Một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam

Lời nói đầu Nghiệp vụ thị trường mở kể từ khi được đưa vào hoạt động cho đến nay đã được hơn hai năm. Mặc dù, đây còn là một nghiệp vụ còn rất mới ở nước ta nhưng đã trở thành một trong những công cụ quan trọng trong việc đIều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam. Là một sinh viên của Học viện ngân hàng, em nhận thấy việc quan tâm và nghiên cứu về nghiệp vụ này là một đIều hết sức bổ ích và thú vị. Vì vậy, qua việc tìm hiểu sách báo và vận dụng vốn kiến thức đã được trau dồi trên ghế nh

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1570 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à trường, em xin mạnh dạn trình bày đề tài: “Một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở ở Việt nam” Do khả năng còn hết sức hạn chế, qua bài viết này em chỉ mong được đưa ra những suy nghĩ của cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả của công cụ nghiệp vụ thị trường mở ở Việt nam. Em rất mong được sự quan tâm và đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội ngày 18 tháng 09 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Đức Tuấn Chương I : Tổng quan về nghiệp vụ thị trường mở 1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó việc thực hiện việc mua, bán các công cụ tài chính ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn của NHTW trên thị trường mở. Theo luật NHNN Việt nam tháng 12/1997, nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mà NHNN thực hiện mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 2. Tác động của nghiệp vụ thị trường mở vào các mục tiêu của CSTT Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng. Về mặt lượng, là ảnh hưởng của NVTTM vào dự trữ của NHTM. Khi NHTW thực hiện việc mua chứng từ trên thị trường mở kết quả làm dự trữ của NHTM tăng lên. Khi NHTW thực hiện bán chứng từ có giá trên thị trường mở và kết quả làm dự trữ của NHTM giảm đi. Như vây, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nó sẽ tác động vào dự trữ của các ngân hàng thương mại, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó làm ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Về mặt giá, khi NHTW mua chứng từ có giá sẽ làm tăng dự trữ của các NHTM, cung vốn tín dụng cũng vì thế mà tăng lên. Cung vốn tín dụng tăng ắt sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng giảm xuống và tác động đến lãi suất kỳ hạn giảm. Bên cạnh đó, khi NHTW thực hiện mua chứng từ có giá trên thị trường mở sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá dẫn đến có sự chuyển dịch vốn đầu tư, làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, tác động đến cung cầu vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. 3. Hàng hoá trên thị trường mở Thị trường tài chính càng phát triển thì hàng hoá trên thị trường mở càng phong phú. Với các nước khác nhau thì chủng loại chứng khoán giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở cũng khác nhau tuỳ theo quy định của từng nước . Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, NVTTM không giới hạn cụ thể chủng loại cũng như thời hạn các chứng khoán giao dịch. Việt nam hiện nay, theo quyết số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế NVTTM, trong điều 8 có ghi “Các loại giấy tờ có giá được giao dịch thông qua thị trường mở gồm: tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước, các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ. 4. Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở + NHTW tham gia thị trường mở với tư cách là người chỉ đạo thị trường mở thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. NHTW có vai trò rất lớn đối với thị trường mở, thể hiện ở chỗ: - NHTW là người hoạch định và tổ chức thực hiện CSTT. Trên cơ sở đó NHTW sẽ lựa chọn công cụ cần thiết để can thiệp trong đó, NVTTM được áp dụng là chủ yếu. - NHTW sẽ quản lý khối lượng tiền cung ứng, kiểm soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng thông qua can thiệp vào quá trình tạo tiền bằng các nghiệp vụ thị trường mở tác động tới số dư tiền dự trữ của các ngân hàng và số dư tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng. Như vậy, NHTW tham gia NVTTM không phải là để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho CSTT luôn được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó. + Các ngân hàng thương mại Các NHTM luôn là những đối tác quan trọng trong nghiệp vụ thị trường mở của NHTW xét ở cả hai phương diện: độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM là các trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn tiền gửi và dùng nó để cho khách hàng vay. Đồng thời ngân hàng thương mại cũng là một thành viên dặc biệt của thị trường tiền tệ, nó đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Với vai trò là trung gian tài chính có mạng lưới hoạt động rộng và gắn kết thành hệ thống thông qua trung tâm thanh toán nên mỗi sự thay đổi dự trữ của các ngân hàng sẽ gây ảnh hưởng nhiều đến khối lượng tiền cung ứng theo mong muốn của NHTW. Vì vậy, các NHTM luôn là các đối tác quan trọng để thông qua đó NHTW điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế một cách linh hoạt và chủ động thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở. + Các thành viên khác. Ngoài hai thành viên chính tham gia thị trường mở còn có rất nhiều thành viên khác cũng có một vai trò rất quan trọng đối với nghiệp vụ thị trường mở như là: các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh lớn, các hộ gia đình, các nhà giao dịch chuyên nghiệp và kho bạc nhà nước. 5. Phương thức giao dịch trên thị trường mở +Giao dịch song song: NHTW giao dịch trực tiếp với người mua, bán, thực hiện mua bán hẳn các giấy tờ có giá. +Giao dịch qua thị trường chứng khoán: thông qua thị trường chứng khoán, qua các đại lý chứng khoán mà NHTW tiếp cận với người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán. +Giao dịch qua đấu thầu: đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Đấu thầu khối lượng: NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện, NHTW công bố điều kiện đặt thầu để tổ chức mua bán phải chấp hành. Các tổ chức tín dụng cần mua hoặc bán tiến hành nộp thầu theo quy định. Sau khi mở thầu, NHTW sẽ xác định tỷ lệ đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu. Sau khi trúng thầu các ngân hàng thực hiện nhận tín phiếu kho bạc và thanh toán tiền theo quy định. Đấu thầu lãi suất: theo cách đấu thầu lãi suất thì các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi suất đặt thầu và đi kèm lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. NHTW sẽ quan tâm đến lãi suất đặt thầu và sẽ lấy lãi suất cao đến lãi suất thấp cho đến khi nào đạt được lượng tiền mà NHTW cần cung ứng vào lưu thông. Nguyên tắc khi xét thầu theo lãi suất nếu NHTW bán thì xét đạt thầu từ lãi suất thấp đến lãi suất đảm bảo đủ lượng tiền cần bán. Ngược lại, khi NHTW mua thì xét đạt thầu từ lãi suất cao đến lãi suất đảm bảo đủ lượng tiền cần mua. Phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ NVTTM mà các công cụ khác không thể có được. NVTTM cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp với yêu cầu chính sách tiền tệ. + Phương thức mua hoặc bán hẳn. Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi, biểu hiện một sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ. Trong trường hợp như vậy, phương thức giao dịch sẽ là mua hoặc bán hẳn các giấy tờ có giá, nhằm tạo ra một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết. Ngoài ra, nghiệp vụ mua bán hẳn cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch: Nếu phiên giao dịch trước trót mua quá nhiều thì phiên này có thể thực hiện giao dịch bán để giaỉ quyết số chênh lệch đó và ngược lại. Phương thức bán và cam kết mua lại Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân như thời vụ, thiên tai, hay dự đoán tình hình khó chính xác... để đảm bảo hạn chế sai sót trong quá trình cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên thị trường mở sẽ là phương thức mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại. Tức là, thời hạn cần tăng tạm thời vốn khả dụng, thì NHTW mua một lượng giấy tờ có giá trong thời gian dự đoán được, bằng một hợp đồng mua lại của tổ chức tín dụng. Kết thúc thời hạn hợp đồng, vốn khả dụng cũng đồng thời giảm xuống. Trường hợp cần giảm tạm thời vốn khả dụng thì NHTW chỉ bán trong một thời gian, bằng hợp đồng mua lại của chính mình. Kết thúc thời hạn hợp đồng, vốn khả dụng đồng thời được tự động tăng lên. Chương II : Thực trạng vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt nam hiện nay I. Thực trạng Đối với các nước có nền kinh tế thị trường lâu đời thì công cụ thị trường mở được xem xét là một trong những công cụ linh hoạt nhất và lợi hại nhất. Song ở Việt nam lại mới được vận hành ở mức hết sức sơ khai. Sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, cho tới ngày 12/7/2000, NVTTM do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTW theo phương pháp gián tiếp. Tuy đã hoạt động được hơn hai năm nhưng vẫn chưa phát huy tác dụng và chưa thể hiện được những ưu điểm của nó. II. Thực trạng vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt nam thời gian qua. 1. Hàng hoá và hoạt động mua bán trên thị trường mở Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000, tham gia thị trường này là NHNN, các tổ chức tín dụng. Qua hơn hai năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở vẫn thực sự chưa xứng đáng với tầm quan trọng của nó – một công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ. Đến nay, thành viên đăng ký tham gia là 20, nhưng thực tế chỉ có 6 thành viên giao dịch. Hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất hạn chế, chỉ có hai loại là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN, tổng khối lượng của hai loại tín phiếu này đang được các NHTM nắm giữ khoảng 3000 tỷ đồng, trong đó có 1000 tỷ đồng là tín phiếu NHNN, trong phiên đấu thầu đầu tiên đã có 300 tỷ được mua bán. Mỗi phiên giao dịch cách nhau 7 ngày và phương thức giao dịch chỉ là mua bán hẳn, chưa áp dụng được mua bán có kỳ hạn. Khối lượng giao dịch ở từng phiên cho đến nay mỗi phiên giao dịch đạt gần 100 tỷ VNĐ. Nếu so sánh khối lượng của từng phiên giao dịch với một vài chỉ tiêu kinh tế khác, chúng ta có thể ảnh hưởng của NVTTM đối với nền kinh tế tới mức nào. Tính đến cuối năm 2001 tổng phương diện thanh toán trong nền kinh tế đạt khoảng 178000 tỷ VNĐ, tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng đạt khoảng 104000 tỷ đồng. Như vậy, khối lượng giao dịch mỗi phiên trên thị trường mở là quá nhỏ bé, nếu không nói là không đáng kể so với tổng lượng tiền tệ, tổng lượng tín dụng của nền kinh tế. Nếu coi NVTTM là một công cụ chủ yếu của CSTT để điều tiết tổng lượng tiền, tổng lượng tín dụng thì với thực tế như trên thì thành công là hiếm thấy. 2. Thực trạng hoạt động của thị trường tiền tệ ngân hàng Đặc trưng nổi bật của NVTTM là NHNN có khả năng chủ động tác động vào lượng vốn khả dụng của các NHTM dựa vào cơ chế giá linh hoạt trên thị trường mà không bị hạn chế bởi mức độ phụ thuộc về vốn vào NHNN. Tuy nhiên, hiệu quả tác động của hành vi mua bán các chứng từ có giá trên thị trường mở của NHNN phụ thuộc rất nhiều mối quan hệ về vốn với các TCTD với tư cách là người tham gia trên thị trường mở. Hay nói cách khác, khả năng phát huy hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở phụ thuộc vào mức độ tích cực của hoạt động thị trường tiền tệ liên ngân hàng – nơi các TCTD mua bán vốn khả dụng lẫn nhau. Khi nguồn vốn mà thực chất là dự trữ của các tổ chức tín dụng phụ thuộc vào nhau thông qua các hoạt động vay, gửi lẫn nhau, mỗi sự thay đổi của lượng dự trữ dư thừa của một ngân hàng nào đó cũng sẽ lan truyền ảnh hưởng tới mức dự trữ của các ngân hàng khác và tới toàn hệ thống, từ đó ảnh hưởng tới lãi suất và khối lượng tín dụng, sản lượng và giá cả của nền kinh tế. Nếu thị trường về vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng không phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch giữa các TCTD thấp, không thường xuyên, thì quyền lực tác động của NVTTM tới lượng tiền cung ứng sẽ rất hạn chế. Có thể nói rằng nền tảng hoạt động của NVTTM chính là hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng nội tệ và ngoại tệ. Việt Nam, việc thiết lập và điều khiển thị trường tiền tệ thuộc thẩm quyền của NHNN. Ngày 21/6/1993, thống đốc NHNN đã ký quyết định 114/QĐ-NH14 về việc ban hành quy chế tổ chức hoạt động thị trường liên ngân hàng và đây là bước khởi đầu cho quá trình thiết lập thị trường tiền tệ Việt Nam. Đến 7/1993, thị trường nội tệ liên ngân hàng đã được đưa vào hoạt động. 3. Thực trạng hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng Mặc dù thị trường nội tệ liên ngân hàng đã đi vào hoạt động, song nhìn chung thị trường này mới mua bán bằng lãi suất chứ chưa sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Mặt khác kết quả hoạt động còn thấp do có khó khăn chung về nguồn vốn và đặc biệt là thiếu các định chế tài chính thích hợp. Bên cạnh đó, các bộ phận quan trọng cấu thành của thị trường vốn như thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán thì vẫn còn ở dạng manh nha buổi đầu thiết lập. Từ năm 1996, NHNN được phép đứng ra tổ chức cho NHTM đấu thầu mua trái phiếu kho bạc nhà nước, NHTM nào đạt tỷ lệ lãi suất thấp nhất sẽ trúng thầu được mua. Tuy nhiên, tình hình hoạt động đấu thầu trái phiếu kho bạc qua NHNN hiện nay mới chỉ hoạt động một chiều, kể cả các NHTM và công chúng chuyển nhượng cho nhau thì cũng không thể vì thế làm thay đổi cơ số tiền tệ trong lưu thông. Trên thực tế, cũng có một vài NHTM mang số trái phiếu đang nắm giữ đến thế chấp vào NHNN xin vay chiết khấu, nhưng đó chỉ là hoạt động cá biệt, quan hệ tay đôi, ngẫu nhiên để giải quyết một tình huống đột xuất chứ không phải là một nghiệp vụ chủ động điều chỉnh cơ số tiền tệ trong lưu thông như chính sách thị trường mở mà các nước đang áp dụng. Hơn nữa từ năm 1996 đến nay, khi các NHTM rơi vào trạng thái dư thừa vốn khả dụng thì doanh số sử dụng vốn lẫn nhau giữa các TCTD hầu như không đáng kể và NHNN cũng không theo dõi số liệu này. Tuy vậy, việc phân tích sự biến động cơ cấu nguồn vốn trên bảng kế toán tổng hợp toàn hệ thống có thể cho phép rút ra một số kết luận quan trọng: Quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau qua thị trường nội tệ liên ngân hàng không nhiều. Nếu loại trừ bộ phận vốn vay các TCTD nước ngoài cũng như giao dịch bằng ngoại tệ, thì số liệu còn nhỏ hơn nữa, thể hiện sự không tích cực của thị trường nội tệ liên ngân hàng. Khả năng điều hoà vốn NHTW của thị trường nội tệ liên ngân hàng rất hạn chế. Thực tế, trong khi có những tổ chức tín dụng thừa vốn thì các ngân hàng khác lại thiếu vốn nếu xét toàn cục bộ. Trong thực tế, các chi nhánh của các ngân hàng khác nhau nhưng cùng địa bàn và đặc biệt có quan hệ tín dụng trực tiếp thông qua cơ chế điều hoà vốn trong hệ thống nên rất khó kiểm soát. Ngoài ra, để tránh các yêu cầu thế chấp và các điều kiện trong quan hệ tín dụng, các ngân hàng, đặc biệt là các NHTM cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường biến các khoản tín dụng thành các khoản tiền gửi tại ngân hàng khác. nếu tính đến tất cả các yếu tố tác động này, thì quan hệ tín dụng giữa các TCTD trên thị trường giữa các ngân hàng cũng chỉ thay đổi không đáng kể. 4. Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Trong điều kiện hiện nay, các hoạt động can thiệp của NHNN trên thị trường mở không tác động trực tiếp đến thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên, nó tác động gián tiếp thông qua những thay đổi về dự trữ nội tệ và lãi suất đến cung cầu trên thị trường ngoại tệ, qua đó ảnh hưởng đến tỷ giá ngoại tệ. Sự ảnh hưởng dây chuyền của tỷ giá thị trường bán buôn ngoại tệ đến thị trường bán lẻ sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu và qua đó đến các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Vì thế, một thị trường ngoại tệ ổn định và sôi động sẽ là kênh dẫn truyền tác động các hoạt động can thiệp trên thị trường mở của NHNN một cách nhanh chóng và hiệu quả. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu hoạt động từ tháng 11/1994 theo quyết định thành lập số 203/ QĐ-NH13 ngày 20/9/1994. Sau thời kỳ đầu hoạt động thiếu ổn định, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày càng chứng tỏ vai trò cầu nối cung cầu ngoại tệ giữa các TCTD của mình thông qua sự tăng lên nhanh chóng của doanh số giao dịch bình quân tháng từ năm 2001. Hoạt động ngoại tệ liên ngân hàng có một số vấn đề cần lưu ý: Doanh số hoạt động biến động mạnh trong năm không chỉ phản ánh nhu cầu ngoạI tệ của nền kinh tế mà còn bị ảnh hưởng gián tiếp bởi tâm lý trông đợi sự tăng lên của tỷ giá giữa USD và VNĐ. Sự biến động này đặc biệt mạnh trong hai năm gần đây. Có sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu theo hướng cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ. Mặc dù các ngân hàng có nhu cầu ngoại tệ lớn để bán cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán L/C và trả nợ vay đến hạn, nhưng việc mua từ các ngân hàng khác là rất khó bởi tâm lý găm giữ ngoại tệ trong thời đIểm tỷ giá có xu hướng tăng lên. Sự can thiệp của NHNN trong thị trường ngoạI tệ liên ngân hàng cũng rất hạn chế do dự trữ ngoại hối mỏng. Khả năng sử dụng nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ nhằm tác động vào lượng tiền NHTW là không khả thi trong điều kiện này. III. Nguyên nhân 1. Do tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp Tại sao hơn hai năm đi vào hoạt động mà giao dịch trên thị trường mở còn rất buồn tẻ? Đã có nhiều nhà kinh tế đưa ra nhiều lý do khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản tạo ra sự buồn tẻ trên thị trường mở không phải là sự khan hiếm hàng hoá. Trước hết, phải thừa nhận rằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp thì sức hút đầu tư kém và vì vậy vòng tuần hoàn luân chuyển vốn không thể quay nhanh được, cho nên sự nguội lạnh và buồn tẻ trên thị trường mở cũng là đIều dễ hiểu. Mặt khác, hoạt động ngân hàng ở nước ta vẫn chưa thoát ra được nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, đó là hoạt động tín dụng, dư nợ cho vay ở hầu hết các ngân hàng vẫn chiếm 70% tổng số sử dụng vốn. Với một số ngân hàng riêng biệt con số này còn lớn hơn nhiều. Trong khi đó, ở một số ngân hàng khác dư nợ cho vay khách hàng giảm do sự chững lại trong tốc độ phát triển kinh tế, thì nguồn vốn dư ra vẫn chưa được sử dụng một cách hợp lý, linh hoạt vào cáchoạt động đầu tư khác, mà nằm đọng lại đến vài ngàn tỷ đồng trên tài khoản tiền gửi tại NHNN. 2. Khả năng dự báo nhu cầu vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng Tính chất biến động không theo quy luật của dãy số lịch sử đối với các nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu vốn khả dụng, đặc biệt là các số liệu liên quan đến tài sản có ngoại tệ ròng và cho vay ngân sách ròng. Việc dự báo trên nền tảng số liệu lịch sử, theo lý thuyết dự báo Markov và lý thuyết dự báo điều chỉnh chỉ cho kết quả chính xác trong điều kiện môi trường ảnh hưởng ổn định. Với môi trường ảnh hưởng không ổn định như ở Việt nam thì tính chính xác của dự báo lại phụ thuộc vào việc xác định tỷ lệ đIều chỉnh sai số, mà điều này lại phụ thuộc vào kinh nghiệm và năng lực của nhân viên dự báo. Sự biến động của khoản mục “tiền gửi của các TCTD tạI NHNN” là chỉ tiêu vốn rất khó kiểm soát. Nó biến động thường xuyên bởi bởi quan hệ với các chủ thể phi ngân hàng và không thuộc quyền kiểm soát của NHNN. Bên cạnh đó, khả năng cập nhật thông tin cũng như hạn chế do chế độ báo cáo và tổng hợp số liệu hiện hành đó là chưa kể đến tính chính xác của nguồn số liệu thu thập. 3. Khả năng phát huy hiệu quả các kênh truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ Lợi thế của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ gián tiếp so với công cụ trực tiếp là ở chỗ: nó lợi dụng được cơ chế thị trường trong việc truyền dẫn ảnh hưởng của NHTW đến các mục tiêu cuối cùng qua lãi suất thị trường, qua tỷ giá và qua giá cả chứng khoán. Tuy nhiên, khả năng phát huy hiệu quả của các kênh truyền dẫn này ở Việt nam hiện nay còn rất hạn chế khi xem xét đến các điều kiện phát huy hiệu quả của chúng. Trước hết, sự can thiệp trực tiếp của NHNN trong việc khống chế trần lãi suất cho vay, hạn mức tín dụng và cơ chế kiểm soát tín dụng tác động thẳng vào khối lượng tín dụng cung ứng của hệ thống ngân hàng và làm triệt tiêu tác động qua kênh lãi suất và giá tài sản. Thứ hai, tính chất cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng còn yếu. Hoạt động của hệ thống NHTM hiện nay bị chi phối mạnh bởi tính chất độc quyền của các NHTM quốc doanh. Đến lượt mình, tính chất kinh doanh của các ngân hàng này lại bị chi phối đáng kể bởi các mục tiêu chính sách và các khoản cho vay theo chỉ định. Khi khả năng tối đa hoá lợi nhuận bị giảm sút thì khả năng tác động của chính sách tiền tệ qua kênh lãi suất bị bóp méo và thiếu hiệu quả. Thứ ba, thị trường tài chính chưa phát triển. Một nền kinh tế với thị trường tài chính tích cực và đa dạng hoá được gọi là nền kinh tế được tài trợ trực tiếp. Trong điều kiện này mỗi sự thay đổi lãi suất ngắn hạn do tác động của NVTTM sẽ tác động tức thời qua giá của chứng khoán trên thị trường vốn từ đó mà có tác động trở lại đối với sự định giá tiền gửi và tiền vay của hệ thống ngân hàng. Ngược lại, trong đIều kiện thị trường tài chính chưa phát triển thì khả năng tác động trực tiếp vào giá chứng khoán là kém hiệu quả. Mặt khác, mức độ tích cực của thị trường tài chính còn ảnh hưởng đến khả năng dự đoán sự biến động của lãi suất. Một thị trường tài chính chưa phát triển hoặc thiếu tích cực trong thời gian trước mắt sẽ không tạo nên được xu hướng ổn định của lãi suất, các ngân hàng không sẵn sàng điều chỉnh lãi suất khi có hành vi can thiệp về lãi suất của NHNN, do vậy làm giảm hiệu lực của kênh tác động qua lãi suất. Thứ tư, tỷ trọng tài sản tài chính trong tổng danh mục đầu tư của những người đầu tư thấp. Chiều hướng chính sách tiền tệ (thắt chặt hay mở rộng) sẽ ảnh hưởng đến giá trị tài sản có và tài sản nợ của các chủ thể kinh tế trong xã hội thông qua sự thay đổi của mức lãi suất ngắn hạn. Tuy nhiên, sự nhạy bén của mức độ ảnh hưởng này phụ thuộc vào cơ cấu danh mục đầu tư cá nhân. nếu tỷ trọng các tài sản tài chính càng lớn thì giá trị danh mục đầu tư thông qua giá tài sản đối với sự biến động lãi suất ngắn hạn càng lớn và ngược lại. Trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển, sự hiểu biết của công chúng cũng như thói quen sử dụng các tài sản tài chính; do đó tỷ trọng tài sản tài chính trong tổng danh mục đầu tư rất thấp như của Việt nam hiện nay (tổng giá trị các chứng khoán có hiện hành chỉ bằng 5% GDP) thì hiệu quả truyền dẫn của chính sách tiền tệ qua kênh lãi suất và giá chứng khoán là hết sức hạn chế. Thứ năm, tình trạng đô la hoá. Là từ chỉ tình trạng sử dụng đô la như là đơn vị tính toán, dự trữ giá trị và phương tiện trao đổi trong phạm vi quốc gia. Tỷ trọng này thường được đo lường bằng các khoản tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ. Về mặt lý thuyết, nếu trong điều kiện sự chuyển hoá giữa tài sản bằng đô la nội địa và đô la ngoại là không hoàn hảo (do khác nhau về mức độ rủi ro và chính sách thuế) thì chính sách tiền tệ vẫn phát huy hiệu quả ngay cả trong tình trạng đô la hoá vì sự chuyển hoàn hảo giữa nội tệ và đô la nội. Giả sử, NHNN quyết định giảm lãi suất để kích cầu. Người đi vay sẽ tăng cường vay bằng nội tệ trong khi người gửi tiền sẽ chuyển sang gửi bằng đô la nội, đIều này sẽ làm cho lãi suất đô la nội giảm xuống, mục đích kích cầu được thực hiện. Tuy nhiên, điều may mắn này lại không xảy ra trong điều kiện hiện nay của Việt nam. Trong khi lãi suất nội tệ giảm thì lãi suất đô la nội lại tăng thậm chí cao hơn lãi suất nội tệ (bắt đầu từ những tháng đầu năm 2000, hầu hết các ngân hàng đã tăng lãi suất tiết kiệm đô la cao hơn lãi suất tiết kiệm nội tệ cùng kỳ hạn). Lý do chủ yếu xuất phát từ sự thiếu hụt về cung ngoại tệ do các đơn vị có thu ngoại tệ không bán ngoại tệ sau khi đã tuân thủ tỷ lệ kết hối được quy định (tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất phát từ thói quen sử dụng đô la như phương tiện dự trữ giá trị và phần nào xuất phát từ sự thiếu tin tưởng vào khả năng can thiệp của NHNN khi cần thiết). Sự khan hiếm ngoại tệ cộng với ảnh hưởng của CSTT thắt chặt của cục dự trữ liên bang Mỹ buộc các ngân hàng trong nước phải nâng lãi suất tiền gửi đô la đồng thời duy trì mức lãi suất cho vay bằng ngoại tệ. ĐIều này gây sức ép làm tăng tỷ giá, do đó lãi suất nội tệ làm triệt tiêu ảnh hưởng của CSTT. 4. Một số nguyên nhân khác Việt nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có hàng hoá mua bán ở thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ cấp mới chỉ được hình thành và manh nha hoạt động, hàng hoá chủ yếu trên thị trường mở là tín phiếu kho bạc nhưng khối lượng phát hành còn ít và lại chưa thường xuyên. Hơn nữa, việc phối hợp giữa bộ tài chính và NHNN còn một số vấn đề bất cập. Bộ tài chính vẫn còn phát hành tín phiếu, trái phiếu trực tiếp cho công chúng, NHNN chưa có trong tay một lượng lớn chứng khoán đủ để có thể can thiệp mua bán tại thị trường mở. Các loại giấy tờ có giá khác như tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi… cũng chưa được phát hành rộng rãi. Thị trường tiền tệ mở rộng chưa thực sự ra đời vì còn thiếu rất nhiều yếu tố như quy chế hoạt động, bộ máy quản lý điều hành… Lãi suất của các loại chứng khoán là một vấn đề cần suy nghĩ. Đối với các nhà đầu tư thì lãi suất của chứng khoán Chính phủ không có sức hấp dẫn. Lãi suất tín phiếu kho bạc đang thấp hơn lãi suất tiền gửi 12 tháng của các ngân hàng, không lẽ huy động tiền gửi với lãi suất 6.5%/năm để đi mua tín phiếu với lãi suất 5.5%/năm hay 6.0%/năm. Lãi suất năm của trái phiếu kho bạc 5 năm tương đương với lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 1 năm và thấp hơn nhiều so với 10%/năm là tỷ lệ cổ tức thấp nhất mà các doanh nghiệp đảm bảo trả cho các cổ phiếu mà họ phát hành. Vậy sức thu hút ở đâu để các NHTM và các nhà đầu tư có thể thường xuyên dự trữ và giao dịch chứng khoán trên thị trường mở? Chương III: Một số giải pháp vận dụng nghiệp vụ thị trường mở I. Điều kiện vận hành nghiệp vụ thị trường mở Thời gian tới, để có thể hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở một công cụ chủ yếu trong kiểm soát tiền tệ ở các nước có nền kinh tế thị trường, chúng ta cần phải có điều kiện sau. 1. Cầu tiền tệ phải nhạy cảm với lãi suất NVTTM là một biện pháp kỹ thuật được NHTW sử dụng để can thiệp vào tổng lượng tiền tệ thông qua sự chuyển động của lãi suất trên thị trường tiền tệ. Đây là một kỹ thuật điều chỉnh lãi suất để tác động đến cung cầu tiền được các nước phát triển trên thế giới ưa dùng. NVTTM cùng với nghiệp vụ tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc tạo nên hệ thống các công cụ đIều hành gián tiếp của CSTT. Các công cụ gián tiếp với ưu điểm linh hoạt và uyển chuyển, đã tạo ra nguồn cảm hứng đối với các nhà quản lý. Nhưng khi áp dụng các công cụ này, diều kiện cần thiết là cầu tiền tệ phảI nhạy cảm với lãI suất. Vì các nghiệp vụ này đều tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ, nên nếu cầu tiền không nhạy cảm với lãi suất thì ảnh hưởng của các nghiệp vụ này đến tổng lượng tiền tệ, tín dụng trong nền kinh tế sẽ rất yếu. Chẳng hạn, khi lãi suất tăng, công chúng và các nhà doanh nghiệp phản ứng nhanh với mức lãi suất mới sẽ thu hẹp cầu tiền. Họ cắt giảm các khoản vay và làm giảm cung tiền, từ đó làm vốn khả dụng của giới ngân hàng tăng lên, các ngân hàng sẽ buộc phải thực hiện các nghiệp vụ mua trên thị trường mở. Ngược lại, khi lãi suất giảm, giới ngân hàng sẽ cho vay được nhiều và tình trạng thiếu vốn khả dụng sẽ buộc họ phải thực hiện các nghiệp vụ bán. Nếu công chúng thờ ơ với các mức lãi suất mới có nghĩa là cầu tiền không nhạy cảm với lãi suất. Trong đIều kiện này, đIều tiết bằng lãi suất sẽ không phát huy được hiệu quả. Như vậy, chỉ khi nào cầu tiền nhạy cảm với lãi suất mới phát triển được NVTTM. 2. Phải có thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển Trong khi tỷ trọng chứng khoán hoá các hoạt động nguồn và sử dụng nguồn của các tổ chức tín dụng ngày càng tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động can thiệp của NHNN thông qua mua bán các chứng chỉ nợ ngắn hạn, thì khả năng phát huy hiệu quả của hành vi này qua hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng không mấy khả quan. Thị trường ngoại tệ mặc dù tích cực hơn nhưng sự biến động mạnh kèm theo sự mất cân đối cung cầu cũng làm giảm tác động truyền dẫn những ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở. Trong điều kiện những người tham gia thị trường mở chỉ bao gồm các TCTD, kênh tác động trực tiếp thông qua nhu cầu mua bán chứng khoán của công chúng sẽ không phát huy hiệu quả. Vì thế, một thị trường tiền tệ liện ngân hàng không phát triển sẽ là một trở ngại lớn cho việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở nếu nhìn từ khía cạnh hiệu quả tác động của nó. 3. Nghiệp vụ thị trường mở phải được hỗ trợ tích cực của thị trường chứng khoán. Sự phát triển của thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng của chứng khoán trên thị trường, kích thích đầu cơ chứng khoán vừa làm thay đổi dự trữ chứng khoán của các chủ thể kinh tế vừa làm biến động vốn khả dụng của giới ngân hàng. Trong đIều kiện biến động vốn khả dụng như vậy, các ngân hàng buộc phảI tìm đến thị trường mở để duy trì khả năng thanh khoản và nghiệp vụ thị trường mở sẽ sôi động hơn. 4. Việc tái cấp vốn của NHTW cho giới ngân hàng. Việc này NHTW thường phải lựa chọn giữa một trong hai nghiệp vụ: NVTTM và NVTCK (tái cấp vốn). Cả hai nghiệp vụ này đều là các công cụ điều hành cung ứng tiền bằng lãi suất của CSTT. Nếu áp dụng cả hai công cụ này cùng lúc, chúng dễ dàng triệt tiêu nhau. Chính vì thế, để tăng tính chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ phải lựa chọn một trong hai nghiệp vụ. Để có cơ sở lựa chọn, người ta căn cứ vào ưu thế của chúng đối với việc điều hành chính sách. Việt nam, từ năm 1999 đến nay, nền kinh tế đi vào tình trạng giảm phát, mức tăng trưởng kinh tế chậm lại. Có thể nói đây là những dấu hiệu báo tính chu kỳ của nền kinh tế và điều này không nằm ngoài dự đoán của các nhà kinh tế. Trong bối cảnh này, đương nhiên các chủ thể kinh tế sẽ không nhạy cảm lắm với lãi suất. Suốt thời gian dài, lãi suất giảm mạnh nhưng đầu tư trong nền kinh tế không tăng là mấy so với những năm trước đó. Các ngân hàng đều rơi và tình trạng thừa vốn và một lượng lớn ngoại tệ được các ngân hàng trong nước đem gửi ra ngân hàng nước ngoài. Như vậy, công chúng Việt nam không nhạy cảm với lãi suất thì tất yếu NVTTM ra đời vào thời điểm này sẽ không phát huy được tác dụng. Một vấn đề nữa là từ trước đến nay, NVTCK vẫn đang là công cụ cơ bản trong đIều hành chính sách tiền tệ, giới ngân hàng đã quâ quen với việc tái cấp vốn qua nghiệp vụ này. So với NVTTM thì NVTCK dễ thự._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35439.doc
Tài liệu liên quan