hùng. 2.2 Thực trạng phát triển du lịch văn hóa ở Hà Nội 2.2.1 Công tác tổ chức, quản lý Những thuận lợi Trong tình hình hiện nay khi mà ngành du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước thì việc nhà nước quan tâm tới phát triển du lịch văn hóa ngày càng nhiều hơn. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quản lý, đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hóa, đặc biệt là việc phong sắc hiệu và xếp hạng các di tích lịch sử, di sản văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du lịch văn hóa. Ngoài ra nhà nước còn cho thành lập các công ty du lịch, công ty lữ hành với mạng lưới và các chi nhánh văn phòng ngày càng rộng lớn hơn trên cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Những khó khăn Trong thời gian qua, việc định hướng phát triển tràn lan, quản lý lỏng lẻo dẫn đến sự lộn xộn trong công tác du lịch làm thiệt hại cho nhà nước và các đơn vị kinh doanh du lịch văn hóa chính thống. Ở Hà Nội các công trình do con người tạo nên để phục vụ hoạt động du lịch thì quá ít, công viên nước Hồ Tây thì chỉ hoạt động nhữn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32959.doc
Tài liệu liên quan