Một số giải pháp huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank

LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập và phát triển, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ và đã đạt được những thành tựu nhất định. Các lĩnh vực ngành nghề càng ngày càng phát triển và được hiện đại hóa. Hệ thống ngân hàng thương mại cũng vậy, là một trung gian tài chính có chức năng làm cầu nối cho những nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đến tay những người đang cần vốn, ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ thanh toán làm cho hoạt động thanh toán của khách hàng

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trở nên tiện lợi và linh hoạt hơn rất nhiều. Có thể nói hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Được thành lập trong giai đoạn đất nước đang bắt đầu đổi mới, trong 16 năm qua cùng với chiến lược đúng đắn, ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank với sự kết hợp của công nghệ hiện đại và chất lượng con người đã đạt nhiều thành công nhất định và đang trên con đường trở thành ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam. Với bất kì một ngân hàng nào nguồn vốn cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Tăng cường nguồn vốn huy động được sẽ đảm bảo cho hoạt động thanh toán, cho vay và đầu tư của ngân hàng. Bởi vậy sau một thời gian thực tập tại ngân hàng Techcombank, em đã chọn đề tài nghiên cứu: ”Một số giải pháp huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương Techcombank ” Mục đích của đề tài là tìm hiểu các hoạt động huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank để tìm ra những mặt thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của chúng. Qua đó đưa ra một số giải pháp tích cực về công tác huy động vốn để có thể tăng cường hoạt động huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng. Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và khá phức tạp nhưng thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên báo cáo này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo hướng dẫn thạc sĩ Bùi Thị Lan và các anh chị, cô chú trong phòng kế hoạch – tổng hợp đã giúp đỡ em hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 :NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Nguồn vốn của ngân hàng thương mại Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Với tư cách trung gian tài chính, ngân hàng có nhiệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi và sử dụng những khoản này để cho vay. Các ngân hàng sẽ trả lãi suất cho người gửi tiền và tính lãi cao hơn đối với khách hàng vay tiền. Khoản chênh lệch giữa hai mức lãi suất này được sử dụng một phần để bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng, phần còn lại là lợi nhuận. Ngoài ra, chức năng quan trọng thứ hai của ngân hàng làm nó khác biệt với các trung gian tài chính khác là cung cấp dịch vụ thanh toán. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử. Từ các khái niệm cho thấy ngân hàng luôn tìm kiếm lợi nhuận bằng cách nhận tiền gửi và sử dụng những khoản tiền này để cho vay. Vì thế các ngân hàng luôn tìm cách để gia tăng số vốn của mình. Vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác, nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau. Vai trò của nguồn vốn thương mại là rất lớn, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, Biểu hiện của vốn trong kinh doanh ngân hàng chủ yếu bằng tiền. Cơ cấu nguồn vốn của NHTM có thể được chia thành bốn nhóm : Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn huy động, nguồn đi vay và các nguồn khác. Trong đó nguồn vốn chủ sở hữu và nguốn vồn huy động là hai loại vốn chủ yếu được ngân hàng sử dụng trong các hoạt động của mình Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những gía trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lí bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn có vai trò bảo vệ người gửi tiền: Trong hoạt động của ngân hàng luôn gặp phải những rủi ro khó kiếm soát, các tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn chủ sở hữu. Vì thế nếu quy mô của vốn chủ sỏ hữu lớn thì khách hàng sẽ cảm thấy an tâm hơn. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng, tùy thuộc tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể gồm có: nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. 1.1.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng được yêu cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Khi ngân hàng bước vào hoạt động thì nguồn vốn này được thể hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết bị, dự trữ…, và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng các lọai hình ngân hàng, vốn điều lệ cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng từng hình thức sở hữu. Bảng 1: Vốn pháp định của các ngân hàng STT Loại hình tổ chức tín dụng Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2008 2010 Ngân hàng 1 Ngân hàng thương mại a Ngân hàng thương mại Nhà nước 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng B Ngân hàng thương mại cổ phần 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng C Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng D Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng Đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD 2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng 3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng 4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng 5 Ngân hàng hợp tác 1.000 tỷ đồng tỷ đồng 1.1.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có thể gia tăng vốn chủ sở hữu theo các phương thức khác nhau tùy vào điều kiện cụ thể: Nguồn bổ sung từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm … 1.1.1.3. Các quỹ Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Các quỹ của ngân hàng thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ. Nguồn vay nợ có thể chuyển thành cổ phần Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu dài hạn cũng thuộc vốn chủ sỡ hữu mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một khoản nợ, tuy nhiên phần này thường bị giới hạn và quản lí chặt chẽ, Nguồn vốn huy động Nguồn vốn huy động là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn (hơn 50%) trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên được thực hiện là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Đặc điểm của nguồn vốn này là phải thanh toán cho khách hàng khi họ yêu cầu ngay cả khi chưa đến kì hạn thanh toán. Đề gia tăng khối lượng tiền gửi và thêm chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau. Kèm theo đó là các dịch vụ, giải thưởng và khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng. Nguồn vốn huy động gồm các khoản như tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và cá nhân, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, vốn huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi… Nguồn vốn đi vay Tỷ trọng của nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền huy động. Khi các ngân hàng đã sử dụng hết vốn mà vẫn không đủ để hoạt động thì sẽ phải đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với ngân hàng nhà nước, hoặc giữa NHTM với nhau, với các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường. Nguồn vốn này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng nó sẽ đảm bảo cho ngân hàng hoạt động thông suốt. Các nguồn khác Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác. 1.1.4.1. Nguồn ủy thác NTHM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng . 1.1.4.2. Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C...) Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. 1.1.4.3.Nguồn khác : Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả... 1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn 1.2.1.1. Bổ sung vốn cho hoạt động đầu tư Ngân hàng làm cầu nối giữa những người dư tiền muốn khoản tiền của mình sinh lời một cách an toàn và những người muốn thực hiện những dự án đầu tư của mình nhưng thiếu vốn ban đầu. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng sẽ tập trung được nguồn tiền nhàn rỗi trên thị trường để cho vay các nhà đầu tư với lãi suất cao hơn. Nguồn tiền trong thị trường sẽ được luân chuyển và thông qua ngân hàng mọi người đều có thể đạt được mục đích của mình. Người gửi tiền thông qua lãi suất kì hạn gửi đã làm sinh sôi khoản tiền của mình so với ban đầu một cách an toàn và hiệu quả hơn so với việc đầu tư vào những danh mục khác có đội rủi ro cao như đầu tư vào vàng, bất động sản, chứng khoán… nhất là khi kinh tế thế giới đang lâm vào suy thoái khủng hoảng khiến nhu cầu giảm mảnh và khiến việc đầu tư trở nên rủi ro hơn bao giờ hết. Việc gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng là một biện pháp an toàn đối với những người không muốn chấp nhận rủi ro. Bên cạnh đó, những nhà đầu tư sẽ nhận được tiền để phục vụ cho hoạt động đầu tư của mình. Trong bất cứ lĩnh vực kinh doạnh nào thì yêu cầu về vốn cũng là yêu cầu đầu tiên, tuy nhiên không phải bất kì một doanh nghiệp hay nhà đầu tư nào cũng có thể đáp ứng được điều này. Vì thế vay tiền của ngân hàng sẽ là một giải pháp khả thi. Với một mức lãi suất định kì chấp nhận được, các nhà đầu tư sẵn sang vay tiền của ngân hàng để nhận được số vốn mình mong muốn để phục vụ cho hoạt động đầu tư của mình. Thời hạn vay tiền thường khá dài và mức lãi định kì mà ngân hàng yêu cầu bắt buộc sẽ được chi trả bằng lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của khách hàng. Tại Việt Nam, trong nỗ lực kích cầu của chính phủ, các ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay của mình xuống rất thấp để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể vay được tiền. 1.2.1.2 .Đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng Ngân hàng là loại đối tượng kinh doanh hàng hóa đặc biệt- tiền tệ nên có thể nói vốn đóng vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đầu tiên để có thể thành lập 1 ngân hàng yêu cầu bắt buộc phải có một số vốn pháp định. Nhưng để có thể hoạt động và phát triển ngân hàng cần phải có hoạt động huy động vốn mạnh mẽ và hiệu quả. Nguồn tiền gửi thu được từ hoạt động huy động vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong nguồn tiền của ngân hàng (> 50%). Thông qua khoản chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận. Ngoài ra, một ngân hàng trường vốn sẽ tạo được uy tín qua hoạt động sẵn sằng chi trả và thanh toán cho khách hàng. Khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao, một ngân hàng ít vốn sẽ bị khó khăn trong việc chi trả, ngược lại một ngân hàng trường vốn vừa đảm bảo được việc cho vay với các nhà đầu tư vừa sẵn sàng cho hoạt động thanh toán cho khách hàng nhờ nguồn dự trữ vốn lớn của mình và vì thế sẽ tạo được uy tín ngày càng cao. Với lượng vốn lớn, ngân hàng có thể mở rộng quy mô hoạt động, trình độ nghiệp vụ và phương tiện kỹ thuật của mình, cạnh tranh với các ngân hàng khác và ngày càng phát triển, còn các ngân hàng nhỏ và ít vốn thì quy mô hoạt động kinh doanh, khoản mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn, thậm chí không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nghiêp. Họ sẽ mất khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. 1.2.1.3. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô Một vai trò rất quan trọng nữa của hoạt động huy động vốn đó chính là ổn định kinh tế vĩ mô. Khi lượng tiền dư thừa trong thị trường quá nhiều khiến giá cả tăng cao và nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát, thông qua việc điều chỉnh lãi suất tăng lên, các ngân hàng sẽ thu hút được một khối lượng tiền lớn trong lưu thông và qua đó sẽ giảm lạm phát. Tuy nhiên việc tăng lãi suất của ngân hàng khiến ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn do song song với việc tăng lãi suất huy động thì ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay, điều này làm cho các nhà đầu tư cảm thấy khó khăn trong việc chi trả và sẽ hạn chế đi vay ở ngân hàng và do đó làm cho ngân hàng hoạt động khó khăn hơn. Trong năm 2008 vừa qua, thực hiện yêu cầu của chính phủ trong việc thắt chặt tiền tệ, các nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng được phát huy tối đa bằng các sản phẩm huy động với lãi suất ưu đãi, đảm bảo những giá trị lợi ích cao nhất cho khách hàng. Lãi suất huy động của nhiều ngân hàng đã tăng lên rất cao, có nơi hơn 20 % đã thu hút được lượng tiền rất lớn trong lưu thông và qua đó đã ngăn chặn lạm phát ở nước ta. 1.2.2. Các hình thức huy động vốn 1.2.2.1. Theo đối tượng huy động a. Huy động vốn từ dân cư Huy động vốn từ dân cư là hoạt động huy động chủ yếu của ngân hàng. Nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư sẽ được sinh lời khi gửi tiền. Gửi tiền ở ngân hàng còn là một hoạt động đầu tư an toàn, vì lãi suất định kì sẽ làm sinh lời số tiền đã gửi. So với các loại đầu tư khác như đầu tư vào vàng, chứng khoán hay bất động sản… có độ rủi ro cao thì gửi tiền vào ngân hàng sẽ là một lựa chọn an toàn đối với những người có tâm lí thận trọng không thích rủi ro hoặc những người không có nhiều kiến thức về kinh tế để có thể tham gia vào các hoạt động đầu tư khác như các bà nôi trợ, những người già… Do nhu cầu sử dụng khác nhau nên các NHTM luôn tìm mọi cách để đa dạng hóa nguồn vốn huy động từ dân cư bằng cách đa dạng hóa các sản phẩm, các loại kì hạn ngắn hạn theo tuần, theo tháng… Huy động vốn từ dân cư thường có các hình thức : + Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời, tuy mỗi khoản tiết kiệm đều nhỏ lẻ nhưng với khối lượng lớn khách hàng, đây là nguồn tiền ổn định và có lãi suất cao. + Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán cho các hoạt động tiêu dùng của mình mà không cần dung đến tiền mặt. Tiền gửi thanh toán cũng có tính chất giống như tiền gửi không kì hạn, tức là khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà họ cần, vì thế ngân hàng ở thế bị động và rất khó có kế hoạch cụ thể cho loại hình này. Lãi suất của loại tiền gửi này thường rất thấp hoặc không có. Tuy nhiên thông qua các loại hình thanh toán đa dạng và nhanh gọn của ngân hàng sẽ khiến cho khách hàng cảm thấy hài lòng và nâng cao được uy tín của ngân hàng. Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác Đây là khoản tiền các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tín dụng và các tổ chức xã hội khác gửi vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán hoặc tiết kiệm. Với mỗi tài khoản lượng vốn thường là rất lớn nhưng không có tính ổn định bằng nguồn vốn huy động từ dân cư do nó phụ thuộc vào tình hình thu chi biến động của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Theo loại tiền huy động a. Huy động bằng nội tệ Do quá trình tích lũy thu nhập và gửi tiền nhằm mục đích thanh toán và tiết kiệm nên khách hàng thường gửi tiền bằng nội tệ. Nguồn tiền này chiếm tỉ trọng lớn. Có thể chi ra làm 3 loại: + Tiền gửi bằng nội tệ của dân cư: Đây chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm, nguồn này có quy mô lớn nhưng tăng trưởng không ổn định. Nhược điểm huy động tiền gửi tiết kiệm có lãi suất huy động bình quân cao, kì hạn tiển gửi danh nghĩa của người dân thường ngắn(kì hạn nhỏ hơn 12 tháng). Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn, khả năng dịch chuyển kì hạn dư nợ, kết quả kinh doanh và giảm sức cạnh tranh của NHTM. + Tiền gửi bằng nội tệ của các TCKT- XH: Nguồn tiền này cũng có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động. Tiền gửi này thường là tiền gửi giao dịch hoặc có kì hạn ngắn. hưởng lãi suất thấp. Nếu ngân hàng huy động được nhiều để cho vay và đầu tư thì không những kéo dài được chênh lệch lãi suất hai đầu trần và sàn, giảm được chi phí vốn bình quân, tăng lợi nhuận. + Tiền gửi bằng nội tệ của các TCTD khác: Nguồn này có quy mô, cơ cấu nhỏ trong tổng nguồn tiền gửi bằng nội tệ. Nguồn tiền gửi của các TCTD khác thường có mức độ tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong thanh toán, ngân hàng cũng không sử dụng nhiều nguồn này để cho vay và đầu tư. Huy động bằng ngoại tệ Do nhu cầu trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu hoặc do tỷ giá hối đoái thay đổi có lợi nên nhiều khách hàng gửi vào ngân hàng vốn bằng ngoại tệ. Tuy nhiên lãi suất của loại này thường không cao do thường có sự thay đổi về tỉ giá. Có 3 loại: + Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư: Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ luôn bị tác động mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế và tình trạng khan hiếm tiền đồng VND. + Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCKT-XH: Đây chủ yếu là các khoản tiền gửi trong thanh toán, tiền gửi có kì hạn ngắn thường từ 1-3 tháng. + Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD khác: Nguồn tiền này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số vốn huy động bằng ngoại tệ. Tại Việt Nam đối tượng cho vay chủ yếu là các NHTM nhà nước 1.2.2.3. Theo thời gian huy động a. Không kì hạn: Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người ta phân chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy + Tiền gửi thanh toán: đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến hành thanh tóan, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khỏan chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khỏan phải trả cho ngân hàng một khỏan phí. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản: tài khỏan tiền gửi thanh tóan và tài khỏan vãng lai. Đối với tài khỏan tiền gửi thanh tóan, việc rút tiền hay chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích thanh tóan và sử dụng dễ dàng, thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và trong một giới hạn nhất định được gọi là hạn mức thấu chi. + Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: đây là khoản tiền của doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu. Hình thức gửi tiền này không được ngân hàng cho phép phát hành séc. Nói chung, tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng phản ánh mối quan hệ kinh tế, pháp lý giữa ngân hàng với người gửi tiền nên giữa ngân hàng với người gửi tiền phải tuân thủ quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi do Thống đốc NHNN ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đồng thời chủ tài khoản phải làm thủ tục mở tài khoản và đăng kí mẫu chữ ký của chủ tài khoản đối với khách hàng là cá nhân, mẫu chữ ký chủ tài khoản và kế toán trưởng, mẫu con dấu đối với các khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức xã hội tại các ngân hàng mở tài khoản. Ngân hàng được từ chối thanh toán nếu người gửi tiền vi phạm quy định quản lý tài khoản thanh toán và chế độ chứng từ kế toán ngân hàng. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kì hạn một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản. Khi đã đảm bảo khả năng thanh toán của mình, ngân hàng có thể sử dụng tồn khoản vào làm vốn kinh doanh. Ngắn hạn Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản huy động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ hạn theo ngày, tuần, tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường cao. Theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng là 11% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền thường được khách hàng ưa chuộng nên chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động. Trung và dài hạn Do ngân hàng chủ yếu là cho vay dài hạn nên để nâng cao khả năng thanh khoản cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM thường huy động các nguồn tiền trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (từ 60 tháng trở lên). Do kỳ hạn dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền này thường cao. Theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền có chi phí cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn so với nguồn ngắn hạn trong tổng nguồn vốn huy động và thường được cho vay, đầu tư vào các dự án có tính khả thi cao. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.3.1.Các nhân tố khách quan 1.3.1.1. Hàng lang pháp lí Hành lang pháp lý ở đây có thể hiểu là các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các NHTM như: luật NHNN, luật các tổ chức tín dụng,… Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả hạn mức cho vay của NHTM đối với khách hàng. Tất cả các văn bản luận này đều có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Sự can thiệp của NHNN khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay từ NHNN. Đồng thời, nó còn có tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong việc huy động vốn vay từ NHNN. 1.3.1.2 . Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp,... có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mức tăng trưởng của nền kinh tế quyết định đến thu nhập của người lao động. Khi nền kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống làm cho thu nhập của người lao động tăng lên; khi đó, họ sẽ có các khoản tiền nhàn rỗi phát sinh sau khi đã trang trải đủ cho các nhu cầu sinh hoạt, từ đó họ sẽ nghĩ tới khả năng gửi tiền để tích luỹ cho các nhu cầu tài chính cho tương lai. Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển không ổn định, thường xuyên có lạm phát hoặc khủng hoảng kinh tế; khi đó, người dân sẽ thích đầu tư vào vàng, bất động sản hay các loại ngoại tệ mạnh khác hơn là gửi tiền vào ngân hàng. Lúc này, ngân hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn hơn bằng cách tăng lãi suất huy động để có thể thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi từ dân cư. Tâm lí thói quen tiêu dùng của khách hàng Thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng của người dân ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Ở nơi nào mà người dân có thói quen tiết kiệm chi tiêu ở hiện tại để phục vụ cho nhu cầu trong tương lai thì ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi đó và ngược lại. Bên cạnh đó, thói quen tiêu dùng cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Nếu như ở những vùng dân cư quen sử dụng tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì công tác huy động vốn của các ngân hàng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thì trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng cao. Họ bây giờ gửi tiền vào ngân hàng không chỉ với mục đích hưởng lãi mà còn có mục đích sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp như các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, séc, thẻ tín dụng, thẻ rút tiền,...Và khi thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng của người dân được hình thành thì các NHTM sẽ có cơ hội lớn hơn trong việc huy động vốn từ dân cư. Đối thủ cạnh tranh Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, hệ thống các NHTM cũng như bản thân các ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thách thức và nhiều đối thủ cạnh tranh cả trực tiếp lẫn gián tiếp; trong nước và nước ngoài. Những đối thủ này với nhiều hình thức huy động vốn đa dạng và lợi ích mang lại cho khách hàng lớn hơn sẽ làm giảm thị phần của ngân hàng; do đó, làm giảm lượng vốn huy động được của ngân hàng. Khi người dân sở hữu các khoản tiền nhàn rỗi, họ có rất nhiều lựa chọn khi quyết định gửi tiền vào hệ thống NHTM. Họ có thể lựa chọn gửi vào ngân hàng này hay ngân hàng khác, lựa chọn hình thức gửi này hay hình thức gửi khác sao cho phù hợp với mục đích sử dụng của họ. Hơn thế nữa, họ có thể sử dụng khoản tiền đó để đầu tư vào bất động sản, thị trường chứng khoán hoặc có thể mua vàng tích trữ,...Các ngân hàng mang lại cho người gửi tiền nhiều lợi ích hơn sẽ thu hút được nhiều khách hơn đến với ngân hàng của mình, và điều này sẽ làm giảm đi đáng kể lượng vốn huy động được từ các ngân hàng khác 1.3.2. Các nhân tố chủ quan 1.3.2.1. Quy mô, uy tín của ngân hàng Trong thời điểm nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt trực tiếp từ các ngân hàng khác hoặc gián tiếp từ các doanh nghiệp đầu tư khác. Quy mô và uy tín của ngân hàng sẽ quyết định xem vị thế của họ trong cuộc đua. Khách hàng có rất nhiều lựa chọn đầu tư để có thể sinh lãi từ vốn của mình, có thể là gửi tiền vào ngân hàng, mua vàng, bất động sản hay đầu tư vào sàn chứng khoán…, dân trí cũng ngày càng phát triển nên có thể nói chính những gói sản phẩm hấp dẫn, công nghệ hiện đại và sự phục vụ tận tình chu đáo với một phong cách chuyên nghiệp sẽ lôi kéo được các nhà đầu tư. Các dịch vụ ngân hàng Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện khả năng của mình. Có như vậy, NHTM mới thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình. Không những thế, ngân hàng còn phải đưa ra được các dịch vụ kèm theo tốt và đa dạng để tăng lợi thế cạnh tranh. Với nhiều tiện ích kèm theo, sẽ giúp ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội. Qua đó, tạo thêm nhều mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn giữa các ngân hàng và khách hàng. Chính sách lãi suất Là một nhân tố quan trọng, có tác động mạnh đến việc huy động vốn của NHTM; đặc biệt là đối với các khoản vốn mà người gửi đầu tư vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Chính sách lãi suất bao gồm các chính sách, quyết định liên quan đến lãi suất của một ngân hàng trong một thời kỳ nhất định. Đối với các NHTM, lãi suất huy động vốn có tác động trực tiếp đến tâm lý, hành vi người gửi tiền. Nếu lãi suất ngân hàng lớn hơn lãi suất đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế sẽ kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng vào ngược lại. Bởi lẽ lợi nhuận là một trong những yếu tố quan tâm hàng đầu của mỗi khách hàng, vì thế nên ở đâu có lãi suất hấp dẫn, vốn sẽ được đầu tư nhiều vào đó. Hoạt động Marketing của ngân hàng Marketing ngân hàng là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc đưa hình ảnh của ngân hàng gần gũi hơn với dân chúng. Hoạt động Marketing ngân hàng tốt sẽ giúp ích nhiều trong việc đưa khách hàng đến gần hơn với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, từ đó có thể huy động vốn một cách hiệu quả. Các ngân hàng phải vận dụng đồng bộ chính sách Marketing hỗn hợp bao gồm chính sách giá cả, sản phẩm, phân phối… Đối với các sản phẩm dịch vụ cần phải tạo nên sự khác biệt, độc đáo, mới lạ để thu hút sự chú ý của khách hàng. Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu thị trường kĩ càng để có thể đưa ra chính sách Marketing đối với từng đối tượng khách hàng một cách phù hợp. Hoạt động Marketing hiệu quả sẽ nâng cao hình ảnh của ngân hàng, từ đó thu hút được nhiều đối tượng khách hàng hơn. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG TECHCOMBANK 2.1. Khái quát về ngân hàng Thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank. 2.1.1. Qúa trình thành lập Được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Hiện nay ngân hàng có hội sở chính tại 70-72 Bà Triệu. 2.1.2. Thương hiệu Techcombank . Hai hình._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2069.doc
Tài liệu liên quan