Một số giải pháp hoàn thiện công tác Kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (101tr)

MỤC LỤC Lời cam đoan i Danh mục bảng biểu vi Danh mục sơ đồ vii Bảng ký hiệu viết tắt viii Danh mục tài liệu tham khảo ix Phụ lục x LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 3 1.1. Cho thuê tài chính trong nền kinh tế 3 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính 3 1.1.2. Khái niệm cho thuê tài chính 4 1.1.3. ý nghĩa của hoạt động cho thuê tài chính 5 1.1.3.1. Lợi ích đối với nền kinh tế 5

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hoàn thiện công tác Kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (101tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.1.3.2. Lợi ích đối với người cho thuê 6 1.1.3.3. Lợi ích đối với người đi thuê 7 1.1.4. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính 9 1.2. Kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 12 1.2.1. Nhiệm vụ và vai trò của kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 12 1.2.1.1. Nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 12 1.2.1.2. Vai trò của kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 13 1.2.2. Hợp đồng cho thuê tài chính là căn cứ để hạch toán quá trình cho thuê, thu hồi vốn gốc và lãi 14 1.2.3. Tài khoản và chứng từ sử dụng trong kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 15 1.2.3.1. Tài khoản sử dụng trong nghiệp vụ kế toán cho thuê tài chính 15 1.2.3.2. Chứng từ sử dụng trong kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 19 1.2.4. Phương pháp tính tiền cho thuê tài chính 19 1.2.5. Quy trình kế toán hạch toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 22 1.2.5.1. Kế toán giai đoạn mua tài sản cho thuê 22 1.2.5.2. Kế toán tiền đặt cọc và tiền ký quỹ 23 1.2.5.3. Kế toán giai đoạn bắt đầu cho thuê 23 1.2.5.4. Kế toán giai đoạn thu nợ và thu lãi 24 1.2.5.5. Kế toán giai đoạn kết thúc giao dịch cho thuê tài chính 24 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 26 2.1. Vài nét về hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 26 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 26 2.1.2. Bộ máy tổ chức quản lý, kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28 2.1.3. Hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 31 2.1.3.1. Vài nét về môi trường kinh doanh 31 2.1.3.2. Kết quả chính đạt được 33 2.1.4. Quy trình cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 39 2.2. Thực trạng công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 41 2.2.1. Tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 42 2.2.2. Tổ chức lao động kế toán tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 42 2.2.3. Kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 44 2.2.3.1. Tài khoản và chứng từ sử dụng để theo dõi hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty 44 2.2.3.2. Kế toán cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 47 2.2.3.3. Công tác báo cáo kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 50 2.3. Nhận xét, đánh giá về công tác nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 52 2.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 52 2.3.2. Những hạn chế trong công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 54 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 57 3.1. Định hướng phát triển của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 57 3.1.1. Môi trường kinh doanh của các Công ty cho thuê tài chính 57 3.1.1.1. Thực trạng môi trường pháp lý của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam 57 3.1.1.2. Yếu tố thị trường công nghệ 59 3.1.1.3. Yếu tố lãi suất 64 3.1.1.4. Tính cạnh tranh 66 3.1.1.5. Yếu tố khách hàng 67 3.1.2. Định hướng phát triển của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam 68 3.1.3. Mục tiêu hoạt động của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 69 3.2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 72 3.2.1. Giải pháp đối với tổ chức bộ máy kế toán 72 3.2.2. Giải pháp đối với kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 73 3.2.3. Một số giải pháp cho các vấn đề khác 74 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kế toán cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 75 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 75 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 77 3.3.3. Kiến nghị đối với Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 78 3.3.4. Kiến nghị đối với khách hàng của Công ty 80 KẾT LUẬN CHUNG 81 LỜI NÓI ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong quá trình đổi mới, chúng ta thừa nhận một nền sản xuất hàng hoá tồn tại nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoà chung cùng sự đổi mới đó, nhiều kênh huy động vốn trong và ngoài nước cho nền kinh tế đã ra đời, trong đó thị trường cho thuê tài chính là một trong những kênh dẫn vốn quan trọng đang được đánh giá là "một cuộc cách mạng về huy động vốn". Thực tiễn cho thấy ở những nước có nền kinh tế phát triển thì thị trường cho thuê tài chính cũng rất phát triển. Ở Việt Nam, việc ra đời và phát triển của thị trường cho thuê tài chính là một tất yếu khách quan nhằm giải quyết khó khăn thiếu vốn của các doanh nghiệp hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay, cho thuê tài chính ở nước ta vẫn còn là một hoạt động hết sức mới mẻ. Để phát triển thị trường này, cần thiết phải có nhiều giải pháp tích cực và đồng bộ từ nhiều phía để hoàn thiện nghiệp vụ cho thuê tài chính nói chung và các nghiệp vụ liên quan, trong đó nghiệp vụ kế toán cho thuê tài chính là nghiệp vụ quan trọng không thể không quan tâm. Xuất phát từ quan điểm đó, qua thời gian khảo sát thực tế tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, kết hợp với những lý thuyết được trang bị tại nhà trường, em đã lựa chọn đề tài "Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam" mà mục đích là nghiên cứu và luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn để làm sáng tỏ hơn về hoạt động kế toán cho thuê tài chính hiện nay. Trên cơ sở đó, tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Do đề tài còn mới mẻ, thời gian thực tập chỉ diễn ra trong 2 tháng, cộng thêm kiến thức lý luận còn hạn chế, nên khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính -Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; mà không đi sâu nghiên cứu về tất cả các nghiệp vụ kế toán tại Công ty. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khoá luận có sử dụng những phương pháp nghiên cứu như: suy luận lôgíc, phương pháp so sánh và thống kê… IV. KẾT CẤU CỦA KHOÁ LUẬN Tên khoá luận: "Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam". Chương I: Những vấn đề cơ bản về cho thuê tài chính và nghiệp vụ kế toán cho thuê tài chính. Chương II: Thực trạng công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Về phía chủ quan, em thấy đây là một đề tài khó do tính mới mẻ trong thực tiễn và sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên mặc dù đề tài đã hoàn thành nhưng sẽ không tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong tiếp tục nhận được sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo, các cán bộ Công ty để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Qua đây, em cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Nguyễn Hoàng Phú, các thầy cô giáo trong Khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng, tập thể cán bộ Phòng Kế toán - Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến thiết thực, bổ ích để em hoàn thành khoá luận này. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ. 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động cho thuê tài chính Cho thuê tài sản là một nghiệp vụ đã có từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Nhiều tài liệu đã chứng minh, các giao dịch thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumeria. Khi đó, tài sản được đem ra giao dịch rất phong phú: từ công cụ sản xuất nông nghiệp như súc vật kéo, đất ruộng đến nhà cửa, thiết bị. Tuy nhiên các giao dịch thuê tài sản thời này mới chỉ là các giao dịch thuê mua truyền thống với cách thức thuê như thuê hoạt động ngày nay và đã không có sự thay đổi lớn về tính chất giao dịch trong suốt hàng ngàn năm. Đến đầu thế kỷ 19, hoạt động thuê mua đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và cuộc cách mạng công nghệ, khoa học kỹ thuật, nhu cầu phải đổi mới máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp đã làm tính chất của giao dịch thuê mua thay đổi đáng kể. Biểu hiện ở sự ra đời của nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần (hay thuê tư bản) ở Mỹ. Sau đó, nghiệp vụ thuê mua này được phát triển sang châu Âu. Năm 1960 nghiệp vụ tín dụng thuê mua được ghi vào luật thuê mua của Pháp với tên gọi “Credit Bail”; đồng thời hợp đồng thuê mua đầu tiên đã được thảo ra ở Anh có giá trị 18000 bảng. Mặc dù mới ra đời chỉ khoảng nửa thế kỷ nhưng cho thuê tài chính đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về phương thức lẫn giá trị giao dịch. Cùng với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tín dụng thuê mua cũng đã ra đời và có những bước phát triển tương đối ở Châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới kể từ đầu thập niên 70. Và chắc chắn hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả đối với các bên tham gia của tín dụng thuê mua sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Với sự giúp đỡ của IMF, nghiệp vụ cho thuê tài chính được ra đời ở Việt Nam năm 1991. Sau đó, ngày 27/5/1995, Ngân hàng nhà nước ra quyết định số 149/QĐ- NH5 về việc ban hành thể lệ tín dụng thuê mua. Ngày 9/10/1995, Chính phủ đã ra nghị định số 64CP về việc ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Điều1, chương1 trong Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam chỉ rõ : “Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc – thiết bị và động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê “. 1.1.2. Khái niệm cho thuê tài chính Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận (theo nghị định 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính). Như vậy, cho thuê tài chính là tất cả các nghiệp vụ cho thuê tài sản trung, dài hạn có kèm theo quyền chọn mua. Trong khái niệm về cho thuê tài chính, các thuật ngữ liên quan được hiểu như sau: Người thuê: Là người sử dụng tài sản hay thiết bị do người cho thuê chuyển giao. Người cho thuê: Là chủ sở hữu về mặt pháp lý của tài sản hay thiết bị được dùng làm đối tượng cho thuê trong thoả thuận thuê tài sản. Tài sản thuê: Là những máy móc, thiết bị và các động sản khác đạt tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, có giá trị sử dụng hữu ích trên một năm, được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu (khoản 3, điều 2 của quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam ban hành kèm nghị định 64/CP ngày 9/10/1995). Thời hạn thuê: Là khoảng thời gian chuyển giao quyền sử dụng tài sản đã được thoả thuận trong hợp đồng, hoặc cùng với thời hạn tiếp theo đã được dự liệu, ghi rõ trong hợp đồng. Tiền thuê: Là khoản tiền bên đi thuê phải thanh toán cho bên cho thuê và ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản thuê theo thoả thuận trong hợp đồng. Quyền chọn mua: Là quyền dành cho bên thuê có thể chọn mua hoặc không mua tài sản theo mức giá tượng trưng vào thời điểm kết thúc hợp đồng cho thuê. Quyền này chỉ có hiệu lực khi có sự thoả thuận trước trong hợp đồng. 1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động cho thuê tài chính Một trong những nguyên nhân thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính phát triển mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là đối với các nền kinh tế đang phát triển là do những lợi ích mà hoạt động này đem lại cho nền kinh tế nói chung và cho các bên tham gia vào hoạt động này nói riêng. 1.1.3.1. Lợi ích đối với nền kinh tế Một, cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ có tính an toàn tương đối cao, phạm vi tài trợ tương đối rộng rãi nên khuyến khích được nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, cho thuê tài chính đã góp phần giúp các quốc gia thu hút các nguồn vốn quốc tế thông qua việc nhận các loại máy móc, thiết bị cho thuê mà không làm tăng các khoản nợ nước ngoài của quốc gia đó. Lợi ích này của cho thuê tài chính được thể hiện rõ nét đối với các nền kinh tế đang phát triển bởi việc tích luỹ vốn của các nền kinh tế này gặp rất nhiều khó khăn do hiệu quả của nền kinh tế thấp, thu nhập quốc dân chưa cao, các doanh nghiệp phần lớn thuộc loại vừa và nhỏ. Cho thuê tài chính sẽ thu hút vốn quốc tế giúp các doanh nghiệp hiện đại hoá sản xuất, tăng hiệu quả hoạt động, từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hai, cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến cho các kỹ thuật. Hoạt động cho thuê tài chính sẽ đưa các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến cho các doanh nghiệp, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong điều kiện có khó khăn về vốn đầu tư. Đối với các quốc gia phát triển, cho thuê tài chính giúp cập nhật công nghệ hiện đại cho nền kinh tế nên nó vẫn phát huy mạnh mẽ. Đối với các quốc gia đang phát triển, cho thuê tài chính càng phát huy tác dụng mạnh mẽ hơn bởi nó đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ nhanh chóng, giảm bớt sự tụt hậu về công nghệ trong thời đại bùng nổ công nghệ như hiện nay. Từ đó, giúp các quốc gia này có những bước nhảy vọt, theo kịp những nền kinh tế phát triển. 1.1.3.2. Lợi ích đối với người cho thuê Sự khác biệt của nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại nhiều lợi ích cho người cho thuê (hay nhà tài trợ) so với các nghiệp vụ tài trợ khác. Trước hết, cho thuê tài chính là hình thức tài trợ có tính an toàn cao. Lợi ích này xuất phát từ đặc điểm của cho thuê tài chính, đó là quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc bên cho thuê nên họ có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Ngoài ra khoản tiền tài trợ được sử dụng đúng mục đích mà người thuê yêu cầu và đối tượng tài trợ là tài sản hiện vật. Do đó, người cho thuê tránh được những thiệt hại do mất vốn tài trợ, cũng như hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát; đồng thời không gặp khó khăn về khả năng thanh khoản vì tiền thuê và vốn được thu hồi dựa trên hiệu quả hoạt động của tài sản. Bên cạnh đó, cho thuê tài chính còn cho phép người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh bởi vốn tài trợ được thu hồi dần trong thời gian diễn ra giao dịch thuê mua nên người cho thuê có thể thực hiện tái đầu tư vào các hoạt động sinh lợi khác. Ngoài ra, người cho thuê còn có điều kiện để đầu tư theo chiều sâu đối với kiến thức kinh tế kỹ thuật và kỹ năng nghiệp vụ tín dụng; từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của họ. 1.1.3.3. Lợi ích đối với người đi thuê Các doanh nghiệp trong nền kinh tế có thể huy động vốn trung và dài hạn từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó nguồn vốn được huy động thông qua hoạt động thuê tài chính là nguồn rất được quan tâm bởi nó đem lại cho người thuê rất nhiều lợi ích. Thứ nhất, người thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong điều kiện bị hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể phải gia tăng công suất bất kỳ lúc nào và việc đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn vốn tích luỹ lớn; nhưng thực tế, các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng gặp khó khăn rất lớn về nguồn vốn trung, dài hạn. Thông qua tín dụng thuê mua, các doanh nghiệp không cần phải có tài sản thế chấp mà vẫn có thể có được nguồn vốn trung, dài hạn để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của mình dưới dạng máy móc, thiết bị hoặc động sản khác. Thứ hai, hoạt động thuê tài chính không gây ảnh hưởng bất lợi đối với các hệ số kinh doanh của doanh nghiệp thuê. Vì tài sản thuê mua được coi như một khoản nợ phát sinh trong năm tài chính nên các hệ số phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định hay vòng quay toàn bộ vốn và lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp thuê mua cao hơn của doanh nghiệp đi vay để mua tài sản. Thứ ba, hoạt động thuê tài chính giúp các doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các định chế tài chính cũng vẫn có thể nhận được vốn tài trợ. Đặc thù của cho thuê tài chính là tính an toàn cao nên các công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi uy tín hoặc khả năng tài chính của khách hàng còn hạn chế. Thứ tư, hoạt động thuê tài chính có thể giúp doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Trong trường hợp khách hàng đã mua tài sản nhưng thiếu vốn lưu động, khách hàng có thể bán lại cho công ty CTTC sau đó thuê lại. Như vậy khách hàng vừa có vốn để hoạt động, vừa có tài sản để sử dụng. Thứ năm, thuê mua tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư, đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh do các thủ tục, cũng như các điều kiện tài trợ đơn giản hơn nhiều so với các phương thức tài trợ khác; đồng thời cách thức cung ứng thiết bị được tổ chức khép kín nên tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Thứ sáu, hoạt động thuê tài chính cho phép người thuê hiện đại hoá sản xuất, theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới. Ngày nay, các cuộc cách mạng công nghệ diễn ra thường xuyên hơn, đòi hỏi các thiết bị, máy móc phải thay đổi liên tục để theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới; từ đó tạo ra những sản phẩm có tính riêng biệt và có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường là vấn đề tất yếu phải giải quyết đối với mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thông qua hoạt động thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới và việc thay đổi thiết bị này không đem lại bất cứ rủi ro nào về mặt pháp lý, cũng như về mặt hao mòn vô hình đối với người thuê. Thứ bảy, thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp thu hút vốn nước ngoài. Hiện nay, mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn quốc tế thấp hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua việc thuê máy móc, thiết bị của các công ty thuê mua quốc tế hay các công ty thuê mua liên doanh ở Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận được vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất trên thị trường vốn bằng đồng Việt Nam. Thứ tám, thuê tài chính cho phép người thuê hoãn thuế bởi các khoản tiền thuê phải trả hàng năm được tính vào chi phí doanh nghiệp, dẫn đến giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí này. Tóm lại, cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nói chung và đối với các chủ thể tham gia vào hoạt động này nói riêng. Lợi ích mà nó mang lại được chứng minh qua sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động cho thuê tài chính trên khắp thế giới trong những thập niên qua về cả giá trị giao dịch lẫn chủng loại tài sản. Sự xuất hiện của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam là một tất yếu khách quan và với chính sách quản lý đúng đắn chắc chắn trong tương lai hoạt động này sẽ phát triển đúng với tầm vóc của nó. 1.1.4. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính Bất cứ hoạt động tài chính nào cũng cần có những tiêu chuẩn nhận dạng cụ thể, rõ ràng với một hệ thống tiêu chuẩn chính xác để có thể phân biệt các hoạt động tài chính với nhau, từ đó tránh được sự trùng lặp, mâu thuẫn của các văn bản pháp quy. Tuy nhiên, khi nói đến đặc điểm của cho thuê tài chính thì vẫn chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia, cũng như giữa các tổ chức quốc tế. Dưới đây là một số nhóm đặc điểm mà các nước, các tổ chức đưa ra để nhận biết hoạt động cho thuê tài chính. Thứ nhất, theo Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC), một nghiệp vụ được xem là cho thuê tài chính khi thoả mãn một trong bốn điều kiện sau: + Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hợp đồng hết hạn. + Hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản khi hợp đồng hết hạn. + Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản. + Hiện giá thuần của các khoản thuê bằng hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản. Những giao dịch thuê tài sản nếu không thoả mãn một trong bốn điều kiện này đều thuộc phương thức thuê hoạt động. Thứ hai, theo Hiệp định thống nhất luật dân sự về Tín dụng thuê mua quốc tế do Hiệp hội tín dụng thuê mua quốc tế thoả thuận ngày 26/05/1988 tại Ottawa- Canada thì: Cho thuê tài chính bao gồm các đặc điểm sau: + Người thuê chỉ rõ thiết bị và lựa chọn nhà cung cấp, không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của người cho thuê. + Thiết bị được đề cập trong thoả thuận thuê mua do người cho thuê mua theo thoả thuận giữa người cho thuê và người thuê trong tình trạng mà người thuê đã biết rõ về nhà cung cấp. + Những khoản tiền thuê phải trả theo thoả thuận của hợp đồng thuê mua và được tính theo phương thức trả dần hay trả ngay một phần đáng kể chi phí mua thiết bị. Thứ ba, theo tiêu chuẩn của Uỷ ban kế toán Hoa Kỳ thì hoạt động cho thuê tài chính phải thoả mãn những điều kiện sau: + Quyền sở hữu tài sản được chuyển cho người đi thuê khi chấm dứt hợp thuê. + Hợp đồng thuê cho phép người đi thuê được quyền chọn mua tài sản thuê với giá thấp hơn ở một thời điểm nào đó hay đến khi chấm dứt thời hạn thuê. + Thời hạn thuê phải bằng hoặc lớn hơn 75% thời gian hoạt động ước tính của tài sản thuê. + Giá trị hiện tại của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% so với giá trị tài sản thuê. Các nhóm đặc điểm trên cho thấy: Tuỳ vào tình hình cụ thể của từng quốc gia mà những nhà làm chính sách có một số thay đổi liên quan đến đặc điểm của cho thuê tài chính. Chẳng hạn, một số nước quy định thời gian tối thiểu của hợp đồng thuê mua là 2– 3 năm, nhưng lại có nước quy định thời gian lên tới 100% thời gian hữu ích của tài sản. Trong khi nhiều quốc gia khác lại khá linh hoạt, điển hình là Luật số 3462 ra ngày 27/12/1991 của Hàn Quốc quy định: thời hạn thuê tối thiểu là 60% đời sống hữu ích của tài sản ; còn nếu tài sản có đời sống hữu ích thì thời hạn đó là 70%. Còn Việt Nam, tại điều 3 trong quy chế tạm thời về Tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ban hành kèm theo Nghị định số 64/CP ngày 09/10/1995 của chính phủ đã quy định: Một giao dịch cho thuê tài chính phải thoả mãn một trong những điều kiện sau: + Khi kết thúc thời hạn thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận của hai bên. + Nội dung của hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thục tế của tài sản thuê tại thời điểm mua. + Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. + Tổng số tiền thuê một loại tài sản, quy định tại hợp đồng thuê ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Như vậy, mặc dù có một số điểm khác nhau nhưng các đặc điểm trên của cho thuê tài chính đều đề cập đến các điểm mấu chốt như: thời hạn thuê, tổng tiền thuê, quyền chọn mua và sự chuyển quyền sở hữu bởi đó chính là sự khác biệt của cho thuê tài chính với các nghiệp vụ tài chính khác như: dịch vụ trả góp, cho vay trung, dài hạn, cho thuê hoạt động. Tóm lại, nghiệp vụ cho thuê tài chính có các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, hợp đồng cho thuê có tài chính có bao hàm quyền mua lại tài sản với giá danh nghĩa vào cuối kỳ thuê. Thứ hai, bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu cho bên đi thuê khi kết thúc thời hạn hợp đồng thuê nếu tổng giá trị các khoản tiền thuê được hiện tại hoá tương đương hoặc cao hơn giá trị của tài sản (ở đây có thể coi là giá thị trường). Thứ ba, mục đích của việc cho thuê là nhằm vào việc sản xuất kinh doanh (mang tính nghề nghiệp). Thứ tư, thời hạn của hợp đồng cho thuê phải có tỷ lệ tương đương với thời gian sử dụng của tài sản và phải đảm bảo lớn hơn một năm. Thứ năm, bên thuê phải được thực hiện khấu hao nhanh và phù hợp với tiến độ trả tiền thuê nếu bên thuê hạch toán nội bảng. Nghĩa là bên thuê được coi tài sản thuê như là một tài sản cố định hình thành từ nguồn vốn thuê mua. 1.2. KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH. Theo thông lệ, các quốc gia thường áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế 1991/1992 được IASC công bố và có hiệu lực từ ngày 01/01/1991 cho các hoạt động thuê mua. Tuy nhiên, việc hạch toán cụ thể trong từng quốc gia lại có những khác biệt nhất định. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do các quy tắc hạch toán thuê mua được căn cứ vào quyền sở hữu pháp lý hay căn cứ vào quyền sử dụng. Như đã nghiên cứu ở trên, đứng ở góc độ tín dụng, cho thuê tài chính là loại hình tín dụng trung, dài hạn thông thường nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về tài chính (vốn để đầu tư tài sản cố định). Vì thế, các công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng trong quá trình hoạt động phải đảm bảo hai mặt: Một mặt, phải đảm bảo quy trình nghiệp vụ của loại tín dụng “đặc thù” này, mặt khác phải tuân thủ quy chế tín dụng, kỹ thuật kế toán cho vay nói chung của Ngân hàng thương mại. Như vậy, tài sản thuê mua được “vốn hoá” vào trong hoạt động kinh doanh của người thuê. Người cho thuê áp dụng nguyên tắc kế toán tài chính không khấu hao và không đưa vào bảng tổng kết tài sản; tiền phí thuê thu về được hạch toán như các khoản thu tài trợ vốn khác. Còn người thuê đưa tài sản thuê vào bảng tổng kết tài sản và bắt đầu khấu hao tài sản này từ thời điểm hợp đồng thuê có hiệu lực. 1.2.1. Nhiệm vụ và vai trò của kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 1.2.1.1. Nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính Kế toán cho thuê tài chính là công việc tính toán, ghi chép bằng con số một cách kịp thời, đầy đủ, trung thực tất cả cácgiai đoạn trong quá trình cho thuê tài chính. Cùng với công tác kế toán các hoạt động khác, kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tham gia trực tiếp vào quá trình kinh doanh của công ty cho thuê tài chính. Vì vậy, kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính có những nhiệm vụ quan trọng sau: Một, kế toán cho thuê tài chính thực hiện việc ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ và chính xác các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình cho thuê tài chính theo đúng chế độ, quy định của Nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở đó đảm bảo an toàn vốn cho Công ty cho thuê tài chính. Hai, kế toán cho thuê tài chính phải thực hiện tính lãi một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời để đảm bảo thu nhập của công ty cho thuê tài chính. Ba, kế toán cho thuê tài chính phải quản lý toàn bộ hồ sơ cho thuê và theo dõi chặt chẽ kỳ hạn trả nợ để thu hồi vốn kịp thời và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời, cùng với kế toán các nghiệp vụ khác như: kế toán chi phí, kế toán giá phí, kế toán cho thuê tài chính góp phần tăng cường kỷ luật tài chính và chế độ hạch toán kinh tế. Bốn, kế toán cho thuê tài chính phải tiến hành phân loại, tổng hợp số liệu theo các chỉ tiêu một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời nhất để phục vụ cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Ban lãnh đạo Công ty, cũng như cho việc thực thi các chế độ, các chính sách của cơ quan quản lý Nhà nước diễn ra một cách tốt nhất. 1.2.1.2. Vai trò của kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính. Với chức năng phản ánh mọi thông tin kinh tế, tài chính một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế, tài chính, công tác kế toán ngân hàng nói chung và công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính nói riêng có những vai trò sau: Thứ nhất, kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời nhất về hoạt động kinh doanh. Từ đó, giúp cho quá trình điều hành, quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính đạt hiệu quả cao nhất. Thứ hai, kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính phản ánh được toàn bộ giá trị và chủng loại tài sản hiện có của Công ty, cũng như quá trình vận động của tài sản; qua đó góp phần quản lý an toàn tài sản trên cả hai mặt chất lượng và số lượng. Thứ ba, kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính phản ánh được toàn bộ hoạt động tài chính, các khoản thu – chi, cũng như kết quả kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính. Qua đó, giúp công tác quản lý hoạt động cho thuê tài chính đạt hiệu quả cao bằng cách tăng thu nhập và giảm chi phí, đảm bảo kinh doanh có lãi. Thứ tư, xuất phát từ đặc điểm của kế toán là mang tính tổng hợp cao, cho nên kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính cùng với kế toán các nghiệp vụ khác còn có vai trò cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác nhằm phục vụ cho các hoạt động quan trọng của Công ty cho thuê tài chính như: hoạt động thanh tra, kiểm soát, kiểm toán và phân tích hoạt động cho thuê tài chính. 1.2.2. Hợp đồng cho thuê tài chính là căn cứ để hạch toán quá trình cho thuê, thu hồi vốn gốc và lãi Hợp đồng cho thuê tài chính là căn cứ quan trọng nhất để hạch toán giá trị tài._. sản cho thuê tài chính và hạch toán quá trình thu hồi vốn gốc và thu lãi cho thuê tài chính. Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả thuận giữa bên cho thuê và bên đi thuê về việc cho thuê một hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Hợp đồng cho thuê tài chính phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật và là loại hợp đồng không được phép huỷ ngang, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Trước khi hợp đồng cho thuê tài chính có hiệu lực, các bên tham gia phải tiến hành đăng ký tại cơ quan quản lý hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tuỳ theo đặc điểm pháp lý và điều kiện riêng của từng quốc gia, hợp đồng cho thuê tài chính sẽ có những khác biệt nhất định; nhưng về mặt nguyên tắc, các hợp đồng cho thuê tài chính đều phải đảm bảo những nội dung cơ bản và những diều khoản, điều kiện đảm bảo như sau: + Số hợp đồng, ngày – tháng – năm ký hợp đồng. + Thông tin về nhà cung cấp. + Các bên tham gia thoả thuận hợp đồng. + Đối tượng của thoả thuận: chủng loại, chất lượng, giá trị... của tài sản. + Địa điểm lắp đặt thiết bị hoặc nơi vận hành. + Thời hạn cho thuê. + Mức phí thuê. + Phương thức thanh toán. + Thời gian khấu hao. + Những cam kết và đảm bảo. + Dự liệu cách giải quyết bất trắc. + Các điều khoản kết thúc hợp đồng. + Các điều khoản thi hành: Ngày hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ của các bên tham gia. Không những là chứng từ quan trọng dùng làm căn cứ cho công tác hạch toán nghiệp vụ cho thuê tài chính, hợp đồng cho thuê tài chính còn là căn cứ có giá trị pháp lý quan trọng nhất để các cơ quan luật pháp tiến hành xử lý tranh chấp trong trường hợp xảy ra tranh chấp và phải đưa ra giải quyết trước pháp luật. 1.2.3. Tài khoản và chứng từ sử dụng trong kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính 1.2.3.1. Tài khoản sử dụng trong nghiệp vụ kế toán cho thuê tài chính Theo quy định của IASC trong Văn bản các tiêu chuẩn kế toán quốc tế số 17, hoạt động thuê mua phải được đưa vào bảng Tổng kết tài sản của người thuê. Việc hạch toán các giao dịch thuê mua vào bảng tổng kết tài sản của người thuê thể hiện tài sản thuê mua được coi như những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ vay nợ. Vì thế, giá trị của tài sản thuê được coi như một khoản nợ. Riêng ở Việt Nam, các công ty CTTC sử dụng hệ thống tài khoản áp dụng cho tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 435/1998/QĐ-NHNN2 để hạch toán, theo dõi các hoạt động cho thuê tài chính. Theo hệ thống tài khoản này, nghiệp vụ cho thuê tài chính được hạch toán, theo dõi ở tài khoản nội bảng cấp một 23 “Cho thuê tài chính”. Nội dung hạch toán tài khoản này như sau: * Tài khoản 231- Cho thuê tài chính bằng đồng Việt Nam. - Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị tài sản cho thuê tài chính bằng đồng Việt Nam, khách hàng đang thuê theo hợp đồng và phần giá trị tài sản cho thuê tài chính được Công ty CTTC đánh giá là có khả năng trả đúng hạn và đầy đủ khi đến hạn trả mới. Bên nợ ghi: Giá trị tài sản giao cho khách hàng thuê tài chính theo hợp đồng. Bên có ghi: Giá trị tài sản cho thuê tài chính được thu hồi khi khách hàng trả tiền theo hợp đồng. Số dư nợ: Phản ánh giá trị tài sản giao cho khách hàng thuê tài chính đang nợ trong hạn. Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết theo từng khách hàng thuê tài chính. * Tài khoản 231 có các tài khoản cấp III sau: 2311: Nợ cho vay trong hạn và đã được gia hạn nợ. 2312: Nợ quá hạn đến 180 ngày, có khả năng thu hồi. 2313: Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi. 2318: Nợ khó đòi. * Tài khoản 232- Cho thuê tài chính bằng ngoại tệ. Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị tài sản cho thuê tài chính bằng ngoại tệ, khách hàng đang thuê theo hợp đồng và phần giá trị tài sản cho thuê tài chính được Công ty CTTC đánh giá là có khả năng trả đúng hạn, đầy đủ khi đến hạn trả mới. Nội dung hạch toán của tài chính khoản 232 giống như nội dung hạch toán tài khoản 231. * Tài khoản 233: Đầu tư bằng đồng Việt Nam vào các thiết bị cho thuê tài chính. Tài khoản này dùng để phản ánh số tiền đồng Việt Nam Công ty CTTC đang chi ra để mua sắm tài sản cho thuê tài chính trong thời gian trước khi bắt đầu cho thuê tài chính (ghi trong hợp đồng CTTC). Bên nợ ghi: Số tiền chi ra để mua tài sản cho thuê tài chính. Bên có ghi: Giá trị tài sản chuyển sang cho thuê tài chính. Số dư nợ: Phản ánh số tiền đang chi ra mua tài sản CTTC chưa chuyển sang CTTC. * Tài khoản 234: Đầu tư bằng ngoại tệ vào các thiết bị CTTC. Tài khoản này dùng để phản ánh số ngoại tệ Công ty CTTC đang chi ra để mua sắm tài sản CTTC trong thời gian trước khi bắt đầu CTTC (ghi trong hợp đồng CTTC). Nội dung hạch toán khoản 234 giống như nội dung hạch toán tài khoản 233. * Tài khoản 237 - Lãi cho thuê tài chính tính trước. Tài khoản này dùng để phản ánh số lãi (dự thu) cộng dồn tính trên việc cho thuê tài chính mà Công ty CTTC sẽ được nhận khi hết hạn. Bên nợ ghi: Số tiền lãi tính cộng dồn. Bên có ghi: Số tiền lãi khách hàng thuê tài chính trả. Số dự nợ: Phản ánh số lãi CTTC mà Công ty CTTC chưa được thanh toán. Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết theo từng loại tài sản hay hợp đồng cho thuê tài chính. * Tài khoản 239: Dự phòng phải thu khó đòi. Tài khoản này dùng để phản ánh việc Tổ chức tín dụng lập dự phòng và xử lý các khoản dự phòng về các khoản cho thuê tài chính đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân và có khả năng không đòi được vào cuối niên độ kế toán. * Tài khoản 703: Thu từ nghiệp vụ cho thuê tài chính. Tài khoản này dùng để phản ánh thu nhập của Công ty CTTC từ hoạt động CTTC. * Tài khoản ngoại bảng. Tài sản dùng để CTTC theo quy định không được hạch toán vào bảng tổng kết tài sản của Công ty CTTC nhưng thực chất vẫn thuộc quyền sở hữu của Công ty CTTC nên được theo dõi ở tài khoản ngoại bảng sau: - Tài khoản 951: Tài sản dùng để CTTC đang quản lý tại Công ty. Tài khoản này dùng để phản ánh các tài sản dùng để CTTC đang quản lý tại các Công ty CTTC. Giá trị tài sản được theo dõi theo giá mua ban đầu. Bên nhập ghi: Giá trị tài sản dùng để cho thuê tài chính nhận về Công ty CTTC quản lý. Bên xuất ghi: Giá trị tài sản dùng để cho thuê tài chính quản lý tại Công ty CTTC được xử lý. Số còn lại: Phản ảnh giá trị tài sản dùng để CTTC đang quản lý tại Công ty CTTC. Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết theo từng tài sản dùng để cho thuê tài chính. Ngoài sổ tài khoản chi tiết, công ty CTTC mở sổ theo dõi chi tiết từng khách hàng thuê tài sản. - Tài khoản 952: Tài sản dùng để cho thuê tài chính đang giao cho khách hàng thuê. Tài khoản này dùng để phản ánh các tài sản dùng để CTTC đang giao cho khách hàng thuê. Giá trị tài sản được theo dõi theo giá mua ban đầu. Bên nhập ghi: Giá trị tài sản dùng để CTTC giao cho khách hàng thuê. Bên xuất ghi: Giá trị tài sản dùng để CTTC giao cho khách hàng thuê được xử lý hoặc nhận về Công ty. Số còn lại: Phản ánh giá trị tài sản dùng để CTTC đang giao cho khách hàng thuê. Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết theo từng tài sản dùng để CTTC. Ngoài sổ tài khoản chi tiết, công ty CTTC mở sổ theo dõi chi tiết từng khách thuê tài sản. 1.2.3.2. Chứng từ sử dụng trong kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính Ngoài các chứng từ ghi sổ thông thường dùng trong kế toán tín dụng, còn sử dụng các chứng từ gốc chuyên dùng cho nghiệp vụ cho thuê tài chính như: - Hợp đồng CTTC. - Hoá đơn dịch vụ CTTC (mẫu theo phụ lục đính kèm). - Hoá đơn mua tài sản để CTTC gồm: hoá đơn mua hàng trong nước và hoá đơn hàng nhập khẩu. - Hoá đơn thuế giá trị gia tăng, hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của hàng nhập khẩu theo quy định hiện hành. - Bộ hoá đơn nguồn gốc tài sản. 1.2.4. Phương pháp tính tiền cho thuê tài chính Số tiền thuê được trả mỗi kỳ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, giá trị tài sản thuê, thời hạn thuê, lãi suất thuê mua, kỳ hạn nợ, thời điểm thanh toán nợ… Trong thực tế, có rất nhiều phương pháp tính tiền CTTC, dưới đây là một số phương pháp hay được sử dụng. Gọi P là tổng số tiền tài trợ. a là niên kim cố định. i là lãi suất. n là số kì hạn trả nợ. Q là tiền vốn được thu hồi. V là giá trị tài sản khi kết thúc hợp đồng. * Phương pháp 1: Tiền thuê trả vào cuối mỗi kỳ, trả theo niên kim cố định. Tổng số tiền tài trợ là: P = A + A + …+ a (1 + i) (1 + i)2 (1 + i)n Số tiền thanh toán mỗi kỳ là: a = P.i.(1 + i)n (1 + i)n - 1 * Phương pháp 2: Tiền thuê trả vào đầu mỗi kỳ, niên kim cố định tổng số tiền tài trợ là: P = a + a + A + …+ a (1 + i) (1 + i)2 (1 + i)n ÞP = a[(1 + i)n+1- 1] i(1 + i)n Số tiền thanh toán mỗi kỳ là: a = P.i.(1 + i)n (1 + i)n + 1 - 1 * Phương pháp 3: Phương pháp tính tiền thuê với số vốn gốc được thu hồi đều nhau, cuối mỗi kỳ. Tiền vốn được thu hồi mỗi kỳ là: Q = P/n Tiền lãi mỗi kỳ là: I = Q.i P = Q. (1 + i) n * Phương pháp 4: Thu tiền thuê theo niên kim cố định cuối kỳ, có giá bán ấn định khi kết thúc hợp đồng. Gọi V: giá trị tài sản khi kết thúc hợp đồng. Tổng số tiền tài trợ là: P = a + A + …+ a + V (1 + i) (1 + i)2 (1 + i)n (1 + i)n P = a (1 + i)n - 1 + V i(1 + i)n (1 + i)n Giá trị mỗi niên kim là: a = P - V .i (1 + i)n (1 +i)n (1 + i)n- 1 a = P (1 + i)n - V.i (1 + i)n - 1 * Phương pháp 5: Tính tiền thuê theo niên kim cố định, đầu kỳ, có giá trị bán ấn định khi kết thúc hợp đồng. Tổng số tiền tài trợ là: P = a + A + A + …+ a + V (1 + i) (1 + i)2 (1 + i)n (1 + i)n P = a(1 + i)n+ 1 - a + V i(1 + i)n (1 + i)n Giá trị mỗi niên kim là: a = P - V .i (1 + i)n (1 +i)n (1 + i)n + 1- 1 a = P (1 + i)n - V .i (1 + i)n +1- 1 Đây là những phương pháp tính tiền thuê được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có những phương pháp tính tiền thuê khác được phát triển dựa trên những phương pháp trên hoặc phương pháp tính dùng riêng cho những hợp đồng CTTC đặc biệt như: tính tiền thuê tăng (giảm) tuyến tính, thu tiền cuối (đầu) kỳ, tính tiền thuê với tỷ lệ khấu hao nhanh, với lãi suất thả nổi hoặc cố định… 1.2.5. Quy trình kế toán hạch toán nghiệp vụ cho thuê tài chính Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Vì thế, hạch toán nghiệp vụ CTTC của Công ty CTTC có đặc điểm như hạch toán. Bên cạnh đó, mặc dù tài sản CTTC thuộc quyền sở hữu của Công ty CTTC nhưng Công ty không trích khấu hao hoặc phân bổ giá trị tài sản vào chi phí kinh doanh của Công ty, mà giá trị tài sản được thu hồi dần thông qua tiền thuê do bên thuê trả. Ngoài ra, Công ty CTTC được thu một số lãi về CTTC. Số lãi này được tính và được hạch toán riêng với số vốn gốc về CTTC. 1.2.5.1. Kế toán giai đoạn mua tài sản cho thuê Tài sản dùng để CTTC có thể do Công ty CTTC mua về để cho thuê, cũng có thể dùng tài sản của công ty để cho thuê. Tuy nhiên, các công ty CTTC thường mua tài sản theo đơn đặt hàng của khách hàng, sau đó cho khách hàng thuê. Vì thế, khi công ty mua tài sản để cho thuê, kế toán sẽ tiến hành ghi bút toán phản ánh số tiền chi ra để mua tài sản như sau: Nợ: TK “Đầu tư vào các thiết bị CTTC” (SH 233, 234). Có: TK thích hợp (TK tiền mặt hoặc TK tiền gửi người cung cấp). Nếu tài sản mua về nhưng chưa giao ngay cho bên thuê, Công ty CTTC phải tạm thời quản lý thì số tài sản này phải được theo dõi ở tài khoản ngoại bảng 951: Ghi Nhập: TK “Tài sản dùng để CTTC đang quản lý tại công ty”(SH 951). 1.2.5.2. Kế toán tiền đặt cọc và tiền ký quỹ Nhằm đảm bảo an toàn hoạt động, Công ty CTTC có thể yêu cầu bên thuê đặt cọc và lưu ký một số tiền nhất định theo sự thoả thuận giữa đôi bên. Khi khách hàng thuê ký quỹ để thuê tài sản của công ty CTTC, kế toán hạch toán: Nợ: TK thích hợp (TK tiền mặt hoặc tài khoản tiền gửi của bên thuê): Số tiền ký quỹ. Có: TK ký quỹ đảm bảo thuê tài chính (TK4667): Số tiền ký quỹ. 1.2.5.3. Kế toán giai đoạn bắt đầu cho thuê Khi công ty CTTC cho khách hàng thuê (giao tài sản cho khách hàng), kế toán căn cứ vào hợp đồng CTTC và các loại giấy tờ khác để hạch toán giá trị tài sản thuê tài chính vào tài khoản CTTC, cũng như để theo dõi tài sản đã cho thuê bằng các bút toán sau: Nợ: TK "Ký quỹ dùng để cho thuê tài chính" (TK 4667). Có: TK Thích hợp (TK tiền mặt hoặc TK tiền gửi của bên thuê). Xuất: TK “Tài sản dùng để cho thuê tài chính đang quản lý tại công ty” (SH951). Nhập: TK “Tài sản dùng để cho thuê tài chính đang giao cho khách hàng thuê” (SH 952). Nợ: TK “Cho thuê tài sản tài chính” (SH 231, 232) Có: TK “Đầu tư vào thiết bị CTTC” (SH 233, 234). Trên đây là những bút toán mà kế toán nghiệp vụ CTTC thực hiện khi giao tài sản cho khách hàng thuê trong trường hợp giá mua tài sản bằng giá cho thuê tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp giá mua tài sản và giá thuê tài sản chênh lệch nhau thì phần chênh lệch này được đưa vào tài khoản “Thu khác về hoạt động tín dụng” (SH 709) nếu giá mua nhỏ hơn giá cho thuê; và phần chêch lệch này được đưa vào tài khoản “Chi phí khác về hoạt động tín dụng” (SH 809). Hàng tháng công ty tiến hành tính lãi dự thu từ khách hàng thuê, số lãi này được đưa vào thu từ nghiệp vụ CTTC: Nợ: TK “Lãi cho thuê tài chính tính trước” (SH 237). Có: TK “Thu từ nghiệp vụ cho thuê tài chính” (SH 703). 1.2.5.4. Kế toán giai đoạn thu nợ và thu lãi Công ty CTTC thu nợ và thu lãi trên cơ sở kỳ hạn thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng CTTC. * Đến kỳ hạn trả tiền thuê và tiền lãi, bên thuê sẽ phải chủ động trả cả tiền thuê tài chính và tiền lãi cho Công ty cho thuê bằng cách: nộp tiền mặt hoặc trích tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại Ngân hàng để chuyển cho Công ty CTTC. Khi thu tiền thuê và tiền lãi, kế toán sẽ hạch toán như sau: Nợ: TK thích hợp: Gốc cộng lãi. Có: TK “Lãi cho thuê tài chính tính trước” (SH 237): Lãi CTTC Có: TK “Cho thuê tài chính” (SH 231, 232): Trả một phần hoặc toàn bộ gốc. 1.2.5.5. Kế toán giai đoạn kết thúc giao dịch cho thuê tài chính * Khi thu hết giá trị tài sản CTTC hoặc khi kết thúc hợp đồng CTTC: + Nếu khách hàng mua lại tài sản thì kế toán sẽ hạch toán Xuất: TK “Tài sản dùng để cho thuê tài chính đang giao cho khách hàng thuê” (SH 952). Nợ: TK thích hợp. Có: TK “Thu khác về hoạt động tín dụng” (SH 709). + Nếu khách hàng trả lại tài sản cho công ty, kế toán ghi: Xuất: TK “Tài sản dùng để CTTC đang giao cho khách hàng thuê” (SH 952). Nhập: TK “Tài sản dùng để CTTC đang quản lý tại công ty” (SH 951). + Nếu gia hạn cho thuê theo thoả thuận thì công ty CTTC Căn cứ vào số tiền bên thuê trả thêm để hạch toán: Nợ: TK thích hợp. Có: TK “Thu từ nghiệp vụ CTTC” (SH 703). * Khi hợp đồng cho thuê chấm dứt trước thời hạn thì tuỳ theo nguyên nhân dẫn tới việc chấm dứt hợp đồng, kế toán sẽ tiến hành hạch toán một cách phù hợp. Nếu bên thuê vi phạm hợp đồng hoặc tài sản CTTC bị hỏng, bị mất dẫn đến chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Nhập: TK “tài sản dùng để CTTC đang quản lý tại công ty” (SH 951). + Khi thu hồi tài sản trong trường hợp bên thuê vi phạm hợp đồng, kế toán hạch toán. Xuất: TK” Tài sản dùng để CTTC đang giao cho khách hàng thuê” (SH 952). Sau đó, tuỳ theo hình thức xử lý tài sản CTTC mà hạch toán cho phù hợp. + Trong trường hợp tài sản bị hỏng hoặc bị mất, kế toán hạch toán: Xuất: TK “Tài sản dùng để CTTC đang giao cho khách hàng thuê”(SH 952). Số vốn gốc còn lại, bên thuê phải thanh toán theo hợp đồng và được hạch toán chuyển sang TK nợ quá hạn thích hợp. Thời gian quá hạn được tính từ lúc chấm dứt hợp đồng trước hạn. Số lãi được hạch toán vào tài khoản ngoại bảng “Lãi cho vay chưa thu được” (SH 941, 942). Đồng thời, khi nhận được các khoản bồi thường mà bên thuê phải trả, kế toán hạch toán. Nợ: TK thích hợp. Có: TK “Thu từ nghiệp vụ CTTC” (SH 703). * Khi công ty không thu được đầy đủ nợ khi hết hạn thì kế toán hạch toán như sau: Nợ: TK “Nợ quá hạn” (SH 2312, 2322). Có: TK “Nợ cho vay trong hạn và đã được gia hạn nợ” (SH 2311, 2321). Và nâng cấp dần đến TK “Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi” (SH 2313, 2323) hoặc TK “Nợ khó đòi” (SH 2318, 2328) nếu vẫn không thu được. Tuy nhiên, khi chuyển sang nợ khó đòi thì công ty phải lấy từ quỹ dự phòng để bù đắp. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CHO THUÊ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Công ty CTTC là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, có tư cách pháp nhân, hoạt động chủ yếu là cho thuê tài chính. Công ty CTTC được thành lập và hoạt động ở Việt Nam dưới các hình thức sau: Công ty CTTC Nhà nước. Công ty CTTC cổ phần. Công ty CTTC trực thuộc tổ chức tín dụng. Công ty CTTC liên doanh. Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài. Công ty CTTC Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là loại hình Công ty cho thuê tài chính trực thuộc Tổ chức tín dụng là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, là đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, là một pháp nhân Việt Nam do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu theo quy định của NHNN và các quy định của pháp luật. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Công ty CTTC – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo quyết định số 108/1998/QĐ NHNN 5 ngày 25 tháng 03 năm 1998 của Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước. Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt Nam: Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tên gọi bằng tiếng Anh: Vietnam commercial Bank financial Leasing Company. Tên viết tắt bằng tiếng Anh: VCB – LEACO. Địa chỉ trụ sở chính: Số 10 – Thiền Quang – Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Vốn điều lệ được cấp khi thành lập là: 55 tỷ. Một mốc lớn trong quá trình phát triển của công ty là: Tháng 03/2001, theo quyết định số 246/QĐ- NHNN ngày 29/03/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước, Công ty CTTC Việt Nam (Vinalease) liên doanh giữa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với hai đối tác Nhật Bản, đã sáp nhập với Công ty CTTC – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với việc tiếp nhận toàn bộ dư nợ (1,3 triệu USD) cùng với các cán bộ của Vinalease. Sau khi sáp nhập, vốn điều lệ của Công ty (VCB Leaco) đã được bổ sung lên thành 75 tỷ đồng. Theo điều lệ của Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Công ty hoạt động theo một số nội dung chủ yếu sau : * Hoạt động huy động vốn: Công ty được huy động vốn từ các nguồn sau: - Được vay vốn của các tổ chức tín dụng trong nước. - Được vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài. - Được phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. * Hoạt động cho thuê tài chính : Đây là hoạt động chính của Công ty. Hoạt động huy động vốn cũng nhằm mục đích tạo nguồn vốn cho các hoạt động CTTC; đồng thời Công ty phải căn cứ vào hoạt động CTTC của mình để xây dựng kế hoạch huy dộng vốn. Hoạt động CTTC của Công ty được thực hiện dưới hình thức cho khách hàng thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên đi thuê, sau đó giao cho bên đi thuê theo hợp đồng cho thuê tài chính. Ngoài khách hàng là các doanh nghiệp trong nền kinh tế, Công ty còn cho thuê đối với các chi nhánh thuộc hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. * Bên cạnh hoạt động chính là cho thuê tài chính, Công ty còn thực hiện hoạt động tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những dịch vụ có liên quan đến nghiệp vụ CTTC, hoặc mua, nhập khẩu trực tiếp tài sản thuê theo yêu cầu của bên đi thuê, hoặc tái xuất tài sản thuê trong trường hợp thu hồi tài sản thuê khi hợp đồng CTTC chấm dứt trước hạn. Như vậy, thực chất đây chính là cách thức thực hiện việc mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác thông qua việc nhập khẩu, đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp tài sản thế chấp, cầm cố đã chuyển thành tài sản do công ty quản lý sử dụng hay kinh doanh theo các quy định của pháp luật. Ngoài ra, Công ty còn thực hiện các nghiệp vụ khác khi được Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng của Nhà nước cho phép và phù hợp với quy định của pháp luật. Các nghiệp vụ này có thể là : hùn vốn kinh doanh hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Vì thế, mặc dù đây là một trong số ít Công ty hoạt động trong lĩnh vực còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam đối với cả Ngân hàng thương mại và đặc biệt là đối với khách hàng, nhưng Công ty đã đạt được những bước tiến đáng kể trên thị trường. Và với phương châm hoạt động đúng đắn, cùng sự quan tâm, chỉ đạo tận tình của các cấp lãnh đạo và sự tìm tòi sáng tạo, cố gắng khắc phục những khó khăn, trở ngại trong quá trình hoạt động, chắc chắn Công ty CTTC – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ ngày một phát triển hơn. 2.1.2 Bộ máy tổ chức quản lý, kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Để có thể đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường Công ty CTTC – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải thực hiện tốt tất cả các khâu, trong đó khâu tổ chức quản lý là một trong những khâu quan trọng, có tính quyết định nhất. Nhận thức được điều đó, mặc dù mới được thành lập và hoạt động với số lượng nhân viên còn ít, Công ty CTTC– Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã có sự quan tâm đúng mức đối với công tác tổ chức quản lý và sắp xếp lao động phù hợp với đặc điểm tổ chức và đặc điểm hoạt động của Công ty. Hiện nay bộ máy tổ chức của Công ty có thể được trình bày theo sơ đồ như sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam GIÁM ĐỐC Phòng Kinh doanh Hội sở chính Phòng Giám đốc Phòng Kế toán Phòng Tổng hợp Phòng Kiểm tra - Kiểm toán nội bộ Nguồn: Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ được giao, Công ty còn ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy trình nghiệp vụ cần thiết trong phạm vi hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các đơn vị thành viên khác thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Là một đơn vị thành viên của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Công ty chịu sự quản lý toàn diện của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về chiến lược phát triển, về tổ chức và nhân sự, nội dung và phạm vi hoạt động. Với các chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các đơn vị thành viên khác của ngân hàng như: Sở giao dịch, Công ty chứng khoán… Công ty cũng có mối quan hệ chặt chẽ trên cơ sở: - Hợp tác, bình đẳng trong các hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. - Phối hợp cùng thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giao. Mối quan hệ của Công ty CTTC với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các đơn vị thành viên khác thuộc Ngân hàng được trình bày theo sơ đồ 2 : Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa Công ty và đơn vị thành viên thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Các phòng chức năng tại Hội Sở chính ngân hàng Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Các đơn vị thành viên trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Nguồn: Công ty CTTC- Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy tổ chức, kinh doanh của Công ty được thể hiện rõ nét trong quy trình của nghiệp vụ cho thuê tài chính hiện nay của Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 2.1.3 Hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.1.3.1 Vài nét về môi trường kinh doanh * Thuận lợi. Những thành tựu to lớn của hơn 10 năm đổi mới ở Việt Nam đã tạo đà cho sự phát triển của ngành ngân hàng nói chung, của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng và đặc biệt là sự ra đời và phát triển của Công ty CTTC - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và xử lý nợ tồn đọng trong ngành ngân hàng đang diễn ra mạnh và đã có những bước tiến quan trọng. Hành lang pháp lý dần được cải thiện, tạo điều kiện tốt cho nghiệp vụ cho thuê tài chính phát triển. Những bất cập, vướng mắc của nghị định 64/CP ngày 09/10/1995 của Chính phủ ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính Việt Nam đã được bổ sung, chỉnh sửa kịp thời. Đó là sự ra đời của Nghị định 16/2001/NĐ- CP và thông tư 08/2001/TT- NHNN. Sự ra đời của nghị định và thông tư này góp phần xoá bỏ những lo ngại của các định chế tài chính trong và ngoài nước trong việc thành lập và định hướng hoạt động cho thuê tài chính của họ. Bên cạnh đó đối tượng khách hàng thuê của Công ty CTTC được mở rộng, doanh nghiệp thuê không phải đóng thuế trước bạ khi chuyển quyền sở hữu đối với tài sản thuê vào thời điểm kết thúc thời hạn thuê. Đặc biệt không khống chế hạn mức cho thuê tài chính đối với khách hàng là tổ chức tín dụng, đối với các dự án lớn, Công ty CTTC được phép hợp vốn. Việc đổi mới thiết bị trong các năm qua làm chậm nên hiện nay, thiết bị của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung là còn lạc hậu nhiều so với các nước phát triển trên thế giới. Để có thể đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển thì cần thiết phải đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ này cần phải có vốn, nhưng vốn tự có của doanh nghiệp lại nhỏ còn vốn vay ngân hàng lại bị hạn chế bởi các điều kiện vay vốn. Nhận thức được tài trợ qua hoạt động CTTC là một trong các loại hình tài trợ có tính hấp dẫn và có hiệu quả cao, các doanh nghiệp đang cần vốn trung, dài hạn đã thực sự quan tâm và đánh giá cao hiệu quả của nghiệp vụ mới mẻ này. Cho đến nay, so với các hình thức cấp tín dụng khác, CTTC đang từng bước là sự lựa chọn của rất nhiều doanh nghiệp. Về phía Công ty, được sự chỉ đạo sát sao của Hội đồng quản trị và ban lãnh đạo ngân hàng, Công ty đã ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn, dư nợ CTTC năm sau luôn cao hơn năm trước. So với các Công ty CTTC khác, Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có thuận lợi hơn nhờ kinh nghiệm, trình độ chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ dự án đầu tư trung và dài hạn và một loạt các dịch vụ hỗ trợ khác. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hoạt động CTTC cũng gặp không ít những khó khăn. * Khó khăn. - Do hoạt động CTTC là hoạt động tín dụng đơn lẻ, chưa có các sản phẩm dịch vụ kèm theo như: thanh toán, bảo lãnh, huy động vốn ngắn hạn,… nên hoạt động của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. - Nguồn vốn hoạt động của Công ty là từ NH “mẹ” nhưng quan hệ giữa Hội sở chính với các chi nhánh là quan hệ điều chuyển vốn nội bộ nên phần lớn vốn hoạt động của Công ty là vốn vay ngân hàng với mức chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra ngày một giảm( việc nhận được vốn điều hoà từ hội sở là ít vì Công ty CTTC là thành viên hạch toán độc lập). Việc không chủ động được về vốn, phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của NHTM cho vay hoặc làm uỷ thác phát hành trái phiếu đã gây khó khăn về nguồn vốn của Công ty trong việc mua tài sản cho thuê. - Bối cảnh nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn nên việc tìm kiếm những dự án hiệu quả để cho thuê không phải là việc dễ dàng. - Dù hành lang pháp lý cho hoạt động CTTC đã được ban hành, song mới chỉ có hướng dẫn của NHNN về việc thực hiện nghị định 16, còn các Bộ, các ngành thì vẫn “án binh bất động“. Do đó, khó khăn trong hoạt động cho thuê tài chính vẫn đang nằm giữa NĐ64 và NĐ16, văn bản cũ đã hết hiệu lực, còn văn bản mới thì chưa có hướng dẫn. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế của hoạt động CTTC bởi nó không tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng kênh dẫn vốn này, làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. - Là một nghiệp vụ mới mẻ đối với chính bản thân NHTM nên đội ngũ cán bộ, công nhân viên của công ty còn rất trẻ, phần lớn mới được tuyển dụng vào công ty nên còn thiếu kinh nghiệm công tác, trình độ nghiệp vụ còn “non nớt” lại phải làm việc trong môi trường cạnh tranh gay gắt và phức tạp. 2.1.3.2 Kết quả chính đạt được Mặc dù, CTTC là nghiệp vụ mới, lại hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt của các NHTM nhưng với sự phấn đấu không ngừng của toàn thể cán bộ, công nhân viên trong Công ty, sự chỉ đạo sát sao, đúng đắn của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc Ngân hàng Ngoại thương, ngay từ khi thành lập tới nay, Công ty đã thu được những kết quả đáng khích lệ, cho thấy tiềm năng phát triển, mở rộng hoạt động CTTC của công ty trong thời gian tới. * Hiệu quả kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây đều rất tốt. Bảng 1: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Tỷ lệ dư nợ/Tổng tài sản 37% 50% 70% 85% Tỷ lệ chi phí/Doanh thu 2,1% 8,3% 8% 4,8% Tỷ lệ hoàn vốn/Tổng tài sản (ROA) 3,5% 9,5% 9,7% 4,8% Tỷ lệ hoàn vốn/Vốn chủ sở hữu (ROE) 3,5% 9,5% 9,7% 9,6% Nguồn: Tổng hợp từ bảng tổng kết tài sản các năm 1998, 1999, 2000, 2001 của Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong những năm qua VCB Leaco đã đạt được những thành quả đáng khích lệ, doanh thu, nguồn vốn, dư nợ đầu kỳ tăng, trong khi chất lượng đầu tư vốn ở mức kiểm soát được mặc dù năm 2001, có nhiều khó khăn bởi sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tín dụng cũng như CTTC, mức lãi suất chung trên thị trường liên tục giảm. Hoạt động của VCB-Leaco dựa hoàn toàn vào hoạt động cho thuê, đây là nguồn thu nhập chủ yếu của Công ty. * Kết quả kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của Công ty trong 3 năm từ 2000, 2001, 2002 đều có lãi. Năm 2001, 2002 Công ty đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu tài chính của kế hoạch kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoạt động của Công ty ở những năm tiếp theo: - Tổng dư nợ của công ty năm 2001 là 139 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2000(47 tỷ) tăng gấp 5 lần so với năm 1999(27,8 tỷ). Riêng năm 2002, tổng dư nợ của công ty là 278 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2001 và thực sự tăng mạnh so với năm 1999 và 2000. - Mặc dù tổng dư nợ của công ty liên tục tăng qua các năm nhưng hầu hết các khách hàng đều có ý thức trả nợ đúng hạn và tỷ lệ nợ quá hạn được khống chế ở mức độ th._. Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đa phần đều chưa hiểu rõ và hiểu đúng khái niệm, đặc điểm, đặc biệt là lợi ích của CTTC. Họ luôn nghĩ chỉ có ngân hàng là nguồn cung ứng tài chính duy nhất. Thứ hai, tâm lý thích sử dụng vốn vay từ ngân hàng đã ăn sâu vào các suy nghĩ của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là thói quen cố hữu của các doanh nghiệp mỗi khi cần vốn để tiến hành hoạt động SX- KD. Hiện nay cơ chế cho vay của ngân hàng thông thoáng hơn, lại cho phép gia hạn nợ, khoanh nợ, thậm chí xoá nợ quá hạn. Điều này càng khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước- những khách hàng vay không cần phải tài sản thế chấp- ưa thích. Thứ ba, tín dụng cho vay có lãi suất thấp hơn so với lãi suất cho thuê. Đó là những hạn chế dẫn đến sự “khó tính” của khách hàng khi tiến hành lựa chọn phương thức tài trợ, cũng như khi tiến hành giao dịch với các Công ty CTTC. Chính “sự khó tính” này tạo ra sự thiếu sôi động trên thị trường tín dụng thuê mua. 3.1.2.Định hướng phát triển của các Công ty CTTC tại Việt Nam. Việc phân tích môi trường kinh doanh ở mục 3.1.1.1 đã phần nào chỉ ra được xu hướng hoạt động của thị trường CTTC Việt Nam, cũng như của các Công ty CTTC trong thời gian tới. Có thể nhận thấy, tiềm năng phát triển của thị trường CTTC Việt Nam là rất lớn nhưng không ít những khó khăn và thử thách. Để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng hiện tại và những khách hàng tiềm năng, chắc chắn ngày càng nhiều Công ty CTTC ra đời. Trong tương lai gần, hoạt động của thị trường sẽ rất sôi động và để thắng trong cạnh tranh, các Công ty CTTC sẽ phải không ngừng gia tăng chất lượng cung ứng dịch vụ cho thuê CTTC, đồng thời không ngừng phát triển sản phẩm cho thuê nhằm đa dạng hoá chủng loại và chất lượng của sản phẩm cho thuê. Bên cạnh việc mở rộng loại hình sản phẩm cho thuê, các Công ty CTTC còn tìm cách tiếp cận, mở rộng đối tượng khách hàng theo nhiều hướng: Tăng cường giao dịch với các Công ty lớn, Công ty nước ngoài nhưng không “bỏ qua” các doanh nghiệp vừa và nhỏ (lượng khách hàng lớn nhất trên thị trường CTTC Việt Nam) có nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trước những hạn chế không nhỏ mà môi trường CTTC hiện nay đem lại, đặc biệt là trước sự khan hiếm của các dự án đầu tư hiệu quả và mang tính khả thi cao, các Công ty CTTC ở Việt Nam phải xác định được mục tiêu của chiến lược kinh doanh của Công ty mình là gì? Tức là phải xác định được Công ty hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận hay mục tiêu đảm bảo tồn tại, mở rộng quan hệ với khách hàng và chờ đợi những cơ hội mà nền kinh tế mang lại. Như vậy, có thể khẳng định rằng: các Công ty CTTC ở Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong chặng đường sắp tới nhưng nếu luôn cố gắng hoàn thiện Công ty một cách toàn diện thì chắc chắn trong tương lai các Công ty CTTC sẽ duy trì và phát triển được trên thị trường CTTC sôi động ở Việt Nam. 3.1.3. Mục tiêu hoạt động của Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trên cơ sở kết quả kinh doanh các năm trước và môi trường kinh doanh cũng như phương hướng phát triển của các Công ty CTTC ở Việt Nam trong giai đoạn tới, Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tiến hành xây dựng phương hướng, nhiệm vụ phát triển trong thời gian tới với mục tiêu: Từng bước chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu tài sản thuê, đa dạng, đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cho thuê tài chính, tăng năng lực phục vụ đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo an toàn trong tăng trưởng. Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, Công ty đưa ra những nhiệm vụ cụ thể đối với từng bộ phận công tác như sau: Thứ nhất: đối với công tác kinh doanh, Công ty phải thực hiện: - Xây dựng kế hoạch nguồn vốn hợp lý, đảm bảo phục vụ tốt hoạt động kinh doanh của Công ty, tránh tình trạng khó khăn về vốn mua sắm tài sản để cho thuê. - Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý: Tiến hành phân loại khách hàng theo trình tự ưu tiên như: Khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, khách hàng có uy tín, khách hàng có dự án khả thi và hiệu quả cao; khách hàng thuê tài sản là máy móc,thiết bị thi công, phương tiện vận chuyển lớn. Đồng thời đảm bảo tốt việc kết hợp giữa nhóm khách hàng lớn và khách hàng vừa và nhỏ. - Mở rộng liên hệ với các nhà cung ứng máy móc, thiết bị. - Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng. Một mặt thực hiện tư vấn cho khách hàng thuê, một mặt hỗ trợ vốn cho những khách hàng có nhu cầu đầu tư thiết bị bằng hình thức mua trả chậm. - Duy trì và mở rộng mạng lưới khách hàng thông qua việc thường xuyên bám sát và nắm chắc nhu cầu khách hàng hiện đang thuê tài chính của công ty, đồng thời tích cực tìm hiểu và tiếp cận với những khách hàng đang hoặc sẽ có nhu cầu của đầu tư mua sắm tài sản cố định. - Có biện pháp tăng cường và hoàn thiện công tác tiếp thị, công tác thẩm định dự án cho thuê bằng cách: mở rộng hơn nữa các kênh tuyên truyền, quảng cáo về cho thuê tài chính, tranh thủ sự hỗ trợ của các chi nhánh để thu hút được ngày càng nhiều các dự án khả thi. - Thường xuyên theo dõi sự biến động của lãi suất cơ bản và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng để kịp thời xây dựng chính sách lãi suất thuê mua phù hợp với thực tế thị trường nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh, đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận. - Thường xuyên đánh giá rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh để kịp thời xử lý khi có phát sinh dư nợ quá hạn, đồng thời phấn đấu không để phát sinh dư nợ quá hạn. - Chú ý đến những khách hàng có lượng tiền gửi trên một năm để thu hút họ gửi tiền Thứ hai: Đối với công tác kế toán. - Thực hiện tốt công tác quyết toán với các cơ quan cơ có liên quan - Tiến hành kiểm toán về kết quả hoạt động của công ty. - Tiếp tục hoàn thiện quy trình hạch toán kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính. - Trình duyệt kế hoạch tài chính của công ty với NHNN. - Xây dựng và trình duyệt các định mức chi tiêu của công ty. Thứ ba: Đối với công ty kiểm tra – kiểm toán nội bộ. - Xây dựng quy chế kiểm tra – kiểm toán nội bộ công tác - Hoàn thiện bộ máy tổ chức để triển khai thực hiện công tác kiểm tra –kiểm soát ở tất cả các khâu nghiệp vụ của công ty. Thứ tư: Đối với công tác phát triển nguồn nhân lực. Tập trung hơn nữa đến công tác bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ cho phù hợp với nhu cầu tăng trưởng và mở rộng hoạt động của công ty. Thứ năm: Đối với việc ứng dụng khoa học công nghệ. - Từng bước ổn định và đẩy nhanh các chương trình ứng dụng tin học vào hoạt động của công ty nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả cho công tác nghiệp vụ và công tác quản trị điều hành trong công ty. - Trang bị đầy đủ phần mềm để có thể cập nhật thông tin CTTC một cách nhanh nhất để phục vụ cho công tác báo cáo, theo dõi tham mưu cho ban lãnh đạo công ty, giúp công tác điều hành kinh doanh hiệu quả. Tóm lại, nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới là hết sức to lớn. Để có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ và đạt được những mục tiêu đề ra, bên cạnh sự giám sát chỉ đạo hoạt động chặt chẽ, đúng đắn của các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như của Ban lãnh đạo công ty, công ty CTTC- VCB cần phấn đấu không ngừng để hoàn thiện quy trình nghiệp vụ và cơ cấu tổ chức điều hành. 3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CTTC TẠI CÔNG TY CTTC – NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong những công ty đi đầu trong lĩnh vực cho thuê tài chính ở Việt nam hiện nay. Sau hơn 5 năm hoạt động cộng ty đã đạt được nhiều kết quả rất đáng khích lệ, tuy nhiên công ty vẫn đang ở trong giai đoạn tự hoàn thiện nghiệp vụ cho thuê tài chính và các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động cho thuê CTTC, cũng như cơ cấu tổ chức quản lý tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh, bền vững trong tương lai. Hiện nay, Công ty CTTC ở Việt Nam nói chung và Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng phải đương đầu với không ít những khó khăn khăn, trở ngại. Để có thể kinh doanh hiệu quả trong điều kiện hành lang pháp lý chưa đầy đủ, không đồng bộ và thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, Công ty cần nỗ lực phấn đấu hoàn thiện toàn diện mọi mặt, từ việc xây dựng bộ máy tổ chức hợp lý, đến việc hoàn thiện chiến lược kinh doanh và quy trình nghiệp vụ. Trong đó, hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ CTTC là một trong những nhiệm vụ quan trọng hành đầu. Qua quá trình thực tập, tìm hiểu về công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, trên cơ sở thực trạng hoạt động CTTC và bối cảnh môi trường kinh doanh hiện nay cũng như sắp tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế, cũng như khắc phục những tồn tại trong công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại công ty. 3.2.1 Giải pháp đối với tổ chức bộ máy kế toán: Để có thể thực hiện cung cấp thông tin kế toán một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời cho các đối tượng sử dụng thông tin; đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên kế toán, bộ máy kế toán của công ty phải được tổ chức một cách hợp lý, gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả. Trong thời gian tới, tổ chức bộ máy kế toán của công ty cần được hoàn thiện hơn về các mặt sau: Thứ nhất: tổ chức lao động kế toán theo hướng chuyên môn hoá. Mỗi kế toán viên chỉ đảm đương một phần công việc nhất định nhằm đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc về tổ chức lao động kế toán như: Bất kiêm nhiệm, quản lý khép kín, an toàn tài sản và kiểm tra – kiểm soát nội bộ chặt chẽ. Đối với kế toán trưởng- đây là người chỉ đạo kiểm tra– kiểm soát toàn bộ công tác kế toán, tài chính của công ty nên không được trực tiếp đảm nhiệm những công việc cụ thể ngoài phần kiểm tra –kiểm soát và kế toán tổng hợp. Thứ hai: tiến hành xây dựng từng bước mô hình tổ chức kế toán hỗn hợp để có thể cập nhật thông tin một cách thường xuyên, nhanh chóng, đồng thời xử lý và quản lý thông tin một cách hiệu quả. Thứ ba: tăng cường số lượng nhân viên kế toán có trình độ chuyên môn thông qua việc tổ chức và khuyến khích các nhân viên kế toán tự bồi dưỡng, trau dồi kiến thức. Từ đó, xây dựng bộ máy kế toán hợp lý với những nhân viên kế toán đủ năng lực cần thiết, có thể đảm nhiệm và hoàn thành tốt công tác kế toán của toàn công ty nói chung và khối lượng kế toán nghiệp vụ CTTC nói riêng đang ngày càng nhiều và phức tạp. 3.2.2. Giải pháp đối với kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính. Tổ chức được một bộ máy kế toán hợp lý, gọn nhẹ chưa đủ, kế toán còn phải thực hiện tốt nghiệp vụ kế toán CTTC. Sau đây, là một số giải pháp đối với kế toán nghiệp vụ CTTC tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thứ nhất: Kế toán phải thực hiện và chấp hành nghiêm túc các quy định, chế độ, hướng dẫn của NHNN và NH Ngoại thương Việt Nam về việc tổ chức quy trình hạch toán kế toán nghiệp vụ CTTC và công tác báo cáo thống kê. Đồng thời phải thường xuyên thực hiện kiểm tra– kiểm soát nghiệp vụ kế toán CTTC nói chung và các nghiệp vụ quan trọng khác nói riêng. Thứ hai: Kế toán tại công ty có thể sử dụng tài khoản lãi dự thu để phản ánh những khoản lãi chưa thu nhưng có khả năng thu được khi đến kỳ trả nợ bởi bản chất của nghiệp vụ CTTC là nghiệp vụ tín dụng trung- dài hạn có mức độ an toàn cao. Việc sử dụng tài khoản này sẽ làm tăng tính chủ động của công ty trong quá trình thu hồi vốn và lãi. Không những thế, các thông tin kế toán phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của công ty sẽ mang tính xác thực hơn. Thứ ba: Phương pháp tính lãi. Trong thực tế có rất nhiều phương pháp tính lãi, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Kế toán tại công ty cần “linh hoạt” hơn trong việc tính lãi, tức là họ có thể áp dụng nhiều phương pháp tính lãi khác nhau cho các hợp đồng CTTC khác nhau trên cơ sở đặc điểm của từng hợp đồng. Với chế độ tính tiền phí cho thuê đa dạng, phù hợp với từng đối tượng khách hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hành trong quá trình thanh toán tiền thuê; đồng thời tạo điều kiện cho chính công ty trong việc quản lý hợp đồng CTTC, cũng như quá trình thu nợ gốc và lãi đạt hiệu quả tối ưu nhất. Thứ tư: Trong quá trình thu hồi nợ gốc và lãi CTTC, để giảm thiểu những khoản nợ quá hạn, kế toán CTTC tại công ty cần phải tiến hành ghi chép và theo dõi tất cả các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình cho thuê kể từ khi ký kết hợp đồng cho thuê đến khi kết thúc thời hạn thuê và thanh lý hợp đồng CTTC một cách sát sao và kỹ lưỡng trên cơ sở các chứng từ đáng tin cậy. Bên cạnh đó, kế toán phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi tình hình sử dụng tài sản thuê của khách hàng. Đồng thời, phải kết hợp chặt chẽ với các phòng ban chức năng khác để có thể thu hồi các khoản vốn gốc và lãi đúng hạn. Khi có các khoản nợ xin gia hạn, kế toán cần phối hợp với cán bộ nghiệp vụ CTTC kiểm tra, đánh giá chính xác tình hình tài chính của khách hàng để có những biện pháp xử lý linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho cả khách hành lẫn công ty trong việc thanh toán và thu hồi vốn. 3.2.3. Một số giải pháp cho các vấn đề khác. a. Giải pháp về công nghệ Để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty, đặc biệt là hiệu quả của công tác kế toán nghiệp vụ CTTC, công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần quán triệt quan điểm coi giải pháp công nghệ tin học là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện công ty. Công ty phải từng bước ứng dụng công nghệ tin học vào công tác kế toán một cách rộng rãi thbằng cách trang bị máy tính cho từng nhân viên kế toán và áp dụng các phần mềm tiên tiến, phù hợp với quy trình nghiệp vụ CTTC của công ty. Có như vậy, hoạt động kế toán nói chung và nghiệp vụ kế toán CTTC của công ty nói riêng mới đạt hiệu quả cao. b. Giải pháp hỗ trợ khác. Công ty phải tăng cường hoạt động tuyên truyền để giới thiệu hoạt động CTTC cho các doanh nghiệp để họ hiểu rõ lợi ích cũng như quy trình của nghiệp vụ CTTC, giúp cho công tác nghiệp vụ kế toán CTTC diễn ra thuận lợi hơn. Mặt khác, do đây là nghiệp vụ mới nên công ty phải tăng cường “kêu gọi”, hợp tác với các tổ chức song phương, đa phương để họ hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho công ty. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN CTTC TẠI CÔNG TY CTTC- NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM. Hoàn thiện công tác kế toán CTTC có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển của thị trường CTTC Việt Nam và công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động, tiềm ẩn nhiều rủi ro; đồng thời để tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự phát triển thì công ty CTTC cần sự hỗ trợ từ rất nhiều phía. Trên cơ sử thực trạng của môi trường CTTC Việt Nam, em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công ty CTTC- NH Ngoại thương Việt Nam, cũng như các công ty CTTC đang hoạt động tại thị trường Việt Nam. 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước. Để sự nghiệp CNH- HĐH đất nước sớm hoàn thành, cần có những nhân tố thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh nền kinh tế; trong đó sự vận động và phát triển đúng hướng của thị trường CTTC là nhân tố không thể thiếu. Do đó, nhà nước cần quan tâm đúng mức tới thị trường này bằng những chính sách cụ thể. a. Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất và đầy đủ. Thực tế hoạt động CTTC trong những năm qua cho thấy: môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường này còn nhiều tồn tại và bất cập cần phải nhanh chóng giải quyết. Mặc dù Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành những văn bản pháp lý về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC (Nghị định 16/2001/NĐ-CP và thông tư số 08/2001/TT- NHNN) nhưng các đạo luật trên chưa được ban hành đầy đủ và đồng bộ. Hiện nay, việc thiếu các văn bản hướng dẫn của các cơ quan chức năng như Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính đã phần nào hạn chế hoạt động của thị trường CTTC. Từ thực tế môi trường pháp lý của hoạt động CTTC tại Việt Nam, em xin được đưa ra một số kiến nghị sau: Thứ nhất: Các Bộ, ngành có liên quan cần nhanh chóng phối hợp để xây dựng một đạo luật hoàn chỉnh và thống nhất về hoạt động CTTC trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước có thị trường CTTC phát triển trong khu vực và trên thế giới, cũng như từ thực trạng thị trường CTTC Việt Nam. Thứ hai: Về trích khấu hao trong hoạt động CTTC, Bộ tài chính nên sửa đổi quyết định 166/1999 ngày 30/12/1999 về việc quy định tài sản CTTC. Theo quy định này doanh nghiệp phải trích khấu hao tài sản CTTC như với tài sản của mình, nghĩa là không được thực hiện khấu hao nhanh. Quy định này làm mất lợi thế của CTTC là có thể thu khấu hao nhanh; từ đó phần nào gây cản trở cho sự phát triển của hoạt động CTTC. Thứ ba: Các kiến nghị về thuế. Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT). Tại thông tư số 49/1999/ TT- BTC ban hành ngày 6/5/1999 của BTC có quy định: VAT của tài sản mua hoặc nhập khẩu để CTTC sẽ được khấu trừ dần theo tiền thuê trả từng kỳ. Đây là sự không công bằng của quy định đối với tài sản đi mua và đối với tài sản đi thuê. Bộ tài chính cần điều chỉnh quy định này cho phù hợp, đảm bảo công bằng trong việc tính VAT của hai loại tài sản đi mua và đi thuê; tránh cho doanh nghiệp đi thuê phải chịu lãi trên số tiền thuế VAT này. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Với lợi ích về công nghệ mà hoạt động CTTC đem lại cho nền kinh tế và các chủ thể tham gia, CTTC xứng đáng được hưởng mức thuế ưu đãi như các doanh nghiệp trực tiếp đổi mới công nghệ. Vì thế, Bộ tài chính nên giảm thuế thu nhập cho các công ty CTTC trong hai năm đầu hoạt động; đồng thời cho phép các công ty được áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi đối với phần lợi nhuận tạo ra từ những tài sản cho thuê được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ. Thứ tư: Mức thu lệ phí công chứng, lệ phí đăng ký tài sản, lệ phí cung cấp thông tin về tài sản cho thuê quá cao, nên được điều chỉnh giảm thấp. Thứ năm: Quy định tỷ lệ chi phí quảng cáo, tiếp thị, giao dịch, tổ chức hội nghị của công ty CTTC không được vượt quá 7% trong hai năm đầu và 5% trong các năm tiếp theo là quá thấp vì hoạt động CTTC còn rất mới ở Việt Nam cần điều chỉnh tăng cho tỷ lệ này. Thứ sáu: Việc khám lưu hành phương tiện vẫn khó khăn. Phương tiện là tài sản thuộc sở hữu của công ty CTTC có trụ sở tại Hà Nội nên đang kí phương tiện tại nơi có trụ sở, còn người sử dụng phương tiện là khách hàng ở hầu khắp các tỉnh, thành phố thì khám ở đâu. Bộ giao thông vận tải cần có hướng dẫn cụ thể, phù hợp đối với phương tiện vận chuyển, thi công là tài sản CTTC. b. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ khác. Song song với vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ khác để tạo thuận lợi cho thị trường CTTC phát triển ổn định và hiệu quả theo định hướng phát triển của Nhà nước như: có chính sách ưu đãi hỗ trợ về nguồn vốn với chi phí thấp, tạo điều kiện giúp công ty CTTC tránh rủi ro, đặc biệt là rủi ro tỷgiá khi nhập khẩu máy móc, thiết bị, hình thành thị trường chính thức mua bán lại máy móc, thiết bị cũ nhằm giúp công ty trong việc xử lý, thu hồi tài sản cho thuê trước thời hạn hoặc khi hết hạn hợp đồng thuê. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong bối cảnh thị trườngcó nhiều biến động, trước sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động tín dụng của các NHTM và công ty tài chính khác trong mô hình tổng Công ty Nhà nước, thì sự giúp đỡ, hỗ trợ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là hết sức quan trọng cụ thể như: + Nguồn vốn để cho thuê của công ty phụ thuộc vào Ngân hàng cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng và làm đại lý phát hành trái phiếu. Do đó, Ngân hàng Ngoại thương cần có những hỗ trợ về vốn cả ngoại tệ và nội tệ; đồng thời cần có cả những hỗ trợ về mặt nghiệp vụ, có ưu đãi về thuế, mức ký quỹ hoặc cung cấp thông tin tín dụng chính xác, kịp thời, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty CTTC – VCB trên thị trường. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần xem xét cho phép công ty được thuê nội ngành trong việc đầu tư, mua sắm tài sản cố định như: máy vi tính, ô tô, trang thiết bị làm việc; tạo môi trường thúc đẩy nhu cầu thuê của khách hàng. + Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chỉnh sửa điều lệ hoạt động của mình sao cho phù hợp với nghị định 16/2001NĐ- CP. + Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần không ngừng giúp đỡ công ty nâng cao trình độ cán bộ qua các khoá đào tạo về nghiệp vụ. Giúp công ty hoàn thiện mạng máy tính và cài đặt các phần mềm kế toán còn thiếu. + Hỗ trợ cho công ty trong công tác đối ngoại, tìm đối tác kinh doanh. 3.3.3. Kiến nghị đối với Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Để thành công trong hoạt động kinh doanh, Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải chú ý đến các vấn đề sau: * Về bảo hiểm: Công ty nên vận động khách hàng mua bảo hiểm toàn bộ ngay từ đầu cho suốt thời gian thuê tài sản, công ty giảm tiền thuê cho khách hàng, hoặc là Công ty giảm tỷ lệ 20% tiền đặt cọc để khách hàng sử dụng số tiền giảm đó để mua bảo hiểm. * CTTC gắn liền với rất nhiều chủng loại máy móc, thiết bị phức tạp, tính năng kỹ thuật rất đa dạng và ngày càng hiện đại. Do đó, nhân sự ở phòng kinh doanh của công ty đòi hỏi phải có hai bằng đại học: Chuyên ngành kỹ thuật và tài chính ngân hàng, có như vậy việc đánh giá dự án mới sát thực tế. * Những dự án cho thuê có giá trị trên 2,5 tỷ đồng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty cần sử dụng Hội đồng CTTC. * Trong số các tài sản cho thuê có tài sản mới và cá biệt cũng có tài sản cũ, với những tài sản cũ, Công ty cần phải thành lập Hội đồng định giá tài sản. * Công ty cần xây dựng được một chiến lược khách hàng cụ thể và xác định cho mình nhóm khách hàng mục tiêu. Từ đó, công ty phải tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo bằng nhiều phương tiện và hình thức khác nhau nhằm tạo ấn tượng và hình ảnh đẹp về công ty ở khách hàng, duy trì mối quan hệ với những khách hàng truyền thống mở rộng và tiếp cận với khách hàng mới. * Công ty cần xây dựng chiến lược sản phẩm cho thuê đi đôi với chiến lược khách hàng, tức là công ty phải chọn được tài sản thuê thích hợp với từng đối tượng khách hàng, đồng thời phải đa dạng hoá các loại tài sản cho thuê. Tuy nhiên, khi có danh mục tài sản đa dạng, phong phú, công ty lại cần chú ý đến các vấn đề sau. + Tài sản cho thuê phải phù hợp với năng lực quản lý, của doanh nghiệp đi thuê. + Chất lượng sản phẩm cho thuê phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, Công ty nên tăng cường hơn nữa trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ CTTC như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ L/C nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ CTTC, cũng như giúp khách hàng nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng tài sản thuê. * Công ty cần tích cực và chủ động trong quá trình khơi tạo nguồn vốn kinh doanh, đảm bảo đạt được mục tiêu: đủ vốn kinh doanh và chi phí đầu vào của nguồn vốn hợp lý để phí thuê lôi cuốn được khách hàng. Đặc biệt chú ý và tận dụng lợi thế vay vốn từ ngân hàng “mẹ”. * Xây dựng cơ chế dự phòng rủi ro đa chiều để hạn chế những rủi ro tiềm ẩn, từ đó giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất. * Xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành công ty gọn nhẹ, hợp lý, từng bước hoàn thiện và phát triển các quy trình nghiệp vụ CTTC hiện đại. 3.3.4. Kiến nghị đối với khách hàng của công ty. Giao dịch CTTC sẽ không bao giờ thực hiện được nếu không có sự quan tâm của khách hàng. Tuy nhiên, để Công ty CTTC có thể cung cấp dịch vụ CTTC đạt chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ và tốt nhất yêu cầu của khách hàng, Công ty cũng cần sự hỗ trợ “nhiệt tình” từ phía khách hàng trên các khía cạnh sau: Khách hàng xây dựng được một dự án sản xuất – kinh doanh có tính khả thi, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bảo quản, quản lý và sử dụng tài sản cho thuê đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng CTTC. Tiến hành thanh toán tiền gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn, tạo ra niềm tin cho công ty. Qua thực tiễn hoạt động trong những năm qua của công ty CTTC cho thấy, thị trường CTTC ở Việt Nam rất rộng lớn, đa dạng, thích hợp với hầu hết các doanh nghiệp. Tin tưởng rằng tương lai của ngành CTTC tại Việt Nam là đầy hứa hẹn. Với sự giúp đỡ hiệu quả của các cơ quan quản lý và các bên tham gia thị trường, chắc chắn nó sẽ đạt tốc độ cao trong thời gian tới. KẾT LUẬN CHUNG Cho thuê tài chính là một nghiệp vụ mới ra đời ở nước ta chưa lâu nên gây ra nhiều lúng túng cho cả cơ quan ban hành chính sách, chế độ, Ban lãnh đạo công ty và các cán bộ chuyên trách. Tuy nhiên, điều này vẫn không hạn chế được ý nghĩa to lớn của hoạt động CTTC đối với nền kinh tế, khi mà nó thực hiện các chức năng: dẫn vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc nhanh chóng hoàn thiện để có được một mô hình hoạt động hiệu quả và phù hợp với môi trường kinh doanh còn chưa ổn định là một yêu cầu tất yếu với các công ty CTTC để có thể tồn tại và phát triển lâu dài. Một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với các công ty CTTC là công tác kế toán CTTC phải được tổ chức một cách khoa học và có hiệu quả nhất. Từ đó, việc tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán CTTC là hết sức cần thiết. Khoá luận tuy được thực hiện trong thời gian không dài nhưng có tính thực tiễn cao trên cơ sở những số liệuvà tình hình thực tế tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; bên cạnh đó tính lí luận được đúc rút từ thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới, bởi vậy khoá luận đã hoàn thành một số nhiệm vụ sau: * Đưa ra một cái nhìn tổng quát về CTTC, vai trò quan trọng của CTTC trong nền kinh tế thị trường. * Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về kế toán CTTC. * Trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức công tác kế toán CTTC nói riêng tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. * Nghiên cứu xu hướng phát triển của các công ty CTTC tại Việt Nam, trong đó có Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. * Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ CTTC tại Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. * Đề xuất một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện cho việc hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ CTTC và sự phát triển vững mạnh của công ty trong thời gian tới. Trong thực tế hiện nay, việc đưa ra một mô hình kế toán CTTC chuẩn cho các công ty CTTC cần phải có nhiều thời gian và công sức nghiên cứu của các nhà kinh tế trong và ngoài nước. Tuy nhiên, em hi vọng những kiến thức nhỏ bé của mình trước hết mang lại một sự hiểu biết đúng đắn hơn, ngoài ra có thể trở thành những đề xuất khả thi góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kế toán nghiệp vụ CTTC. Giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này có các anh, các chị tại Phòng kế toán của Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Nguyễn Hoàng Phú. Lời kết của khoá luận này, em mong thầy và các anh, các chị nhận ở em một sự biết ơn chân thành và sâu sắc nhất! Hà nội tháng 5 năm 2003 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thuỳ Chinh NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN Họ và tên người hướng dẫn khoa học: Chức vụ: Nhận xét Khoá luận thực tập của sinh viên Nguyễn Thuỳ Chinh, lớp 2021, khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng. Tên đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam". Điểm: - Bằng số: - Bằng chữ: NGƯỜI NHẬN XÉT NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Họ và tên người nhận xét: Chức vụ : Nhận xét khoá luận thực tập của: Sinh viên: Nguyễn Thuỳ Chinh, Lớp 2021, Khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng như sau: NGƯỜI NHẬN XÉT (Ký tên, đóng dấu) NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI PHẢN BIỆN Họ và tên người phản biện (hoặc người chấm luận văn): Đơn vị: Chức vụ : Nhận xét khoá luận thực tập của sinh viên Nguyễn Thùy Chinh, Lớp 2021, Khoa Kế toán - Kiểm toán Ngân hàng . Tên đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam". Điểm: - Bằng số: - Bằng chữ: NGƯỜI NHẬN XÉT (Ký tên, đóng dấu) LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình. Các số liệu, kết quả nêu trong Khoá luận là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thuỳ Chinh MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i DANH MỤC BẢNG BIỂU vi DANH MỤC SƠ ĐỒ vii BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT viii DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ix PHỤ LỤC x LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 3 BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT NHNN = Ngân hàng Nhà nước CP = Chính phủ CTTC = Cho thuê tài chính NHTM = Ngân hàng thương mại NHTMQD = Ngân hàng thương mại quốc doanh TK = Tài khoản CNH - HĐH = Công nghiệp hoá- hiện đại hoá BTC = Bộ tài chính DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Học viện Ngân hàng( 2002), Giáo trình kế toán ngân hàng, NXB thống kê. Học viện Ngân hàng- Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh (2000), Lý thuyết kế toán Ngân hàng. Hệ thống tài khoản Kế toán các Tổ chức tín dụng ban hành kèm Quyết định 435/1998/QĐ - NHNN2. Trần Tôn Tử – Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua, NXB Trẻ. Hiệp hội Tín dụng thuê mua Quốc tế, Hiệp định thống nhất luật dân sự về tín dụng thuê mua quốc tế, thoả thuận ngày 26/5/1988 tại Ottawa- Canada. Luật thuế và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành các luật thuế. Luật các Tổ chức tín dụng (1998), Nxb Chính trị quốc gia. Nghị định 16/CP ban hành ngày 02/05/2001. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chế độ thông tin, báo cáo áp dụng đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng, ban hành kèm theo Quyết định số 516/2000/QĐ- NHNN1 ngày 18/12/2000. Quyết định 108/1998/QĐ- NHNN5 về việc thành lập Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 64/CP ban hành ngày 09/10/1995. Thông tư số 08/2001/TT- NHNN ngày 06/09/2001 của NHNN hướng dẫn việc thực hiện Nghị định 16/2000/NĐ- CP. Thể lệ tín dụng thuê mua ban hành theo Quyết định 149/QĐ- NH5 ngày 27/05/1995. Tạp chí: Thị trường tài chính- tiền tệ, Thời báo ngân hàng, Thời báo kinh tế, Tạp chí kế toán. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT510.doc
Tài liệu liên quan