Một số giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay

Mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn 10 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học-kỹ thuật...Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, trong nhiều năm liên tiếp đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định, một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước đã thay thế về cơ bản nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đó là kết quả của việc đổi mới cơ chế kinh tế, hoàn t

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện quan hệ sản xuất để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong cả nước. Việc thừa nhận sự đa dạng của các thành phần kinh tế đã khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, khuyến khích mọi người tham gia kinh doanh, phát triển sản xuất theo quy định của pháp luật. Thực tế trong những năm qua, kinh tế ngoài quốc doanh đã thể hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế, là nơi huy động phát huy các nguồn lực của nhân dân, tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước. Song trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng sẽ phải đối đầu với những thách thức to lớn. Đó là việc hoà nhập vào hệ thống pháp luật chung của thế giới, khu vực... Nhưng thách thức lớn hơn cả lại bắt nguồn từ sức ép cạnh tranh của các đối tác mà họ hơn hẳn ta về nhiều mặt như tài chính, công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. Hội nhập đem lại cho ta rất nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức. Để tận dụng được những cơ hội và hạn chế những thách thức đó phải có sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp trong từng bước đi. Đó là sự phù hợp giữa kế hoạch phát triển của doanh nghiệp với kế hoạch chung của đất nước, giữa các chính sách của doanh nghiệp với chính sách của Nhà nước. Thế nhưng hiện nay hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế, trong đó có cả sự cản trở từ phía Nhà nước tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Doanh nghiệp gặp khó khăn trong huy động vốn, thuê đất, xin giấy phép xây dựng, các vấn đề về thuế, khó tiếp cận với thông tin về thị trường trong nước và quốc tế... Do vậy các cơ quan quản lý Nhà nước phải làm thế nào để cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng phát huy được vai trò của mình để đưa nền kinh tế nước ta sang một trang sử mới về đổi mới và phát triển. Đó là lý do cho sự ra đời của đề tài “Một số giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay”. Mục đích và ý nghĩa của đề tài Đề tài đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng như về thực tiễn trong quá trình nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường và mở cửa để hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay. Nội dung nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề sau: Đặc điểm, vị trí và vai trò của khu vực doanh ngiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nước ta. Cạnh tranh và vai trò của nó đối với các doanh ngiệp ngoài quốc doanh và nền kinh tế nước ta. Hạn chế của môi trường kinh doanh và những ảnh hưởng của nó tới năng lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh . Vai trò của Nhà nước trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh. Việc lý giải những vấn đề trên tạo điều kiện tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh nói riêng và của cả nền kinh tế nước ta nói chung. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu vào những ảnh hưởng của môi trường kinh doanh tới năng lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên khu vực doanh ngiệp ngoài quốc doanh mà chúng em nghiên cứu trong đề tài này chỉ là các doanh ngiệp không bao gồm yếu tố nước ngoài đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng1 năm 2000. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng em có sử dụng một số phương pháp như phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu và đàm thoại trực tiếp với một số doanh ngiệp ngoài quốc doanh. Kết cấu của đề án nghiên cứu khoa học: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề án bao gồm 3 phần: Phần I Tổng quan PhầnII Thực trạng môi trường vĩ mô ở nước ta hiện nay PhầnIII Một số giải pháp trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh Phần i Tổng quan Lý luận chung về cạnh tranh. 1.1 Khái niệm canh tranh Cạnh tranh là một khái niệm thường được dùng trong khoa học kinh tế nhưng không được định nghĩa cụ thể và rõ ràng. Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một yếu tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác. Song dưới góc độ lợi ích toàn xã hội cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Khi nhắc đến cạnh tranh, có hai khái niệm luôn đi theo nó là cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh xã hội khi không có một hãng nào có thể gây ảnh hưởng riêng đối với giá cả trên thị trường, tất cả các hãng đều nhằm đến mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh không hoàn hảo còn gọi là cạnh tranh bất hợp pháp. Cạnh tranh không hoàn hảo là những hành vi cạnh tranh bằng những công cụ bất hợp pháp hoặc không hợp với đạo lý luân thường của xã hội gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho người cạnh tranh khác. Cạnh tranh mang tính độc quyền là cạnh tranh giữa nhiều đơn vị cùng trên một thị trường với những sản phẩm khác biệt nhau (khác biệt về giá cả, địa dư, chất liệu, thời gian cung ứng, người cung ứng, dịch vụ cung ứng ). Sự khác biệt này tạo điều kiện cho mỗi doanh nghiệp có thể có một vị trí độc quyền (tương đối) trong phạm vi nhỏ. 1.2 Vai trò của cạnh tranh Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường.Trong nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, vì thế từng doanh nghiệp cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù hợp để vươn tới vị thế cao nhất. Trong những nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới đều coi cạnh tranh theo pháp luật là công cụ quan trọng của quản lý kinh tế, là cơ chế quan trọng để huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng sau : Cạnh tranh sẽ bảo đảm việc điều chỉnh quan hệ cung cầu (quyền tự chủ của người tiêu dùng). Cạnh tranh sẽ điều khiển sao cho những nhân tố sản xuất sẽ được sử dụng vào những nơi có hiệu quả nhất, làm giảm thiểu tổng giá thành sản xuất của xã hội. Dưới điều kiện cạnh tranh là những tiền đề thuận tiện nhất làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt với sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất. Sự bóc lột dựa trên quyền lực thị trường và việc hình thành thu nhập không tương ứng với năng suất sẽ bị cản trở bởi cạnh tranh, vậy cạnh tranh sẽ tác động một cách tích cực đến việc phân phối và phân phối lại thu nhập. Sự thúc đẩy đổi mới được coi là một chức năng cạnh tranh năng động trong những thập kỷ gần đây. 1.3 Điều kiện để cạnh tranh Từ khái niệm về cạnh tranh người ta có thể hình dung điều kiện để xuất hiện cạnh tranh trong hoạt động kinh tế là: Tồn tại một thị trường. Có tối thiểu hai thành viên ở bên cung hoặc ở bên cầu. Mức độ đạt mục tiêu của thành viên này sẽ ảnh hưởng đến mức độ đạt mục tiêu của thanh viên khác. Theo A.Smith, người đầu tiên đưa ra những lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh. Ông cho rằng: điều kiện để canh tranh là phải bao gồm tự do hành động cho mọi doanh nghiệp và các hộ gia đình, nghĩa là bảo đảm sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như sự tự do lựa chọn tiêu dùng của các hộ gia đình. Thông qua cơ chế thị trường, việc tận dụng tự do cạnh tranh để theo lợi ích riêng dẫn đến việc mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận được những thành quả mà họ đã cống hiến cho thị trường. Như vậy, sự hài hoà về lợi ích riêng được hình thành như thể thông qua sự sắp đặt của “bàn tay vô hình”. Tuy vậy, khái niệm này không đồng nghĩa với việc bỏ mặc doanh nhân mà nó đòi hỏi Nhà nước phải tạo ra và bảo đảm một trật tự pháp lý làm khuôn khổ cho quá trình cạnh tranh. Điểm then chốt cho cạnh tranh trở thành động lực là môi trường pháp luật có hiệu lực đảm bảo đưa ra mọi cơ hội cho mọi tác nhân có thể tham gia vào thị trường và tất nhiên là cả rút khỏi thị trường. Cạnh tranh chỉ phát huy hiệu quả trong một môi trường bình đẳng. ở đây, Nhà nước đóng một vai trò vô cùng lớn bằng việc tạo ra một cơ chế chính sách thống nhất, một môi trường pháp luật ổn định, Nhà nước tạo ra sân chơi chung cho các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Nói chung, cạnh tranh sẽ phát huy hiệu quả nếu nó hội tụ đầy đủ các điều kiện của nó. Tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh...đồng thời với những tác động của chính phủ như tạo dựng một hệ thống thị trường đồng bộ: thị trường vốn, thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường thông tin, thị trường ngoại hối... Kiểm soát cạnh tranh Nền kinh tế thị trường với những ưu điểm của nó vẫn còn những khuyết tật không thể tránh khỏi: phát triển không ổn định, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và đặc biệt là sự tồn tại của thị trường độc quyền đã phá vỡ quy luật cạnh tranh, làm phương hại đến lợi ích của toàn xã hội. Vấn đề đặt ra là phải hạn chế độc quyền, khuyến khích cạnh tranh mà điều này chỉ có Nhà nước với những công cụ của mình mới có thể thực hiện được. Đến lượt nó cạnh tranh cũng cần được kiểm soát trong khuôn khổ pháp luật. Không thể vì chạy theo lợi nhuận mà một nhóm chủ thể nào đó sử dụng các thủ đoạn làm phương hại đến lợi ích các chủ thể khác hay của xã hội. Với vai trò của mình, Nhà nước phải đưa ra các biện pháp nhằm khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng và giám sát độc quyền bằng cách: Kiểm soát hành vi của các hãng có khả năng và vị thế có thể khống chế thị trường. Kiểm soát sự sát nhập để ngăn ngừa quá trình độc quyền hoá. Kiểm soát và ngăn chặn các hành vi thoả thuận giữa các hãng nhằm hạn chế cạnh tranh. Kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vị trí của nó trong nền kinh tế hiện đại. 2.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi đơn vị kinh doanh là một tổ chức của những người sản xuất hàng hoá thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Họ đầu tư vốn, thuê mướn và sử dụng lao động để sản xuất một loại hàng hoá hay thực hiện một loại dịch vụ nhất định qua đó tìm kiếm lợi nhuận.Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá chủ yếu là các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh bao gồm hoạt động kinh doanh tư nhân và hoạt động kinh doanh của Nhà nước. Việc phân biệt hoạt động kinh doanh tư nhân với hoạt động kinh doanh của Nhà nước căn cứ vào việc ai là người tổ chức và chỉ đạo các hoạt động này. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) là tổ chức kinh tế do cá nhân, tổ chức đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, các hình thức sở hữu thường đan xen nhau. Có nhiều doanh nghiệp trong đó vừa có yếu tố tư nhân vừa có sự tham gia của Nhà nước. ở Việt Nam trước đây, tư liệu sản xuất của một cơ sở sản xuất kinh doanh(SX-KD) nào đó chỉ thuộc về một hình thức sở hữu duy nhất, sở hữu Nhà nước. Hội nghị trung ương VI - Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam đã xem xét lại các quan điểm cũ và khẳng định lại rằng: trong hoạt động SX-KD các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết với nhau. Các doanh nghiệp quốc doanh có thể huy động vốn cổ phần của các cá nhân và tổ chức khác. Còn các cơ sở SX-KD tư nhân cũng có thể liên kết với các doanh nghiệp quốc doanh nhằm mở rộng sản xuất. Do đó, khu vực DNNQD không chỉ bao gồm các cơ sở SX-KD hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân mà bao gồm cả các cơ sở SX-KD có phần vốn góp của Nhà nước nhưng hoạt động của chúng lại do một hay một nhóm tư nhân tơ chức và chỉ đạo. 2.2 Các hình thức của doanh nghiệp ngoài quốc doanh Theo quan điểm của các nhà kinh tế học phương tây thì chỉ có hai hình thức sở hữu trong hoạt động kinh doanh, đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân được biểu diễn dưới nhiều hình thức, trong đó ba hình thức sở hữu tư nhân chung nhất là: sở hữu một chủ, sở hữu nhóm hay đồng sở hữu, sở hữu công ty. Sở hữu một chủ là hình thức sở hữu phổ biến và lâu đời nhất. Doanh nghiệp sở hữu một chủ là doanh nghiệp do một cá nhân nắm quyền sở hữu. Sở hữu nhóm là một nhóm gồm hai hay nhiều người với vai trò là các thành viên đồng sở hữu cùng hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Sở hữu công ty là một thực thể nhân tạo, không nhìn thấy được và chỉ tồn tại trên giấy tờ pháp lý. Công ty là một pháp nhân và tách biệt hẳn với các chủ sở hữu của nó. Từ ba hình thức cơ sở hữu tư nhân trên mà tương ứng có các doanh nghiệp sở hữu một chủ, doanh nghiệp sở hữu nhóm và doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu công ty. ở Việt Nam, phần đông các nhà kinh tế cho rằng có ba hình sở hữu trong hoạt động kinh doanh là: sở hữu công cộng, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Trên cơ sở sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một hình thức sở hữu tương ứng với hình thức sở hữu một chủ ở các nước trên thế giới. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và chịu chế độ trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên là công ty do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Theo Điều 14 Nghị định 03/2000/NĐ-CP thì chủ sở hữu công ty phải là một pháp nhân và có thể là: cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, các pháp nhân của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các loại doanh nghiệp và các tổ chức khác theo qui định của pháp luật. Như vậy theo pháp luật, công ty TNHH một thành viên có thể là một doanh nghiệp quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó là cơ quan Nhà nước hay là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó không phải là các cơ quan Nhà nước. Công ty TNHH hạn một thành viên là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân nhưng không có quyền phát hành cổ phiếu. Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên là công ty được thành lập theo sự góp vốn của nhiều thành viên. Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ chức và tối đa là năm mươi, tối thiểu là hai. Công ty có tư cách pháp nhân nhưng không có quyền phát hành cổ phiếu. Đây là loại hình công ty mà các doanh nhân nước ta ưa thích và hay thành lập. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau: Vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ chức được gọi là cổ đông. Số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty có tư cách pháp nhân và có quyền phát hành các loại chứng khoán. Công ty hợp danh Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có đặc điểm: Công ty phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài thành viên hợp danh công ty có thể có thnàh viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp. Còn thành viên góp vốn có thể là cá nhân hay tổ chức. Công ty không có tư cách pháp nhân và không có quyền phát hành hay kinh doanh chứng khoán. Hợp tác xã Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất. Hợp tác xã thuộc loại hình sở hữu tập thể. Hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hợp tác xã Công ty hợp doanh Công ty cổ phần Công ty TNHH Doanh nghiệp tư nhân Hình 1. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 2.3 Vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nước ta. Trong nền kinh tế của các nước trên thế giới, vị trí và vai trò của DNNQD luôn thay đổi qua các giai đoạn lịch sử cùng với sự tăng giảm vai trò của chính phủ đối với hoạt động kinh doanh. Qua nhiều năm, người ta đã chứng minh những ưu thế của hoạt động kinh doanh tư nhân so với hoạt động kinh doanh của khu vực Nhà nước và nhiều nước đã thực hiện quá trình tư nhân hoá. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn về tổng sản phẩm quốc nội(GDP), về vốn đầu tư và ngày càng trở thành bộ phận có vị trí lớn và quan trọng đối với nền kinh tế mỗi nước. a. Vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Qua phần trên, ta thấy rằng doanh nghiệp ngoài quốc doanh(DNNQD) là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được trong nền kinh tế ở hầu hết các nước trên thế giới. Sự phát triển của các hình thức tổ chức kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, ở nước ta trước đây lại không công nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân làm cho khu vực này phải hoạt động chui hoặc đội lốt kinh tế tập thể. Việc coi kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội chỉ cần cải tạo nhanh thành phần kinh tế đó đã dẫn đến tình trạng gần như xoá sổ khu vực kinh tế tư nhân, phát triển ồ ạt các xí nghiệp quốc doanh dẫn đến nền kinh tế đình trệ, kém phát triển và đời sống nhân dân gặp vô cùng khó khăn. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Đại hội đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi lực lượng sản xuất, cải tiến cơ chế quản lý kinh tế là một chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đường lối đổi mới kinh tế của Đảng được khẳng định lại một lần nữa “Chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiến pháp 1992 cũng đã ghi nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân (điều 15) và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước phát triển (điều 21). Như vậy, việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong đó có DNNQD là một tất yếu và có vị trí quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược là giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm phát triển SX-KD, đảm bảo dân giàu, nước mạnh nghĩa là huy động mọi nguồn vốn, lao động và tài năng của người dân vào hoạt động SX-KD, tạo công ăn việc làm cho người dân, nâng cao thu nhập cho người lao động và cho ngân sách Nhà nước. b. Vai trò của doanh ngiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang cơ chế mới, khu vực doanh ngiệp ngoài quốc doanh được chấp nhận chính thức về mặt pháp lý thì khu vực này đã từng bước hình thành, phát triển và hoạt động trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ với mức độ khác nhau và dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Nếu như năm 1991 chỉ có 123 doanh ngiệp đăng ký kinh doanh theo luật thì năm 1993 là 12.131 doanh ngiệp và đến nay là trên 60.000 doanh nghiệp. Nộp ngân sách của khu vực này từ 51 tỷ đồng năm 1991 nâng lên 1.051 tỷ đồng vào cuối năm 1994. Số lao động bình quân trong các doanh ngiệp là 25 người vào thời điểm giữa năm 1998, trong đó có một số ít doanh ngiệp có số lao động lên tới 2.000, 5.000 thậm chí là 10.000 người. Vào năm 1999, mặc dù nền kinh tế có nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới thì khu vực này vẫn tạo ra hơn 7% GDP của cả nước và cho đến nay con số này là khoảng 9%. Qua số liệu trên có thể thấy vai trò tích cực của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh đó là: Thu hút và giải quyết việc làm cho lực lượng lớn lao động, giảm bớt sự căng thẳng dôi thừa lao động trong xã hội, góp phần tạo sự ổn định tình hình xã hội. Sản xuất một khối lượng sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng một phần nhu cầu về hàng tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, mặt khác đóng góp cho Nhà nước một khoản ngân sách không nhỏ góp phần tăng ngân sách Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, các DNNQD phải bằng mọi cách hiện đại hoá kỹ thuật, công nghệ để cạnh tranh với các doanh ngiệp trong nước, đồng thời cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới về mặt hàng, mẫu mã, giá cả nghĩa là nâng cao chất lượng hàng hoá sản xuất ra. Đó chính là sự góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Môi trường vĩ mô và ảnh hưởng của các yếu tố môi trường vĩ mô Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại và phát triển trong một môi trường nhất định, chịu sự tác động của các yếu tố môi trường. Năng lực cạnh tranh của các DNNQD cũng vậy, nó chịu sự tác động của môi trường vĩ mô từ đầy đủ mọi phương diện: chính trị, pháp luật, kinh tế, khoa học công nghệ... Môi trường chính trị - pháp lý Môi trường chính trị - pháp lý là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Môi trường chính trị - pháp lý bao gồm các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật. Trong đó quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại khách quan và vai trò tích cực của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển của các DNNQD. Từ đó mới tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như sự cạnh tranh với nước ngoài. Xuất phát từ quan điểm chính trị, Nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế xã hội và ban hành luật. Một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh chặt chẽ sẽ tạo nên một cơ chế, môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp đồng thời hạn chế các tiêu cực trong quá trình cạnh tranh, cũng chính việc thiếu một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đã gây ra hiện tượng tiêu cực xã hội như buôn lậu chốn thuế lừa đảo tham nhũng, làm hàng giả... Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế được phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung, về cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng, tỷ lệ lạm phát. Những yếu tố này có đảm bảo được ổn định cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển hay không được Nhà nước thực hiện thông qua các công cụ quản lý, trong đó các chính sách kinh tế vĩ mô là một công cụ quan trọng, bao gồm các chính sách chủ yếu sau: chính sách tài chính tín dụng, chính sách tiền tệ, chính sách về giá cả, vế đất đai, thuế và đầu tư phát triển, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách thương mại... Môi trường khoa học kỹ thuật - công nghệ Kỹ thuật - công nghệ mới bắt nguồn từ thành quả của công cuộc nghiên cức khoa học đem lại những phát minh sáng chế sáng tạo làm thay đổi bộ mặt thế giới và là một nhân tố quan trọng trong việc tạo ra thời cơ, cơ hội thị trường không hạn chế cho các doanh nghiệp. Một nền kinh tế với xuất phát điểm thấp và đang chuyển mình như Việt Nam thì khoa học kỹ thuật - công nghệ là một yếu tố vô cùng quan trọng. Kinh nghiệm một số nước về vận dụng môi trường vĩ mô đối với việc nâng cao khả năng canh tranh của các DNNQD. Kinh nghiệm của Đài Loan Với chiến lược thay thế nhập khẩu, trong thời gian đầu nền kinh tế Đài Loan đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8,2%. Với một đất nước không đông dân và sức mua yếu, chiến lược này chỉ đạt được thành công bước đầu và sau một thời gian tốc độ này đã giảm dần. Điều đó đã đưa chính phủ Đài Loan đến chỗ phải hành động để thay đổi về cơ cấu và tư duy kinh tế với việc chuyển hướng chiến lược hướng ra thị trường quốc tế. Sự thay đổi này là đúng hướng và phù hợp, thể hiện ở hiệu quả đạt được với mức tăng trưởng đạt bình quân 9,8%/năm. Cùng với sự thay đổi chiến lược này là sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư nhân. Trước đây chính phủ Đài Loan ra sức kìm hãm khu vực tư nhân, mọi nhà máy, xí nghiệp, ngân hàng đều được quốc hữu hoá. Tuy nhiên vào cuối những năm 60, khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ và đã nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sự phát triển này một phần là nhờ sự hỗ trợ của chính phủ về cơ sở hạ tầng, về việc sử dụng các nguồn vốn để cải tạo và mở rộng các ngành công nghiệp tư nhân, sự hỗ trợ về công nghệ kĩ thuật, những biện pháp khuyến khích tư nhân, hỗ trợ về thông tin, về dự báo tình hình thị trường... Chẳng hạn như về mặt hàng nông sản, Chính phủ đã hỗ trợ thông tin về thị trường xuất khẩu và kĩ thuật phát triển mặt hàng này. Và với hệ thống hỗ trợ như vậy, doanh nghiệp có thể yên tâm về thị trường đầu ra mà không lo ngại tình trạng dư thừa hay giá không ổn định. Có thể nói rằng phần lớn những khó khăn của các doanh nghiệp đã được tháo gỡ và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp đã được nâng lên đáng kể. Kinh nghiệm Hàn Quốc Trong những năm 50, tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc luôn ở mức thấp so với một số nước Đông á. Mười năm tiếp theo, những năm 60, tốc độ tăng trương đạt 9,5% với tỉ lệ xuất khẩu trên GDP tăng mạnh. Điều này thể hiện sự thay đổi chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu. Trong giai đoạn này, chính phủ độc tài của Park Chung Hee tuy tập trung khá nhiều quyền lực vào tay nhà nước nhưng đồng thời cũng có sự hỗ trợ thúc đẩy khu vực tư nhân. Trước khi chính phủ đưa ra một quyết định hay ra chính sách có ảnh hưởng tới khu vực tư nhân thì đều có sự tham gia đóng góp của khu vục này. Chính phủ cũng tham khảo ý kiến các nhà kinh tế tư nhân nên phát triển ngành công nghiệp nào, nên hỗ trợ cho ngành nào. Bên cạnh đó chính phủ còn cung cấp các dịch vụ nghiên cứu và dịch vụ kĩ thuật, cơ sở hạ tầng giá rẻ. Sự hợp tác và hỗ trợ trên rất có hiệu quả thể hiện qua sự phát triển vượt bậc của những ngành được khuyến khích (ngành điện tử, điện gia dụng, ngành đóng tàu...). Thực tế đã chứng minh mặc dù có sự can thiệp của chính phủ nhưng vấn đề tham nhũng, chậm chạp trong hành chính và cơ cấu khuyến khích không hợp lý tồn tại rất ít. Điều này đã thể hiện vai trò quan trọng của chính phủ. Phần ii Thực trạng môi trường vĩ mô ở nước ta hiện nay Các DNNQD cũng giống như tất cả các doanh nghiệp khác đều nằm trong một môi trường môi trường vĩ mô nhất định và chịu sự tác động qua lại của các yếu tố thuộc môi trường này. Mối quan hệ giữa các DNNQD với môi trường vĩ mô có thể được thể hiện theo sơ đồ sau: Môi trường Môi trường pháp luật VH-XH Môi trường Môi trường KH-CN kinh tế Khách hàng Nhà phân phối Nhà cung Đối thủ cấp cạnh tranh Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hình 2. Sơ đồ mối quan hệ giữa DNNQD với môi trường Các yếu tố của môi trường vĩ mô không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của các DNNQD thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách mà còn tác động đến mối quan hệ giữa các DNNQD với các tổ chức khác như các nhà cung cấp, nhà phân phối, đối thủ cạnh tranh, khách hàng... Dù dưới hình thức nào thì các doanh nghiệp cũng chịu tác động rất lớn từ môi trường và Nhà nước là người có ảnh hưởng mạnh nhất đến việc tạo ra môi trường đó. Môi trường vĩ mô được xét trên hai phương diện: Môi trường pháp luật và Môi trường kinh tế. Về môi trường pháp luật Môi trường pháp luật là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp. Một môi trường pháp luật ổn định, thuận lợi và bình đẳng sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào SX-KD. Trong những năm qua, nhiều văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về kinh tế nói riêng đã được ban hành nhằm thể chế hoá đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp đặc biệt là khu vực DNNQD. Năm 1990, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân được ban hành. Hai luật này đã tác động tích cực tới sự phát triển của khu vực DNNQD. Theo thống kê, đến năm 1998 đã có gần 40.000 doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn đăng ký khoảng 21.000 tỷ đồng, tạo hơn 500.000 chỗ làm việc mới. Sự xuất hiện và phát triển của khu vực doanh nghiệp này đã góp phần đáng kể vào quá trình đổi mới và phát triển kinh tế của nước ta. Sau 10 năm đổi mới, số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường đã tăng lên đáng kể, cơ chế thị trường đã hoạt động với qui mô và cường độ lớn hơn, mức độ mở cửa của nền kinh tế nước ta với bên ngoài cũng đã tăng lên rất nhiều. Trong khi đó, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân do được ban hành từ những năm đầu đổi mới nên đã không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, làm giảm đi tính linh hoạt của các nhà đầu tư trong việc lựa chọn hình thức và cơ hội đầu tư phù hợp với khả năng của họ, chưa tạo điều kiện phát huy tối đa các nguồn nội lực cho phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời, đó cũng là nguyên nhân làm giảm hiệu lực quản lý và giám sát bằng pháp luật của Nhà nước. Để khắc phục những hạn chế của hai luật kể trên thì Luật doanh nghiệp đã ra đời. Được QH thông qua ngày 12/6/1999 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2000, Luật doanh nghiệp đã tạo một bước tiến dài trong việc hình thành một sân chơi bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, luật mới cũng đã đánh dấu một bước tiến dài về chất từ chỗ qui định người kinh doanh phải xin phép chuyển sang một cách tiếp cận mới cho phép mọi người được làm những gì mà pháp luật không cấm. Những cản trở cho việc thành lập doanh nghiệp đã được rỡ bỏ, bãi bỏ yêu cầu về vốn pháp định. Do đó sau hơn 2 năm thi hành Luật doanh nghiệp (tính đến 1/5/2002) đã có 42.567 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập với số vốn mới đăng ký xấp xỉ 50.000 tỷ đồng, đồng thời tạo ra khoảng 700.000 chỗ làm việc mới. Các doanh nghiệp cũng tăng thêm đầu tư, mở rộng thêm qui mô và địa bàn kinh doanh dưới nhiều hình thức như mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, bổ xung thêm vốn đầu tư...(cả nước đã có khoảng 9200 chi nhánh và 900 văn phòng đại diện đăng ký thành lập). B._.ên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp thì các ngành nghề kinh doanh được đăng ký cũng đa dạng và phong phú hơn cũ rất nhiều. Đa số doanh nghiệp đã nhận thức được sự thay đổi về quyền kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh trên nguyên tắc được kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Cái được lớn nhất của Luật doanh nghiệp là đã tạo bước đột phá trong việc cải cách thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp ở nước ta. Trong 2 năm qua, các cơ quan Nhà nước đã bãi bỏ 175 loại giấy phép khác nhau (tức khoảng 44% tổng số giáy phép kinh doanh đã tồn tại trong nền kinh tế), thể hiện sự thay đổi căn bản về tư duy và phương thức quản lý nhà nước theo hướng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tách bạch rõ quyền SX-KD của doanh nghiệp với hoạt động quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, nhận thức và tổ chức chỉ đạo Luật doanh nghiệp trong không ít cơ quan thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước, nhất là ở cấp chính quyền địa phương còn thụ động, chưa đầy đủ và kém nhiệt tình, thậm chí có nơi còn trì hoãn, làm trái. Cho đến nay vẫn còn một số văn bản quan trọng liên quan đến triển khai Luật doanh nghiệp chưa được ban hành. Một số nơi đang làm trái với qui định của Luật doanh nghiệp bằng cách ra lệnh tạm ngừng hoặc không cấp đăng ký kinh doanh đối với một số ngành nghề không thuộc đối tượng cấm kinh doanh, đặt thêm các thủ tục hoặc yêu cầu nộp thêm hồ sơ giấy tờ trái qui định của Luật, không cấp hoặc yêu cầu rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp đang cạnh tranh với DNNN tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội kinh doanh, làm mất đi cơ hội kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Các cơ quan Nhà nước cũng chưa thiết lập được hệ thống lý lịch tư pháp phục vụ cho việc quản lý Nhà nước, trong đó có xác minh nhân thân người thành lập doanh nghiệp để thực hiện qui định về những đối tượng không được quyền thành lập doanh nghiệp (Điều 9- Luật doanh nghiệp) dẫn đến có một số đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp nhưng vẫn thành lập, một số doanh nghiệp đăng ký mà không hoạt động hoặc hoạt động tại địa điểm khác nơi đăng ký kinh doanh. Theo điều tra của phòng Đăng ký kinh doanh Hà Nội có khoảng 16% doanh nghiệp có tên trong sổ đăng ký ở Hà Nội nhưng không còn đóng trụ sở tại nơi đăng ký nữa. Qua hơn 2 năm thực thi, Luật doanh nghiệp mới chủ yếu phát huy tác dụng ở khâu đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp tức là giai đoạn gia nhập thị trường. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vẫn còn vấp phải hàng loạt trở ngại chưa được tháo gỡ từ phía các cơ quan Nhà nước. Theo các cơ quan quản lý doanh nghiệp, có đến gần 80% doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp đã không thực hiện qui định về nộp báo cáo tài chính cho cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh. Tại Tp Hồ Chí Minh, số doanh nghiệp chưa nộp báo cáo tài chính cũng chiếm đến 72%. Nếu chiếu theo đúng các qui định trong Luật doanh nghiệp, tức là sau 2 năm liên tục không báo cáo, thì đến thời điểm quí 2 năm 2002 sẽ có gần 80% doanh nghiệp trên cả nước bị rút giấy phép kinh doanh. Thế nhưng qui định này vẫn không làm số doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính tăng lên thêm chút nào. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do hướng dẫn báo cáo tài chính quá phức tạp, phần lớn các nhà quản lý không hiểu và do đó không làm được. Việc thuê người có trình độ chuyên môn để lập được báo cáo như qui định là rất tốn kém đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nội dung báo cáo tài chính theo quyết định số 167/QĐ-BTC chứa đựng những thông tin “nhạy cảm” mà đa số doanh nghiệp không muốn công bố rộng rãi trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Ngoài yếu tố khách quan nêu trên, trên thực tế cũng có không ít doanh nghiệp ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, cũng như không tuân thủ đúng các qui tắc về quản lý nội bộ theo qui định của Luật doanh nghiệp, nhất là các qui định về quyền, thẩm quyền, trình tự thẩm quyền nên đã dẫn đến một số hiện tượng tiêu cực như làm trái luật, vi phạm quyền của các thành viên, cổ đông dẫn đến mâu thuẫn nội bộ phát sinh, đổ vỡ doanh nghiệp, đình trệ SX như trường hợp của công ty TNHH gas Bình Dương, công ty cổ phần Hữu Nghị... Một đạo luật nữa cũng có tác dụng mạnh mẽ tới các DNNQD đó là Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN). Luật KKĐTTN có hiệu lực từ ngày 22/6/1994 và đã được điều chỉnh sửa đổi và bổ xung một vài lần, các văn bản dưới luật có không ít. Gần đây, ngày 23/11/2001, CP lại ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về “Trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Có thể nói theo nội dung của những văn bản pháp qui này thì các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã được tạo rất nhiều thuận lợi trong hoạt động kinh doanh và được hưởng khá nhiều ưu đãi. Tuy nhiên trên thực tế, các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin lấy ví dụ về yêu cầu “xin ưu đãi” mà pháp luật dành cho họ: Để xin được Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, trước hết doanh nghiệp phải có một báo cáo khả thi về một dự án đầu tư. Việc viết báo cáo ấy không quá khó, cái khó ở đây là phải nhất thiết thuê “chuyên gia” viết hộ, vị chuyên gia ấy phải là người của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có quyền đánh giá dự án ấy là khả thi. Tất nhiên để thuê được thì phải trả chi phí và mức phí trong trường hợp này là “miễn thoả thuận”. Chưa hết, sau khi đã nộp đơn xin ưu đãi đầu tư kèm theo báo cáo khả thi của dự án, để “sâu sát thực tế ”, các cán bộ thẩm định nhất thiết phải “khảo sát” doanh nghiệp, chi phí cho những cuộc “khảo sát” này không nhỏ. Chưa hết, sau đó phải có một “hội đồng thẩm định”. Chủ đầu tư cũng nhanh chóng được thông báo để “đóng góp kinh phí ” cho cuộc thẩm định này. Kinh phí đóng góp cũng không ít, tỷ lệ thuận với qui mô dự án nhỏ hay lớn. Thời gian làm thủ tục còn dài, một số địa phương kéo dài gấp 3 đến 5 lần thời gian qui định. Chậm trễ trong khâu xét cấp ưu đãi đầu tư ở một số địa phương là một trở ngại không nhỏ làm nản lòng các nhà đầu tư. Đối với những doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị, nguyên liệu nhập khẩu thì thủ tục xác nhận danh mục được miễn thuế nhập khẩu còn phức tạp hơn, các doanh nghiệp phải đến Bộ Thương mại trình nộp hồ sơ để xin xem xét. Chỉ riêng khâu đi lại làm thủ tục cũng đã gây ra lãng phí tiền của, thời gian, sức lực đối với các doanh nghiệp. Chính vì những khó khăn như vậy mà trong một cuộc khảo sát do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và chương trình phát triển dự án Mê Kông tiến hành thì chỉ có 18 trường hợp nộp hồ sơ xin ưu đãi trên tổng số 292 DNNQD được khảo sát và cho đến nay mới chỉ có 5 trường hợp đã nhận được Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Về cơ bản, có thể thấy ưu đãi đầu tư vẫn được điều chỉnh bởi cơ chế “xin - cho” và không phù hợp với tinh thần của Luật KKĐTTN cũng như Luật doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng còn gặp một số khó khăn khác nữa do sự mâu thuẫn, chồng chéo của các luật, của các luật với các văn bản dưới luật. Chẳng hạn như Luật Đất đai qui định điều kiện để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là có dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong khi Qui chế quản lý và đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của CP lại qui định các dự án của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh do chủ đầu tư tự quyết định. Một vấn đề nữa gây thiệt hại nhiều cho các DNNQD là có không ít cán bộ công chức, nhất là cán bộ tư pháp cán bộ điều tra, không phân biệt được ranh giới pháp lý giữa tài sản công ty là pháp nhân với tài sản của thành viên và cổ đông, không phân biệt được sự vi phạm pháp luật do thành viên, cổ đông hay giám đốc với vi phạm của công ty. Vì vậy, khi thấy cổ đông, giám đốc hay chủ tịch HĐQT có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc bị khởi tố điều tra liền phong toả niêm phong hay tịch thu tài sản của công ty khiến hoạt động của công ty đó bị ngưng trệ. Kết cục khó tránh khỏi là doanh nghiệp đó bị giải thể hoặc phá sản. Cách xử lý như trên là không tôn trọng nguyên tắc độc lập về tài sản của pháp nhân và thành viên, vi phạm nghiêm trọng đối với quyền sở hữu tài sản của pháp nhân đã được qui định tại Bộ luật hình sự. Không những hệ thống pháp luật nước ta còn chưa đầy đủ, hoàn thiện mà việc thực hiện luật pháp cũng rất kém. Nguyên nhân của việc thực hiện luật pháp kém là: Dân ta ít hiểu biết và không có thói quen tìm hiểu luật pháp. Việc xử phạt vi phạm pháp luật chưa nghiêm minh. Việc điều hành thực hiện luật pháp còn có tính chất phân tán nhưng lại tập trung quan liêu. Bộ máy hành pháp chưa mạnh. Tình trạng trên đã dẫn tới một số tệ nạn như buôn lậu và làm hàng giả phát triển. Hàng buôn lậu do trốn được thuế nên giá rẻ làm cho hàng trong nước không thể cạnh tranh nổi. Hàng giả có giá bán thấp nhưng chất lượng lại không đảm bảo, ảnh hưởng tới uy tín của các doanh nghiệp. Hai tệ nạn này đã làm cho khá nhiều doanh nghiệp bị điêu đứng do không bán được hàng. Bên cạnh các tệ nạn trên thì nạn lạm quyền và tham nhũng cũng đang là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng tới các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD. Theo một điều tra thì 20%-50% chi phí của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh là do tham nhũng, sách nhiễu gây ra. Cũng qua điều tra 100 doanh nghiệp ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh cho thấy 77% các doanh nghiệp ở Tp Hồ Chí Minh và 60% các doanh nghiệp ở Hà Nội nói là thường xuyên phải nộp các khoản ngoài nghĩa vụ quy định. Tình trạng này đã làm xói mòn lòng tin vào Nhà nước của cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước và tạo ra môi trường đầu tư, sản xuất-kinh doanh đầy rủi ro. Như vậy, môi trường pháp luật nước ta mặc dù đã có nhiều thay đổi theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp nhưng chưa được coi là thuận lợi cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNQD hiện nay. B Về môi trường kinh tế I Chính sách tài chính Chính sách tài chính được coi là chính sách của các chính sách kinh tế xã hội khác. ở đây chỉ xin đề cập đến hai loại chính sách có tác động mạnh mẽ tới các doanh nghiệp đó là chính sách tín dụng và thuế. 1 Về chính sách tín dụng Cũng như nhiều nền kinh tế đang phát triển trên thế giới, thị trường tài chính có thể chia làm hai nguồn: nguồn chính thức và nguồn phi chính thức. Với nguồn vốn chính thức, chính sách tín dụng ở Việt nam đã có phần quan tâm, chú ý đến DNNQD hơn trước,bên cạnh ngân hàng thương mại và cổ phần nhà nước, các quỹ tín dụng cung cấp tài trợ cho những doanh nghiệp này, chính phủ cũng đã cố gắng thành lập các quỹ hỗ trợ DNNQD: quỹ hỗ trợ DNNQD, quỹ hỗ trợ phát triển... Mặc dù chính sách tài chính tín dụng đã có nhiêù cố gắng và tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được với nhịp độ đổi mới chung của nền kinh tế, còn thấp xa so với đòi hỏi bức bách của nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có DNNQD. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy vốn vẫn được coi là khó khăn cơ bản đối với sự phát triển của DNNQD. Mặc dù DNNQD nói chung chiếm 97% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng nguồn vốn chỉ chiếm 30% đồng vốn của khu vực doanh nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng DNNQD đang đối mặt với khó khăn thiếu vốn cho sự hoạt động và phát triển. Mặt khác ta lại thấy rằng, theo quy định hiện hành có liên quan đến chính sách tín dụng, các doanh nghiệp kể cả DNNQD đều có thể tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng. Tuy nhiên do những hạn chế trong thể lệ tín dụng, các DNNQD không thể tiếp cận được với các nguồn tín dụng để thành lập cơ sở kinh doanh mới của mình, DNNQD gặp khó khăn trong việc sử dụng tài sản thế chấp xuất phát từ những khó khăn trong việc xin giâý chứng nhận quyền sử dụng đất và thủ tục định giá tài sản, cầm cố thế chấp. Điều này là do có sự phân biệt đối xử gây bất lợi cho các DNNQD, DNNQD không thể vay các khoản vay trung và dài hạn mà chỉ vay được trong ngắn hạn từ các tổ chức ngân hàng. Lãi suất vay nội tệ đối với các DNNN thấp còn đối với các DNNQD lại cao hơn ngoài ra còn phải vay lại của các DNNN với phụ phí cũng hết sức tốn kém điều này làm các DNNQD thiệt đủ đường. Kết quả là không mở rộng được sản xuất, trang thiết bị không được đổi mới, nguồn nhân lực không được đào tạo, năng suất thấp, chất lượng kém, giá thành cao và không thể cạnh tranh trên thị trường trong nước chưa nói đến nước ngoài và không có con đường nào khác là phá sản. Những khó khăn trong vấn đề này được liệt kê cụ thể như sau: Thứ 1: Sự không đồng bộ giữa luật ngân hàng và những luật khác như luật hình sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật thuế... Những luật này trong chừng mực nào đó đã tạo ra phiền toái trong việc cấp tín dụng. Luật đất đai đề cập đến vấn đề thế chấp, luật phá sản không hoàn toàn bảo vệ lợi ích của ngân hàng, luật dân sự tạo ra sự phiền phức trong việc buôn bán với những tài sản thế chấp trong trường hợp những tài sản này quá hạn. Ngân hàng thương mại lại bị hạn chế bởi luật ngân hàng và luật tín dụng về việc kiểm soát tổng các khoản vay quá hạn của các doanh nghiệp. Thứ 2: Việc vay mượn lại phụ thuộc vào tại sản thế chấp đây là khó khăn chủ yếu đối với các doanh nghiệp trong việc tiếp nhận vốn tín dụng. Lấy ví dụ trong trường hợp của tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy 98% DNNQD trong tỉnh có nhu cầu vay vốn từ các ngân hàng nhưng con số này giảm xuống chỉ còn 56,7% nếu các ngân hàng yêu cầu giải trình những thông tin về thế chấp. Sự cầm cố thế chấp bị hạn chế bởi thị trường bất động sản còn kém phát triển hoặc chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác vì không có cơ quan tổ chức nào chiụ trách nhiệm để đánh giá tài sản thế chấp nên những hoạt động này được thực hiện duy nhất bởi ngân hàng. Điều này dẫn đến vấn đề là ngân hàng có xu hướng muốn đánh giá thấp tài sản của doanh nghiệp, không sát với giá trị thực của tài sản theo giá thị trường do đó tạo ra sự thua thiệt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Hơn thế nữa không có luật nào xem xét đến tài sản vô hình như là loại tài sản có thể thế chấp. Bên cạnh đó, họ cũng không thể sử dụng hàng hoá của mình để thế chấp bởi vì các DNNQD thường sản xuất nhiều mặt hàng. Nhiều ngân hàng phàn nàn rằng vốn đăng ký của các doanh nghiệp tư nhân thường rất hạn chế so với quy mô sản xuất của họ trong khi đó nhu cầu vay vốn thì lớn hơn nhiều điều này làm cho họ không thể đáp ứng những yêu cần của ngân hàng trong việc cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn. Theo luật quy định thì doanh nghiệp nộp đơn phải có vốn đăng ký chiếm khoảng 30% tổng số vốn được vay. Hơn thế nữa các doanh nghiệp cũng không thể trình ngân hàng những tài liệu đúng, chính xác về tình trạng tài chính của chính mình hoặc những tài liệu này không có chứng nhận của cơ quan kiểm toán nhà nước. Điều này khiến các ngân hàng không thể tiến hành kiểm tra để cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp được . Thứ 3: Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều coi lợi nhuận là hàng đầu, tuy vậy họ vẫn cảm thấy miễn cưỡng khi phải cho các DNNQD vay. Bên cạnh đó thì chi phí giao dịch cũng không đáng kể khi tài trợ cho DNNQD, chúng cũng xấp xỉ bằng chi phí cho các doanh nghiệp lớn . Năm 2000 6 tháng năm2001 DNNQD 10,78% 4,5% Các doanh nghiệp khác 89,22% 88,5% Hình 3. Bảng phân phối nguồn vốn cho các Doanh nghiệp Nguồn: Tạp chí KTPT 7/ 2001 Điều này một lần nữa chứng tỏ rằng DNNQD chưa phải là đối tượng được các ngân hàng quan tâm. Mặc dù đứng về mặt pháp lý mà nói thì các chủ thể là bình đẳng nhưng trong thực tế thì lại không diễn ra như mong muốn. Vì vậy cần phải xem xét lại nghiêm túc vấn đề này nhằm thay đổi thái độ của xã hội đối với sự phát triển tất yếu của DNNQD. Thứ 4: Bên cạnh những hạn chế về sự hỗ trợ do DNNQD thì luật bảo lãnh tín dụng lại dường như nghiêng về phía các DNNN. DNNN với sự bảo lãnh từ các cơ quan chủ quản có thể vay mà không cần cầm cố hay thế chấp một cách dễ dàng. Hơn nữa do chính sách tiền tệ tín dụng còn nhiều bất hợp lý: hệ thống tài chính trung gian chưa phát triển. Các DNNN được lập ra là tức khắc được quyền đòi tài chính cấp vốn, đòi ngân hàng cho vay. Nợ đến hạn không trả cũng chẳng sao vì chỉ phải chuyển sang chịu phạt lãi suất nợ quá hạn, tuy có cao hơn mức lãi suất trả đúng hạn nhưng vẫn còn thấp hơn tốc độ mất giá của đồng tiền. Do đó những khoản vay ưu đãi giành cho DNNQD lại thường chảy vào những DNNN mà có mối quan hệ tốt với ngân hàng và cơ quan chủ quản của họ hơn là đến với những DNNQD. Theo thống kê chính thức năm 2000 cho thấy tỷ lệ vốn tín dụng trong tổng số vốn kinh doanh của khu vức kinh tế ngoài quốc doanh là 19% trong khi đó tỷ lệ vốn tín dụng trong kinh tế quốc doanh là 40% thậm chí có nhiều nơi lên tới 80-90%. Hầu hết các hỗ trợ của chính phủ đều dành cho kinh tế quốc doanh. Đa số các doanh nghiệp tư nhân không may mắn tiếp cận được các chính sách ưu đãi, khuyến khích của chính phủ như quỹ xuất khẩu hay vốn ưu đãi bởi vì thủ tục hành chính, giấy tờ, dấu má quá phức tạp. Theo thống kê của phòng công nghiệp và thương mại Việt nam cho thấy chỉ 10% doanh nghiệp tư nhân tiếp cận được với chính sách ưu đãi, khuyến khích của chính phủ trong đó có trên 60% nói rằng họ đã phải vượt qua nhiều cửa ải, chịu không ít tốn kém mới được may mắn nhưng kết quả cuối cùng chỉ mang lại kết quả tinh thần thay cho giá tri vật chất. Thứ 5: Thủ tục giải ngân áp dụng cho DNNQD cũng khá phức tạp. Thủ tục tối thiểu gồm các bước cơ bản sau: +Nghiên cứu khả thi +Tài sản thế chấp được công chứng bởi cơ quan công quyền +Định giá tài sản thế chấp +Nộp đơn +Giải ngân Nghiên cứu khả thi hay sự thành lập kế hoạch kinh doanh cũng lại là một vấn đề đối với DNNQD.Trong khi đó khả năng thiết kế một nghiên cứu khả thi đối với DNNQD rất hạn chế, các dịch vụ hỗ trợ thì lại kém phát triển. Hiện nay thủ tục giải ngân bao gồm 10 giai đoạn điều đó cho thấy tính phức tạp của vấn đề. Phần lớn các DNNQD cho rằng thủ tục này nên giảm xuống còn 5 là vừa : đơn xin, kế hoạch kinh doanh, hồ sơ hợp lệ của doanh nghiệp, tình trạng tài chính và chữ ký xác nhận của giám đốc . Thứ 6: Một vấn đề khác đến từ phía các doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh của họ thường không cung cấp đầy đủ thông tin cho ngân hàng để có thể đánh giá. Các kế hoạch cũng không rõ ràng về chi phí, đầu tư, công nghệ, lợi ích của dự án...dẫn đến ngân hàng mất nhiều thời gian cho việc thẩm định dự án. Các ngân hàng thì kêu ca rằng khả năng thiết lập một kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp là rất hạn chế và thường không chứng minh được tính khả thi của dự án đó. Bên cạnh đó chúng ta càng cần quan tâm đến sự thật rằng rất nhiều ngân hàng cũng thường chỉ chú ý tới tài sản thế chấp mà bỏ qua kế hoạch kinh doanh, hoặc nếu có thì lại cho rằng do trình độ của cán bộ ngân hàng yếu kém hay do tiêu cực dẫm đến không đánh giá đúng vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi cả ngân hàng và các doanh nghiệp đều không tin tưởng ở nhau làm cho ngân hàng thì ứ đọng vốn còn doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Thứ 7: DNNQD dường như không quan tâm lắm đến việc vay từ ngân hàng do lệ phí và thủ tục không rõ ràng. Các chi phí phụ đối với các DNNQD khi tiếp nhận tín dụng từ các nguồn tài chính chính thức là: Chi phí cơ hội. Chi phí cho việc công chứng tài sản thế chấp. Tài sảu thế chấp có thể bị đáng giá thấp bởi ngân hàng làm giảm khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể vay từ ngân hàng và cuối cùng họ phải đi vay từ các nguồn khác, tài sản của doanh nghiệp còn tiếp tục bị giảm giá trị khi thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp phá sản và giải thể. Đây là những tổn thất lớn cho DNNQD. Các ngân hàng thường từ chối chịu khoản phí trả chi phí này nhưng đứng về mặt nguyên tắc mà nói thì doanh nghiệp là khách nàng của ngân hàng và tất nhiên các doanh nghiệp không phải là người trả cho các khoản phí đó. Điều này cho thấy ngân hàng vẫn còn trong tình trạng tương đối độc quyền mà chưa thấy được rằng chính các doanh nghiệp là lý do tồn tại của họ. Chi phí cho tư vấn lập nghiên cứu khả thi. Chi phí ngầm cho các quan chức ngân hàng khi họ thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của doanh nghiệp hoặc trong quá trình trả tiền vay. Chi phí vô hình cho mất nhiều thời gian, công sức, thái độ tồi của các nhân viên ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ lãi suất cho vay theo cơ chế thoả thuận hiện nay là tương đối hợp lý nhưng tổng các khoản chi phí không chính thức lại vượt quá khả văng của các doanh nghiệp. Điều này dẫn tới kết cục là phần lớn các DNNQD đều tìm cách hạn chế hoạt động trong phạm vi vốn của mình làm giảm khả năng mở rộng hoạt động SX-KD. Phần lớn trong số đó đề cao nguồn vốn tự có, từ bạn bè hay gia đình. Điều này chứng tỏ các ngân hàng không và chưa được coi là nơi tin cậu để tài trợ cơ bản cho DNNQD và chính sách tín dụng vẫn còn quá nhiều hạn chế trong việc hỗ trợ DNNQD phát triển. (Đơn vị : %) Nguồn Tỉ lệ DNV &N nộp đơn xin vay tín dụng Tỉ lệ thành công Tổng các nguồn Trong đó: - Ngân hàng thương mại Nhà nước&tư nhân - Quỹ tín dụng của chính phủ - Dự án quốc tế - Gia đình bạn bè - Cá nhân ( vay lãi ) - Các nguồn khác 54,5 24,7 8,7 1,9 38,8 11,2 2,6 20,2 7,1 1,3 38,5 10,6 1,9 Hình 4. Nhu cầu và khả năng nhận được tín dụng Nguồn: Phòng công nghiệp và thương mại Việt nam Về chính sách thuế Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan xuất hiện và tồn tại trong mọi xã hội có Nhà nước. Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, làm thay đổi cung - cầu. Trong những năm vừa qua đặc biệt 3 năm gần đây khi Việt nam đang gấp rút chuẩn bị cho tiến trình hội nhập AFTA, Nhà nước ta đã không ngừng cải cách sửa đổi hoàn thiện hệ thống thuế từ đó góp phần tạo dựng môi trường vĩ mô thông thoáng cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ đặc biệt là DNNQD. Điều này được thể hiện thông qua việc Nhà nước ban hành một số luật thuế mới hoặc sửa đổi chúng sao cho phù hợp hơn bao gồm luật thuế giá trị gia tăng(GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc thực thi các qui định được đổi mới trong hai luật thuế này có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của doanh nghiệp trên cả hai mặt. Tác động tích cực Luật thuế GTGT được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11 (10-5-1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ. Trong giai đoạn đầu áp dụng luật thuế mới Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp. Thứ hai, thuế GTGT và các luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước mở rộng quy mô đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nói chung và DNNQD nói riêng. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp từ đó khuyến khích các tổ chức cá nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển SX-KD phát huy nội lực. Thứ ba, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, kích thích phát triển SX-KD hàng hoá. Luật thuế GTGT quy định một số loại hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào nên đã khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh được về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp được thay cho thuế lợi tức công ty đã mở rộng đối tượng chịu thuế với chế độ đối xử thống nhất cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Xoá bỏ chế độ lợi tức ưu đãi với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ đó đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Những tồn tại trong quá trình thực thi cần được tháo gỡ Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực các luật thuế trên đây có một số tồn tại gây khó khăn cho doanh ngiệp đặc biệt là các DNNQD. Trước hết là sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Điều này thể hiện qua sự không nhất quán trong việc xác định chi phí hợp lý và chi phí thực tế để tiến hành khấu trừ từ lợi nhuận chịu thuế và lợi nhuận bổ sung gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân. Chẳn hạn đối với một DNNN một qui định mới được áp dụng với họ là mỗi khi chi phí đầu vào mua bằng ngoại tệ tăng lên thì hàng tồn kho sẽ được tính lại để duy trì nguồn vốn nhưng qui định này không được áp dụng đối với doanh nghiệp tư nhân nên họ phải dùng nguồn vốn của chính mình để nộp thuế bất kể làm ăn có lãi hay không. Như vậy vô hình chung vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp đã khan hiếm nay càng bị ít hơn. Thứ hai là về mức thuế suất. Trong các cuộc gặp gỡ giữa thủ tướng chính phủ với các doanh nghiệp thì cũng đã không ít doanh nghiệp kêu ca phàn nàn về mức thuế thu nhập doanh nghiệp 32% so với thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp như hiện nay là cao. Đồng thời xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp tư nhân trước khi thay đổi luật thuế chịu thuế suất thấp nay lại phải chịu mức thuế suất cao hơn, điều này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong SX-KD. Thứ ba là các qui định trong hệ thống thuế vẫn còn phức tạp, rườm rà thiếu tính chặt chẽ và mang tính chắp vá. Chẳng hạn riêng trong vấn đề thực thi thuế GTGT cũng đã nảy sinh ra bao vấn đề cần tháo gỡ: + Việc khấu thuế GTGT và xét giảm thuế. Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá chịu thuế và không chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp. Những quy định khấu trừ khống và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá thiếu tính đồng bộ. Chẳng hạn việc đánh thuế cửa nhôm được công ty Việt Châu nêu lên trong cuộc gặp gỡ với doanh nghiệp do cục thuế Tp Hồ Chí Minh tổ chức. Đó là ngành xây dựng cũng như ngành xản xuất cơ khí phục vụ dân dụng giảm 50% thuế GTGT (còn 5%) trong khi đó trường hợp chỉ cung cấp và lắp đặt cửa nhôm thì phải chịu thuế GTGT với mức thuế suất là 10%. + Về phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn trong nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết song trên thực tế lại nảy sinh những điều bất cập, gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ thuế đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp; gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế hoặc xảy ra tình trạng thuế chồng thuế. + Về xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Thuế suất hàng nhập khẩu, nhất là đối với nguyên nhiên vật liệu còn quá cao. Việc áp dụng mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. Do vậy, nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc kê khai và hoàn thành thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng chậm chễ trong việc hoàn thuế. Chính sách đất đai Đất đai là một yếu tố sản xuất không thể thiếu của mỗi doanh nghiệp. Để đầu tư sản xuất trước hết các doanh nghiệp phải có một quỹ đất nhất định. Nói chung quỹ đất dùng cho SX-KD là không nhỏ. Trên mảnh đất của mình các doanh nghiệp sẽ tiến hành xây dựng nhà xưởng, đầu tư máy móc trang thiết bị và đi vào hoạt động SX-KD. Do đó, nếu quỹ đất của mỗi doanh nghiệp là ổn định thì quá trình SX-KD sẽ nhanh chóng được tiến hành và phát huy hiệu quả.Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng may mắn có được quỹ đất đáp ứng được nhu cầu và ổn định trong quá trình hoạt động, đặc biệt là các DNNQD. Về thủ tục xin giao đất hoặc cho thuê đất đối với DNNQD. Theo điều 13 của nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2000 của CP về việc sửa đổi, bổ xung một số điều về qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban kèm theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của CP đối với các dự án SX-KD của tư nhân, tổ chức kinh tế không phải là DNNN có yêu cầu giao đất hoặc thuê đất thì chủ đầu tư phải có đơn đề nghị kèm theo dự án SX-KD đã được chấp thuận về địa điểm, diện tích đất cần có của dự án và làm thủ tục giao đất hoặc thuê đất theo qui định của pháp luật về đất đai hiện hành. Trên thực tế, việc thuê đất lại là một quá trình hết sức phức tạp, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh... Khó khăn đầu tiên khi các DNNQD đi thuê đất là các thủ tục quá phiền hà và rắc rối. Hiện không có một cơ quan chuyên trách nào quản lý các vấn đề liên quan đến đất đai. Do vậy, doanh nghiệp phải chờ phê duyệt của rất nhiều cơ quan quản lý địa phương. Theo số liệu từ một chuyên đề nghiên cứu tư nhân, để thuê được đất, doanh nghiệp phải chờ từ 3 đến 8 tháng. Một số doanh nghiệp nói rằng họ phải chờ lấy “dấu đỏ” của hơn 20 bộ phận khác nhau. Tất nhiên đi kèm với nó sẽ có nhiều khoản chi phí không chính thức tương ứng với mỗi con dấu. Một minh chứng cho việc rườm rà, phức tạp của các thủ tục liên quan đến đất đai là: Luật đất đai qui định điều kiện để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là dự án đã được cấp có thẩm quyền “phê duyệt”. Trong khi Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08-7-1999 của chính phủ qui định dự án của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh do chủ đầu tư tự quyết định. Ngay cả nghị định 12/2000/NĐ-CP của CP về việc sửa đổi bổ xung một số điều của qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 52 đã nêu trên mới qui định rõ về việc UBND cấp có thẩm quyền của địa phương “chấp thuận” về địa điểm đất của dự án để làm thủ tục thì mới có cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, nghị định này lại qui định thêm một điều kiện phi thực tế là dự án đầu tư SX-KD đã được chấp nhận trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong khi từ tháng 1/2000 luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành đã bãi bỏ thủ tục nộp dự án, phương án đầu tư ban đầu trong hồ sơ đăng ký kinh doanh. Tất cả những sự chồng chéo không hợp lý này đã cản trở sự năng động của các DNNQD. Không thuê được đất, không quỹ đất, không có đất các doanh nghiệp phải chờ đợi quá lâu để có thể tiến hành hoạt động SX-KD của mình. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNNQD. Về công tác quản lý đất đai của các cấp chính quyền: Về qui hoạch sử dụng đất, điều 6 nghị định 51 có qui định “UBND tỉnh, TP trực thuộc trung ương định kỳ hàng năm công bố qui hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, công bố quĩ đất chưa sủ dụng , quĩ đất đang có nhu cầu cho thuê để các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký nhận thuê”. Song c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0086.doc