Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB)

Chương 1: cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại và những nhân tố ảnh hưởng 1.1 Nội dung và vai trò của cho vay tiêu dùng. 1.1.1 Quá trình hình thành nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại Quan sát hoạt động mua bán thông thường người ta thấy trên thực tế có hiện tượng sau phát sinh: người tiêu dùng có mong muốn sử dụng hàng hoá trước khi có khả năng thanh toán. Đó là nhu cầu tất yếu của con người phát sinh trong cuộc sống hàng ngày. Lúc còn trẻ, con người cần đi lại nhiều

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hơn, khi đó có một chiếc ôtô thì giá trị sử dụng rất cao nhưng lại không có tiền mua. Đến khi có tuổi mới tiết kiệm đủ tiền để mua sắm thì nhu cầu đi lại không còn nhiều nữa. Vậy tại sao ta không hưởng thụ ngay từ bây giờ những thứ ta chắc chắn kiếm được trong tương lai? Cũng một ví dụ khác tương tự: bây giờ ta cần tiền để đi học đại học, nhưng hiện tại ta lại không có tiền thì ước mơ đi học để có việc làm tốt sau này sẽ trở nên xa vời. Trong khi đó, ta biết rằng, nếu học đại hoc xong thì khi ra trường ta có thể dễ dàng tìm việc hơn, kiếm tiền nhanh hơn và nhiều hơn. Vậy tại sao ta lại không thể sử dụng số tiền mà ta có thể kiếm được trong tương lai để đầu tư cho việc học tập trong hiện tại? Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán, đó thực sự đó là một vấn đề cần được quan tâm. Trên thực tế đã diễn ra hai cách giải quyết mâu thuẫn nói trên: Cách thứ nhất đó là mua bán chịu, cách này có nhiều bất lợi đối với người bán vì người bán thu hồi vốn chậm, lại gặp phải nhiều rủi ro. Hình thức mua bán chịu chỉ khả thi trong trường hợp người mua có uy tín, có khả năng thanh toán trong tương lai và người bán được tổ chức khác tài trợ vốn. Cách thứ hai, cách này làm người mua vay được tiền nên có đủ khả năng thanh toán, cách này vừa thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà nhà sản xuất cũng bán đựơc hàng và thu hồi được vốn ngay. Như vậy, là cần đến một tổ chức thứ 3 thực hiện việc cho vay đối với người mua hoặc hỗ trợ cho người bán. Sẽ không có một tổ chức nào đảm nhận được vị trí này bằng các tổ chức trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là các ngân hàng thương mại. Thực hiện cho vay tiêu dùng là ngân hàng đã mở rộng hoạt động kinh doanh thu được lợi nhuận – mục tiêu quan trọng nhất của các tổ chức kinh tế. Tóm lại cho vay tiêu dùng là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu của thị trường nhằm giải quyết các vấn đề: người tiêu dùng có nhu cầu tiêu dùng vượt qua khả năng thanh toán hiện tại, người bán mong muốn tiêu thụ được hàng hoá và người có tiền mong muốn tìm kiếm thu nhập từ hoạt động này. Đó là ba lí do chính hình thành nên nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng thương mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ và rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng Bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong biệc giành giật thị trường tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành, tiềm năng. Một trong những nguyên tắc cơ bản khiến cho ngân hàng có vị trí thống trị trên lĩnh vực cho vay tiêu dùng là ngân hàng không ngừng khai thác nguồn tiền gửi dân cư và coi đây là nguồn vốn quan trọng nhất. Rất nhiều hộ gia đình sẽ không muốn gửi tiền vào một ngân hàng nếu họ không thấy được rằng mình sẽ có triển vọng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu. Do vậy, nhiều ngân hàng lớn đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cấp tín dụng chính trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của cho vay tiêu dùng đã chậm lại do nền kinh tế thế giới phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất. Chiến lược cho vay tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong các dịch vụ ngân hàng cũng như trong quản lý ngân hàng. Xu hướng này diễn ra bởi vì cho vay tiêu dùng không chỉ là một trong những khoản mục mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng mà còn bởi vì người tiêu dùng với trình độ dân trí ngày càng cao sẽ vay nhiều hơn để nâng mức sống bản thân và đáp ứng các kế hoạch chi tiêu trên cơ sở triển vọng về thu nhập trong tương lai. Trong tương lai, cho vay tiêu dùng sẽ hướng theo mục tiêu về sự thuận tiện, ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nhận được khoản vay sớm hơn trong khi vẫn duy trì được sự kiểm soát đối với món vay tiêu dùng để tránh những giảm sút đáng kể về chất lượng tín dụng. Đây cũng chính là xu hướng chủ yếu mà hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ phát triển trong tương lai. 1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và các loại cho vay tiêu dùng. 1.1.2.1 Khái niệm Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như : nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế....trước khi họ có đủ khả năng tài chính để hưởng thụ. 1.1.2.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng Do cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình nên nó có đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng nói chung. Cụ thể: - Khách hàng vay là cá nhân và các hộ gia đình - Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. - Khách hàng vay tiêu dùng thường ít quan tâm đến lãi suất mà thường quan tâm đến số tiền họ phải thanh toán. - Về lãi suất, do quy mô các khoản vay thường nhỏ (trừ những khoản vay để mua bất động sản) dẫn đến chi phí cao. Do vậy, lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất cho vay thương mại. - Các nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của người này. - Những khách hàng có việc làm, mức thu nhập ổn định và có trình độ học vấn là những tiêu chí quan trọng để ngân hàng thương mại quyết định cho vay. 1.1.2.3 Các loại hình cho vay tiêu dùng a/ Căn cứ vào mục đích cho vay Cho vay tiêu dùng cư trú ( Residential morage loan): là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở cá nhân, hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng không cư trú ( Nonresidential morage loan): là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí.... b/ Căn cứ vào hình thức cho vay Cho vay tiêu dùng trực tiếp ( Direct consumer loan): là loại cho vay trong đó khách hàng trực tiếp xin vay, nhận tiền vay và trực tiếp trả nợ ngân hàng. Gồm có các hình thức sau: - Cho vay tiêu dùng trả theo định kỳ - Theo hình thức thẻ tín dụng: là nghiệp vụ tín dụng mà trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho những người có tài khoản ngân hàng có đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. Cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu điểm sau: Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng. Bên cạnh đó, tại thời điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được hạn chế. Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp. Khi khách hàng co quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp ( Indirect consumer loan): là loại tín dụng được thực hiện bằng cách ngân hàng mua các phiếu bán hàng của các cửa hàng bán lẻ. Như vậy, chính là cách tài trợ bán hàng trả góp của ngân hàng. Nó được thực hiện một trong hai cách sau: Cách 1: (1) Người mua Người bán (2) (4) (3) (5) Ngân hàng thương mại Với: Người mua trả trước từ 20% đến 30% giá trị của tài sản (2) Người bán giao tài sản cho người mua, nhưng vẫn nắm quyền sở hữu tài sản. (3) Người bán giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng và phiếu bán hàng để thế chấp tài sản (4) Ngân hàng trả tiền cho người bán (5) Người mua trả góp cho ngân hàng theo định kỳ và mức đã định Người mua Người bán (1) Cách 2. (4) (3) (5) (2) Ngân hàng thương mại Với : (1) Người mua mua chịu hàng hoá và giao kỳ phiếu cho người bán (2) Người mua kí quỹ cho ngân hàng từ 20% đến 30% giá trị tài sản và cam kết thế chấp tài sản (3) Ngân hàng chiết khấu kỳ phiếu của người bán giao (4) Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua (5) Người mua trả góp cho ngân hàng theo định kỳ và mức đã định với hình thức cho vay gián tiếp có một số ưu điểm sau: - Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng. - Cho phép ngân hàng tiết giảm được chi phí trong cho vay. - Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác. Bên cạnh một số ưu điểm, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số nhược điểm sau: - Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu - Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá. - Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao. Do những nhược điểm trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tiêu dùng chặt chẽ. Cho vay tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện thông qua các phương thức sau: - Tài trợ truy đòi toàn bộ: theo phương thức này khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, Công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu, khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng. - Tài trợ truy đòi hạn chế: theo phương thức này, trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng với công ty bán lẻ. Dưới đây là các khoản thoả thuận thường gặp trong trường hợp truy đòi hạn chế: * Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường hợp nếu người mua chịu không đủ tiền để trả trước một số tiền nhất định khi mua chịu hoặc không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do ngân hàng đề ra. * Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu cho đến khi ngân hàng thu hồi được một số lượng các khoản nợ nhất định đúng hạn. * Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn theo một tỷ lệ nhất định so với tổng số nợ trong một thời hạn nhất định. * Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn trong phạm vi số tiền dự phòng ký gửi tại ngân hàng. Thường số tiền dự phòng được trích từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà công ty bán lẻ bán cho người mua chịu và chi phí tài trợ mà ngân hàng tính cho công ty bán lẻ. Đây là trường hợp được các ngân hàng áp dụng phổ biến nhất. Số tiền dự phòng ký gửi tại ngân hàng có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi người mua chịu không trả nợ hoặc trả nợ trước hạn. - Tài trợ miễn truy đòi: theo phương thức này sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng nhiều rủi ro cao cho ngân hàng nên chi phí tài trợ thường được ngân hàng tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được kén chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những công ty bán lẻ rất được ngân hàng tin cậy mới áp dụng hình thức này. - Tài trợ có mua lại: khi thực hiện cho vay tiêu dùng gián tiếp theo phương thức niễm truy đòi hoặc truy đòi một phần nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì ngân hàng thường phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì ngân hàng có thể bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán, kèm với tài sản đã được thụ đắc trong một thời hạn nhất định. c/ Căn cứ vào phương thức hoàn trả Cho vay tiêu dùng trả góp: đây là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau: - Loại tài sản được trả nợ: thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ ngân hàng thường chú ý đến điều này, nên ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Vì rằng, với những loại tài sản này người tiêu dùng sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài. - Số tiền phải ứng trước: Thông thường, ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trứơc một phần giá trị tài sản cần mua sắm. số tiền này được gọi là số tiền trả trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ trong nhiều trường hợp ngân hàng đành phải đắc thụ hoặc phát mại tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò quan trọng giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro. Số tiền trả trước nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Loại tài sản: đối với tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và ngược lại, đối với tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít. + Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng: tài sản sau khi đã sử dụng nếu vẫn có thể tiếp tục mua bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp, ngược lại nếu tài sản đã qua sử dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiến trả trước có xu hướng cao hơn. + Môi trường kinh tế + Năng lực tài chính của người đi vay - Chi phí tài trợ: chi phí tài trợ là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng. - Điều khoản thanh toán:khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau: + Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập, trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng. + Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi. + Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ thường theo tháng. Bởi vì, thông thường nguồn trả nợ chính của người vay tiêu dùng là thu nhập nhận được hàng tháng. + Thời hạn trả nợ không nên quá dài. Thời hạn trả nợ bị giới hạn bởi thời hạn hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối. + Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi định kỳ có thể được tính bằng một trong các phương pháp sau: * Phương pháp gộp: đây là phương pháp thường được áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp, do tính chất đơn giản và dễ hiểu của nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi định kỳ. Công thức tính toán như sau: T = V + L n Với : L = V x r x n Trong đó: T : số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn L : Chi phí tài trợ, bao gồm lãi vay phải thanh toán vì các chi phí khác có liên quan. V : Vốn gốc n : số kỳ hạn r : lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn. * Phương pháp lãi đơn: theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ được tính đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi định kỳ được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu ngân hàng. * Phương pháp hiện giá: theo phương pháp này, số tiền gốc và lãi mà người đi vay phải thanh toán được tính theo phương pháp hoàn trả theo niên kim. Công thức tính số tiền phải trả theo từng kỳ: a = V(1+i)n i V(1+i)n -1 Trong đó: a : số tiền gốc và lãi phải trả theo từng kỳ nhất định V : số vốn gốc ban đầu i : lãi suất cho vay n : số kỳ hạn trả nợ + Vấn đề phân bổ lãi cho vay theo thời gian:khi sử dụng phươong pháp gộp để tính, các ngân hàng thường tiến hành phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện theo định kỳ gắn liền với các kỳ thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện theo quý hay theo năm tài chính. Tuy nhiên,việc phân bổ lãi cho vay theo năm tài chính thường được các ngân hàng áp dụng nhiều hơn. + Vấn để trả nợ trước hạn:Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn mà không bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương pháp hiện giá thì vấn để rất giản đơn, người đi vay phải thanh toán toàn bộ số vốn gốc còn thiếu và lãi vay hiện tại cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu tiền trả góp được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì phương pháp gộp, lãi được tính trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng tín dụng. Cho nên, nếu khách hàng trả nợ trước thời hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ giả định ban đầu và như vậy số tiền lái phải trả cũng có sự đổi thay. Trong trường hợp này, ngân hàng thường áp dụng các phương pháp giống như phân bổ lãi vay nói trên. Cho vay tiêu dùng phi trả góp: theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chi một lần khi đến hạn. thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài. Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương pháp nay, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm đựơc từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dung. 1.1.3 Vai trò của cho vay tiêu dùng 1.1.3.1 Đối với người tiêu dùng: Nhìn chung, có một số nhu cầu được xem là mục tiêu phấn đấu của cả đời người, đó là những nhu cầu mà bất kỳ một người bình thường nào cũng cố gắng biến nó trở thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Như nhu cầu mua nhà, tiện nghi sinh hoạt, các phương tiện đi lại.... ngoài ra, là các nhu cầu mà con người thoả mãn càng sớm càng tốt. Chẳng hạn, nhu cầu về học hành của họ hay con cái họ, các nhu cầu phát sinh khi chuẩn bị một công việc làm ăn mới. Trong một đời người của cải được tích luỹ dần theo thời gian. Tuỳ điều kiện mỗi người, nhưng thông thường việc mua sắm đầy đủ các tiện nghi trong gia đình thường mất khoản thời gian dài. Khi đó lợi ích cảm nhận từ việc hưởng thụ đều có xu hướng giảm dần. Cho nên, người tiêu dùng luôn tìm cách phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán hiện tại, tương lai(tìm cách hưởng thụ trước số tiền sẽ có được trong tương lai) Chính vì những nguyên nhân trên, việc ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ đem đến cho ngừời tiêu dùng những lợi ích nhất định. Ta có thể khẳng định rằng người tiêu dùng là người được hưởng lợi trực tiếp và nhiều nhất những lợi ích mà hình thức cho vay tiêu dùng mang lại. 1.1.3.2 Đối với nhà sản xuất Lợi ích đối với nhà sản xuất kinh doanh là gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm vốn được thu hồi và quay vòng nhanh từ đó đem lại lợi nhuận mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng hị trường khi đó nhà sản xuất thuê thêm công nhân tăng thu nhập cho người lao động. Vậy là cho vay tiêu dùng lại gián tiếp mang lại lợi ích cho xã hội. Nhưng đồng thời, cho vay tiêu dùng tạo sự cạnh tranh cao hơn giữa các nhà sản xuất, giữa các nhà kinh doanh cả về số lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm. Một mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn, qua đó tạo sự năng động cho nền kinh tế. 1.1.3.3 Đối với Ngân hàng thương mại Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi, cung cấp dịch vụ thanh toán và cho vay. Các ngân hàng thương mại song song với nỗ lực huy động vốn là khai thác tối đa thị trường tín dụng, nghĩa là đáp ứng tốt nhất nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng đối với các cá nhân có quy mô nhỏ nhưng số lượng khách hàng tiềm năng và sự đa dạng của nhu cầu lại vô cùng to lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng gần như là vô tận, đó là nền tảng vững chắc của ngân hàng khi tiến hành cho vay tiêu dùng. Lãi suất thực ngân hàng áp dụng trong loại hình cho vay là rất cao, điều này khiến cho hoạt động cho vay tiêu dùng có tỷ suất lợi nhuận không nhỏ. Hơn nữa, xu thế hoạt động của các ngân hàng thương mại là phát triển đa năng tổng hợp, luôn tìm cách mở rộng các nghiệp vụ cũng như đưa ra các sản phẩm mới. Việc thực hiện và phát triển cho vay tiêu dùng vừa mở rộng được khách hàng cho vay, sử dụng nguồn vốn huy động một cách có hiệu quả, vừa đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Từ đó ngân hàng tăng cường sức mạnh trong cạnh tranh đồng thời tạo ra những nét đặc trưng hấp dẫn riêng. 1.1.3.4 Đối với nền kinh tế Một trong những chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của xã hội là mức sống của người dân. Cho vay tiêu dùng giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống bằng cách sử dụng các hàng hoá, dịch vụ khi chưa có đủ khả năng thanh toán. Thị trường cho vay tiêu dùng đã tạo nên sự sôi động của nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, tạo sức hút vốn đầu tư nước ngoài. Với cho vay tiêu dùng mà các ngân hàng thương mại cung cấp chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực sản xuất, cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp, thị trường hàng hoá nội địa phát triển. Nếu cho vay tiêu dùng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song, nếu các khoản cho vay tiêu dùng không được dùng như vậy thì chẳng những không kích được cầu mà nhiều khi còn làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước. Tóm lại, hoạt động cho vay tiêu dùng là một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế. Dù cho là bên nào: người tiêu dùng, người cung cấp, ngân hàng thương mại hay tổng quan nền kinh tế nói chung đều được hưởng lợi ích từ hoạt động này. Vì nó là một hoạt động tất yếu khách quan và đóng vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội hiện nay. 1.2 Mở rộng cho vay tiêu dùng và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng 1.2.1 Mở rộng cho vay tiêu dùng a/Khái niệm Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, bất cứ một tổ chức kinh tế nào muốn tồn tại và phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi tổ chức kinh tế đó phải không ngừng mở rộng và cải thiện chất lượng các sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường. Khi nói đến việc mở rộng cho vay, người ta sẽ nghĩ đến việc làm thế nào để mở rộng hoặc tăng quy mô, khối lượng tức là nói đến sự phát triển theo chiều ngang vì vậy thông thường mở rộng cho vay thường được hiệu là sự gia tăng đơn thuần về doanh số hay mức dư nợ cho vay tiêu dùng trong một thời kỳ nhất định. Việc mở rộng cho vay tiêu dùng thể hiện bằng nhịp độ gia tăng tổng dư nợ tín dụng năm sau so với năm trước. Đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng được thể hiện: - Đối với khách hàng cho vay tiêu dùng phải đa dạng hoá các loại hình, phương thức cho vay nhằm thoả mãn được tối đa các yêu cầu hợp lý của khách hàng. - Đối với nền kinh tế cho vay tiêu dùng phải đáp ứng được yêu cầu bức xúc về vốn của nền kinh tế, là kênh dẫn vốn gián tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch một khối lượng lớn các nguồn lực tài chính, trợ giúp ngân sách nhà nước thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. - Đối với ngân hàng thương mại: cho vay tiêu dùng luôn được coi là mặt trận hàng đầu, là khâu then chốt và chiếm tỷ trọng hợp lý trong toàn bộ hoạt động tín dụng cuả ngân hàng thương mại. b/ Một số chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng. - Doanh số cho vay tiêu dùng: là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng tiêu dùng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối, phản ánh chính xác về hoạt động cho vay tiêu dùng trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động qua các năm. Do đó, nếu kết hợp được doanh số cho vay tiêu dùng của nhiều thời kỳ thì ta cũng sẽ thấy được một phần nào về xu thế hoạt động cho vay tiêu dùng. - Tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng: Dư nợ cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế nhằm mục đích tiêu dùng tại một thời điểm nhất định. Dư nợ cho vay tiêu dùng năm nay = Dư nợ cho vay tiêu dùng năm trước + Doanh số cho vay tiêu dùng năm nay - Doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng năm nay. Tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu tương đối thể hiện bằng nhịp độ gia tăng tổng dư nợ cho vay tiêu dùng năm sau so với năm trước. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng ngày càng cao không có nghĩa chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng đó càng cao. 1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng Đối với các ngân hàng có chiến lược trở thành ngân hàng bán lẻ thì cho vay tiêu dùng là hoạt động kinh doanh quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng. Vì vậy, việc xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng là hoàn toàn cần thiết. Sau đây là các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng cho vay tiêu dùng. 1.2.2.1 Nhóm nhân tố Vĩ mô. Một số nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng có thể kể đến như là môi trường kinh tế – xã hội, yếu tố văn hoá, môi trường pháp lý, các chính sách kinh tế nhà nước. + Môi trường kinh tế – Xã hội: mà đặc trưng của nó là trình độ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người và mức sống của dân cư cùng với yếu tố kinh tế – xã hội khác. Chính môi trường kinh tế- xã hội có những tác động đáng kể đến quy mô cho vay tiêu dùng. + Môi trường văn hoá: quyết định hành vi đi vay của người tiêu dùng. Quyết định vay tiêu dùng của dân cư phụ thuộc và nhiều yếu tố như : thói quen tâm lý, trình độ dân trí, bản sắc dân tộc (thể hiện qua các nét tính cách tiêu biểu của người dân như tính cần cù, trung thực, ham lao động và tằn tiện hay ưa thích hưởng thụ..) + Môi trường pháp lý: là một nhân tố có tác động sâu rộng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng, môi trường pháp lý tác động đến tính trật tự, tính ổn định và tạo điều kiện để hoạt động cho vay tiêu dùng được diễn ra thông suốt, phát triển vững chắc, hạn chế những rắc rối có thể nảy sinh, tổn hại đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng và thậm chí còn tổn hại đến lợi ích quốc gia. ở nhiều nước, đặc biệt là những nước phát triển đã có luật cho vay tiêu dùng và hoạt động cho vay tiêu dùng cũng rất phát triển. + Các chính sách nhà nước: cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu nhà nước tăng đầu tư hay đưa ra các chính sách, biện pháp thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài như điều tiết lãi suất thấp, giảm các thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tư... một mặt nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, mặt khác làm giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động từ đó mức sống của người dân cũng nâng cao. Đây rõ ràng là một tiền đề thuận tiện để phát triển cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, cá chính sách nhà nước như chính sách thuế thu nhập, chính sách ưu đãi đối với hộ nghèo vay vốn, tín dụng tín chấp cho nông dân... trước mắt và lâu dài đều ảnh hưởng đến mức cầu cho vay tiêu dùng. 1.2.2.2 Nhóm nhân tố vi mô Những nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng trong pham vi ngân hầng bao gồm các nhân tố khách quan đến từ phía khách hàng như đạo đức người vay, khả năng tài chính của khách hàng, tài sản đảm bảo và những nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng như chất lượng cán bộ tín dụng, kỹ thuật và thủ tục thẩm định. a/ các nhân tố khách quan: + Trong nhóm nhân tố khách quan là nhóm nhân tố tác động đến cho vay tiêu dùng ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Trước hết, phải kể đến là đạo đức của người vay, được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. đây được coi là yếu tố tác động lớn đến hành vi trả nợ. Vì rằng, ngay cả khi một người vay có nguồn thu nhập khả thi để trả nợ, thậm chí đưa ra những tài sản bảo đảm tốt nhưng đạo đức lại không tốt thì cũng không hứa hẹn một thái độ thiện chí khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Cần lưu ý ở đây là đạo đức của khách hàng tron._.g lĩnh vực ngân hàng, tức là ngoài đức tính tốt của khách hàng thì ngân hàng còn quan tâm tới sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng, ý muốn kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện tất cả các giao ước trong hợp đồng tín dụng. + Khả năng tài chính của khách hàng là một nhân tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng nói riêng. Phần lớn các món vay này được xác định nguồn hoàn trả là thu nhập thường xuyên của khách hàng trong tương lai, ngoại trừ tín dụng ngắn hạn. Khách hàng có thu nhập cao, việc thanh toán nợ ngân hàng càng ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác, đặc biệt các chi tiêu thông thường hay thiết yếu của gia đình người vay và ít ảnh hưởng tới tình hình tài chính của gia đình thì khoản tín dụng càng trở nên an toàn hơn. Khi cho vay tiêu dùng, việc quy định mức cho vay nhất thiết phải căn cứ trên các nguồn hoàn trả của khách hàng, thực ra đó là tình hình tài chính của khách hàng. + Tài sản bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ 2 ngoài nguồn thu nợ thứ nhất trong trường hợp khách hàng không trả nợ đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, mang tính dự phòng rủi ro, do vậy nó cũng góp phần làm tăng mức an toàn cho khoản tín dụng của ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Tuy tài sản là một trong những tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất, không phải yếu tố quyết định cho vay. Với khách hàng có nguồn trả nợ không chắc chắn tư cách không tốt thì tài sản bảo đảm cho vay có ý nghĩa quan trọng tới chất lượng của khoản vay. a/ Các nhân tố chủ quan + Nếu như đạo đức của người vay được xếp vào vị trí hàng đầu trong những nhân tố khách quan thì đạo đức nguời tín dụng cũng được xếp lên vị trí đầu tiên trong nhóm các nhân tố chủ quan. Nếu cán bộ tín dụng không có đạo đức nghề nghiệp thì dù có giỏi mấy cũng vô giá trị. Vì tư lợi cá nhân họ sẵn sàng làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng. Tuy nhiên, chỉ xét đạo đức thôi không đủ, cán bộ tín dụng còn phải có trình độ nghiệp vụ cao, trình độ hiểu biết sâu rộng thì mới thẩm định chính xác để từ đó có quyết định tín dụng đúng đắn. Sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của một ngân hàng thương mại chủ yếu do chính nội lực của ngân hàng quyết định, nhân tố quyết định đến định hướng phát triển của ngân hàng, nếu ngân hàng không có một chiến lược tổng thể và phát triển cho vay tiêu dùng thì cũng có nghĩa là không có động lực nào từ chính ngân hàng dành cho sự phát triển của hoạt động này +Nội quy làm việc của ngân hàng và chế độ thưởng phạt công bằng cũng có những ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Trước hết, yếu tố này tác động đến phong cách làm việc của cán bộ nhân viên ngân hàng. Ngoài ra, bằng các kích thích vật chất có thể khuyến khích cán bộ tín dụng quan tâm và dành nhiều nỗ lực hơn, phát huy hết khả năng của minh. + Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp là một trong phương thức quan trọng lôi kéo khách hàng. Tuy nhiên, sự tồn tại của các kỹ thuật và thủ tục này không phải vì mục đích đó mà vì để đưa ra các đánh giá đúng đắn về khách hàng và các khoản tín dụng, từ đó có các quyết định cho vay một cách chuẩn xác. Một hệ thống các thủ tục và kỹ thuật được xây dựng một cách khoa học, hợp lý và được thực hiện nghiêm chỉnh là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng của các khoản cho vay. + Ngoài ra quy mô vốn của ngân hàng cũng là một yếu tố giữ vai trò quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Một ngân hàng thương mại cũng giống như một doanh nghiệp muốn tiến hành kinh doanh phải có vốn. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có nhiều khả năng thực hiện và mở rộng các hoạt động, các loại hình sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, đầu tư vào các công nghệ hiện đại từ đó tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thương trường, đồng thời bảo đảm được an toàn, hạn chế được rủi ro trong hoạt động. 1.3 Một số kinh nghiệm cho vay tiêu dùng và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 1.3.1 Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng ở Mỹ Vào những năm 1980, hệ thống ngân hàng thương mại của Mỹ phải tiến hành cải cách với lý do dưới sức ép của cạnh tranh, về việc thực hiện nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại gặp nhiều bất lợi. Trong thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã tạo ra những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ,dân số hoc,luật pháp và chính nó cũng góp phần vào sự thay đổi về dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời cũng làm giảm vai trò của các ngân hàng thương mại trong hệ thống tài chính dẫn đến sự thay đổi cơ cấu trong các ngân hàng. Môi trường cạnh tranh thay đổi một cách nhanh chóng, cùng với nó là việc các ngân hàng không còn duy trì được khả năng cạnh tranh như trước. Đặc biệt cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng bắt đầu vào những năm 1970 khi các nhà môi giới lập ra “thị trường tiền tệ bán lẻ” dẫn đến cuộc cạnh tranh giữa các công ty tài chính tiêu dùng, các công ty thương mại với các ngân hàng. Do đó, đến đầu những năm 1980 trước đòi hỏi của các ngân hàng về một “lĩnh vực tham gia ở mức độ cao hơn”. Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ mới. Cùng với thời gian, hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng đã thay đổi. Nếu như trước đây các ngân hàng chỉ giới hạn phạm vi hoạt động trong cho vay thương mại thì ngày nay họ đã mở rộng thêm hoạt động cho vay tiêu dùng đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng vào những năm 1930. Cải cách lớn nhất trong lĩnh vực tài chính trong thời gian này là việc các quy định về kiểm soát tiền tệ và các qui định khác đối với các tổ chức tài chính làm nhiệm vụ ký thác đã được ban hành thành luật. Sắc luật này cho phép các ngân hàng tiết kiệm công cộng liên bang được kinh doanh, hợp tác và có các quan hệ cho vay với các doanh nghiệp nhận tiền ký thác được tiến hành cho vay tiêu dùng và cung ứng các dịch vụ khác. Như vậy hệ thống ngân hàng Mỹ đã có sự cải tổ để nâng cao tính cạnh tranh không chỉ với các tổ chức tài chính trong nước mà với cả các tổ chức nước ngoài. Từ đó cho vay tiêu dùng đã ra đời và chính thức được công nhận như một nghiệp vụ của ngân hàng. đến năm 1987 sau khoảng 7 năm ban hành luật này, các ngân hàng mỹ đã cung cấp 80% khối lượng tín dụng tiêu dùng, trong đó 45% dựa trên cơ sở cho vay trả góp, ngày nay cho vay tiêu dùng đã phát triển mạnh theo xu thế chung của nền kinh tế thế giới. 1.3.2 Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng ở Trung quốc. Đối với Trung quốc thì các điều kiện để phát triển cho vay tiêu dùng Trung quốc đã chín muồi. Thu nhập quốc nội đầu người của Trung quốc đạt 800 USD/1năm và nhu cầu nhà ở tư nhân dự kiến tăng trong tương lai. Tiêu dùng ôtô tăng sau khi Trung quốc xoá bỏ những thuế quan quan trọng phù hợp với các tiêu chuẩn của WTO. Về mặt kỹ thuật, công nghệ xử lý số liệu đã được sử dụng rộng rãi và có thể hỗ trợ cho việc xây dựng một hệ thống báo cáo tín dụng quốc gia. vì vậy các ngân hàng đã quan tâm đến cho vay tiêu dùng, nhưng đây vẫn là mảnh đất màu mỡ đối với các ngân hàng ở Trung quốc Sự phát triển cho vay tiêu dung ở Trung quốc: Các khoản cho vay tiêu dùng được bắt đầu ở Trung quốc vào giữa những năm 1980 và phát triển nhanh kể từ năm 1998. Vào năm 1998, chính phủ Trung quốc bắt đầu thực hiện một số chính sách tài chính chủ động và chính sách tiền tệ nới lỏng vừa phải để thúc đẩy nhu cầu trong nước và duy trì tăng trưởng kinh tế. Một phần quan trọng trong chính sách này là khuyến kích phát triển các khoản cho vay tiêu dùng, bao gồm các khoản cho vay mua nhà và cho vay sinh viên. Phù hợp với sự khuyến khích của chính phủ, ngân hàng trung ương Trung quốc đã ban hành những quy định cụ thể về các khoản cho vay tiêu dùng. kể từ năm 1998, ngân hàng đã ban hành 18 văn bản chính sách để phát triển các khoản cho vay tiêu dùng. Với những rào cản đã được dỡ bỏ và các điều kiện bên ngoài chín muồi, các khoản cho vay tiêu dùng đã phát triển với tốc độ rất nhanh. Vào cuối năm 1997,các khoản cho vay tiêu dùng của Trung quốc đạt 17,2 tỷ NDT (2,07 tỷ USD), chiếm 0,3% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng của cả hệ thống ngân hàng. Số lượng các khoản cho vay tiêu dùng lên tới 646,4 tỷ NDT(77,88 tỷ USD) vào tháng 10/2001 gấp 38 lần con số của 1997. Tỷ trọng cho vay tiêu dùng cũng tăng lên tới 6% trong tổng dư nợ tín dụng của cả hệ thống ngân hàng. Tại Trung quốc, các khoản cho vay tiêu dùng cũng đã được sử dụng ngày càng nhiều để mua hàng hoá, trong đó chủ yếu là để mua nhà ở. Trong thời gian qua chính phủ Trung quốc đã đầu tư khá nhiều vào việc phát triển nhà ở đô thị. Đồng thời, do nhu nhập của người dân tăng lên và hàng triệu người đang có nhu cầu mua nhà ở, nên các khoản cho vay mua nhà trả chậm chiếm tới 90% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng ở Trung quốc và đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 30%/ năm. vào tháng 10/2001 số dư của các khoản cho vay mua nhà ở Trung quốc là 511,8 tỷ NDT(1,66tỷ USD). Giả sử, mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay mua nhà trả chậm vẫn được duy trì như hiện nay thì các ngân hàng có thể thu lợi khoảng 100 triệu NDT mỗi năm. Đây là lĩnh vực kinh doanh khá lớn, tự do và ít chịu tác động chính trị, là một trong các llĩnh vực mà ngân hàng Trung quốc có thể dựa vào để bắt đầu xây dựng mô hình kinh doanh thực sự cho 5 năm tới. Các khoản cho vay sinh viên chiếm vị trí thứ hai trong các loại hình cho vay tiêu dung. Vào tháng 9/2001 :4,03 tỷ NDT các khoản cho vay sinh viên đã được cấp cho 1,074 triệu sinh viên tốt nghiệp. Bên cạnh đó, các khoản cho vay tiêu dùng cũng được sử dụng để mua ôtô và nhiều vật dụng khác trong nhà. Cho vay mua nhà trả chậm sẽ được ưu tiên hơn vì chúng ít rủi ro hơn so với các hình thức khác của cho vay tiêu dùng. các ngân hàng thương mại Trung quốc đang được khuyến khích cấp các khoản vay cho các gia đình có mức thu nhập trung bình và thu nhập thấp. Ngân hàng trưng ương Trung quốc cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại phải cải thiện dịch vụ của họ bằng cách củng cố công tác quản lý nội bộ và cải thiện dịch vụ ngân hàng. *Những khó khăn trong việc phát triển cho vay tiêu dùng ở Trung quốc. - Thu nhập không ổn định, sự giảm sút trong thu nhập của những người nông dân và một bộ phận dân thành thị trong những năm gần đây đã làm giảm kỳ vọng của họ vào thu nhập trong tương lai, do đó tác động tiêu cực đến sự phát triển của lĩnh vực cho vay tiêu dùng. - Trung quốc chưa thành lập hệ thống thông tin tín dụng cá nhân, chưa có hệ thống xác nhận chứng minh của người dân, hệ thống đánh giá tài khoản cá nhân, nguồn thu nhập, tài sản cá nhân cũng như tình trạng tín dụng trong quá khứ. Ngoài ra, Trung quốc cũng chưa có hệ thống đăng ký tài sản gia đình - Hệ thống bảo hiểm thương mại chưa tham gia vào lĩnh vực cho vay tiêu dùng. - Một số quy định liên quan đến cho vay tiêu dùng chưa hoàn thiện. Ví dụ, những quy định hiện hành về bảo lãnh chưa có đủ các điều khoản liên quan đến cho vay tiêu dùng, gây khó khăn cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn cách thức bảo lãnh khi muốn vay một khoản cho vay tiêu dùng. Sự phát triểm chậm chạp của thị trường bất động sản thứ cấp và phí đăng ký quá cao cũng cản trở người tiêu dùng. Ngoài ra, việc bán các quyền tài sản đối với những ngôi nhà đã được dùng làm tài sản thế chấp cũng rất khó khăn. Bên cạnh đó, thuế và phí đối với ôtô cũng rất cao, ở một chừng mực nào đó đã hạn chế nhu cầu tín dụng tiêu dùng. - Cấu trúc tài sản của các ngân hàng cũng chưa hợp lý ở chỗ: thời hạn của các khoản cho vay mua nhà thường trên 10 năm, thậm chí tới 30 năm, trong khi nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn lớn nhất cũng là 5 năm. Trước những khó khăn đó Trung quốc đã đưa ra Các chính sách tăng cường cho vay tiêu dùng: Như hoàn thiện việc xây dựng hệ thống tín dụng cá nhân, theo đó ngân hàng Trung ương sẽ thúc đẩy việc xây dựng hệ thống này trong toàn hệ thống tài chính ở Trung quốc và sẽ sớm đưa ra những quy định về các khoản vay mua nhà trả chậm cũng như các quy định về phát hành trái phiếu. Trên cơ sở này, những ngân hàng thương mại có đủ tiêu chuẩn sẽ được phép phát hành trái phiếu nhà ở để mở rộng tín dụng mua nhà trả chậm đồng thời hạ thấp rủi ro khả năng thanh toán của các ngân hàng. Ngoài ra, chính phủ cũng tiến hành các biện pháp để tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là nông dân, phát triển cơ sở hạ tầng để giảm giá điện và giá các dịch vụ viễn thông. 1.3.3 Bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào việt Nam. Thứ nhất,cần phải Cải thiện dịch vụ cho vay tiêu dùng vì điều này không những giúp các ngân hàng trong việc tránh các thách thức từ các đối thủ cạnh tranh mà còn là chìa khoá để thúc đẩy tiêu dùng trong nước, giúp duy trì tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc. Các khoản cho vay tiêu dùng cũng thúc đẩy cả đầu tư: Ví dụ khi chính phủ khuyến khích người dân mua nhà và xoá bỏ hệ thống cũ về phân phối trợ cấp nhà ở. Một số lượng lớn các khoản cho vay mua nhà trả chậm đã thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực bất động sản. Một chức năng khác của khoản cho vay tiêu dùng là chúng có thể cải thiện chất lượng tài sản của các định chế tài chính. Thực tế, ở Trung quốc cho thấy, tháng 10/2003 số dư cho vay mua nhà ở của 4 ngân hàng thương mại là 872,4 NDT tương đương 12% tổng dư nơ của 4 ngân hàng thương mại này. Trong tổng số các khoản cho vay tiêu dùng, nợ khó đòi chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ hơn 1% so với chung là 26,6% tổng dư nợ của các ngân hàng này. Thứ hai,cần phải sớm ban hành đầy đủ những chính sách, qui định liên quan đến cho vay tiêu dùng,và để phát triển cho vay tiêu dùng, ngân hàng NN cần tích cực tăng cường xây dựng các hệ thống thích hợp và các chính sách hỗ trợ. Thứ ba, NHNN cần đưa ra một số biện pháp để kiểm soát rủi ro của các khoản cho vay tiêu dùng, như quy định các giới hạn chặt chẽ hơn trong việc cấp các khoản cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Một trong những biện pháp quan trọng nhất là thành lập hệ thống đánh giá chất lượng tín dụng trên toàn quốc. Bằng việc phân loại các hồ sơ tín dụng, các định chế tài chính có thể hạ thấp rủi ro khi cấp các khoản cho vay tiêu dùng đến các cá nhân. Vì Cho vay tiêu dùng là một hình thức tín dụng còn khá mới mẻ với cả người tiêu dùng và ngân hàng nên hậu quả của vấn để rủi ro chưa thể hiện đầy đủ. Hầu hết, các khoản cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay trung dài hạn, nên khả năng trả nợ phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng gia đình, sức khoẻ và công việc của người đi vay. Một số ngân hàng không có đầy đủ đánh giá về rủi ro tiềm năng cũng như kinh nghiệm để ngăn chặn rủi ro. Chương 2 thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế. 2.1 Tổng quan về hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế 2.1.2 sơ lược về quá trình hình thành và phát triển VIB Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Vịêt Nam (tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc tế – VIB, tên tiếng anh là: Viet Nam International Bank ) được thành lập theo quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/01/1996 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Cổ đông sáng lập Ngân hàng Quốc Tế bao gồm các cá nhân và doanh nhân hoạt động thành đạt tại Việt nam, trên trường quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Vịêt nam Là một ngân hàng bán lẻ nên Ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định. Từ khi bắt đầu hoạt động từ ngày 18/ 09/1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng việt nam. Sau đó, do nhu cầu phát triển VIB đã tiếp tục tăng vốn điều lệ tính đến ngày 31/ 12/2005 số vốn điều lệ lên tới 250 tỷ đồng với tổng tài sản có đạt trên 4.100 tỷ đồng tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2004 Với khoảng thời gian 10 năm hoạt động (từ 1996 –1998 ngân hàng đă phải đối mặt với không ít khó khăn do mới đi vào hoạt động và do hậu quả của khủng hoảng tài chính trong khu vực đã ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng. Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn củng cố và tạo tiền đề phát triển cho giai đoạn mới, năm 2000 đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng và được coi là một năm đột phá trong đà tăng trưởng của ngân hàng cả về chất lượng hoạt động và kết quả đạt được, chính vì vậy trong những năm tiếp theo ngân hàng sẽ tiếp nối xu hướng phát triển của năm 2000, để chứng tỏ VIB ngày càng được người dân tin cậy, là người bạn đồng hành của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân và gia đình trong xã hội. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển VIB luôn chú trọng đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Tính đến cuối năm 2005 VIB đã có hơn 30 chi nhánh ở thành phố Hà nội, thành phố Hồ chí minh, Hải phòng, Đà nẵng, Quảng ninh, Đồng Nai. Với mạng lưới chi nhánh từng bước được mở rộng cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ ngân hàng Quốc tế đang dần nâng cao hình ảnh thương hiệu và tích luỹ được lòng tin của công chúng. Trong chiến lược của mình VIB sẽ tiếp tục mở các chi nhánh mới và các công ty trực thuộc trong những năm tới để đến gần hơn nữa với khách hàng và phục vụ nhu cầu của khách hàng tốt hơn, cùng với đó VIB hiện nay đang có hơn 200 ngân hàng đại lý ở 57 quốc gia, trong đó có nhiều ngân hàng nổi tiếng như ABN AMRO, the bank of New york, Citi Bank, The bank of Tokyo- Mitsubishi... Hiện tại VIB đang trong tiến trình hiện đại hoá công nghệ và mở rộng dịch vụ ngân hàng bán lẻ, đặc biệt từ cuối năm 2004 ngân hàng băt đầu chú trọng đầu tư nâng cấp hệ thống phần cứng và giải pháp phần mềm cho hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời gian tới. Trong năm 2005 ngân hàng đã hoàn tất việc nâng cấp một số chương trình hiện có như Hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản, trang web của ngân hàng và cũng là năm ngân hàng hoàn tất đề án tập trung hoá dữ liệu và giao dịch trực tuyến. Số lượng nhân viên trong toàn hệ thống tính đến nay khoảng gần 500 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học ( chiếm 80%). Với đội ngũ năng động nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ cao, nguồn lực của VIB luôn được đánh giá cao và là một trong những sức mạnh (sức mạnh của đoàn kết) giúp cho sự phát triển của ngân hàng trong tương lai. Năm 2006 VIB tiếp tục xây dựng một ngân hàng lớn mạnh để đạt được mục tiêu trở thành một ngân hàng dẫn đầu thị trường trong khối ngân hàng thương mại cổ phần. Với phương châm “ luôn gia tăng giá trị cho bạn”, mục tiêu chiến lược của ngân hàng trong những năm tới là không ngừng gia tăng giá trị khách hàng, của đối tác, của cán bộ công nhân viên ngân hàng và của các cổ đông. 2.1.2 Khái quát về tình hình hoạt động của VIB Năm 2005, nền kinh tế Việt nam tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, mang đến cơ hội phát triển hoạt động kinh doanh cho ngành ngân hàng Việt nam. Ngân hàng nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển hoạt động kinh doanh. Sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng cũng càng gay gắt với việc các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài đẩy nhanh tiến trình cải cách, tăng năng lực tài chính, đầu tư công nghệ, đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, mở rộng mạng lưới kinh doanh, đẩy mạnh công tác tiếp thị và áp dụng nhiều tiện ích khác cho khách hàng. Với những thuận lợi và khó khăn thách thức trên xong năm 2005 ngân hàng cổ phần Quốc tế - VIB đã đạt được những kết quả rất khả quan, các chỉ tiêu đạt được vượt mức so với kế hoạch đã đặt ra trong năm 2005, với đà phát triển này VIB sẽ thực hiện tốt mục tiêu mà mình đã đề ra trong những năm tiếp theo. 2.1.2.1 Tình hình huy động vốn Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối tài khoản giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Năng lực của đội ngũ nhân viên giao dịch cũng như quản lý ngân hàng trong việc thu hút tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ doanh nghiệp và cá nhân là một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối với ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay. Do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác huy động vốn, VIB đã có biểu lãi suất hợp lý để thu hút khách hàng, tạo hình ảnh của ngân hàng đối với công chúng và nâng cao mức cạnh tranh trên thị trường, và kết quả VIB đạt được trong công tác huy động vốn được thể hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1: Mức tăng trưởng vốn huy động Tính đến ngày 31/ 12/2005 vốn huy động của các tổ chức tài chính đạt 1.595 tỷ bằng 250% so với đầu năm và chiếm 38,8% tổng nguồn vốn. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức tài chính đạt 1.547,9 tỷ chiếm 97% tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức tài chính. Việc tăng vốn điều lệ lên 250 tỷ đồng cùng với kết quả hoạt động tăng trưởng cao và an toàn, uy tín giao dịch trên thị trường và các quan hệ hợp tác được duy trì tốt đã dẫn đến việc các tổ chức tín dụng trong nước và các tổ chức tín dụng quốc tế đang hoạt động tại Việt nam sẵn sàng tăng hạn mức tiền gửi tại ngân hàng VIB. Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 2.075,6 tỷ đồng bằng 194% so với đầu năm và chiếm 50,3% tổng nguồn vốn. Trong đó vốn huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng gấp 2,7 lần so với đầu năm và đạt 661,32 tỷ đồng. Đây là một kết quả rất đáng kích lệ trong điều kiện ngân hàng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại khác. Số dư vốn huy động từ các cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 đạt 1.414,26 tỷ đồng đạt tốc độ tăng trưởng 70%. Tổng nguồn vốn huy động từ các cá nhân bằng đồng việt nam chiếm 66,73% đạt tốc độ tăng trưởng 71,8% và đồng đôla Mỹ chiếm 33,27% đạt tốc độ tăng trưởng 64,9%. Có được sự tăng trưởng mạnh từ hoạt động huy động vốn từ các cá nhân là do ngân hàng đã thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động đến gần khách hàng hơn và tung ra nhiều sản phẩm huy động có sức hút ra thị trường như các chương trình Tiết kiệm dự thưởng, Tiết kiệm lãi suất luỹ tiến, Tiết kiệm tặng quà, Dịch vụ thẻ ghi nợ. Cơ cấu vốn huy động cũng có sự thay đổi mang tính tích cực, tỷ trọng tiền gửi có lãi suất thấp tăng mạnh sau khi ngân hàng áp dụng dịch vụ thẻ ghi nợ “ Value”. Nhìn chung công tác huy động vốn năm 2005 có thể coi là thắng lợi, tăng trưởng mạnh và cơ cấu vốn ngày càng hợp lý, VIB đạt được kết quả là do: - Mạng lưới huy động tiền gửi được mở rộng hơn, nhiều phòng giao dịch được thành lập. - Công tác quản lý tiền gửi được thực hiện nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra bằng nhiều hình thức, từ đó khắc phục được những sai sót, đảm bảo an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi dân cư và các giấy tờ quan trọng, nâng cao uy tín của ngân hàng đối với người gửi tiền. - Đội ngũ nhân viên trẻ đẹp, nhanh nhẹn, có năng lưc, nhiệt tình với công việc và phục vụ khách hàng chu đáo, tận tình. - Ngân hàng xây dựng được biểu lãi suất hợp lý phù hợp trong từng thời kỳ, đồng thời biết khai thác các cơ hội bên ngoài. 2.1.2.2 Tình hình sử dụng vốn: Song song với việc huy động vốn là hoạt động sử dụng vốn, bao gồm nhiều hình thức như: cho vay, bảo lãnh...nhưng chủ yếu là cho vay. Hoạt động cho vay là hoạt động đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng hiện nay. Do thời gian thành lập được 10 năm cho nên lượng khách hàng truyền thống của ngân hàng là chưa nhiều, chủ yếu là khách hàng mới. Hiện tại, ngân hàng tập trung chủ yếu vào các đối tượng khách hàng như các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, các hộ gia đình, hộ sản xuất kinh doanh, các cá nhân thuộc tầng lớp trung lưu. Hoạt động cho vay được triển khai dưới nhiều hình thức phù hợp với từng đối tượng khách hàng như: cho vay tiêu dùng, cho vay bổ sung vốn kinh doanh, cho vay mở rộng hoạt động sản xuất... Tốc độc tăng trưởng tín dụng cao trong những năm gần đây tiếp tục được duy trì trong những năm tiếp theo. Về dư nợ tín dụng trong năm 2005 theo qúy như sau: Bảng 1: Dư nợ tín dụng theo năm Đơn vị:triệu đồng Năm Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Dư nợ cho vay 877.296 1.106.024 2.203.698 Nguồn : Báo cáo thường niên Dư nợ tín dụng đến thời điểm 31/12/2005 đạt 2.203 tỷ đồng, tăng 100% so với đầu năm và vượt 12% so với kế hoạch. Trong đó tín dụng ngắn hạn đạt 1.373,4 tỷ đồng chiếm 62,3% tổng dư nợ và tín dụng trung dài hạn đạt 830 tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng dư nợ. Trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế là đối tượng khách hàng tín dụng chủ yếu của ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận quan trọng trong chuỗi sản xuất xã hội nhưng hiện nay các doanh nghiệp này đang gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh, hiện đại hoá công nghiệp và tiếp cận nguồn vốn tín dụng, vì vậy với chính sách của mình ngân hàng đã giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lí để đầu tư tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh và mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngoài ra trong năm 2005, ngân hàng đẩy mạnh cho vay tài trợ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá như cho vay để doanh nghiệp sản xuất, thu mua hàng hoá xuất khẩu, cho vay chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá xuất khẩu. Dư nợ tín dụng doanh nghiệp tại thời điểm cuối năm 2005 là:1.547,22 tỷ tăng 98% so với đầu năm và vượt 17% so với kế hoạch. Năm 2005 ngân hàng tập trung đẩy mạnh cho vay tiêu dùng cá nhân bằng việc tung ra một loạt sản phẩm tín dụng trả góp bám sát vào nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như : cho vay mua nhà đất, nhà chung cư, cho vay mua ôtô, cho vay du học. Dư nợ tín dụng cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 là 955,8 tỷ tăng 102% so với đầu năm. Trong cơ cấu tín dụng của năm 2005, dư nợ tín dụng bằng đồng Việt Nam chiếm 75% tổng dư nợ và dư nợ cho vay bằng đồng đôla Mỹ chiếm 25% còn lại. Cùng với đó chất lượng tín dụng không ngừng được cải tiến và quản lý chặt chẽ hơn thông qua việc thành lập Phòng Quản lý tín dụng tại hội sở và điều chỉnh hạn mức phê duyệt tín dụng của các đơn vị trong hệ thống ngân hàng Quốc tế. Nợ quá hạn tính đến thời điểm cuối năm vừa qua là 1,11%tổng dư nợ, giảm so với mức 1,75% so với năm 2004. 2.1.2.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của VIB đã đạt được những năm gần đây. Những năm gần đây ngân hàng đang dần khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, hoạt động kinh doanh có hiệu quả lợi nhuận năm nay cao hơn so với năm trước. Kết quả kinh doanh của ngân hàng được thông qua bảng số liệu sau: Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng thu nhập hoạt động 113.447 140.837 236.636 Tổng chi phí hoạt động 106.352 120.102 195.486 Lợi nhuận trước thuế 7.095 20.735 41.150 Nguồn: báo cáo thường niên và báo cáo tổng hợp Qua bảng số liệu cho thấy, VIB càng ngày càng phát triển từ chỗ lợi nhuận trước thuế năm 2003 chỉ đạt 7.095 triệu đồng vậy mà năm 2004 lợi nhuận đạt được 20.735 triệu đồng và có một sự chuyển mình mạnh mẽ năm 2005 lạo nhuận trước thuế đạt 41.150 triệu đồng bằng 198% so với năm 2004. kết quả trên có phần đóng góp đáng kể nhất của các nguồn thu từ hoạt động đầu tư thu lãi. Đến thời điểm 31/12/2005 thu nhập từ lãi của ngân hàng đạt 183.075 triệu đồng, tăng 55% so với 2004 chi phí trả lãi đạt 142.666 triệu đồng tăng 37% so với 2004. thu nhập thuần từ các hoạt động thu lãi đạt 40.909 triệu đồng, tăng 94% . Để đạt được kết quả trên toàn hệ thống đã chú trọng tìm kiếm các nguồn vốn chi phí thấp, đồng thời mở rộng đối tượng khách hàng tín dụng an toàn để tối ưu hoá sử dụng nguồn vốn. Thông qua kết quả kinh doanh đã đạt được đã nói nên phần nào sự nỗ lực của ngân hàng VIB và hiệu quả của đề án tái cơ cấu tổ chức kinh doanh triển khai từ năm 2004 sẽ giúp cho VIB vững tiến nhằm đạt đến mục tiêu trở thành một ngân hàng dẫn đầu trên thị trường ngân hàng cổ phần, cung cấp dịch vụ đa năng cho khách hàng trọng tâm tại các vùng kinh tế phát triển của Việt nam. 2.2 Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng quốc tế VIB 2.2.1 Hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Cách đây 20 năm về trước, khái niệm về “Cho vay tiêu dùng” còn khá mới đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt Nam, nhưng chỉ một vài năm trở gần lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu của nhiều tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức ngoài nhà nước. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu phụ vụ đời sống ngày càng cao, đó là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng phát triển. Nắm bắt đựơc thực tế đó, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng dưới nhiều hình thức và quy mô, đáp ứng nhu cầu khác nhau của người dân. các ngân hàng ngoài thương mại nhà nước trước đây không quan tâm chú trọng nhiều đến lĩnh vực cho vay tiêu dùng nên thường cung cấp những khoản cho vay có quy mô nhỏ nhưng hiện nay đã bắt đầu nhìn ra tiềm năng to lớn của thị trường này và có những chiến lược cạnh tranh hợp lí. Các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng nước ngoài thực hiện cho vay tiêu dùng khá sớm ( Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu, ngân hàng nhà hà nội, Sacombank.....) với các sản phẩm như cho vay mua nhà, cho vay tiêu dùng với các cán bộ công nhân viên chức, cho vay các tiểu thương... nhưng do quy mô vốn nhỏ nên khả năng cạnh tranh chưa cao. Theo ông Hồ Xuân Nghiễm, Phó tổng giám đốc Sacombank, chuyên nghên cứu về tín dụng cho biết, nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục phát triển tương đối nhanh và ổn định. Bên cạnh đó, nguồn ngoại tệ của các thân nhân ở nước ngoài chuyển về nước ngày càng lớn (lượng kiều hối về Việt Nam năm 2004 vừa qua đạt con số kỉ lục, 3 tỉ USD). Vì vậy, mức sống và nhu cầu tiêu dùng của người dân luôn được cải thiện và đa dạng hơn. Vì thế mảng cho vay tiêu dùng đang có xu hướng tăng trưởng nhanh và hứa hẹn một sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong tương lai. Hiện nay, cho vay tiêu dùng chủ yếu phát triển mạnh ở các đô thị lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…Các NHTM Hà Nội nhận định: cho vay tiêu dùng là hình thức k._.át triển, phải đảm bảo an toàn và có hiệu quả. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với đặc trưng nổi bật là tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ đang chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống ngân hàng từng quốc gia. Điều này tạo cho ngân hàng những cơ hội cũng như những thách thức để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của mình trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển nâng cao vị thế của mình trên thị trường thì một trong những điều kiện quan trọng đó là phải mở rộng gắn liền với nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong bối cảnh như vậy cho vay tiêu dùng ở VIB cũng không nằm ngoài xu thế đó. Vì trong hoạt động kinh doanh, ở bất kỳ lĩnh vực nào doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu là lợi nhuận. Ngân hàng thương mại cũng là một đơn vị kinh doanh, cho nên hoạt động kinh doanh có lãi là điều mà bất cứ một ngân hàng nào cũng mong muốn, việc tăng dư nợ cho vay tiêu dùng đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Hơn nữa, hoạt động cho vay tiêu dùng của VIB trong những năm gần đây mặc dù tốt, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng song với xu thế hiện nay sức nóng của cạnh tranh trên lĩnh vực ngân hàng ngày càng gia tăng thì để có thể thắng thế trong cạnh tranh, có một vị trí vững chắc trên thị trường thì VIB cần phải mở rộng và nâng cao hơn nữa hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt hoạt động cho vay tiêu dùng. Tóm lại, mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng gắn liền với nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của VIB trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh của mình, là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại va phát triển bền vững lâu dài của ngân hàng. 3.2 Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng 3.2.1 Mở rộng mạng lưới chi nhánh Hoạt động cho vay tiêu dùng là họat động cho vay cá nhân, đòi hỏi ngân hàng phải có hệ thống mạng lưới cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phát triển nhằm có thể cung cấp đầy đủ những nội dung cũng như tiện ích của sản phẩm đó đến với người tiêu dùng. Tính đến thời điểm này ngân hàng VIB gồm : hội sở chính, 5 chi nhánh cấp 1 là Chi nhánh Hà nội, chi nhánh Hồ chí minh, chi nhánh Đà nẵng, chi nhánh Hải phòng, chi nhánh Quảng ninh.ở Hà nội có 6 chi nhánh cấp 2, thành phố HCM có 6 chi nhánh cấp 2. Như vậy, hệ thống VIB chủ yếu được phân bổ tập trung ở các thành phố lớn của cả nước, nhiều nhất là ở Hà nội và thành phố Hồ chí minh. Tuy nhiên, trong thời gian hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một lượng lớn khách hàng tiềm năng cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng nằm ở các tỉnh, thành đang trên đà phát triển kinh tế mạnh mẽ như : Cần thơ, Nha trang, Bắc ninh, Hải dương , Thái bình , nam định... cho nên, trong thời gian tới VIB cũng cần xem xét đến việc mở rộng hệ thống hoạt động của ngân hàng, phát triển mạnh lưới kênh cung cấp sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng nói chung và sản phẩm cho vay tiêu dùng nói riêng thông qua việc thiết lập thêm các chi nhánh cấp I, cấp II và các phòng giao dịch. Tất nhiên việc thành lập và phát triển thêm các chi nhánh, phòng giao dịch như vậy không thể tiến hành một cách dễ dàng, đồng loạt, nhanh chóng bởi vì ngân hàng sẽ phải tốn kém nhiều chi phí, công sức. Nhưng việc mở rộng chi nhánh có thể thực hiện từng bước, có chọn lọc, có trọng tâm, trước mắt tập trung phát triển vào khu vực có thị trường khách hàng tiềm năng rộng lớn, môi trường kinh tế – chính trị – xã hội thuận lợi cho ngân hàng và cần phải chú trọng chuẩn bị tốt ba vấn đề sau: + Cần phải khảo sát và phân tích đầy đủ môi trường kinh tế- xã hội tại địa phương để xác định kế hoạch kinh doanh + Lập phương án và bố trí nhân sự phù hợp, đủ mạnh để đưa chi nhánh ổn định hoạt động và phát triển ngay từ thời gian đầu. + Lựa chọn trụ sở chi nhánh đảm bảo các điều kiện phù hợp về vị trí, diện tích mặt bằng, thuận lợi cho giao dịch khách hàng và các dịch vụ... Chỉ có sự chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy thì khi chi nhánh được xây dựng và đi vào hoạt động mới nhanh chóng đem lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. 3.2.2 Xây dựng chiến lược đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng Đẩy mạnh cho vay tiêu dùng là một xu hướng tất yếu, là điều kiện khách quan trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đồng thời đó cũng là chiến lược, mục tiêu và là thị trường đầy tiềm năng của các ngân hàng thương mại Việt nam. Có thể nói, trong hơn 10 năm trở lại đây, việt nam là nước có nền kinh tế đang phát triển có tốc độ cao( cao nhất khu vực đông nam á). Trong 5 năm qua GDP bình quân đạt 7.4% đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện mạnh mẽ. Vừa qua các tập đoàn kinh doanh lớn của nước ngoài như Metro cash carry, visa international.... đã nghiên cứu và đưa ra thông tin về nhu cầu tiêu dùng của người việt nam hiện tại và dự đoán trong tương lai và cũng theo kết quả điều tra nghiên cứu của tập đoàn AC Nielsen thì tỉ lệ hộ gia đình có thu nhập cao trên 3 triệu đồng một thàng ở khu vực thành thị tại 36 thành phố trong cả nước đã tăng từ 36% năm 2002 tăng lên 63% năm 2005. đồng thời, mức chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng theo, nếu như cách đây khoảng 3 năm tỷ lệ hộ gia đình có mức chi tiêu hàng tháng trên 1 triệu đồng là 15.9% thì hiện nay đã tăng lên 40%. Chính vì vậy trong thời gian tới ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược cho vay tiêu dùng. Trước hết, phải thấy rằng việc xây dựng chiến lược về hoạt động cho vay tiêu dùng là hết sức cần thiết và mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. chiến lược cho vay tiêu dùng là sự thể hiện mục tiêu dài hạn cơ bản của một ngân hàng sự lựa chọn đường lối hoạt động và phân bổ các nguồn lực cần thiết để đạt được mục tiêu này vì nếu xây dựng một chiến lược không phù hợp với thực lực của ngân hàng và nhu cầu thị trường thì ngân hàng đó sẽ lựa chọn bước đi sai lầm từ đó tác động xấu đến hoạt động cho vay tiêu dùng. còn nếu không có chiến lược cho vay tiêu dùng thì ngân hàng không có cái đích để đi đến và không lường trước được những biến động xảy ra, từ đó cũng không có những biện pháp để lợi dụng hoặc khắc phục. Hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại đang có sự cạnh tranh, bắt buộc ngân hàng phải có chiến lược cho vay tiêu dùng để đối phó với đối thủ cạnh tranh. Qua nghiên cứu tình hình thực tế tại VIB , thấy rằng trong công tác xây dựng chiến lược cho vay cần lưu ý: Ngân hàng cần có những tìm hiểu, nắm được thông tin tổng hợp tình hình vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Đó là các thông tin chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có liên quan, tình hình biến động tài chính- tiền tệ- ngân hàng trong nước và quốc tế, mức thu nhập của dân cư, thói quen, sở thích tiêu dùng của dân cư... hoạt động cho vay tiêu dùng đang rất nhạy cảm với các biến động kinh tế- chính trị- xã hội, do vậy những thông tin tổng hợp vĩ mô như vậy sẽ mang ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng cần nghiên cứu về tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. hiện nay các ngân hàng trong nước, kể cả các ngân hàng thương mại nhà nước hay ngân hàng cổ phần đều tiến hành và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Do vậy, VIB cần nghiên cứu cụ thể các sản phẩm cho vay tiêu dùng hiện có của ngân hàng, phân tích ưu nhược điểm của các sản phẩm này để có những sản phẩm hợp lý hơn. Bên cạnh đó ngân hàng cần phải tiến hành nghiên cứu, phân tích các thông tin liên quan đến người tiêu dùng, ngân hàng cần thu thập thông tin qua các cuộc điều tra phỏng vấn chọn mẫu theo các đối tượng khách hàng khác nhau từ đó suy rộng ra. Ngân hàng cũng nên tổng hợp các đối tượng khách hàng đã và đang vay tại ngân hàng, thu thập các ý kiến phản hồi của nhóm khách hàng này về các sản phẩm đã cung cấp để từ đó đáp ứng tối đa và phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Việc thu thập và phân tích thông tin một cách đầy đủ chính xác sẽ tạo nên cơ sở cần thiết ban đầu giúp cho ngân hàng có thể vạch ra được các chiến lược đúng đắn nhằm phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong tương lai. 3.2.3 Cải tiến thủ tục cho vay tiêu dùng Thời gian gần đây thị trường cho vay tiêu dùng phát triển nhanh, nhiều ngân hàng đã rất quan tâm đến thị trường này. Vì vậy để cạnh tranh được ngân hàng nên áp dụng một quy trình cho vay linh hoạt, nhanh gọn và thuận tiện nên rất cần phải thiết kế và hoàn thiện quy trình cho vay tiêu dùng để quá trình cho vay được tiến hành nhanh chóng nhưng vẫn đảo bảo an toàn cho ngân hàng. Hiện ngân hàng đã có một quy trình cho vay tiêu dùng nói chung và các quy chế cho vay đối với từng sản phẩm và dịch vụ nói riêng tương đối chặt chẽ và linh hoạt. Tuy nhiên quy trình này cần cụ thể hơn nữa và thông qua đó nhân viên ngân hàng biết được trách nhiệm phải thực hiện ở vị trí của mình, mối quan hệ với các đồng nghiệp khác hoặc hiểu hơn vai trò của mình trong toàn bộ quy trình nghiệp. Ngân hàng cần thiết kế các thủ tục cho vay phù hợp với từng nhóm khách hàng, từng loại vay, cũng như kỹ thuật tín dụng nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết, nhưng không gây phiền hà cho khách hàng, cũng như tiết kiệm thời gian cho cả hai bên bằng cách rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ và hướng dẫn làm hồ sơ tại nhà. Hoặc ngân hàng nên áp dụng thủ tục vay bằng việc lên Website của ngân hàng mình để tìm hiểu thông tin, thủ tục hồ sơ và đăng ký vay vốn qua mạng, khi ấy ngân hàng kiểm tra sơ bộ và có thư phúc đáp lại trên mạng. Ví dụ như một số dịch vụ mà các ngân hàng cổ phần ACB đưa ra dịch vụ với mức vay 100 triệu đồng, người vay không cần phải có chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn và chỉ trong 72h đồng hồ khách hàng được hoàn tất thủ tục vay tiền; hay mới đây Eximbank đưa ra dịch vụ giải quyết hồ sơ vay vốn trong vòng 48h, nếu món vay lên đến 500 triệu đồng thì được phục vụ tại nhà, chỉ cần điện thoại, nhân viên ngân hàng sẽ đến tận nhà để hướng dẫn hồ sơ vay tiền. Đối với cho vay tín chấp tại VIB, một trong những điều kiện vay là phải có xác nhận bằng văn bản của Tổ chức quản lí lao động hoặc Tổ chức quản lí và chi trả thu nhập. Trong khi hiện nay, một số ngân hàng cổ phần khác không yêu cầu bảo lãnh trả thay của công ti, chỉ cần uy tín của người vay. Do đó, ngân hàng cần có những thay đổi trong việc giải quyết hồ sơ vay tiền, tinh giảm thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, nhằm tạo cho khách hàng thấy nhanh gọn và thuận tiện khi đến với dịch vụ của VIB. 3.2.4 Hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm cho vay tiêu dùng. Hiện nay ngân hàng cũng có rất nhiều sản phẩm cho vay tiêu dùng như: cho vay có tài sản đảm bảo( cho vay mua ôtô, cho vay mua nhà, đất, chung cư, cho vay du học...), cho vay không có tài sản đảm bảo( cho vay cán bộ công nhân viên chức, cho vay cán bộ điều hành) nhưng để canh tranh được một thị trường đang trên đà phát triển, có nhiều đối thủ cạnh tranh để có thể duy trì hoạt động và không ngừng nâng cao uy tín và thương hiệu của mình chỉ có cách ngày càng hoàn thịên các sản phẩm- dịch vụ hiện có tập trung vào một số lĩnh vực chính như: a/Cho vay mua, xây dựng và sữa chữa lớn nhà ở: Do đặc điểm của người á đông nói chung, người việt nam nói riêng việc mua đất, xây hoặc sữa chữa nhà ở là một công việc trọng đại trong đời người. Do vậy, để chuẩn bị làm các việc trên, họ cần một khoảng thời gian nhất định, có thể hàng chục năm để tích luỹ nguồn tài chính và các điều kiện khác, trường hợp còn thiếu nguồn tài chính thì chủ yếu là vay của người thân hoặc của bạn bè, rất ít vay tiền từ ngân hàng. Thêm vào đó nhu cầu về nhà ở của người dân đang rất cao theo định hướng quy hoạch tổng thể định hướng cho phát triển đô thị đến năm 2020 thì dân số đô thị sẽ chiếm khoảng 45% dân số cả nước như vậy sức ép về nhà ở càng lớn, nhất là hai thành phố lớn như Hà nội và thành phố Hồ chi minh. Do đó, để mở rộng cho vay lĩnh vực này ngân hàng cần phải điều tra và năm bắt nhu cầu thực sự của người dân, từ đó xây dựng chiến lược khách hàng và đề ra các giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay về lĩnh vực nhà ở b/ lĩnh vực du học: Cùng với quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế, nhiều tổ chức quốc tế đã mở rộng hợp tác với việt nam nhằm đưa những du học sinh, sinh viên có nhu cầu và khả năng sang đào tạo tại nước ngoài. Mặt khác, khi thu nhập tăng, chất lượng cuộc sống được nâng cao các gia đình có xu hướng cho con theo học các trường đại học hoặc trung học danh tiếng trên thế giới với mong muốn con mình sẽ được tiếp cận với công nghệ hiện đại nhất, để khi có điều kiện chúng có thể về cống hiến cho đất nước mình. do vậy, nhu cầu du học sẽ tiếp tục tăng mạnh đặc biệt là du học tự túc và bán tự túc. c/ Cho vay mua ôtô Thời gian qua, thu nhập của dan cư đã tăng, đồng thời nhu cầu mua xe để sử dụng làm phương tiện đi lại khá phổ biến, đặc biệt là trên địa bàn hà nội và thành phố hồ chí minh. Theo số liệu thống kê, sản lượng xe ôtô tiêu thụ của các liên doanh lắp ráp ôtô trong nước đều tăng trưởng mạnh điều này chứng tỏ đây vẫn là thị trường tiềm năng lớn vì nhu cầu của người dân còn tiếp tục tăng trong thời gian tới sau khi nước ta đã tham gia vào WTO d/ Cho vay tiêu dùng thông thường: Hiện nay, nhu cầu về các đồ dùng gia đình như máy giặt, máy hút bụi, điều hoà, tủ lạnh, tivi...( nói chung là vật dụng gia đình) đang rất lớn và hàng hoá trên thị trường khá phong phú, đa dạng, được sản xuất từ nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên những mặt hàng này cũng chỉ mới được tiêu thụ mạnh trong những năm gần đây nên nhu cầu mua sắm chúng còn tiếp tục tăng trong những năm tới (vì hầu hết là các vật dụng không lâu bền, khấu hao nhanh) chính vì vậy ngân hàng cần phải mở rộng các loại hình cho vay tiêu dùng nay và tạo điều kiện cho người dân dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng để cải thiện cuộc sống. Song song với việc hoàn thiện các sản phẩm cho vay tiêu dùng cần phải có sự đa dạng hoá các phương thức cho vay như: * Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng gián tiếp: Có nhiều cách để phân chia các khoản cho vay tiêu dùng, một trong các cách đó là phân chia thành cho vay tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng gián tiếp. Trong đó, cho vay trực tiếp là loại cho vay trong đó khách hàng trực tiếp xin vay, nhận tiền vay và trực tiếp trả nợ ngân còn cho vay tiêu dùng gián tiếp là việc các ngân hàng cấp vốn cho người có nhu cầu vay tiêu dùng thông qua mua lại các khế ước, chứng từ phát sinh còn trong thời hạn thanh toán. Tuy vậy trên thực tế hầu hết các ngân hàng chỉ quan tâm đến hoạt động cho vay tiêu dùng trực tiếp hơn do họ nghĩ nó an toàn hơn. Đấy không hoàn toàn chính xác, có nhiều người có nhu cầu mua sắm song họ ngại phải đến hoặc không có thời gian để đến các ngân hàng trong khi đó đối tưọng vua chủ yếu của ngân hàng là những người có thu nhập cao và tương đối ổn định. Vì vậy để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, hội sở cần có chính sách phù hợp để thu hút lượng khách hàng tiềm năng này. Hiện nay phương pháp tài trợ gián tiếp được thực hiện trong trường hợp: ngânhàng tài trợ cho các đại lý để các đại lý bán xe trả góp xe cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng thoả thuận giữa đại lý với ngân hàng. Tuy nhiên pham vi còn hẹp, chủ yếu là cho các hãng bán ôtô còn lại trong các lĩnh vực khác hầu như là chưa có. Vì vậy hội sở cần có kế hoạch để mở rộng phạm vi hoạt động trên các đoạn thị trường mới. * Cho vay tiêu dùng thông qua thẻ Thị trường thẻ ở việt nam đang phát triển có thể nói “chóng mặt” và doanh số sử dụng thẻ cũng tăng tương ứng. Song số lượng thẻ phát hành và tỷ trọng thanh toán qua thẻ hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng và so với các nước trong khu vực cũng như quốc tế. Ngoài ra, là một nước đang phát triển đời sống của nhân dân ngay một nâng cao thì thu cầu về học tập, chữa bệnh, đi du lịch ở nước ngoài ngay càng nhiều đó là thị trường rất hấp dẫn để ngân hàng mở rộng tín dụng bằng việc cho vay qua thẻ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân hơn nữa do tính an toàn và thuận lợi khi sử dụng nhất là khi ra nước ngoài để chữa bệnh, đi du lịch, hay học tập chính vì vậy ngân hàng cần quan tâm đến lĩnh vực này. 3.2.5 Thực hiện tốt công tác khách hàng Không giống với nhiều sản phẩm cung cấp trên thị trường, người mua muốn được sử dụng chúng phải trả tiền ngay và sau đó nó sẽ vĩnh viễn thuộc về họ, sử dụng nó như thế nào và vào mục đích gì hoàn toàn do người sở hữu hàng hoá đó quyết định, đối với phần lớn các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp, khách hàng không phải trả tiền ngay mà sau một thời gian sử dụng nhất định, đến kỳ hạn thoả thuận trong hợp đồng khách hàng mới phải mang tiền đến trả, do đó chất lượng của hàng hoá, dịch vụ không chỉ được quyết định bởi sự hài lòng khi sử dụng mà nó còn phụ thuộc vào thái độ của người bán hàng, sự quan tâm của người bán đến lợi ích của người mua được hưởng trong suốt quá trình sử dụng. Chính vì vậy cần phải thực hiện tốt công tác khách hàng bằng cách: * Thứ nhất, cùng với việc thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu và phân tích thị trường: theo dõi và lập hồ sơ thông tin về các biến động của thị trường từng địa bàn( tình hình về đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp, xu hướng dân cư, nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội khác trên địa bàn có tác động đên kinh doanh ngân hàng...) để đề ra các biện pháp tăng khả năng cạnh tranh trên địa bàn, tăng trưởng hoạt động cho vay tiêu dùng. Để từ đó có thể thực hiện tốt việc: + Đổi mới cơ cấu khách hàng trên cơ sở chú trọng xây dựng đội ngũ khách hàng dài hạn và đủ mạnh, sử dụng đa dạng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đa dạng hoá khách hàng về thành phần kinh tế, về quy mô hoạt động về ngành nghề sản xuất kinh doanh. + Lựa chọn, phân loại các đối tượng khách hàng để có chính sách phù hợp, tạo các điều kiện phục vụ một cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Ngoài ra cần có các chính sách ưu đãi cụ thể riêng biệt đối với từng đối tượng khách hàng để tiếp tục gữi vững mối quan hệ với các khách hàng truyền thống và thu hút được khách hàng mới cho ngân hàng. +Thực hiện tốt công tác chăm sóc và quản lý khách hàng. Nghiên cứu đầy đủ về tình hình từng khách hàng, cập nhật đầy đủ, kịp thời thường xuyên các thông tin tài chính và phi tài chính của khách hàng để tạo lập kho dữ liệu về cơ sở khách hàng phục vụ cho công tác quản lý khách hàng toàn hệ thống. *Thứ hai, đó là hoàn thiện kỹ năng giao tiếp, chăm sóc khách hàng. Việc giao tiếp với khách hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút khách đến với ngân hàng, đồng thời góp phần tạo nên hình ảnh của ngân hàng. Thái độ phục vụ khách hàng chuyên nghiệp, tận tình, chu đáo, là phương thức quảng cáo tốt nhất cho ngân hàng, tạo hình ảnh tốt đẹp về ngân hàng trong lòng công chúng. Trước hết, ngân hàng cần trang bị quần áo đồng phục nhằm tạo ấn tượng tốt về tác phong, thái độ nghiêm túc và chuyên nghiệp cho khách hàng. khách hàng nhiều khi dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố ban đầu, do vậy việc thiết kế đồng phục cùng với thái độ giao tiếp cởi mở, chu đáo sẽ gây những thiện cảm ban đầu đối với khách hàng. Đối với nhân viên, mặc đồng phục tạo ra môi trường, điều kiện làm việc thoải mái, đẹp đẽ lịch sự cho nhân viên, có trách nhiệm đối với công việc hơn từ đó góp phần làm tăng năng suất và mang lại hiệu quả. Điều quan trọng nhất trong chính sách giao tiếp với khách hàng là thái độ phục vụ, tác phong của nhân viên ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng nói riêng. Dưới con mắt của khách hàng nhân viên chính là hình ảnh của ngân hàng. Do vậy, với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, cùng với tác phong làm việc nhanh chóng, chính xác, chuyên nghiệp của nhân viên ngân hàng sẽ tạo nên những ấn tượng, tình cảm tốt đẹp về ngân hàng trong lòng công chúng, góp phần xây dựng hình ảnh của ngân hàng. 3.2.6 Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, khuyếch trương và quan hệ công chúng. Với mục tiêu nâng cao uy tín và thương hiệu của VIB thu hút được khách hàng và phát triển được mọi mặt họat động kinh doanh của toàn hệ thống nên tổ chức thực hiện các hoạt động quảng cáo và tiếp thị một cách chuyên nghiệp hoá với sự cộng tác của các chuyên gia,để đa dạng hoá hoạt động quảng cáo, tiếp thị dưới mọi hình thức để khuyếch trương hinh ảnh một VIB vững về tổ chức, lành mạnh về tài chính, luôn hướng tới khách hàng và phục vụ với các dịch vụ trọn gói, thuận tiện nhất, ưu đãi nhất và phong cách phục vụ tốt nhất. Chính vì vậy để thu hút được sự chú ý, quan tâm của người dân đối với các sản phẩm của mình, ngân hàng cần xây dựng chiến dịch quảng cáo dưới các hình thức panô, áp phích, tờ rơi, hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, truyền hình, website, email, internet.... Đối với chương trình quảng cáo trên truyền hình, trên đài phát thanh nên ngắn gọn nhưng dễ hiểu để giảm chi phí và đạt hiệu quả như mong muốn. Đối với chương trình quảng cáo trên các tờ rơi, trên báo chí cần tạo được ấn tượng mạnh, đẹp mắt và dễ nhớ. Tuy nhiên, để tiến hành hoạt động tiếp thị, quảng bá sản phẩm hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất, thì ngân hàng cần tiếp cận trực tiếp với đối tượng vay vốn, những người thực sự có nhu cầu vay vốn và có điều kiện, và khả năng trả nợ tốt. Cụ thể là ngân hàng có thể liên hệ với các công đoàn doanh nghiệp, tổ trưởng khu dân cư... để tiến hành tổ chức các buổi hội thảo cho tất cả những người có nhu cầu vay vốn, có quan tâm thật sự đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Trong buổi hội thảo này, ngân hàng có thể cử ra 2 chuyên viên tín dụng đến để trình bày rõ hệ thống các sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng, đồng thời hướng dẫn quy trình, thủ tục, giải thích về chi phí lãi vay, thời hạn vay, số tiền vay, phương thức giải ngân, và thu nợ... và giải đáp các thắc mắc khác. Trên thực tế chi phí cho các buổi hội thảo nhằm quảng bá, tiếp thị sản phẩm và khuyếch trương hình ảnh của ngân hàng như vậy thường thấp hơn so với các hình thức khác, trong khi hiệu quả thu được từ đợt quảng bá tiếp thị đó là khá lớn. Nói chung, việc đẩy mạnh chiến lược giao tiếp, quảng cáo, khuyếch trương như vậy sẽ phần nào bỏ những nếp suy nghĩ cũ kỹ, thói quen tâm lý cố hữu gây cản trở cho việc mở rộng họat động cho vay tiêu dùng, đồng thời tạo ra thói quen sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, góp phần mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. 3.2.7 Mở rộng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng thì yếu tố con người cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nhất là khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu vay tiêu dùng của người dân tăng lên để đáp ứng được sự gia tăng này ngân hàng cần phải tập trung, tăng đội ngũ nhân viên cho lĩnh vực này cùng với đó là không ngừng nâng cao chất lượng của các cán bộ tín dụng vì toàn bộ quyết định cho vay, tiến trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ....không có một may móc hay công cụ nào khác ngoài cán bộ tín dụng đảm nhiệm nên kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ tín dụng. Do vậy, việc tăng đội ngũ nhân viên và công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu trọng tâm của NH. Ngân hàng nên có sự phân công lao động hợp lí, tận dụng các khả năng của cán bộ tín dụng, đồng thời ngân hàng cũng cần có chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện. Tuy nhiên, yêu cầu không ngừng học hỏi đặt ra không chỉ với đội ngũ cán bộ tín dụng mà đối với toàn bộ thành viên của ngân hàng để dù ở bất kì vị trí nào họ cũng hoàn thành tốt công việc của mình. Không chỉ dừng lại ở việc đào tạo tại chỗ, nên mời chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy, ngân hàng nên xem xét việc cử cán bộ, nhân viên có trình độ, năng lực tham gia các chương trình đào tạo ở nước ngoài. Ngân hàng cần tiến hành các cuộc thăm dò nội bộ về mức hài lòng của nhân viên ngân hàng đối với mức lương, thưởng, điều kiện làm việc cũng như định hướng, mục đích của họ trong tương lai nhằm giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có thông tin đầy đủ và có cách nhìn nhận đúng đắn về nhân viên của mình. Ngoài ra, ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, văn nghệ thể thao hay các cuộc thi về nghiệp vụ trong nội bộ ngân hàng nhằm tạo cơ hội cho các cán bộ nhân viên trao đổi thêm kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết lẫn nhau cùng nhau xây dựng tình đoàn kết vì mục tiêu chung của ngân hàng. 3.3 Một số kiến nghị Mọi hoạt động trong nền kinh tế đều chịu sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Các chính sách của nhà nước trong mỗi giai đoạn có thể tạo điều kiện cho một số ngành phát triển nhưng đồng thời lại hạn chế sự phát triển của ngành khác, tuỳ thuộc vào mục tiêu ở mỗi giai đoạn. Trong thời gian qua, với chủ trương cơ cấu lại ngành ngân hàng, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy mới, giúp tăng tính chủ động cho ngân hàng. Tuy nhiên khó có thể khẳng định được tính phù hợp của mỗi văn bản nếu không được kiểm chứng qua thực tế. Vì vậy đối với các văn bản trong lĩnh vực ngân hàng, sau một thời gian có hiệu lực, bên cạnh việc khắc phục những hạn chế của các quy định trước đó, nó cũng nảy sinh nhiều điều hạn chế cần thay đổi, bổ xung. 3.3.1 Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước. Kiến nghị 1: khi nền kinh tế càng phát triển thì sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư là rất lớn đặc biệt là giữa khu vực thành thị và nông thôn. Điều này ảnh hưởng không tốt đến hoạt động cho vay tiêu dùng vì một tỷ lệ lớn dân cư sống ở nông thôn là bộ phận có thu nhập thấp, khả năng chi trả cho các nhu cầu là rất hạn chế nhưng họ lại không thể đến ngân hàng để vay vì không đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng. Vì vậy thiết nghĩ nhà nước cần có sự đầu tư hợp lý ở khu vực này bằng việc xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống, có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn trên nhằm tạo công ăn việc làm ổn định đem lại thu nhập cho người dân. Kiến nghị 2: Nhà nước cần quan tâm, đầu tư hơn cho hệ thống giáo dục với một cơ cấu hợp lí để tránh tình trạng nơi thừa, nơi thiếu nguồn nhân lực có đào tạo. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần mở rộng hệ thống giáo dục tại các vùng nông thôn, vùng xâu vùng xa bởi chỉ có cách nâng cao dân trí mới có thể phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giưa các vung miền trong cả nước, dẫn đến tăng thu nhập của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Kiến nghị 3: Khi nền kinh tế phát triển mạnh nhu cầu tiêu dùng ngay một nâng cao, lĩnh vực cho vay tiêu dùng của các ngân hàng cũng đa dạng với nhiều sản phẩm được tung ra thu hút được nhiều người sử dụng. Vì vậy, nhà nước cần thông qua luật tín dụng tiêu dùng, trong đó quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia vì hiện nay các quy định về cho vay tiêu dùng vẫn nằm trong hệ thống các quy định chung nên khi áp dụng vào thực tế các ngân hàng còn gặp rất nhiều khó khăn, họ đều phải đưa ra các quy định riêng căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể và tính chất của mỗi sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp, điều này làm mất đi tính nhất quán trong hoạt động của các ngân hàng. 3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng nhà nước Kiến nghị 1: Có thể nói so với các ngân hàng cổ phần và các ngân hàng liên doanh thì các ngân hàng thương mại nhà nước có bề dày hoạt động và qui mô lớn hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, họ lại nhận được sự ưu đãi của nhà nước lên sức mạnh cạnh tranh trên thị trường tài chính là rất lớn. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các ngân hàng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, ngân hàng nhà nước nên có sự hỗ trợ hợp lí đối với các ngân hàng cổ phần mới thành lập gặp rất nhiều khó khăn, vì các cá nhân đến với ngân hàng ngoài chất lượng dịch vụ họ còn quan tâm đến trang thiết bị, cơ sở hạ tầng cũng như quy mô vốn của ngân hàng đó. Kiến nghị 2: Ngân hàng nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động cho vay tiêu dùng, trong đó quy định về các loại hình sản phẩm, dịch vụ cho vay tiêu dùng, tạo hành lang pháp lí đầy đủ để bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng và cả người tiêu dùng. Kiến nghị 3: Ngân hàng nhà nước cần có biện pháp phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng, theo đó ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện hnàh lang pháp lý về thu thập, xử lý, phân tích cảnh báo, cung cấp thông tin phù hợp với các nghiệp vụ ngân hàng. Sau đó, thường xuyên nâng cấp và hoàn thiện công nghệ để thu thập thông tin nhanh nhất, xu hướng tự động hoá, khai thác trên các trang web, hình thành hệ thống dự phòng kho dữ liệu, có phương án đảm bảo an toàn trong mọi tình huống. 3.3.3 Kiến nghị đối với lãnh đạo VIB Kiến nghị 1: Cùng với sự phát triển, mở rộng thị trường mà cụ thể là đẩy mạnh hoạt động cho vay thì lực lượng nhân viên ngân hàng cũng phải phát triển đồng đều và tương ứng với quy mô của ngân hàng. Vì vậy VIB bank cần xây dựng một kế hoạch tuyển dụng hợp lý nhằm thu hút các cá nhân có trình độ, năng lực vào làm việc trong ngân hàng. Sau đó ban lãnh đạo cần có chính sách đào tạo bài bản hợp lý, đồng bộ, trong đó chú trọng đào tạo nghiệp vụ. Đồng thời mở các lớp đào tạo chuyên sâu khi có những chính sách mới của NHNN Kiến nghị 2: Để đáp ứng được kịp thời nhu cầu tiêu dùng của khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh vơi các ngân hàng khác ngân hàng cần phải đẩy nhanh thời gian của quá trình tái thẩm định và nâng mức các khoản vay cần phải tái thẩm định từ 300 triệu lên 500 triệu đồng. Kiến nghị 3: Ban lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa đến cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc trong các phòng ban vì tuy không tác động trực tiếp nhưng nó lại có vai trò quan trọng tạo sự tin tưởng đối với khách hàng khi đến giao dịch, đồng thời tạo uy tín cho ngân hàng. Ngoài việc mua sắm, sửa chữa các cơ sở vật chất cũ kỹ hay hỏng hóc, tránh tình trạng khách hàng phàn nàn. Ngoài ra ngân hàng cũng nên quan tâm, chú ý đến cách bố trí sắp xếp đồ đạc, tranh ảnh, áp phích ...nhằm tạo không gian hài hoà, thoải mái và tiện nghi cho khách hàng tạo cho khách hàng cảm thấy thoải mái không sốt ruột trong trạng thái chờ đợi khi khách hàng đến làm các thủ tục với ngân hàng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29404.doc
Tài liệu liên quan