Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ đường kính ở Công ty cổ phần mía đuờng Sông Con

Tài liệu Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ đường kính ở Công ty cổ phần mía đuờng Sông Con: Phần mở đầu Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng và không thể thiếu trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có tiêu thụ đuợc sản phẩm thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trên thị truờng. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mọi nỗ lực của doanh nghiệp đều vì một mục đích chung duy nhất là bán được hàng, bán được sản phẩm trên thị trường. Có như vậy họ mới có thể tiếp tục quá trình kinh doanh của mình. Trong... Ebook Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ đường kính ở Công ty cổ phần mía đuờng Sông Con

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ đường kính ở Công ty cổ phần mía đuờng Sông Con, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay thì tiêu thụ sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Là một vấn đề không hề mới nhưng một khi đã giải quyết tốt thì mới giải quyết đuợc các vấn đề khác trong doanh nghiệp. Chính vì thế cùng với việc đảm bảo nguyên vật liệu đầu vào , sản xuất sản phẩm thì tiêu thụ sản phẩm luôn chiếm giữ vị trí quan trọng hàng đầu đối với mọi doanh nghiệp. Trước tầm quan trọng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm em đã chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là : “ Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ đường kính ở công ty cổ phần mía đuờng Sông Con’’ Mục đích chọn đề tài: Củng cố và hoàn thiện kiến thức về hoạt động tiêu thụ ở doanh gnhiệp sản xuất Đưa ra những giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ nơi công ty em thực tập. Phạm vi nghiên cứu: Về lí thuyết: lí thuyết chung về tiêu thụ sản phẩm Về thực tiễn: những hoạt động trong quá trình tiêu thụ đường kính ở công ty cổ phần mía đường Sông Con Phương pháp nghiên cứu: phương pháp điều tra tại bàn phương pháp thực nghiệm Chuyên đề gồm ba phần chính như sau: Chương I : lí luận chung về tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường Chương II : Thực trạng tiêu thụ sản phẩm đường kính ở công ty cổ phần mía đường Sông Con Chương III : Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tiêu thụ đường ở công ty cổ phần mía đường Sông Con Chương I : Lí luận chung về tiêu thụ trong nền kinh tế thị trường 1.1 kinh doanh trong cơ chế thị trường và vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất Kinh doanh trong cơ chế thị trường Nền kinh tế thị trưòng là nền kinh tế có nhiều ưu việt, các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh với nhau trên thị trường. Khác với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung , kinh tế thị trường giao quyền quyết định cho soanh nghiệp đó là những vấn đề cơ bản của doanh nghiệp như : sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Tính tự chủ của doanh nghiệp ngày càng cao góp phần tạo ra nhiều của cải cho xã hội hơn, hàng hoá thì phong phú và đa dạng, giá cả của hàng hoá được hình thành trên thị trưòng. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; là nền kinh tế năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng Kinh doanh trong cơ chế thị trường có thể đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và cho toàn xã hội. Hàng hoá sản xuất ra đuợc tiêu thụ một cách nhanh chóng, năng suất lao động tăng cao và chất lượng hàng hoá cũng ngày càng được cải thiện. Doanh nghiệp tự chủ trong sdản xuất kinh doanh, tự do theo đuổi những mặt hàng mình muốn kinh doanh, không bị khống chế bởi số lượng sản xuất ra và đặt giá theo giá của thị trường. Doanh nghiệp được tự do lựa chọn đối tác kinh doanh theo ý mình. Kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm của mình thì còn có rất nhiều khuyết tật như: khủng hoảng thừa, độc quyền, mỗi người đều vì lợi ích của mình mà mâu thuẫn với nhau dẫn đến canh tranh không lành mạnh. Doanh nghiệp cần phải hài hoà lợi ích của mình với phúc lợi xã hội, quyền lợi của ngưòi khác, đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ những quy luật của thị trường, Kinh doanh trong cơ chế thị trường doanh nghiệp được quyền tự quyết định cho mình nhưng mất đi sự đảm bảo đầu ra, phải tự mình tìm đầu ra cho sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm.Vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải nỗ lực tìm hiểu thị hiếu khách hàng, đáp ứng được những mong muốn của khách hàng một cách tốt nhất. Bên cạnh đó cần không ngừng tìm tòi và phát triển những sản phẩm mới để ngày càng phát triển kinh doanh. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đầy rẫy rủi ro nhưng lại có rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp. Muốn dạt đuợc mục tiêu cho mình doanh nghiệp cần nắm bắt được quy luật của thị trường, phải quản trị bằng chiến lược để đạt đươ kết quả như mong đợi Vai trò của tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất Tiêu thụ sản phẩm là khâu cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trên thị trường và là nhân tố then chốt của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp muốn quay vòng vốn và tái sản xuất kinh doanh thì cần tiêu thụ được sản phẩm sản xuất ra. Tiêu thụ sản phẩm là khâu nối giữa sản xuất và lưu thông , nhằm thực hiện mục đích của sản xuất là sản xuất sản phẩm để bán và thu lợi nhuận từ đó mới có điều kiện để thực hiện những công tác tiếp theo cho doanh nghiệp Tiêu thụ được sản phẩm đồng nghĩa với việc khách hàng chấp nhận hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm được thực hiện theo chiến lược và kế hoạch kinh doanh vạch ra, khi hàng hoá của doanh nghiệp được chấp nhận tức là khách hàng đã biết đến doanh nghiệp đồng thời doanh nghiệp dựa vào đó để tạo lập uy tín cho mình. Như vậy tiêu thụ sản phẩm giữ được uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng và có thể tái tạo nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy đây cũng là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác trên thương trường Đối với doanh nghiệp thuơng mại việc tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng nhưng họ có quyền được lựa chọn bạn hàng, lựa chọn nhà cung ứng cho mình và hơn hết là chọn được mặt hàng để bán. Doanh nghiệp sản xuất thì lại khác, họ bắt buộc phải bán được đúng mặt hàng mà mình sản xuất ra nếu muốn tiếp tục tồn tại trên thị trường. Không thể dễ dàng thay đổi loại hình kinh doanh của mình bởi vì nó liên quan đến công nghệ, đến vốn và hàng nghìn con người vì vậy tầm quan trọng của tiêu thụ sản phẩm được nhấn mạnh hơn đối với doanh nghiệp sản xuất. Tiêu thụ được sản phẩm sẽ giải quyết được những khó khăn trong các khâu khác như : nhân lực, vốn, tạo nguồn. Góp phần tạo khả năng thúc đẩy doanh nghiệp cải thiện hoạt động kinh doanh, hoàn thiện dịch vụ để cung ứng cho ngườ tiêu dùng Mục đích của mọi doanh nghiệp đều vì việc bán được hàng cho người tiêu dùng, mọi nỗ lực đều vì việc tiêu thụ tốt hơn sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Những dịch vụ sau bán, dịch vụ trước khi bán hay là khuyến mại đều vì mục đích bán được hàng cho doanh nghiệp, tìm khách hàng cho doanh nghiệp và lôi kéo khách hàng trở lại với doanh nghiệp. Nỗ lực bằng mọi cách để bán được hàng chứng tỏ rằng tiêu thụ sản phẩm không phải là cái gì mới mẻ nhưng là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp, đóng vai trò hết sức to lớn trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động bán hàng phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh, phản ánh sự đúng đắn của chiến lược kinh doanh , phản ánh sự nỗ lực cố gắng của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời thể hiện trình độ tổ chức, năng lực điều hành, tỏ rõ thế và lực của doanh nghiệp trên thương trường. Tiêu thụ sản phẩm không còn là vấn đề mới mẻ nhưng lại là vấn đề then chốt cần được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. 1.2. Nội dung hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất 1.2.1. Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là một hoạt động thưòng xuyên và liên tục của doanh nghiệp, là hoạt động không thể thiếu và liên quan đến nhiều vấn đề trong doanh nghiệp. Là công việc đầu tiên cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp sản xuât mới thành lập thì nghiên cứu thị trường giúp giải quyết 3 vấn đề lớn cho doanh nghiệp là : sản xuất cái gì? Cho ai? Và bao nhiêu? Còn với những doanh nghiệp có từ lâu, công nghệ sản xuất khó thay đổi thì nghiên cứu thị trường là công việc giúp doanh nghiệp có thể xem xét mở rộng hay thu hẹp thị trường đồng thời lên kế hoạch chuyển giao công nghệ nhằm phát triển sản phẩm mới. Nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng kinh doanh đúng đắn, kinh doanh những mặt hàng mà thị trường có nhu cầu. Giúp doanh nghiệp nắm được cơ hội kinh doanh trên thị trường đồng thời giúp doanh nghiệp thấy được những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải để có biện pháp tránh . Tận dụng nhanh hơn các cơ hội và phản ứng tốt hơn đối với những nguy cơ. Nghiên cứu thị trường gồm: -Nghiên cứu cung về hàng hóa doanh nghiệp kinh doanh : Cung là khối lượng hàng hóa mà doanh nghiệp đồng ý bán cho khách hàng ở một mức giá nhất định. Cung của hàng hóa trên thị trường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là giá cả. Cung có xu hướng vận động cùng chiều với giá cả, khi giá tăng cung tăng khi giá giảm cung giảm. Trong nghiên cứu cung trên thị trường thì doanh nghiệp ngoài việc phải xáu định khối lượng hàng hóa các doanh nghiệp có thể cung ứng trên thị trường ở mức giá, doanh nghiệp còn phải xác định khả năng cung ứng của các mặt hàng thay thế cho sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh. - Cầu là khối lượng hàng hóa mà khách hàng sẵn sàng mua ở mỗi mức giá. Cũng như cung, cầu chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó cũng phải kể đến sự tác động của giá cả.Sự vận động của cầu ngược chiều với sự vận động của giá cả, khi giá tăng thì cầu giảm, khi giá giảm thì cầu tăng. Trong nghiên cứu cầu của thị trường doanh nghiệp không phải xác định cầu một cách chung chung mà phải xác định được cầu hướng vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải xác định cầu đối với các sản phẩm tương tự, đối với sản phẩm thay thế cho sản phẩm của doanh nghiệp - Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Khi nghiên cứu giá cả của doanh nghiệp phải tìm hiểu xem giá cả hàng hóa trên thị trường có bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài quan hệ của cung và cầu hay không, chẳng hạn việc hình thành giá trên thị trường là do quy định về giá trần và giá sàn, thuế… so sánh mức giá đó và mức giá mà doanh nghiệp có thể cung cấp. - Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh để nắm được ưu thế về thị trường đầu vào hoặc thị trường đầu ra. Khi nghiên cứu cạnh tranh, doanh nghiệp phải tìm hiểu các chính sách pháp luật của nhà nước xem có sự đối xử phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp hay không, số lượng các doanh nghiệp và danh tiếng các doanh nghiệp trên thị trường, tìm hiểu các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thay thế, tìm hiểu khả năng ra đời và ứng dụng của công nghệ mới và lĩnh vực kinh doanh của công ty, sự liên kết dọc và liên kết ngang của các doanh nghiệp trong ngành. Nghiên cứu thị trường có thể sử dụng phương pháp điều tra tại bàn( nghiên cứu qua giấy tờ, tài liệu thống kê) và phương pháp điều tra hiện trường. Mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm riêng nên tùy từng thời điểm mà áp dụng cho phù hợp với mục đích của doanh nghiệp để đem lại hiệu quả tối ưu 1.2.2 Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm Xây dựng kế hoạch tiêu thụ là cơ sở quan trọng đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành nhịp nhàng theo kế hoạch đã định. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm dựa trên việc nghiên cứu thị trường để đem ra những dự báo tốt nhất, sát nhất phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nhờ đó có thể xác định được khối lượng sẽ sản xuất, phân chia hàng hoá theo khối lượng đã định theo từng thị trường khác nhau. Thể hiện lượng hoá được những dự báo về nhu cầu trong quá trình nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp, là những kết luận cụ thể về khả năng tiêu thụ để bắt đầu sản xuất. Quá trình lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một quá trình có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường chính xác sẽ đem đến một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chính xác và nhờ đó mà doanh nghiệp có thể đảm bảo kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là căn cứ để xây dựng kế hoạch hậu cần vật tư; muốn có bao nhiêu sản phẩm thì phải có đầu vào để có thể sản xuất. Cho nên kế hoạch hậu cần vật tư phải được dựa trên kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Dựa vào kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thì mới không bị lãng phí vật tư, không tăng chi phí. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cũng cho biết được quá trình tiêu thụ , khối lượng tiêu thụ là bao nhiêu, phân chia theo thị trường là như thế nào? kế hoạch tiêu thụ theo từng tháng, quý ,năm nhờ đó doanh nghiệp sẽ lên kế hoạch mua nguyên vật liệu đầu vào đúng dịp để có thể hoàn thành kế hoạch đề ra. Ngoài ra kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cũng là cơ sở để điều chỉnh các bộ phận khác của kế hoạch sản xuất - kỹ thuật, kế hoạch tài chính Các chỉ tiêu kế hoạch tiêu thụ có thể tính theo hiện vật và giá trị, chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối. Tuỳ theo từng thời kì , đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp mà doanh nghiệp sử dụng các chỉ tiêu cho phù hợp. Có thể sử dụng các phương pháp toán kinh tế, phương pháp chuyên gia để có thể xác định đúng khối luợng tiêu thụ. Như vậy, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một quá trình cực kì phức tạp và tính chính xác không cao nếu như không nghiên cứu nhiều và nắm bắt rõ nhu cầu của thị trường. Việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phải tuỳ theo thời điểm của từng loại hàng mà doanh nghiệp kinh doanh; Có thể xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩmchi tiết đến một mức độ nhất định. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có thể là kế hoạch năm, quý tháng tuỳ theo yêu cầu của từng công ty và của từng cấp quản trị 1.2.3 Xác định giá bán Xác định giá bán là một công việc thường xuyên nhưng lại cực kì khó khăn đối với doanh nghiệp. Là vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến chính lợi ích của công ty và của khách hàng. Việc đặt giá như thế nào luôn luôn là một công việc phức tạp đòi hỏi nhiều cố gắng của những nhân viên làm giá trong công ty. Các quyết định về giá có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc đặt kế hoạch kinh doanh đến mua sắm, bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp. Hệ thống giá của doanh nghiệp là tập hợp có tính khoa học các mức giá không chỉ riêng của doanh nghiệp mà còn là hệ thống giá của đối thủ cạnh tranh và giá trên thị trường. Tuỳ theo tiêu thức cụ thể, hệ thông giá có thể được xác định từ nhiều tiêu thức khác nhau như : theo phương thức bán thì có giá bán buôn, giá bán lẻ; theo tính chất giá có giá kế hoạch, giá thực tế. Doanh ngiệp cần xác định mục tiêu định giá của mình để đưa ra một mức giá phù hợp. Trong từng giai đoạn khác nhau doanh nghiệp đưa ra các chiến lược giá khác nhau phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp. Định giá nhằm mục tiêu phát triển doanh nghiệp về thị phần thì trọng tâm của mục tiêu này là giúp doanh nghiệpcó khả năng đứng vững, mở rộng thị phần của doanh nghiệp. Mức giá đặt phải có sức hấp dẫn đối với khách hàng mục tiêu , đồng thời có một mức giá phù hợp với khách hàng mới. Ở giai đoạn này doanh nghiệp có thể sử dụng giá linh hoạt, tuỳ theo đặc điểm cụ thể mà đưa ra chính sách giá khác nhau ở từng chu kì khác nhau của sản phẩm Định giá nhằm mục tiêu doanh số: Tức là doanh nghiệp muốn đảm bảo một doanh số bán hàng nhất định, có thể là cực cao theo doanh nghiệp. Trong trường hợp này trọng tâm cần đáp ứng là số lượng hàng hoá bán được chứ ít quan tâm đến lợi nhuận. Vì doanh nghiệp cho rằng càng bán được nhiều thì lợi nhuận cũng tăng theo. Việc tăng doanh số có thể đáp ứng được nhờ giảm giá hàng bán nhưng khả năng tăng sẽ không được lâu và không bền vững. Do giảm giá quá nhiều sẽ dẫn đến thua lỗ và giảm uy tín của doanh nghiệp. Ở giai đoạn này doanh nghiệp thường sử dụng chính sách giá thấp, một giá để dạt được mục tiêu của mình. Định giá nhằm mục tiêu lợi nhuận: Xác định mức giá sao cho có thể đạt được lợi nhuận cao nhất khi bán hàng. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cũng có nhiều con đường khác nhau. Có thể đặt giá ở mức cao nhất cho sản phẩm dịch vụ khi doanh nghiệp là người dẫn đầu thị trường hay trong giai đoạn đầu của chu kì sống của sản phẩm. Tối đa hoá lợi nhuận không phải bao giờ cũng trên cơ sở giá đắt mà có thể đặt giá tối ưu.Giá tối ưu là giá mà doanh nghiệp có thể thu lợi tối ưu, ở mức giá đó doanh ngiệp có thể bánd được nhiều hàng nhất trong một thời kì dài. Sản phẩm bán ra được nhiều hơn và thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Xác định giá bán là một công việc phức tạp đòi hỏi doanh nghiệp phải cực kì chú trọng. Có thể giá ở một thời điểm không thoả mãn đầy đủ các mục tiêu của doanh nghiệp nhưng xét về lâu dài lại là mức giá hợp lí. Tuỳ vào từng thời điểm mà doanh nghiệp xác định giá bán khác nhau. Cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng đối với hàng hoá của doanh nghiệp: co giãn hay không co giãn đối với giá, các yếu tố làm giảm tác động của giá đến khách hàng như : tác động do giá trị độc đáo, tác động do không có tính năng dự trữ, tác động do sự khan hiếm của hàng hoá. Cần xem xét chi phí khi định giá vì đây là yếu tố quyết định giá của doanh nghiệp. Các yếu tố về luật pháp và xã hội cũng cần được quan tâm đứng mức Có nhiều phương pháp định giá khác nhau, cụ thể có những phương pháp định giá sau + Phương pháp tính giá theo chi phí là phương pháp tính giá đơn giản, dễ hiểu và thương được các doanh nghiệp áp dụng, phương pháp tính giá này được thực hiện trên hai yếu tố cơ bản là chi phí bình quân trên một sản phẩm và lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp. + Phương pháp tính giá theo định hướng nhu cầu : chi phí được xem xét một cách khách quan trong mối liên hệ với nhu cầu của khách hàng và phản ứng của đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp này, mức giá dự kiến là điểm xuất phát quan trọng cho việc xác định mức giá công bố. Giá là một vấn đề nhạy cảm và dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với khách hàng. Công tác định giá vô cùng khó khăn và phức tạp nên doanh nghiệp cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để có thể đem rá một mức giá hợp lí nhằm phát triển đựoc doanh nghiệp đồng thời mở rộng thị trường cho doanh nghiệp. 1.2.4 Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán Là quá trình tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Muốn cho quá trình sản xuất lưu thông diễn ra suôn sẻ thuận tiện, liên tục,không bị gián đoạn thì các doanh nghiệp cần chú ý đến các nghiệp vụ ở kho như : tiếp nhận, phân loại, lên nhãn hiệu sản phẩm, bao gói , sắp xếp hàng hoá ở kho, bảo quản và ghép đồng bộ để xuất bán cho khách hàng. Tiếp nhận hàng hoá phải đủ về số lượngm đúng về chất lượng, qui cách từ các tổ đội, phân xưởng sản xuất. Khi nhận được hàng hoá sơ bộ từ các tổ sản xuất của doanh nghiệp bộ phận kho tiến hành phân loại rồi lên nhãn hiệu sản phẩm, tiến hành bao gói cho sản phẩm. Đây là công tác cực kì quan trọng, tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm khi xuất bán. Cần phải phân loại đúng loại sản phẩm xuất bán, không được để nhầm từ các loại khác nhau tránh xuất sai. Hàng hoá phải được chuẩn bị cẩn thận, tỉ mỉ. Cần phải sử dụng mô hình kho hợp lí để bảo quản được tố và không bị hao phí nhiều trong quá trình bảo quản. Hàng chuẩn bị xuất bán phải cơ bản được hoàn thiện về bao bì, bao bì đang ngày càng trở nên quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ về số lượng như trong hợp đồng quy định, mẫu mã, quy cách cũng phải làm theo yêu cầu của đối tác. Công tác chuẩn bị hàng hoá để xuất bán là công tác liên quan đến các nghiệp vụ kho , là công tác khá phức tạp đòi hỏi đội ngũ nhân công khá lớn. Hàng hoá luôn trong tình trạng sẵn sàng xuất cho khách hàng. Công tác chuẩn bị được nhanh chóng sẽ giải phóng được sức lai động đồng thời giảm chi phí lưu thông bốc dỡ 1.2.5 Lựa chọn kênh tiêu thụ sản phẩm Kênh tiêu thụ sản phẩm là việc thiết lập và sắp xếp các phần tử tham gia vào quá trình phân phối, tuyên truyền, quảng cáo và bán hàng cho doanh nghiệp. Kênh tiêu thụ sản phẩm có những đặc trưng cơ bản sau : - Nơi vận chuyển hàng hoá từ người sản xuất tới người tiêu dùng cuối cùng. - Nơi hoàn thiện hàng hoá, cải tiến hàng hoá để đưa đến khách hàng - Tổ chức lưu thông hàng hoá, vận chuyển, bảo quản và dự trữ hàng hoá - Là nơi trực tiếp đàm phán về giá cả với khách hàng - Nghiên cứu thui thập thông tin để lập kế hoạch giúp người sản xuất đồng thời tạo thuận lợi cho việc tiêu dùng hàng hoá - Kích thích nhu cầu của thị trường, cung cấp và giới thiệu thông tin về hàng hoá đối với khách hàng Mỗi doanh nghiệp có phương thức sử dụng kênh phân phối khác nhau nhưng biết sử dụng tốt thì kênh phân phối là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp. Có nhiều loại kênh phân phối khác nhau và lựa chọn kênh phân phối như thế nào cho phù hợp luôn là một bài toán khó đối với doanh nghiệp vì nó ảnh hưởng rất lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh Đối với các doanh nghiệp cung ứng hàng tiêu dùng thì có các kênh phân phối cơ bản như sau: Người SX Người SX Người SX Người SX Đại lý Đại lý Người bán buôn Người bán lẻ Nguời TDCC Nguời TDCC Nguời TDCC Nguời TDCC Sơ đồ 1: Sơ đồ kênh tiêu thụ Kênh 1 : là kênh tiêu thụ trực tiếp . Hàng hoá sản xuất ra được bán thẳng tới người tiêu dùng cuối cùng mà không qua một khâu trung gian nào cả. Trên thị trường chỉ có hai đối tượng tham gia vào quá trình mua bán là người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng. Người sản xuất hiểu rõ đặc tính của người mua hơn bất kì ai nên có thể sản xuất được những sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng. Ngược lại, người mua có những ý kiến, những thắc mắc đối với nhà sản xuất thì được phản hồi lại một cách nhanh chóng, kịp thời. Doanh nghiệp không tốn các chi phí chi cho đại lý hay các nhà bán buôn và tránh được thông tin sai lệch. Sử dụng kênh tiêu thụ trực tiếp đang ngày càng phổ biến do sự phát triển của công nghệ số hoá, công nghệ thông tin và internet. Nhưng với dạng kênh này doanh nghiệp khó mở rộng thị trường. Nếu mở rộng thị trường họ cần phải đầu tư lớn cho chi phí quảng cáo và xúc tiến bán hàng nên khó đảm bảo được doanh thu cần thiêt để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Kênh 2: việc lưu thông hàng hoá phải qua khâu trung gian - người bán lẻ. Đây là loại kênh ngắn thuận tiện cho người tiêu dùng; hàng hoá được vận chuyển nhanh, người sản xuất giải phóng khỏi chức năng bán lẻ, tập trung cho sản xuất, không tốn kém trong việc quảng bá hình ảnh cho mình. Nhưng những loại kênh này chỉ phù hợp với những nhà bán lẻ lớn,có mối liên hệ trực tiếp với nhiều nhà sản xuất. Trên thế giới có những tập đoàn tiêu biểu như Big C hay Walmart Kênh 3: Có thêm người trung gian thứ hai là đại lí, hoạt động cho lực lượng bán độc lập của nhà sản xuất và giới thiệu nhà sản xuất cho người tiêu dùng cuối cùng. Nhà sản xuất không trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối bán lẻ mà chỉ bán buôn cho đại lí. Nhà sản xuất có thể sử dụng đại lí phân phối độc quyền hoặc không tuỳ thuộc từng mục tiêu của công ty trong từng giai đoạn khác nhau. Việc phân chia sư dụng số lượng đại lí cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh và hình ảnh của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng cuối cùng. Kênh 4: Loại kênh này vừa xuất hiện đại lí vừa xuất hiện người bán lẻ. Kênh này thuộc loại kênh dài vì có nhiều phần tử tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm cho nhà sản xu.Việc bán hàng qua nhiều khâu trung gian nên tốc độ lưu chuyển hàng hoá chậm nhưng thích hợp với điều kiện sản xuất và lưu thông nhiều loại sản phẩm, phù hợp với quan hệ mua bán của nhiều loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này tuỳ theo điều kiện sản xuất và kinh doanh mà xác định mặt hàng, tỉ trọng hàng hoá mua bán qua các khâu của kênh này. Trong một số trường hợp doanh nghiệp sử dụng nhiều kênh phân phối khác nhau cho những đoạn thị trường khác nhau để phát huy ưu điểm của từng kênh và hạn chế được nhược điểm của từng kênh. Nếu phân bố không hợp lí sẽ mất hình ảnh của doanh nghiệp. Qua các kênh phân phối doanh nghiệp có thể tìm ra nhiều con đường xâm nhập thị trường, giảm chi phí bán hàng, kiểm soát được hàng hoá và kênh bán, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. 1.2.6 Tổ chức các hoạt động xúc tiến bán hàng Xúc tiến bán hàng là những hoạt động nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ hàng cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường sử dụng cách thức, hình thức khác nhau để truyền bá thông tin về sản phẩm, thông tin về doanh nghiệp nhằm thu hút sự chú ý của người mua trên thị trường. Đó là việc tìm kiếm những cơ hội bán háng, cơ hội quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin với khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp. Do đó, các hoạt động xúc tiến yểm trợ cho công tác bán hàng giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng truyền thống, thu hút đuợc khách hàng tiềm năng, chinh phục được những khách hàng khó tính lại am hiểu quá nhiều về sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thêm một kênh để thu thập thông tin từ khách hàng với độ chính xác của thông tin mang lại cao. Bên cạnh đó nhờ hoạt động xúc tiến mà doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về thị trường, về đối thủ cạnh tranh, về khách hàng... giúp doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời. Các hoạt động xuác tiến của doanh nghiệp gồm những hoạt động cơ bản sau đây: Quảng cáo : quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện khác nhau để tuyên truyền, giới thiệu về sản phẩm, doanh nghiệp tới khách hàng. Là một hình thức truyền tin thương mại nhằm đem đến cho người nhận tin những hiểu biết cần thiết về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ bằng các phương tiện thông tin đại chúng để lôi cuốn sự chú ý của người mua. Qúa trình truyền tin một chiều và phải trả tiền cho các nhà truyền tin một khoản phí không nhỏ. Thông điệp quảng cáo được đăng tải trên các phương tiện như tivi, sách, báo, đài, truyền hình kĩ thuất số, Internet... Quảng cáo có thể đăng trên nhiều phương tiện khacs nhau, phương thức sử dụng như : quảng cáo truyền hình, phát thanh, báo, panô, áp phích, tranh cổ động... phưong tiện quảng cáo phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn tới người tiêu dùng. Quảng cáo là không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, là công cụ giúp doanh nghiệp bán hàng được nhanh hơn và hiệu quả hơn. Nhưng cũng cần phải quan tâm đến các yêu cầu chung của quảng cáo như : chất lượng thông tin phải cao, thông tin hợp lí, đảm bảo tính nghệ thuật và tính phổ thông để mọi người có thể hiểu được. Tuỳ từng thời điểm khác nhau mà doanh nghiệp sử dụng các phương thức quảng cáo khác nhau. Lựa chọn phương tiện quảng cáo đều phụ thuộc vào nhiều yếu tố: mục tiêu quảng cáo, ngân sách quảng cáo, nội dung truyền đạt, loại sản phẩm. Chi phí quảng cáo rất cao nên doanh nghiệp cần phải chú ý lựa chọn loại hình quảng cáo cho phù hợp. Đầu tư cho quảng cáo phải đem lại hiệu quả tốt và chi phí quảng cáo cho một sản phẩm bao giờ cũng chiếm tỉ lệ cao trong chi phí bán nên doanh nghiệp cần phải quan tâm và tìm ra giải pháp tối ưu. Chào hàng: cũng là một hình thức quảng cáo nhưng nhằm tới một nhóm khách hàng cụ thể có nhu cầu thực sự với hàng hoá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp gửi bản chào hàng tới doanh nghiệp mà mình muốn chào hàng với những chi tiết cụ thể về sản phẩm, giá bán của sản phẩm, những hình thức khuyến mại chủ yếu để thu hút sự quan tâm chú ý của những doanh nghiệp này. Khuyến mại: là hoạt động xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Kích thích hoạt động mua tại chỗ, trực tiếp,kích thích tiêu thụ trong thời gian ngắn khi tổ chức hoạt động khuyến mai. Các biện pháp khuyến mại sẽ nhanh chóng đem lại mức tiêu thụ cao hơn trong thời gian ngắn hơn quảng cáo nhưng sự tăng lên chỉ là tạm thời. Có thể sử dụng nhiều hình thức khuyến mại khác nhau như: giảm giá hàng bán, phân phát mẫu hàng miễn phí, phiếu mua hàng đặc biệt, hoa hồng cho đại lí được nâng cao trong một thời gian ngắn, tặng vật phẩm đi kèm khi khách hàng mua thêm hàng hoá. Khi áp dụng hình thức khuyến mại cần chú ý đến những quy định của luật pháp như : không tổ chức hoạt động khuyến mại ở truờng học, cơ quan mà điều này đang bị các doanh nghiệp vi phạm rất nhiều. Khuyến mại có thể sử dụng trong giai đoạn đầu của chu kì sống sản phẩm khi mọi người chưa biết đến sản phẩm của doanh nghiệp cũng, cũng có thể sử dụng vaò giai đoạn cuối của chu kì sống sản phẩm khi doanh nghiệp cần bán hết hàng để chuyển đổi sản phẩm kinh doanh hay loại hình kinh doanh. Hoạt động khuyến mại đem lại sự tăng doanh số tạm thời nên doanh nghiệp cần sử dụng một cách hợp lí các hình thức khuyến mại tránh lãng phí chi phí không cần thiết mà hiệu quả kinh doanh không cao. Hội chợ, triển lãm: Hội chợ , triển lãm thương mại là những hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân hay nhà sản xuất trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ. Do tính chất của mình nên hội chợ, triểm lãm cho phép doanh ngiệp có điều kiện thuận lợi để trực tiếp gặp mặt khách hàng, trực tiếp giới thiệu, đàm phán, kí kết hợp đồng mua bán với khách hàng. Giúp doanh nghiệp hiểu hơn về nhu cầu, thị hiếu cũng như quy định của các địa phương, các thị trường khác nhau. Đây còn là cơ hội để doanh nghiệp có thể nhận biết được thái độ của khách hàng đối với sản phẩm của mình và tình trạng của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Bán hàng trực tiếp: là hành vi thương mại của nhà sản xuất, thương nhân, là sự giao tiếp trực tiếp giữa người bán với khách hàng hiện tại và kahchs hàng tiềm năng của doanh nghiệp. Trong đó, người bán có trách nhiệm giao hàng hoá và chuyển quyền sở hữu cho người mua đồng thời nhận tiền từ người mua. Đây là một quá trình diễn ra phức tạp nhưng lại mang tầm quan trọng cao. Việc bán hàng không chỉ riêng của một người, của một bộ phận mà là sự nỗ lực của toàn doanh nghiệp như : chào bán tại nhà, người nhận đơn đặt hàng, người bán trực tiếp. Cùng với sản phẩm thì người bán hàng tác động rất lớn đến người mua hàng. Tâm lí và hành vi mua của khách hàng phụ thuộc rất lớn vào thái độ của người bán hàng. Nếu người bán tỏ ra khó chịu và không quan tâm tới khách hàng thì chắc chắn họ sẽ mất khách hàng đồng thời doanh nghiệp cũng có thể mất khách nhiều hơn một người do “ tiếng ồn” xấu trong kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp lớn duy trì lực lượng bán hàng rất đông đảo nhưng cần phải biết sử dụng, khai thác nguồn nhân lực một cách hợp lí bằng các chính sách ưu đãi đi cùng thưởng phạt mới giúp doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn. Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác: Quan hệ công chúng (PR) và các hoạt động khuyếch trương là những khái niệm khá mới nhưng lại được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Công chúng là một nhóm người có quan tâm, ảnh hưởng hiện tại hoạc tiềm ẩn tới khả năng thành công của doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu của mình. Công chúng có thể thúc đẩy nhưng ngược lại họ cũng có thể cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường thu hút sự quan tâm của công chúng qua các buổ._.i tổ chức sự kiện như: nói chuyện, tuyên truyền, từ thiện.. để tạo niềm tin của công chúng vào doanh nghiệp. Họ luôn luôn theo dõi thái độ của công chúng, tìm cách giao tiêp, thông tin với công chúng để tạo một ấn tượng tốt đẹp trong lòng công chúng. Bên cạnh đó họ cũng dàn xếp, xoá bỏ những dư luận không tốt ảnh hưởng tới hình ảnh của doanh nghiệp. Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương nếu được làm tốt sẽ giúp doanh nghiệp hoàn thành mục tiêu của mình Các nội dung của hoạt động xúc tiến là quan trọng như nhau. Để hoạt động xúc tiến thương mại có hiệu quả doanh nghiệp thường sử dụng kết hợp các nội dung với nhau. Tuỳ từng giai đoạn cụ thể mà doanh nghiệp sử dụng các công cụ xúc tiến thương mại cho hợp lí để đạt được hiệu quả cao nhất trong tiêu thụ sản phẩm 1.2.7 Tổ chức hoạt động bán hàng: Bán hàng là một trong những khâu cuối cùng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động bán hàng là một hoạt động mang tính nghệ thuật, tác động trực tiếp lên tâm lý người tiêu dùng. Người bán hàng phải biết quan tâm tới tâm lí của khách hàng, những đặc điểm tâm lí trong việc ra quyết định mua hàng của khách hàng. Người bán hàng trong lúc này đóng một vai trò quan trọng, hình ảnh về sản phẩm được giới thiệu tới khách hàng thông qua ý kiến chủ quan của người bán. Cần phải nắm bắt tâm lí người mua để kích thích hành vi mua và không chỉ dừng lại ở việc bán được hàng mà phải quảng bá được hình ảnh của công ty. Hoạt động bán hàng cũng có thể được diễn ra trên diện rộng hơn đó là giao dịch, đàm phán và kí kết hợp đồng . Về cơ bản những người đi đàm phán, giao dịch cần phải nắm bắt tốt tâm lí của đối tác giống như lúc bán hàng. Quá trình bán hàng là một quá trình phức tạp và khó lường. Để bán được hàng doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu của khách hàng, chất lượng, mẫu mã, giá cả và có thể là những yêu cầu về người bán hàng. 1.2.8 Đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm và điều chỉnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm: Việc phân tích và đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cung cấp một cái nhìn tổng thể về tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp biết được kì kinh doanh vừa qua doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu của mình hay chưa, việc nên thu hẹp hay mở rộng thị trường tiêu thụ trong tương lai có nên hay không. Đây cũng là cơ sở để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh.Tìm ra những nhân tố tác động đến tiêu thụ sản phẩm, tìm ra được những ưu điểm để phát huy và hạn chế những nhược điểm trong quá trình tiêu thụ cũng như sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm Doanh thu tiêu thụ sản phẩm DT = KLTTSP*ĐG Trong đó: DT là doanh thu tiêu thụ sản phẩm KLTTSP : khối lượng tiêu thụ sản phẩm ĐG : đơn giá là giá hàng hoá xuất bán Chi phí tiêu thụ sản phẩm Bao gồm tất cả các chi phí có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như chi phí bán hàng, chi phí quảng cáo, vận chuyển... Doanh nghiệp trong nỗ lực của mình đều cố gắng giảm chi phí nhưng sự giảm phải hợp lí vì không phải bao giờ chi phí thấp cũng tốt. Chi phí cần được sử dụng có hiệu quả mới đựoc gọi là chi phí có ích, cần quan tâm đến chi phí cận biên của một sản phẩm chứ không phải chỉ tiêu tuyệt đối. lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm: Lợi nhuận = tổng doanh thu - tổng chi phí Đây là chỉ tiêu mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng quan tâm vì đây là chỉ tiêu quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trên thị trường và nằm trong 3 mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. Tổng doanh thu là bao gồm tất cả doanh thu từ hoạt động bán hàng, tổng chi phí là chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí tiêu thụ sản phẩm Thị trường của doanh nghiệp: Là nơi mà doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh, bao gồm những khách hàng, tổ chức, cá nhân có nhu cầu với hàng hoá của doanh nghiệp. Ở đây còn có những đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp. Doanh nghiệp lựa chọn thị trường để xâm nhập và tiến hành kinh doanh dựa vào việc nghiên cứu thị trường. Khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp: Là bộ phận khách hàng hiện tại của doanh nghiệp, có nhu cầu lớn và khá ổn định với sản phẩm của công ty. Số lượng khách hàng mục tiêu không nhiều nhưng họ thường mua hàng của công ty với khối lượng lơn, thường xuyên và liên tuc. Đem lại cho doanh nghiệp 80% doanh thu cho nên doanh nghiệp nên chú ý để chinh phục và giữ chân khách hàng mục tiêu. 1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm 1.3.1. Môi trường quốc tế Hội nhập nền kinh tế thế giới luôn luôn được nhắc đến như một câu cửa miệng của không riêng gì một sinh viên kinh tế mà hầu hết người dân Việt Nam. Đó là vì chúng ta vừa vào WTO mới hơn một năm bà nỗ lực để đạt được không phải là nhỏ. Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Nền kinh tế thế giới đã và đang ảnh hưởng rất sâu sắc đến nền kinh tế Việt Nam. Doanh nghiệp cần phân tích môi trường quốc tế để có thể nắm bắt được thời cơ kinh doanh đồng thời hạn chế nguy cơ đối với doanh nghiệp. Khi nghiên cứu môi trường quốc tế cần chú ý đến những điểm cơ bản sau : - Ảnh hưởng của chính trị thế giới : Chính trị luôn ảnh hưởng sâu sắc và tác động rất lớn đến nền kinh tế. Trên thế giới các nước lớn đang một mặt chung sống hoà bình với nhau một mặt lại duy trì ưu thế, ảnh hưởng chính trị, quân sự, ngoại giao đối với phần còn lại của thế giới. Khi định tham gia vào một thị trường ngoài nước cần tìm hiểu mức đẹô ổn định chính trị của nước đó để tránh rủi ro trong kinh doanh. - Tác động của pháp luật và thông lệ quốc tế: Luật pháp luôn chi phối và điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không chỉ phải hiểu thấu đáo luật pháp của nước mình mà cần hiểu rõ luật pháp của các nước trên thế giớ nhất là những thị trường doanh nghiệp đang kinh doanh như loại hình kinh doanh, các quy định về chất lượng. Với các doanh nghiệp hoạt động trong một nghành hàng cụ thể thì cần phải tham gia vào các tổ chức quốc tế và có lấy được các chứng chỉ như ISO 9000-2000. Các hiệp định kinh tế thương mại như hiệp định Việt Mỹ. - Tác động của khoa học công nghệ thế giới: Kỹ thuật công nghệ trên thế giới đang biến đổi từng giây trên thế giới. Là yếu tố giúp nâng cao năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thế giới đang thay đổi như vũ bão, chúng ta đang tụt hậu hàng trăm năm so với thế giới, để thực hiện đi tắt, đón đầu chúng ta phải đầu tư cho công nghệ. Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai đồng thời tiến hành chuyển giao công nghệ có hiệu quả. - Tác động của yếu tố văn hoá quốc tế: Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập không chỉ về kinh tế mà còn cả về văn hoá. Du nhập nhiều nền văn hoá vào đất nước, giao thoa văn hoá đã và đang diễn ra khá mạnh mẽ không chỉ ở Việt Nam. Áo dài của chúng ta cũng đã đi ra với bạn bè thế giới, ngược lai thì quần bò comple cũng đang phổ biến ở nước ta. Doanh nghiệp cần biết nền văn hoá của đối tác để không gây ra hiểu lầm đáng tiếc chũng như người tây không ăn nước nắm và người Việt rất ít ăn soup.Văn hoá nằm ở trong máu môĩ ngưòi chúng ta và kinh doanh cũng phải dựa vào văn hoá mới mong đạt được hiệu quả cao. 1.3.2 Môi trường nền kinh tế Môi trường kinh tế quốc dân ảnh hưởng cơ bản tốihạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp kinh doanh nội địa, bao gồm : - Yếu tố chính trị, pháp luật: Tạo khuôn khổ của môi truờng để doanh nghiệp hoạt động. Môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh là điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, củng cố mình. Chi phối đén các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ mà nhà nước không cấm, cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cần phải chịu trách nhiệm pháp lí đối với những hàng hoá cung cấp cho người tiêu dùng. Sự ổn định về kinh tế và pháp luật là sự minh bạch trong các chính sách sẽ tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Các yếu tố kinh tế: các yếu tố kinh tế tác động đến cả cung và cầu về hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế quốc dân có vai trò quan trọng hàng đầu,quyế định việc kinh doanh của doanh nghiệp là tăng hay giảm. Các yếu tố cần quan tâm là : tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lạm phát, thất nghiệp,tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng nhà nước với ngân hàng thương mại, các chính sách tài khoá, tiền tệ của chính phủ, lãi suất của ngân hàng... Doanh nghiệp cần chú ý để tránh rủi ro khó lường. Như tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua là tốt nhưng mà lạm phát đang rất cao. Ngân hàng nhà nước tăng lượng dự trữ bắ buộc đối với các ngân hàng làm cho tiền mặt khan hiếm và các ngân hàng chạy đua lãi suất. - Yếu tố kỹ thuật công nghệ : quyết định và chi phối kĩ thậut công nghệ của doanh nghiệp, quyế định sự ra đời của sản phẩm mới, hình thành phương thức kinh doanh mới,phương thức thoả mãn nhu cầu, ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu một quốc gia có trình độ công nghệ lạc hậu, không có chiến lược phát triển về công nghệ sẽ là nguy cơ cho doanh nghiệp trong cải thiện trình độ kĩ thuật công nghệ. Với trình độ kinh tế công nghệ tiên tiến doanh nghiệp có thể có nhiều cơ hội để phát triển sản phẩm mới, thay đổi phưong thức kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới. - Các yếu tố văn hoá xã hội: các yếu tố văn hoá xã hội ảnh hưởng đến chính sách và hành vi của con người, qua đó ảnh hưởng tới cơ cấu nhu cầu, tới hành vi mua sắm, khuynh hướng tiêu dùng của khách hàng. Doanh nghiệp cần nắm bắt yếu tố này để phân đoạn thị trường chính xác và phân loại khách hàng hợp lí 1.3.3 Môi trường tác nghiệp Theo Michael Porter có 5 lực lượng cơ bản sau -Đối thủ cạnh tranh hiện hữu: Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp Là toàn bộ các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh loại hàng hóa và dịch vụ có thể thay thế nhau cho một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng. Các đối thủ cạnh tranh hiện hữu quyết định tính chất và mức độ ganh đua hoặc thủ thuật giành lợi thế trong ngành. Số lượng đối thủ cạnh tranh càng nhiều, mức độ cạnh tranh sẽ càng găy gắt, giá cạnh tranh sẽ giảm kéo theo lợi nhuận giảm. -Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là những doanh nghiệp mới tham gia kinh doanh hoặc những doanh nghiệp tham gia lâu năm trên thị trường đang có ý định kinh doanh loại hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp. Việc xuất hiện những đối thủ cạnh tranh là điều không tránh khỏi, vấn đề là các đối thủ này xuất hiện nhanh hay chậm. Doanh nghiệp cần quan tâm, thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh để có những quyết định hợp lí trong kinh doanh -Khách hàng và nhu cầu của khách hàng: khách hàng là các cá nhân, nhóm người, doanh nghiệp có nhu cầu và có khả năng thanh toán về hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp mà chưa được đáp ứng và mong muốn thỏa mãn nhu cầu. Khách hàng và nhu cầu luôn luôn thay đổi của họ là yếu tố doanh nghiệp không thể kiểm soát được nhưng nó có ý nghĩa tối quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp phải thu thập thông tin về khách hàng và nhu cầu của họ từ đó phân tích, dự báo nhu cầu cũng như xu hướng của cầu - Các nhà cung ứng: Những nhà cung ứng là các doanh nghiệp và cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố cần thiết cho công ty và đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ nhất định. Là yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì vấn đề nguồn cung ứng là rất quan trọng. Nó quyết định đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, chất lượng sản phẩm từ đó ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.Các nhà cung ứng của doanh nghiệp cũng đồng thời là các nhà kinh doanh trên thị trường nên các doanh nghiệp phải hiểu rõ đặc điểm của nguồn cung ứng để có cách ứng xử phù hợp với các nhà cung ứng - Sản phẩm thay thế : là những sản phẩm dịch vụ có khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp cần quan tâm tới sản phẩm thay thế để có chiến lược phù hợp với mục tiêu của mình. 1.3.4 Môi truờng bên trong doanh nghiệp: - Sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp: Sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của công ty. Doanh nghiệp phải nhớ là phải kinh doanh cái mà “ thị trường cần” chứ không phải cái mà họ có. Trong quá trình kinh doanh thì doanh nghiệp cần nghiên cứu cầu của thị trường để quyết định sản phẩm kinh doanh cho phù hợp nhằm đem lại kết quả cao nhất có thể. - Quản trị nhân sự và nguồn nhân lực của công ty: Quản trị nhân sự và nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến thành công của doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều do con người hoạch định và lên kế hoạch; con người tiến hành phân tích môi trường kinh doanh và lên kế hoạch kinh doanh. Con người là yếu tố tạo nên thành công cho một doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ có thể thành công khi sở hữu một lực lượng lao động được việc và có lòng gắn bó với công ty. Vì vậy doanh nghiệp cần phải xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển nguồn nhân sự phù hợp với yều cầu của doanh nghiệp cả trong ngắn hạn và dài hạn. Doanh nghiệp phải dự báo được nhu cầu nhân sự, cân đối nhân sự cả hiện tại và tương lai, phân tích nhu cầu thị trường lao động và có các giải pháp để ngăn chặn sự thiếu hụt hoặc mất cân đối giữa yêu cầu phát triển và khả năng cung ứng nhân sự cho doanh nghiệp - Hệ thống thông tin của doanh nghiệp: Tùy theo thực trạng hoạt động của từng doanh nghiệp cũng như mục tiêu chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp để xây dựng hệ thống thông tin phù hợp trên cơ sở xác định rõ các nội dung sau: xác định nhu cầu thông tin; xác định rõ các nguồn thông tin tổng quát và thông tin chi tiết; xây dựng hệ thống thu thập thông tin; thực hiện hệ thống thu thập thông tin để theo dõi môi trường kinh doanh, rút ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ để đề ra các phản ứng thích hợp của doanh nghiệp -Nền nếp văn hóa của doanh nghiệp: Nền nếp văn hóa của doanh nghiệp là tổng hợp các kinh nghiệm, tác phong và cách ứng xử trong công tác,sinh hoạt liên kết với nhau tạo thành phong cách ứng xử của doanh nghiệp, nhất là trong quan hệ cá nhân, bộ phận khác nhau và các quan hệ khách hàng của doanh nghiệp với môi trường xung quanh. Nền nếp văn hóa của doanh nghiệp còn bao hàm các chuẩn mực, các giá trị, các nguyện vọng và các triết lý kinh doanh mà các cấp lãnh đạo theo đuổi. Nó nao hàm các lễ nghi theo truyền thống, phong tục theo tập quán trong các quan hệ xã hội. Một doanh nghiệp có nền nếp văn hóa mạnh sẽ tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên. Chương II : Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở công ty cổ phần mía đường Sông Con 2.1 Giới thiệu khái quát về công ty cổ phần mía đường Sông Con 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần mía đường Được Thành lập vào năm 1971_ tiền thân là xí nghiệp đường rượu sông con. Ngày đầu thành lập xí nghiệp cũng trong giai đoạn khó khăn như bất kỳ một xí nghiệp mới thành lập khác, tức là thiếu thốn về cỏ sở vật chất kỹ thuật và thiếu nhân công.Nhân công là một bài toán khó giải vì đất nước cũng đang tron g thời kỳ khó khăn. Ban đầu xí nghiệp ép mía thủ công và nấu mật bằng chảo nên đường thu được không nhiều mà hao phí lại nhiều hơn. Không chỉ khó khăn về nhân công mà khó khăn về nguồn lực sản xuất nối tiếp nhau, sau một thời gian nhà máy đã lắp được máy ép, ép 15 tấn mía/ ngày. _ năm 1984 xí nghiệp đầu tư nâng cấp công suất máy ép lên gấp đôi 30 tấn mía/ ngày , giải quyết được nhũng khó khăn về nguyên liệu ứ đọng vì công suất quá thấp _ Năm 1989 xí nghiệp đầu tư cho nhà máy đường công suất 100 tấn/, sau đó nhà g nâng công suất lên 200 tấn mía một ngày. _ Căn cứ Nghị định số 87/CP ngày 05/8/1997 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); Quyết định số 306/TTg ngày 09/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc đầu tư mở rộng nhà máy đường Sông Con, Nghệ An. Năm 1997, xí nghiệp đầu tư nâng công suất của nhà máy lên 1250 tấn mía / ngày bằng nguồn vốn cho vay ưu đãi của Tây Ban Nha. Dự án chính thức hoàn thành và nhà máy đi vào hoạt động vào tháng 1 năm 2001. Nhà máy đã đạt được công suất 1250 tấn mía một ngày. Là một nhà máy có công suất lớn nhất nhì tỉnh và giải quyết được công ăn việc làm cho thanh niên trong huyện _ Cho đến nay thì nhà máy đường đã đạt được công suất 1650 tấn mía / ngày. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên lên tới 320 người. chủ yếu đã qua đào tạo cơ bản 2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của công ty cổ phần mía đường Sông Con - Lĩnh vực kinh doanh: thực hiện kinh doanh có hiệu quả các mặt hàng doanh nghiệp sản xuất ra, cụ thể là 4 sản phẩm cơ bản: Đường , cồn, bia, phân vi sinh. Kinh doanh có hiệu quả là kinh doanh có lãi, phát triển được mạng lưới tiêu thụ, nâng số khách hàng chiến lược lên con số trên 7. Thực hiên các chương trình kinh doanh theo chiến lược của công ty. -Lĩnh vực sản xuất: là lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Công ty đường Sông con nên phải cực kì chú trọng. Tiến hành sản xuất đúng thời vụ, đúng tiến độ công việc: + sản xuất mía đường + sản xuất cồn + Sản xuất phân vi sinh + Sản xuất bia hơi 1.2.2. Nhiệm vụ: -xây dựng chiến lược phát triển nghành hàng, lập kế hoạch, định hướng phát triển dài hạn, trung hạn ngắn hạn với những chỉ tiêu cụ thể đặt ra của công ty - Thực hiện phương án đầu tư chiều sâu các cơ sở kinh doanh của công ty nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh - Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ để tạo ra sản phẩm mới phục vụ tiêu dung. Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến để đem lại hiệu quả trong quá trình sản xuất, nâng cao công suất của máy ép và tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu sẵn có, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu để hạ giá thành sản phẩm - Đào tạo , bồi dưỡng và thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của nhà nước đối với cán bộ công nhân viên chức. Nghiêm túc thực hiện các chế độ lương và thưởng theo đúng quy định của nhà nước. Có các chế độ thưởng phạt xứng đáng với công và tội của công nhân viên - Kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký, theo mặt hàng đăng ký kinh doanh, không làm trái những điều pháp luật quy định Sơ đồ 2: Sơ đồ các phòng ban Đại hội đồng cổ đông Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Chủ tịch hội đồng quản trị Giám đốc Phó GD kế hoạch kinh doanh Phó GD nguyên liệu P.kế hoạch P. thị trường P. tổ chức hành chính P.kế toán P. nông vụ P.nông vụ Nhà máy đường Nhà máy phân bón chức năng nhiệm vụ các phòng ban * Đại hội đồng cổ đông -Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định mức cổ tức hàng năm của từng lạo cổ phần. * Hội đồng quản trị: -Quyết định chiến lược phát triển của công ty; -Quyết định phương án đầu tư; -Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; - Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám Đốc và các bộ quản lý quan trọng khác của công ty; quyết định mức lương và lợi ích khác của cán bộ quản lý đó; - Quyết định cơ cấu tổ chức,quy chế quản lý nội bộ công ty. -Trình báo cáo quyết toán tàichinhs hàng năm lên đại hội đồng cổ đông; -Kiến nghị việc tổ chức lại hoặc giải thể công ty * Chủ tịch Hội đồng quản trị: -Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng quản trị. -Chuẩn bị chương trình, nội dung, các tài liệu phụ vụ cuộc họp triệu tập và chủ tạo cuộc họp hội đồng quản trị. -Tổ chức việc thông qua quyết định của hội đồng quản trị dưới hình thức khác. -Theo dõi quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị. -Chủ tọa họp đại hội đồng cổ đông * Ban kiểm soát. - Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong ghi chép sổ kế toán và báo cáo tài chính. - Thẩm định báo cáo tài chính hàng năm của công ty, kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của đại hội đồng cổ đông. - Thường xuyên thông báo với hội đồng quản trị về kết quả hoạt động, tham khảo ý kiến của hội đồng quản trị trước khi trình các báo cáo, kết luận và kiến nghị lên đại hội đồng cổ đông. - Báo cáo đại hội đồng cổ đông về tính chính xác, trung thực, hợp pháp của việc ghi chép, lưu giữ chứng từ và lập sổ kế toán, báo cáo tài chính, các báo cáo khác của công ty, tính trung thực, hợp pháp trong quản lý, điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty -Kiến nghị biện pháp bố sung,sửa đổi, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty; * Giám đốc. - Quyết định về tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty. -Tổ chức thực hiện các quyết định. -Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty. - Kiến nghị phương án bố trí cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty. -Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cắt chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh do hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cắt chức. - Quyết định lương và phụ cấp đối với người lao động trong công ty, kể cả cán bộ quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của giám đốc. * Phó giám đốc kế hoạch kinh doanh -Là người giúp việc cho giám đốc trong công tác lãnh đạo, tổ chức hoạt động kinh doanh của công ty. - Theo dõi hoạt động của các phòng trong công ty,thông báo kịp thời với Giám Đốc về những hoạt động của các phòng ban * Phó giám đốc nguyên liệu -Là người giúp việc cho giám đốc trong công tác lãnh đạo, tổ chức hoạt động kinh doanh của công ty. Đôn đốc việc thực hiện các kế hoạch về nguyên liệu để đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm -Theo dõi hoạt động của 2 nhà máy để thông báo kịp thời * Phòng kế hoạch -Xây dựng kế hoạch sản xuất của công ty trong từng ngày, ca sản xuất, tháng sản xuất -Đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch dặt ra trong sản xuất kinh doanh từ đó có chế độ khen thưởng thích đáng đối với cá nhân, tập thể. -Xây dựng kế hoạch tiêu thụ cho từng loại sản phẩm của công ty để phân xuống cho các phòng. * Phòng thị trường -Giao dịch, nhận đặt hàng của khách hàng -Theo dõi và quản lý các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm -Quản lý các kho thành phẩm * Phòng tổ chức hành chính -Tổ chức quản lý sắp xếp, bố trí nhân lực phù hợp với khả năng và cơ cấu quản lý tổ chức trong toàn công ty -Thực hiện kế hoạch lao động, kế hoạch tiền lương và tuyển dụng - Thực hiện chính sách đối với lao động, xây dựng định mức lao động, xác định dơn giá tiền lương với sản phẩm hoặc theo cấp bậc công việc tùy tình hình của nhà máy * Phòng kế toán_ tài chính -Có nhiệm vụ theo dõi cá nghiệp vụ có liên quan đến công tác hạch toán, kế toán, kiểm tra, kiểm soát và thực hiện các chế độ quản lý, lập báo cáo kết quả kinh doanh theo định kỳ -Chịu trách nhiệm về hoạt động tài chính của công ty. Thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh theo quy định của nhà nước. -Có nhiệm vụ lập kế hoạch kinh doanh chung cho công ty và phân bổ kế hoạch cho từng bộ phận, báo cáo lên lãnh đạo tình hình hoạt động của công ty từng tháng, từng quý, từng năm. Đồng thời đưa ra những biện pháp tháo gỡ khó khăn của công ty trên cơ sở phân tích số liệu thực tế. * Phòng nông vụ -Theo dõi và báo cáo vật tư cho sản xuất, cung ứng kịp thời vật tư đầu vào để sản xuất được diễn ra lien tục, kịp thời, đúng tiến độ -Phụ trách công tác nông vụ của nhà máy.Tiến hành các hoạt động hỗ trợ cho các hộ dân về : giống mía, nguồn phân, hệ thống tưới tiêu. -Tiến hành hỗ trợ về kỹ thuật chăm sóc giống cho nông dân, cung cấp lượng giống cây cho nông dân để giúp họ trong việc hoàn thành kế hoạch về sản phẩm đầu vao cho vụ ép * Nhà máy đường -Nhà máy hoạt động với công suất 1650 tấn mía / ngày với khoảng hơn 1000 lao động làm việc theo mùa -Vào vụ ép nhà máy đường hoạt động cả ngày lẫn đêm -Trong nhà máy còn các tổ đội và các phân xưởng sản xuất -Tổ chức và tiến hành sản xuất đúng tiến độ, kịp thời vụ, không để cho ứ đọng, lãng phí nguyên vật liệu đầu vào * Nhà máy phân bón -Chuyên sản xuất phân bón với nguồn nguyên liệu đầu vào là bã mía từ hoạt động sản xuất mía đường -Nằm trong tổng thể của công ty với diện tích tương đối lớn và đầy đủ trang thiết bị phục vụ sản xuất 2.2. Đặc điểm các yếu tố nguồn lực của công ty cổ phần mía đường Sông Con. 2.2.1 Đặc điểm về lao động của công ty cổ phần mía đường Sông Con Con người luôn là yếu tố quyết định thành công của mỗi doanh nghiệp. Chính con người với năng lực thực sự của họ mới lựa chọn đúng cơ hội kinh doanh trên thương trường. Hiện nay đội ngũ công nhân viên của công ty đã lên đến 320 người và đã qua đào tạo cơ bản và hàng năm vào vụ ép số lượng công nhân ép mía có thể lên đến con số hơn 1000 người cùng với lực lượng lái xe vận chuyển mía cho công ty vào vụ ép. Đội ngũ cán bộ và công nhân viên của công ty cổ phần mía đường Sông Con có những đặc điểm cơ bản sau - Lực lượng lao động có năng suất, có khả năng phân tích và sang tạo là đặc điểm chung của công nhân nhà máy dường Sông Con. Với 100% cán bộ nhân viên của công ty đã được đào tạo qua cơ bản nên luôn hoàn thành xuất sác nhiệm vụ được giao. Đã có 10 cán bộ được khen thưởng toàn công ty và 3 cán bộ nằm trong thường vụ huyện ủy. Bên cạnh đó công ty luôn khuyến khích công nhân bằng các khoản lương và thưởng. Thưởng tết chung cho công nhân lên đến con số 1 triệu đồng. Mức lương cơ bản cho mỗi công nhân là một triệu năm trăm nghìn Việt Nam đồng. - Đội ngũ công nhân luôn trung thành và luôn hướng về công ty: công nhân đa số là những người con của huyện nhà nên họ có điều kiện làm cho công ty lâu hơn. Cộng với việc công ty luôn tạo điều kiện cho nhân công trong huyện, mặt khác công ty còn xây 3 dãy nhà cho công nhân ở để trợ giúp cho những công nhân ở các huyện xa. Công ty đã xây dựng 3 sân bóng chuyền ngay gần chỗ ở của công nhân tạo điều kiện cho họ được luyện tập thể thao thường xuyên,5 năm trở lại đây đội bóng của nhà máy luôn đạt vị trí quán quân trong cuộc thi bóng chuyền cấp huyện -Cán bộ công nhân nhà máy có khả năng chuyên môn cao, lao động giỏi, năng suất và sáng tạo: Công nhân nhà máy với trình độ chuyên môn đã qua trung cấp nghề. - Cán bộ công nhân có sức khỏe, có khả năng hòa nhập và đoàn kết tốt Bên cạnh những thuận lợi trên thì công nhân của nhà máy là nhưng công nhân theo thời vụ nên sự gắn bó với công ty không nhiều. Công nhân có tham gia vào những hoạt động không lành mạnh nhưng đã bị xử lí nghiêm đem lại một môi trường trong sạch cho nhà máy. Nguồn nhân lực của công ty tuy đã được qua đào tạo cơ bản nhưng vẫn còn nhiều yếu kém trong quá trình quản lý. 2.2.2 Đặc điểm về sản phẩm và dịch vụ của công ty cổ phần mía đường Sông Con * Đường Hằng năm, nhà máy đường Sông con sản xuất từ 19.000 đến 20.000 tấn đường và từ 7.600 đến 8.000 tấn mật rỉ, Nhà máy đường liên doanh sản xuất ra từ 110.000 đến 120.000 tấn đường và từ 44.000 đến 48.000 tấn mật rỉ, là nguyên liệu chính để sản xuất cồn Là sản phẩm chủ yếu của công ty, chiếm đa số trong hoạt động kinh doanh của công ty Là sản phẩm chính, mỗi ngày nhà máy sản xuất khoảng 1650 tấn mía phục vụ đời sống nhân dân trong tỉnh và khu vực bắc miền trung * Cồn Là sản phẩm có từ những ngày đầu thành lập công ty, không phải là sản phẩm chính nhưng mà lại là sản phẩm có doanh thu tốt * Phân vi sinh: Là sản phẩm tận dụng từ những cây đã ép thành đường, sản phẩm tận dụng các phế phẩm của quá trình sản xuất khác * Bia hơi: Là sản phẩm tiêu dung ngắn hạn, chỉ dung được trong ngày. Sản phẩm theo thời vụ 2.2.3 Đặc điểm về tài sản và nguồn vốn của công ty cổ phần mía đường Sông Con Từ năm 2006 nhà máy đường Sông Con bước sang một giai đoạn phát triển mới, đó chính là sự chuyển đổi sở hữu đối với nhà máy. Do sự hoạt động không mang lại hiệu quả cao cho nhà máy trong nhiều năm mặc dù công nghệ đã được cải tiến rõ rệt. Đó một phần cũng là do sự phụ thuộc quá nhiều vào nhà nước của mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Trước 2006 thì nhà máy thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên nguồn vốn của công ty do nhà nước cung cấp và kết quả kinh doanh đa số là thua lỗ, vay ngân hàng thì ứ đọng và tiền lãi ngân hàng là một con số không nhỏ. Sự chuyển đổi sở hữu xảy ra khi mà nhà máy được cổ phần hóa vào tháng 4 năm 2006. Nhà máy mang tên mới là công ty cổ phần mía đường Sông Con. Sự thay đổi về ngừoi chủ sở hữu doanh nghiệp đã tạo nên một bước ngoặt mới trong quản lý. Tình hình nguồn vốn và tài sản của công ty đến thời điểm 31/12/2007 như sau Đơn vị: trđ Tài sản Số dư đầu kỳ Số dư cuối kỳ Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tiền Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn Các khoản phải thu Hàng tồn kho Tài sản lưu động khác Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tài sản cố định Nguyên giá tài sản cố định hao mòn tài sản cố định II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 17938 1656 10134 5297 851 6614 5113 10022 -4909 845 656 10179 195 3340 6028 616 7147 5902 11110 -5208 845 400 Tổng cộng tài sản 24552 17326 Bảng 1: Nguồn vốn công ty cổ phần mía đường Sông Con Bảng 2: Tình hình nguồn vốn công ty cổ phần mía đường Sông Con Nguồn vốn Số đầu kỳ Số cuối kỳ A.Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn 1. Vay ngắn hạn ngân hàng 2. Phải trả nhà cung cấp 3. Nợ ngắn hạn khác II. Nợ dài hạn B. Nguồn vốn chủ sở hữu 20145 17668 11029 5233 1255 2477 4407 9800 7603 4486 2830 287 2197 7526 Tổng cộng nguồn vốn 24552 17326 Nguồn: Phòng kế toán 2.2.4 Đặc điểm về nhà cung ứng và công tác đảm bảo nguyên vật liệu đầu vào Tạo nguồn và mua hàng là một nghiệp vụ cực kỳ quan trọng nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh như Nhà máy đường Sông con. Tạo nguồn và mua hàng thể hiện ở tính kịp thời của đầu vào cho sản xuất, nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ vật tư cho sản xuất sản phẩm. Nghiệp vụ tạo nguồn nhiên liệu của doanh nghiệp thể -Mua đúng nguyên liệu cho sản xuất -Mua kịp thời để nhà máy đi vào hoạt động đúng công suất đồng thời giúp bà con nông dân có thể thu hoạch đồng loạt, tránh để tình trạng tranh giành nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất - Nguyên liệu đầu vào phải đồng bộ để sản xuất được diễn ra liên tục, nhanh, đáp ứng chậy đúng công suất và tận dụng tối đa nguồn lực cho sản xuất. - Lựa chọn bạn hàng là khâu quyết định đối với sự chắc chắn và ổn định của nguồn hàng. Thiết lập mối quan hệ truyền thống, lâu dài với các bạn hàng tin cậy là một trong những yếu tố tạo nên sự ổn định trong nguồ cung ứng đối với mỗi doanh nghiệp. Nguyên liệu đầu vào của ngành mía đường là cây ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20704.doc
Tài liệu liên quan