Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Sông Đà 12

LỜI CAM ĐOAN Tên em là: Nguyễn Thu Thủy – là sinh viên lớp Kinh tế phát triển 47B (QN), khoa Kế hoạch và phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân. Mã Sinh viên CQQN 470227. Trong quá trình thực tập tại phòng Kinh tế - Kế hoạch của Công ty Cổ phần Sông Đà 12, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú, anh chị trong phòng trong việc tìm kiếm tài liệu, tìm hiểu thông tin, cùng với sự hướng dẫn của TS. Phan Thị Nhiệm để từ đó lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy độn

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Sông Đà 12, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Sông Đà 12”. Em đã cố gắng để hoàn thành chuyên đề này nhưng vẫn còn nhiều thiếu xót. Em xin cam đoan những số liệu sử dụng trong chuyên đề là những số liệu thực tế của Công ty và việc hoàn thành chuyên đề này hoàn toàn do sự nỗ lực của bản thân. Nếu không đúng sự thật em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 12 / 05 / 2009 Sinh viên Nguyễn Thu Thủy DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SXKD : Sản xuất kinh doanh CTCP : Công ty Cổ phần TSNH : Tài sản ngắn hạn TSDH : Tài sản dài hạn VLĐ : Vốn lưu động VCĐ : Vốn cố định TSCĐ : Tài sản cố định TSLĐ : Tài sản lưu động VCSH : Vốn chủ sở hữu DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước KTTT : Kinh tế thị trường ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông HĐQT : Hội đồng quản trị CBCNV : Cán bộ công nhân viên DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ LỜI MỞ ĐẦU Môt doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường thì luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, nói cách khác lợi nhuận là thước đo hiệu quả SXKD. Một trong những nguồn lực thiết yếu để hoạt động SXKD của doanh nghiệp có hiệu quả đó là vốn. Thật vậy, vốn vừa là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời một doanh nghiệp, vừa là nhân tố quyết định khả năng mở rộng SXKD, đầu tư chiều sâu cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Bởi vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không thể không quan tâm đến việc huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả. Thực tế của Việt Nam cho thấy, trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường, không ít các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả đã không thích ứng được và lâm vào tình trạng bế tắc, dẫn đến phá sản. Thực tế này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là doanh nghiệp bị động trong huy động vốn và công tác quản lý vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Chính vì vậy, huy động, sử dụng vốn SXKD một cách hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình trong có chế thị trường. Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng giữa các nền kinh tế khác nhau trên thế giới, đánh dấu bằng việc nước ta gia nhập WTO, đã mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức cho các doanh nghiệp trong nước bởi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì vậy, vốn ngày càng đóng vai trò quan trọng giúp doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường. Công ty Cổ phần Sông Đà 12 là một đơn vị mạnh, chủ chốt của Tổng Công ty Sông Đà, hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực như: xây lắp, kinh doanh vật tư, vận tải và sản xuất công nghiệp. Để duy trì và phát huy được vị thế hiện tại trong ngành, Công ty cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu của việc nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Bởi vậy, xuất phát từ thực tiễn nói trên, trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã chọn cho mình đề tài và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Sông Đà 12”. Bố cục chuyên đề gồm 3 phần: Chương 1: “Lý luận chung về huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Chương 2: “Thực trạng huy động và sử dụng vốn của CTCP Sông Đà 12 giai đoạn 2005 – 2008”. Chương 3: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn của CTCP Sông Đà 12 trong thời gian tới”. Bên cạnh sự nỗ lực của cá nhân, em xin gửi lời cảm ơn tới giáo viên hướng dẫn TS. Phan Thị Nhiệm, phòng Kinh tế - Kế hoạch của CTCP Sông Đà 12 đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em cũng như Trung tâm thư viện Quốc gia, Thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã cung cấp thông tin và tài liệu để em hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cám ơn! CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH GHIỆP Tổng quan về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Khái niệm chung về vốn Khái niệm chung Mỗi doanh nghiệp đều có những đặc thù riêng song trong quá trình SXKD đều phải có điểm chung là bắt đầu bằng các yếu tố đầu vào và kết thúc là các yếu tố đầu ra. Đầu vào là các yếu tố sản xuất như: nguyên, nhiên, vật liệu, hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp sử dụng kết hợp với nhau để tạo đầu ra. Đầu ra là các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có ích, sử dụng cho quá trình SXKD hoặc tiêu dùng. Để tạo ra đầu ra thì doanh nghiệp cần phải có các yếu tố đầu vào với giá trị nhất định. Vì vậy, doanh nghiệp phải có một lượng tiền đảm bảo cho các yếu tố đầu vào này, lượng tiền tệ này gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện là giá trị của toàn bộ tài sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi đồng vốn phải gắn liền với một chủ sỡ hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để biến thành vốn thì tiền phải đưa vào SXKD với mục đích sinh lời. Như vậy: Vốn là lượng giá trị ứng trước của toàn bộ tài sản mà Doanh nghiệp kiểm soát để phục vụ trong hoạt động SXKD nhằm thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Đặc trưng của vốn kinh doanh Việc nhận thức đúng và đầy đủ về những đặc trưng của vốn trong quá trình SXKD sẽ giúp doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Vốn kinh doanh có những đặc trưng sau: Vốn phải được đại diện cho một lượng tài sản, nghĩa là vốn được thể hiện bằng giá trị của những tài sản có thực (hữu hình hoặc vô hình). Vốn phải được vận động sinh lời. Đặc trưng này của vốn xuất phát từ nguyên tắc: tiền tệ chỉ được coi là vốn khi chúng được đưa vào SXKD. Chúng vận động biến đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn là giá trị tiền phải lớn hơn khi xuất phát. Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới phát huy tác dụng. Do đó, để đầu tư vào SXKD, các doanh nghiệp không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn mà còn phải tìm mọi cách thu hút vốn. Vốn có giá trị về mặt thời gian, nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng tiền. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như lạm phát, giá cả thay đổi, tiến bộ khoa học công nghệ không ngừng nên sức mua của đồng tiền ở mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau. Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu: trong nền kinh tế tri thức, vốn đóng một vai trò quan trọng, do đó, không thể có đồng vốn vô chủ. Khi gắn với một chủ sở hữu nhất định thì vốn mới được chi tiêu hợp lý và có hiệu quả. Trong nền KTTT, vốn phải được xem là một thứ hàng hóa đặc biệt. Những người có vốn và những người cần vốn cũng gặp nhau trên thị trường. Người huy động vốn phải trả một khoản chi phí sử dụng vốn nhất định cho chủ sở hữu nguồn vốn. Như vậy, khác với hàng hóa thông thường, vốn khi “được bán” sẽ không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử dụng, người mua được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Phân loại vốn Mỗi loại vốn có các đặc trưng đặc điểm khác nhau, vì vậy muốn quản lý tốt các nguồn vốn ta phải phân loại các nguồn vốn. Có nhiều tiêu thức để phân loại vốn SXKD, chẳng hạn: Căn cứ vào nội dung vật chất, vốn được chia làm hai loại: vốn thực (vốn phi tài chính) và vốn tài chính. Căn cứ vào hình thái biểu hiện, vốn được chia làm hai loại: vốn hữu hình và vốn vô hình. Căn cứ vào thời hạn luân chuyển, vốn được chia làm ba loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Căn cứ vào phương thức luân chuyển, vốn được chia làm hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Căn cứ vào các nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp, vốn bao gồm: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Căn cứ vào phạm vi huy động có nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp. Trong phần phân loại này, chúng ta chỉ xét đến hai tiêu thức cơ bản để phân loại vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau: Theo phương thức luân chuyển Dựa vào đặc điểm luân chuyển, vốn kinh doanh được chia thành: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định (VLĐ) Vốn cố định của doanh nghiệp: là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Một số nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình SXKD như sau: VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD, điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ SXKD quyết định. VCĐ luân chuyển từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ SXKD. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. Sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị dần dần tăng lên song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm xuống cho đến khi hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. VCĐ được chia thành hai loại là VCĐ hữu hình và VCĐ vô hình: VCĐ hữu hình: là biểu hiện bằng tiền của những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể, có đủ những tiêu chuẩn về thời gian luân chuyển và giá trị, bao gồm: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện truyền tải, phương tiện truyền dẫn… VCĐ vô hình: là biểu hiện bằng tiền của những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả, cho phí nhằm có được những lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế mà giá trị của nó xuất phát từ những những đặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, bản quyền, phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy vi tính, giấy phép, giấy nhượng quyền… Vốn lưu động(VLĐ) Vốn lưu động của doanh nghiệp: là một bộ phận của vốn kinh doanh được ứng ra để hình thành nên TSLĐ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành thường xuyên, liên tục. VLĐ được biểu hiện chủ yếu là vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn, phải thu của khách hàng, vật tư hàng hóa và tài sản lưu động khác. Do đặc điểm của TSLĐ chi phối, VLĐ của doanh nghiệp có những đặc điểm sau: VLĐ tham gia vào một chu kỳ SXKD, luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn bằng tiền chuyển sang hình thái vốn sản xuất như vật tư, hàng hóa và kết thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm, VLĐ lại trở về hình thái ban đầu là vốn tiền tệ. Sự vận động của VLĐ từ hình thái ban đầu qua các hình thái khác đến khi trở về hình thái ban đầu gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Do quá trình SXKD của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục nên sự tuần hoàn của VLĐ cũng lặp đi lặp lại có tính chu kỳ. Trong quá trình SXKD, VLĐ chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm mới VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền bán hàng. Căn cứ theo hình thái thể hiện, VLĐ được chia thành: Vốn vật tư hàng hóa: là các khoản VLĐ có hình thái biểu hiện bằng hình thái hiện vật cụ thể như vốn nguyên nhiên liệu, vốn sản xuất dở dang đang chế tạo, vốn thành phẩm – hàng hóa, vốn chi phí trả trước. Vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển, đây là một loại tài sản của doanh nghiệp, nó có thể chuyển đổi dễ dàng sang các loại tài sản khác hoặc để trả các khoản nợ. Khoản phải thu bao gồm khoản phải thu từ khách hàng, khoản thu từ tạm ứng của doanh nghiệp cho nhà cung ứng trong quá trình mua sắm vật tư hàng hóa hoặc ứng trước. Theo nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và Nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như: Trạng thái của nền kinh tế. Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của Doanh nghiệp. Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Trình độ khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý. Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Thái độ của chủ doanh nghiệp, chính sách thuế v.v… Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức huy động vốn (còn gọi là phương thức tài trợ) mà các doanh nghiệp có thể sử dụng. Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu Lợi nhuận không chia Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Vốn góp ban đầu Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp, khi nói đến nguồn VCSH của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Đối với DNNN, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Đối với các doanh nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với CTCP, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các CTCP cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các nguồn vốn cũng tương tự như trên; tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác góp v.v… Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc nhiều vào nhiều yếu tố khác nhau (như luật pháp, đặc điểm ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh). Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động SXKD, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguốn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng SXKD của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với các CTCP thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không nhận được cổ tức nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Phát hành cổ phiếu Trong hoạt động SXKD, doanh nghiệp có thể tăng VCSH bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức nhất định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty. Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp Để bổ sung vốn cho quá trình SXKD, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động SXKD, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn (thường tính từ 3 hoặc 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 – 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư TSCĐ, cho vay đầu tư TSLĐ, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất). Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại (hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp). Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20%, thậm chí có thể lên tới 40% tổng nguồn vốn. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hóa và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó, các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu là một tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn. Khi phát hành trái phiếu đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ có thêm môt khoản nợ và có trách nhiệm thanh toán khi đến hạn. Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu cần tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu, phụ thuộc vào các yếu tố như: Lãi suất, kỳ hạn của trái phiếu, uy tín của doanh nghiệp. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu doanh nghiệp như sau: Trái phiếu có lãi suất cố định: đây là loại trái phiếu được sử dụng phổ biến nhất. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suôt kỳ hạn của nó. Như vậy, cả doanh nghiệp (người đi vay) và người giữ trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ. Trái phiếu có lãi suất thay đổi: tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác (chẳng hạn, lãi suất LIBOR hoặc lãi suất cơ bản). Doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại cổ phiếu này khi phát hành trong điều kiện nền kinh tế có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một vài nhược điểm như: Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính; ngoài ra, việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. Trái phiếu có thể thu hồi: tức là doanh nghiệp có thể thu hồi vào một thời gian nào đó. Với loại trái phiếu này, doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại. Ưu điểm của loại này là: Có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng, khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu tức là giảm số vốn vay; doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên, nếu không có những hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưu thích. Chứng khoán có thể chuyển đổi: các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty Mỹ, thường phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lực chọn cho phép các bên (doanh nghiệp, người đầu tư) có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Thứ nhất, xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn kinh doanh. Vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động SXKD. Trong nền KTTT, sẽ không có bất cứ một hoạt động SXKD nào diễn ra nếu không có vốn. Vốn là tiền đề, là xuất phát điểm của mọi hoạt động SXKD, là nền tảng vật chất để biến mọi ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. Vốn quyết định quy mô đầu tư, mức độ trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật và quyết định cả thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy, không ít những doanh nghiệp có khả năng về nhân lực, có cơ hội đầu tư nhưng thiếu nguồn lực tài chính mà đành bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Với vai trò đó, việc tổ chức và nâng cao hiệu quả huy đông, sử dụng vốn kinh doanh trở thành yêu cầu cấp thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vốn là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cho nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Vốn của các DNNN được Nhà nước cấp hầu như toàn bộ trong cơ chế bao cấp trước đây. Vì thế, vai trò khai thác thu hút vốn không được đặt ra như một nhu cầu cấp bách mang tính sống còn đối với các doanh nghiệp. Điều đó đã tạo ra sự cân đối giả tạo về cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế và thủ tiêu tính chủ động của các doanh nghiệp. Trong nền KTTT, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho mục đích sinh lời của mình. Nhưng quan trọng là người quản lý phải xác định chính xác nhu cầu về vốn, cân nhắc lựa chọn các hình thức thu hút vốn thích hợp từ các loại hình kinh tế khác nhau nhằm tạo lập, huy động vốn trong nền kinh tế thị trường hiện nay và sử dụng đồng vốn đó một cách tiết kiệm và hiệu quả. Yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường hiện nay đặt ra cho các doanh nghiệp hết sức khắt khe trong nền kinh tế thị trường phải có hình thức sử dụng vốn phải bảo toàn và phát triển được vốn, vừa phải nâng cao khả năng sinh lời, tăng nhanh vòng quay của vốn. Vốn còn là công cụ để kiểm tra hoạt động kinh doanh của Doanh nghiêp: Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp là yếu tố về giá trị. Nếu vốn không được bảo tồn và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn không còn phát huy được vai trò của nó và đã bị thiệt hại - đó là hiện tượng mất vốn. Vốn của Doanh nghiệp đã sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả sẽ làm cho Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán rồi đi đến phá sản. Chính vì sự tồn tại và phát triển của chính doanh nghiệp mình mà việc nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong mỗi doanh nghiệp phải được đặt lên hàng đầu. Thứ hai, xuất phát từ mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền KTTT. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý SXKD, trong đó, quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả SXKD. Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn không chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Khi vốn được huy động nhanh, đủ, kịp thời và đồng vốn được sử dụng có hiệu quả cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn có lãi, bảo toàn và phát triển được vốn. Đó chính là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu. Thứ ba, vấn đề bảo toàn và phát triển vốn. Bảo toàn vốn ở các đơn vị kinh tế được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích SXKD, đảm bảo cho các loại tài sản không bị hư hỏng trước thời hạn, không bị mất mát hoặc ăn chia vào vốn, không được tạo ra lãi giả để làm giảm vốn, kể cả VLĐ và VCĐ. Đồng thời, các doanh nghiệp, ngoài trách nhiệm bảo toàn vốn còn có trách nhiệm chăm lo và phát triển vốn, thường xuyên bổ sung và tăng vốn để tự mở rộng, đổi mới công nghệ SXKD của doanh nghiệp. Sự cần thiết của việc bảo toàn và phát triển vốn trước hết xuất phát từ việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tài chính đối với các DNNN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DNNN hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh, Nhà nước không tiếp tục bao cấp về vốn cho các doanh nghiệp như trước đây. Để duy trì và phát triển SXKD các doanh nghiệp phải bảo toàn, giữ gìn số vốn được Nhà nước đầu tư, tức là kinh doanh ít nhất phải đảm bảo hòa vốn, bù đắp cho được số vốn đã bỏ ra để tái sản xuất giản đơn. Đồng thời, doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi để tự tích lũy bổ sung vốn, tạo vốn cho tái sản xuất mở rộng. Việc chăm lo giữ gìn quản lý vốn, phát triển tăng vốn là một đòi hỏi mới đối với các doanh nghiệp. Ngoài trách nhiệm bảo toàn và phát triển các loại vốn Nhà nước giao, doanh nghiệp còn phải bảo toàn, giữ gìn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động khác như vốn tín dụng (vay ngân hàng, vay các đối tượng khác), vốn liên doanh liên kết, vốn của khách hàng bằng việc thực hiện đúng các cam kết trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng liên doanh và các hợp đồng kinh tế với khách hàng. Mặt khác, chế độ bảo toàn và phát triển vốn xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế có lạm phát, giá cả biến động lớn sức mua của đồng tiền Việt Nam biến động nhiều. Nếu tiếp tục duy trì cơ chế giá thấp như trước đây thì số vốn SXKD của doanh nghiệp thể hiện bằng đồng tiền Việt Nam sẽ bị giảm dần giá trị thực tế, sức mua của vốn bị thu hẹp. Hậu quả không tránh khỏi sẽ lại là lãi giả, lỗ thật, kinh tế quốc doanh ăn vào vốn. Vì tất cả những lý do trên mà việc tổ chức đảm bảo kịp thời, đầy đủ vốn và nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn kinh doanh là mục tiêu và là yêu cầu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp khi tiến hành SXKD. Một số vấn đề về hiệu quả huy động vốn sản xuất kinh doanh Khái niệm về huy động vốn và huy động vốn có hiệu quả Một doanh nghiệp đang và sẽ đứng vững trong tương lai phải là doanh nghiệp có cơ cấu và nguồn vốn hợp lý. Muốn vậy, phải lựa chọn hình thức huy động vốn hợp lý, tổ chức khai thác triệt để các nguồn lực có thể huy động. Bởi vậy, huy động vốn là một nội dung quan trọng trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, thu hút nguồn nhân lực tài chính từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu SXKD của mình. Tùy theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện KTTT, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa dạng hóa nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Trong quá trình huy động vốn, các doanh nghiệp phải luôn luôn xét đến tính hiệu quả của nó, bởi lẽ hiệu quả huy động vốn có liên quan trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn và qua đó quyết định đến kết quả SXKD, doanh thu, lợi nhuận và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hiệu quả huy động vốn là khái niệm dùng để đánh giá chất lượng của công tác huy động vốn xét về mặt thời gian, chi phí cũng như giá trị của nguồn vốn huy động. Tính hiệu quả trong huy động vốn được xác định bằng mức độ đáp ứng mục tiêu của việc huy động vốn có thể đạt được bao nhiêu phần trăm mục tiêu đã đề ra, cũng như so sánh chi phí của nguồn vốn huy động với kết quả mà đồng vốn đó mang lại. Cùng với sự hoàn thiện và phát triển không ngừng của thị trường tài chính thì việc cân nhắc lựa chọn nguồn huy động vốn phù hợp với năng lực tài chính hiện tại của doanh nghiệp mình là chính sách hàng đầu của các doanh nghiệp. Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở một số khía cạnh sau: Huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời. Khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn cũng là lúc họ nhận thấy cơ hội kinh doanh mới trên thị trường. Cơ hội ấy có thể là một nhu cầu tiêu dùng mới hoặc một ý tưởng về sản phẩm mới ưu việt và kinh tế hơn, hay là một phát kiến mới trong sản xuất. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần vốn để triển khai ý tưởng ấy. Nếu vốn không được huy động kịp thời, cơ hội kinh doanh sẽ nhanh chóng qua đi và khả năng tìm kiếm lợi nhuận kinh doanh sẽ không còn nữa đồng nghĩa với việc huy động vốn là không hiệu quả. Lựa chọn nguồn vốn đảm bảo hiệu quả cao nhất trong những điều kiện nhất định. Thị trường tài chính càng phát triển thì doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn khác nhau để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, do vậy cần lựa chọn nguồn vốn cho phù hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiệu quả huy động vốn không chỉ thể hiện ở hiệu quả đầu tư mà nguồn vốn mang lại mà còn thể hiện ở khả năng dễ dàng tiếp cận và huy động, ở lợi ích của chủ doanh nghi._.ệp khi sử dụng nghuồn vốn đó. Huy động vốn cần đáp ứng nhu cầu về số lượng và thời gian. Một ý đồ đầu tư sẽ không thể thực hiện được nếu không có đủ một lượng vốn nhất định. Vì vậy, khi huy động vốn phải đảm bảo đủ về số lượng và theo đó là tương thích về thời gian. Hiện nay, thời hạn cho vay của các ngân hàng thường rất cứng nhắc, không linh hoạt với chu kỳ SXKD của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong ngành công nghiệp – xây dựng, với chu kỳ SXKD dài, dẫn đến trường hợp doanh nghiệp không đảm bảo thời hạn trả nợ phải chịu lãi suất quá hạn, tất yếu sẽ là chi phí vốn cao. Huy động vốn phải đảm bảo được tính độc lập, chủ động trong SXKD của doanh nghiệp. Tức là doanh nghiệp phải có quan điểm huy động tối đa nguồn lực bên trong như trích từ lợi nhuận để lại, nguồn vốn khấu hao, quỹ đầu tư phát triển, từ cán bộ công nhân viên … Phần còn lại sẽ được huy động từ bên ngoài như: vay ngắn hạn, dài hạn, thuê, thuê mua tài chính… Cơ cấu nguồn tài trợ phải đảm bảo có chi phí vốn bình quân thấp nhất. Mức độ huy động vốn phải dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu hình thành TSCĐ và TSLĐ thường xuyên cần thiết. Huy động vốn cần bảo đảm giảm thiểu chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch phát sinh từ các thủ tục hành chính phức tạp, quy trình giải ngân “phiền toái”, chi phí tư vấn cao hoặc đôi khi còn xuất hiện một số chi phí “ngầm”. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn Vốn là nhân tố cần thiết của sản xuất và cũng như bất kỳ các nhân tố nào khác, để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi phí nhất định, goi là cho phí vốn. Có thể hiểu chi phí vốn là cho phí cơ hội của việc sử dụng vốn được tính bằng số lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp đển giữ không làm giảm số lợi nhuận giành cho chủ sở hữu. Đây là tiêu thức quan trọng được áp dụng phổ biến để đánh giá hiệu quả huy động vốn. Chi phí của nợ vay Chi phí nợ vay trước thuế (Kd): được tính toán trên cơ sở lãi suất nợ vay, lãi suất này thường được ấn định trong hợp đồng vay tiền. Chi phí nợ vay sau thuế (K’d): được xác định bằng chi phí nợ trước thuế trừ đi khoản tiết kiệm nhờ thuế, khoản tiết kiệm này được xác định bằng chi phí trước thuế nhân với thuế suất. Chi phí vốn chủ sở hữu Chi phí cổ phiếu ưu tiên (Kp) Chỉ tiêu này phản ánh chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra kh phát hành một cổ phiếu ưu tiên và được xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên (Dp) chia cho giá phát hành thuần của cổ phiếu (Pn) – là giá mà doanh nghiệp nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành. Dp Kp = Pn Chi phí của lợi nhuận không chia (Ks) Chi phí vốn của lợi nhuận không chia liên quan đến chi phí cơ hội của vốn. Lợi nhuận không chia của doanh nghiệp thuộc về người nắm giữ cổ phiếu thường, dùng để bù đắp về việc sử dụng vốn của họ. Doanh nghiệp có thể trả phần lợi nhuận này dưới hình thức cổ tức hoặc là dùng lợi nhuận đó để đầu tư, nếu doanh nghiệp quyết định không chia lợi nhuận thì sẽ có một cho phí cơ hội liên quan. Do đó, tỷ suất lợi nhuận mà cổ đông mong muốn trên phần vốn này chính là lợi nhuận của nó. Đó là tỷ suất lợi nhuận mà người nắm giữ cổ phần mong đợi kiếm được từ những khoản đầu tư có mức rủi ro tương đương. Ta có thể tính được chi phí của lợi nhuận không chia theo công thức sau: D1 Ks = + g P0 Trong đó: Di: cổ thức mong đợi được trả vào cuối năm thứ i P0: giá hiện tại của cổ phiếu g: tỷ lệ tăng trưởng Chi phí cổ phiếu thường mới Chỉ tiêu này phản ánh chi phí thực tế phát sinh của DN khi phát hành một cổ phiếu thường. Việc phát hành thêm cổ phiếu mới phải tính đến nhiều chi phí, vốn huy động bằng phát hành cổ phiếu mới phải được sử dụng sao cho cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị ảnh hưởng. Gọi: Pn: giá thuần của một cổ phiếu Ke: chi phí của cổ phiếu mới Dt: cổ tức mong đợi trong năm thứ t F: chi phí phát hành g: tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức Ta có chi phí của cổ phiếu mới sẽ là: D1 Ke = + g P0 (1 – F) Một số vấn đề về sử dụng vốn sản xuất kinh doanh Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền KTTT. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý SXKD, trong đó, quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả SXKD. Do đó, các doanh nghiệp phải quan tâm đúng mức đến hiệu quả sử dụng vốn. Qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhằm có biện pháp tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố của sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Từ các góc độ nhìn nhận khác nhau, quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng có những cách hiểu khác nhau. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp đứng từ góc độ kinh tế là tối đa hóa lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu là với một lượng vốn nhất định bỏ vào hoạt động SXKD sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất và làm cho đồng vốn không ngừng sinh sôi, tức là hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở hai mặt: bảo toàn được vốn và tạo ra được các kết quả theo mục tiêu kinh doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức sinh lời của đồng vốn. Bên cạnh đó, phải chú ý cả mặt tối thiểu hóa lượng vốn và thời gian sử dụng vốn của doanh nghiệp. Kết quả sử dụng vốn phải thỏa mãn được lợi ích của doanh nghiệp và các nhà đầu tư ở mức độ mong muốn cao nhất, đồng thời nâng cao được lợi ích xã hội. Nếu xét trên góc độ quản trị tài chính doanh nghiệp thì ngoài mục tiêu lợi nhuận, sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả còn phải đảm bảo an toàn, lành mạnh về mặt tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trước mắt và lâu dài. Xét về bản chất hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt của hiệu quả kinh doanh, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình SXKD với chi phí bỏ ra thấp nhất. Ở đây, hiệu quả sử dụng vốn có thể được hiểu là sự tối thiểu hóa số vốn cần sử dụng và tối đa kết quả hay khối lượng nhiệm vụ SXKD trong một giới hạn về nguồn nhân lực, vật lực phù hợp với hiệu quả kinh tế nói chung. Hiểu chung nhất, hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng vốn vào hoạt động SXKD của doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa chi phí. Để sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp phải: Sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm, tránh thất thoát, lãng phí hay ứ đọng vốn. Huy động vốn có hiệu quả cho các hoạt động SXKD và đầu tư, đảm bảo các mục tiêu SXKD của doanh nghiệp. Các DN, đặc biệt là DNNN chỉ được coi là hoạt động có hiệu quả khi nó kết hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vừa tăng cường sự gắn bó của Doanh nghiệp với thị trường, vừa góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội cần thiết, đảm bảo quyền lợi của người lao động, quyền lợi bạn hàng, của người tiêu dùng và đóng góp cho ngân sách quốc gia. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, để lượng hóa hiệu quả sử dụng vốn, người ta sử dụng hệ thống các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, năng lực hoạt động và khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn. Chúng phản ánh mối quan hệ đầu ra, đầu vào trong quá trình SXKD thông qua thước đo tiền tệ. Các tỷ số về năng lực hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của Doanh nghiệp. Vốn của Doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay vốn lưu động: tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và vốn lưu động bình quân, nó cho biết số vòng quay vốn lưu động trong năm. Số ngày một vòng luân chuyển vốn lưu động trong kỳ = 360/ số vòng quay Vòng quay dự trữ (tồn kho): là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Hiệu suất sử dụng tổng vốn: chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và nguồn vốn và cho biết một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng vốn = Tổng nguồn vốn bình quân Hiệu quả sử dụng vốn cố định, được tính như sau: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng VCĐ = Vốn cố định bình quân Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng VLĐ = Vốn lưu động bình quân Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trên đây đều có ý nghĩa chung là một đồng vốn sản xuất của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng sản phẩm trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Đồng thời, để đạt hiệu quả sử dụng vốn càng cao thì doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm vốn nhằm tối thiểu hóa số vốn sử dụng hoặc tối đa hóa kết quả sản xuất trong giới hạn về các nguồn vốn hiện có. Các tỷ số về khả năng thanh toán Khả năng thanh toán phản ánh tình trạng tài chính (tốt hay xấu) của doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến tình hình thanh toán. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cũng cần phải phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà tổ chức, các khoản phải trả, phải nộp khác v.v… Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: Tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản ngắn hạn trừ phần dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho Khả năng thanh toán nhanh= Nợ ngắn hạn Các tỷ số về khả năng sinh lãi Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả SXKD và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng hoạt động SXKD của Doanh nghiệp. Tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá đúng chất lượng hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc xem xét mức biến động của tổng số lợi nhuận còn phải đánh giá bằng số tương đối (tỷ suất lợi nhuận) thông qua việc so sánh giữa tổng số lợi nhuận trong kỳ với số vốn sản xuất sử dụng để sinh ra số lợi nhuận đó. Tỷ suất lợi nhuận được tính theo các chỉ tiêu chi tiết sau đây: Tỷ số lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Lợi nhuận sau thuế ROE = × 100% Vốn chủ sở hữu ROE phản ánh khả năng sinh lợi của VCSH và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận vốn SXKD (ROA): Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Khác với ROE, ROA thường được các nhà quản lý doanh nghiệp tham khảo. Lợi nhuận sau thuế ROA = Tổng tài sản Tỷ suất lợi nhuận VCĐ: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận VCĐ = × 100% VCĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của VCĐ trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận VLĐ: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận VLĐ = × 100% VLĐ bình quân Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nói lên một trăm đồng vốn sản xuất trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận thực hiện năm nay so với kế hoạch, so với năm trước và với các doanh nghiệp có điều kiện tương đương có thể sánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm tìm biện pháp nâng cao chỉ tiêu này. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CTCP SÔNG ĐÀ 12 GIAI ĐOẠN 2005 – 2008 Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần Sông Đà 12 Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Sông Đà 12 Tên tiếng Việt : Công ty Cổ phần Sông Đà 12 Tên tiếng Anh : Song Da No 12 Joint Stock Company Tên viết tắt : SONG DA No 12., JSC Trụ sở : Lô 1, khu G, đường Nguyễn Tuân, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội Điện thoại : 04. 35 573 681 Fax: 04. 35 573 682 Website : www.sd12.com.vn Logo : SONG DA No12 JSC Vốn điều lệ : 50.000.000.000 đồng (Năm mươi tỷ đồng) Tiền thân của CTCP Sông Đà 12 là Công ty cung ứng vật tư trực thuộc TCT Xây dựng Sông Đà (nay là TCT Sông Đà) được thành lập theo quyết định số 217 BXD-TCCB ngày 1 tháng 2 năm 1980 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng trên cơ sở sáp nhập các đơn vị Xí nghiệp cung ứng vận tải, Ban tiếp nhận thiết bị, Xí nghiệp gỗ, Xí nghiệp khai thác đá, Xí nghiệp gạch Yên Mông và Công trường sản xuất vật liệu xây dựng thuỷ điện Sông Đà. Ngày 26 tháng 3 năm 1993, Công ty Sông Đà 12 được thành lập theo quyết định số 135A/BXD-TCLĐ của Bộ Xây dựng theo nghị định số 388/HĐBT ngày 20 tháng 11 năm 1991 và nghị định 156/HĐBT ngày 7/5/1993 của Hội đồng bộ trưởng. Trong giai đoạn từ năm 1996 đến nay, Công ty liên tục có những bước chuyển biến đăng ký bổ sung và tham gia SXKD các ngành nghề mới. Đặc biệt năm 2003 Công ty đã triển khai đầu tư thành công nhà máy sản xuất thép xây dựng chất lượng cao (nay là Nhà máy thép Việt Ý). Đây là bước đột phá mạnh mẽ của Công ty, đưa tổng giá trị SXKD năm 2003 tăng hơn 2 lần so với năm trước đó. Đồng thời hoạt động đầu tư này đã thay đổi cơ cấu SXKD của toàn Công ty, tạo bước chuyển mạnh từ một doanh nghiệp có ngành nghề truyền thống kinh doanh sang sản xuất công nghiệp với tỷ trọng sản xuất công nghiệp đạt 66% tổng giá trị SXKD toàn Công ty. CTCP Sông Đà 12 được thành lập theo quyết định số 2098/QĐ-BXD ngày 30 tháng 12 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, trên cơ sở chuyển đổi DNNN thành CTCP. Ngày 22 tháng 4 năm 2005, Công ty chính thức đi vào hoạt động dưới hình thức CTCP theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103007524 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp. Sau 26 năm xây dựng và trưởng thành, duy trì và phát triển những ngành nghề truyền thống Công ty Cổ phần Sông Đà 12 đã có những bước ngoặt chiến lược khẳng định tính đúng đắn của chủ trương đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm. Đến nay, Công ty với 7 đơn vị trực thuộc đã và đang phát triển sâu rộng trên các lĩnh vực: Đầu tư, SXKD các sản phẩm công nghiệp, xây dựng công nghiệp và dân dụng, kinh doanh vật tư thiết bị và các dịch vụ vận tải… Định hướng phát triển của Công ty là luôn luôn đổi mới phương thức quản lý điều hành, đầu tư các thiết bị, công nghệ tiên tiến, đào tạo con người nhằm đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi cao nhất của khách hàng. Bên cạnh đó, Công ty luôn chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người lao động. Với những nỗ lực hết mình, tập thể cán bộ công nhân viên Công ty đã đạt được nhiều danh hiệu đáng tự hào: Huân chương Lao động Hạng ba năm 1985 Huân chương Lao động Hạng hai năm 1995 Huân chương Lao động Hạng nhất năm 2001 Huân chương độc lập hạng ba năm 2004 Lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính Lĩnh vực xây lắp Các sản phẩm xây dựng công nghiệp: Các hạng mục xây lắp phục vụ thủy điện: Công ty chủ yếu cung cấp các gói thầu như thi công xây dựng các bể áp lực, nhà che van, đường ống áp lực, hệ thống cơ khí thủy công, hệ thống cấp thoát nước, trạm biến áp, đường điện đến 500KV, hệ thống cấp điện phục vụ thi công thủy điện, nhà điều hành, khu nhà ở phục vụ thi công, sinh hoạt, các hệ thống kè, kênh, mương. Công ty đã và đang tham gia vào nhiều công trình thủy điện lớn, trọng điểm như Thủy điện Hòa Bình, thủy điện Vĩnh Sơn Sông Hinh, thủy điện Suối Sập – Sơn La, thủy điện Hương Sơn – Hà Tĩnh, thủy điện Huội Quảng, thủy điện Tuyên Quang, thủy điện Sơn La, thủy điện Sử Pán, đường dây 500KV Quảng Ninh – Thường Tín, đường dây 500KV Thường Tín – Hà Tây Các hạng mục phục vụ các nhà máy sản xuất công nghiệp. Công ty được giao các gói thầu như xây dựng các nhà kho chứa, trạm đập đá vôi, đất sét, các băng tải vận chuyển, nhà nghiền than, nghiền liệu, cấp liệu, hầm cáp, mương cáp, các trạm cấp điện, hệ thống cấp thoát nước, làm mát. Câc gói thầu thi công tiêu biểu là các Nhà máy Xi măng Thăng Long, Xi măng Bút Sơn, Nhiệt điện Uông Bí mở rộng, Nhà máy Xi măng Hạ Long, Nhà máy Xi măng Hải Phòng, Nhà máy Xi măng Yaly… Các sản phẩm xây dựng dân dụng Sản phẩm xây dựng dân dụng của Công ty cũng rất đa dạng như xây dựng khu đô thị, nhà chung cư, bệnh viện, nhà thi đấu thể thao, trụ sở Ngân hàng, trụ sở các đơn vị nhà nước. Những công trình lớn Công ty đã thi công gồm có khu đô thị Việt Hưng (Hà Nội), Chung cư CT9 Khu đô thị Mỹ Đình, Khu đô thị liền kề Xí nghiệp 12-3 (Hòa Bình), nhà thi đấu thể thao Nam Định, Tòa nhà Hội Sở Ngân hàng TMCP Hàng Hải (Nguyễn Du – Hà Nội)…Những công trình Công ty đã và đang thi công đã khẳng định chất lượng, uy tín của Công ty. Năm 2006, lĩnh vực xây lắp đã đóng góp 58% trong tổng lợi nhuận toàn Công ty. Kinh doanh vật tư Kinh doanh vật tư là ngành nghề truyền thống và là thế mạnh của Công ty. Công ty cung cấp cát, xăng dầu, xi măng, phụ gia bê tông, bê tông thương phẩm cho các hạng mục xây lắp trong đó chủ yếu là cung cấp cho các công trình thủy điện. Hiện tại, thị trường phụ gia bê tông Puzơlan và tro bay đang có nhu cầu rất lớn, sản xuất trong nước chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Trong nước mới chỉ có CTCP Khoáng Sản Minh Tiến tại Thành phố Hồ Chí Minh là nhà sản xuất chính. CTCP Sông Đà 12 cũng đã thử nghiệm và tiến hành sản xuất phụ gia tro bay tuy nhiên sản lượng còn khiêm tốn. Chính vì vậy, Công ty đã ký kết hợp đồng mua bán Puzơlan với CTCP Khoáng Sản Minh Tiến. Hiện tại, Công ty đang cung cấp phụ gia cho các công trình thuỷ điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam như Thuỷ điện Bản Vẽ, Thuỷ điện Sơn La theo hợp đồng tới năm 2008 trị giá 77,8 tỷ. Ngoài ra, Công ty còn cung cấp phụ gia cho một số nhà máy thủy điện khác như: thủy điện SêSan 4, thủy điện Sêsan 3, thuỷ điện Plêikrông. Vận tải Công ty chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực vận tải các thiết bị siêu trường siêu trọng cho các nhà máy lớn. Công ty có đầy đủ các phương tiện vận tải thủy, bộ, các thiết bị vận tải đặc chủng như xà lan, tàu đẩy sông, tàu kéo sông, xe ben, xe tắc phoóc, xe trailer, xe trộn bê tông… Lĩnh vực vận tải được Công ty đầu tư các thiết bị mới nên năng lực vận tải của Công ty được đánh giá cao. Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực vận tải thiết bị cho các công trình như nhà máy thủy điện Hòa Bình, Vĩnh Sơn, Yaly, vật tư thiết bị Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, nhà máy Xi măng Sông Đà, nhà máy Xi măng Kiện Khê, nhà máy Đường Sơn La, nhà máy đường Hòa Bình, nhà máy Xi măng Hoàng Thạch, Bút Sơn… Hiện tại, Công ty đang vận chuyển thiết bị cho nhà máy Thủy Điện Tuyên Quang và nhà máy Xi măng Hạ Long. Sản xuất công nghiệp Các sản phẩm chính của Công ty là sản xuất cột điện, bê tông tươi, phụ gia xi măng và vỏ bao xi măng. Nhận thấy thị trường phụ gia xi măng là một mảng thị trường tiềm năng nên Công ty đã tập trung nghiên cứu sản xuất từ năm 2004. Tuy nhiên, hiện tại dây truyền sản xuất phụ gia tro bay (tuyển khô) cho công suất thấp, sản lượng ít nên chưa đáp ứng được nhu cầu. Chính vì vậy, Công ty đã xúc tiến thành lập 2 liên doanh CTCP Sông Đà 12 Nguyên lộc và CTCP Sông Đà 12 Cao Cường để sản xuất phụ gia Puzơlan và tro bay (tuyển ướt). Cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành CTCP Sông Đà 12 được tổ chức và hoạt động tuân thủ theo: Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 và Điều lệ Công ty đã được Đại hội đồng cổ đông nhất trí thông qua ngày 27 tháng 3 năm 2005. Cơ cấu bộ máy quản lý Công ty được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần như sau: Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần Sông Đà 12 ĐHĐ CỔ ĐÔNG BAN KIỂM SOÁT PHÓ TGĐ PHÓ TGĐ PHÓ TGĐ BAN QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN HẢI PHÒNG BAN QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN HÒA BÌNH PHÒNG ĐẦU TƯ PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH PHÒNG CƠ KHÍ CƠ GIỚI PHÒNG QUẢN LÝ KỸ THUẬT PHÒNG KINH TẾ KẾ HOẠCH XÍ NGHIỆP 12-11 XÍ NGHIỆP 12-5 XÍ NGHIỆP 12-4 XÍ NGHIỆP 12-3 XÍ NGHIỆP 12-2 TỔNG GIÁM ĐỐC HĐ QUẢN TRỊ Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, họp ít nhất mỗi năm một lần. ĐHĐCĐ quyết định những vấn đề được Luật pháp và Điều lệ Công ty quy định. ĐHĐCĐ thông qua các báo cáo tài chính hàng năm của Công ty và ngân sách tài chính cho năm tiếp theo, bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của Công ty. Hội đồng quản trị (HĐQT) Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. HĐQT của Công ty có 05 thành viên, mỗi nhiệm kỳ tối đa của từng thành viên là 05 năm. Chủ tịch HĐQT do HĐQT bầu ra. Ban kiểm soát Ban kiểm soát là cơ quan có chức năng hoạt động độc lập với HĐQT và Ban Giám đốc, Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu ra và thay mặt ĐHĐCĐ giám sát mọi mặt hoạt động SXKD của Công ty, báo cáo trực tiếp ĐHĐCĐ. Ban kiểm soát của Công ty có 03 thành viên. Ban Giám đốc Tổng Giám đốc là người điều hành và có quyền quyết định cao nhất về tất cả những vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ, HĐQT về việc tổ chức SXKD, thực hiện các biện pháp để đạt được các mục tiêu phát triển Công ty do ĐHĐCĐ và HĐQT đề ra. Công ty có 03 Phó tổng giám đốc là người giúp việc cho Tổng Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về các công việc được phân công, chủ động giải quyết những vấn đề mà Tổng Giám đốc đã uỷ quyền và phân công theo đúng chế độ của Nhà nước và điều lệ Công ty. Phòng Tổ chức – Hành Chính Có chức năng tham mưu giúp HĐQT và Tổng Giám đốc Công ty thực hiện các công việc cụ thể như: Tổ chức nhân sự sản xuất; quy hoạch, đào tạo, đề bạt, miễn nhiệm và nhận xét cán bộ hàng năm theo đúng tiêu chuẩn và quy chế TCT; Thực hiện công tác tuyển dụng, quản lý và sử dụng lao động; Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nội dung kỷ luật lao động của CBCNV khối cơ quan Công ty. Phòng Tài chính- Kế toán: là bộ phận chức năng giúp việc cho HĐQT và Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ thể sau: Hạch toán kế toán; quản lý hoạt động tài chính toàn Công ty; Hướng dẫn và kiểm tra công tác hạch toán kế toán của các đơn vị. Phòng Quản lý Kỹ thuật: là bộ phận chức năng trợ giúp Tổng Giám đốc trong lĩnh vực xây dựng cụ thể sau: Kiểm duyệt hồ sơ thiết kế, hồ sơ dự thầu xây lắp; Nghiệm thu sản phẩm, kiểm tra chất lượng kỹ thuật; Nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới; Xây dựng các quy định về quản lý kỹ thuật. Phòng Cơ khí- Cơ giới: là bộ phận chức năng trợ giúp Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ thể sau: Phụ trách công tác duy tu, bảo dưỡng thiết bị sản xuất; Điều động, quản lý xe, máy trong toàn Công ty; Quyết định đầu tư mới, tái đầu tư thiết bị. Phòng Kinh tế- Kế hoạch: là bộ phận chức năng tham mưu giúp Tổng Giám đốc trong các lĩnh vực cụ thể sau: Công tác xây dựng kế hoạch, kiểm tra thực hiện kế hoạch, tổng hợp báo cáo thống kê, xây dựng kế hoạch SXKD của Công ty; Công tác hợp đồng kinh tế; Công tác định mức, đơn giá giá thành , công tác sản xuất; Công tác đầu tư các dự án thuộc các lĩnh vực xây lắp, sản xuất công nghiệp, đầu tư trang thiết bị máy móc... tái đầu tư của Công ty và các đơn vị trực thuộc; Công tác thiết lập các chiến lược tiếp thị, marketing. Phòng Kinh doanh: là bộ phận chức năng tham mưu giúp Tổng Giám đốc hoạch định chiến lược kinh doanh toàn Công ty, trong nội bộ cũng như ngoài Công ty; phối hợp với phòng Kinh tế - kế hoạch chủ trì các phòng liên quan tổ chức lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu theo quy định đối với vật tư, phụ tùng kinh doanh, phục vụ các công trường, tham gia đấu thầu các hợp đồng cung cấp vật tư, phụ tùng thiết bị ngoài Công ty; giúp Tổng Giám đốc Công ty chỉ đạo công tác kinh doanh và định kỳ báo cáo, tổng hợp kinh doanh toàn Công ty theo quy định Nhìn chung mô hình tổ chức hiện tại của Công ty đã đáp ứng được với yêu cầu của nhiệm vụ SXKD doanh của Công ty. Với việc phân cấp mạnh của Công ty đối với các đơn vị trực thuộc đã tạo điều kiện cho các đơn vị phát huy tính chủ động sáng tạo trong công tác quản lý và điều hành sản xuất, trong việc phát triển thị trường cũng như trong việc thực thi định hướng phát triển chung của Công ty. Công ty vẫn giữ được vai trò trung tâm điều phối hoạt động của các đơn vị thông qua quy chế quản lý chung. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2005 - 2008 Với sự phấn đấu không mệt mỏi của tập thể cán bộ công nhân viên CTCP Sông Đà 12, trong thời gian qua, việc thực hiện các kế hoạch hàng năm của Công ty đã luôn đạt và vượt, hoạt động SXKD rất khả quan, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao, thu nhập bình quân/người hàng tháng đã tăng từ 1,4 năm 2005 lên 2,4 triệu năm 2008. Nhìn chung các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả hoạt động SXKD của Doanh nghiệp đều có xu hướng tăng, có thể nói năm 2007 là năm Công ty có sự tăng trưởng nhảy vọt, tuy nhiên đến năm 2008 Công ty lại có sự sụt giảm đáng kể, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và Công ty không phải là ngoại lệ. Lãi suất ngân hàng cao, thị trường chứng khoán chững lại, thắt chặt chi tiêu, bão giá nguyên vật liệu khiến cho Công ty phải thu hẹp lại hoạt động SXKD, làm cho các chỉ tiêu đều tăng trưởng cho đến năm 2007 nhưng giảm mạnh vào năm 2008. Ta có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ quy mô tổng nguồn vốn, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của Công ty qua các năm dưới đây: Biểu đồ: Quy mô nguồn vốn, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của Công ty (Nguồn: CTCP Sông Đà 12) Về chỉ tiêu tổng nguồn vốn ta thấy chỉ tiêu này nhìn chung có sự tăng lên qua các năm, thể hiện sự mở rộng về SXKD của Công ty, riêng năm 2006 có sự giảm nhẹ. Đây không phải là điều đáng lo lắng khi ta xem xét cụ thể nguyên nhân, đó là do quy mô nợ phải trả được thu hẹp đáng kể cả về nợ ngắn hạn và dài hạn, trong khi vốn chủ sở hữu tăng lên. Các về chỉ tiêu doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế cùng có xu hướng biến động chung, đó là tăng dần từ năm 2005 đến năm 2007 nhưng giảm mạnh vào năm 2008. Nguyên nhân của hiện tượng này như đã nêu ở trên. Riêng chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế có sự giảm nhẹ vào năm 2006 là do các khoản mục chi phí của doanh nghiệp tăng lên. Đặc điểm của quá trình SXKD Không chỉ riêng với CTCP Sông Đà 12 mà hầu như các doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực xây dựng đều có sản phẩm rất đặc thù, đó là: những công trình xây dựng, nhà máy sản xuất… Đặc điểm của những công trình là phân bố không tập trung, nằm rải rác khăp nơi tùy vào quy hoạch của từng vùng, từng địa phương. Do đó, việc thi công xây dựng có tính chất lưu động và phân tán, theo đó, lao động và công cụ lao động phục vụ cho sản xuất cũng phải di chuyển theo, dẫn đến phát sinh nhiều chi phí. Đặc điểm này khiến cho việc huy động vốn và quản lý vốn phải diễn ra trên một phạm vi rộng, thông qua nhiều tổ chức tài chính trung gian, do đó chi phí giao dịch cao. Điều này làm giảm tính hiệu quả trong huy động và gây khó khăn cho công tác quản lý vốn. Sản phẩm xây dựng thường có thời gian sử dụng dài và giá trị sản phẩm lớn nên có nhu cầu lớn về sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên, cải tạo hoặc mở rộng… Chi phí sản xuất cho sản phẩm xây dựng rất đa dạng. Ngay cùng một sản phẩm có kết cấu, kiến trúc giống nhau cũng có sự khác nhau về chi phí sản xuất. Vì vậy, việc xác định chi phí sản xuất cũng như giá cả sản phẩm có nhiều khó khăn phức tạp hơn so với sản phẩm công nghiệp. Khả năng xây dựng các định mức chi phí cho sản phẩm xây dựng bị hạn chế rất nhiều. Ngoài ra, các sản phẩm mà Công ty đã, đang và sẽ thi công thường xuyên yêu cầu một lượng vốn lớn, thời gian hoàn thành tương đối dài. Trong khi đó, khi tham gia các công trình này Công ty chỉ được ứng trước số vốn bằng 10% tổng giá trị của công trình mà số vốn tự có không đủ nên Công ty phải vay ngân hàng để thi công làm phát sinh nhiều khoản chi phí giao dịch. Do tính chất về sản phẩm cũng như quá trình sản xuất sản phẩm nên nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất cần một khối lượng lớn, nhiều chủng loại, có loại được đáp ứng bằng cách tự sản xuất, nhưng cũng có loại phải nhập mua và được vận chuyển đến. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là trước khi huy động và sử dụng vốn cần dự toán nhu cầu nguyên vật liệu chính xác, tối ưu không những giảm được chi phí lưu kho mà còn tiết kiệm được chi phí vận chuyển. Trên cơ sở đó, xác định cơ cấu vốn tối ưu. Cụ thể là nguồn VLĐ sẽ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của Công ty. Chu kỳ SXKD dài, sản phẩm xây dựng dở dang lớn làm cho vốn SXKD của Công ty bị ứ đọng nhiều và kéo dài, khả năng thanh toán các khoản nợ thường gặp khó khăn và rủi ro do biến động về giá cả và tiền tệ xảy ra là rất lớn. Vì vậy, trong quá trình thi công, Công ty cần có những biện pháp tích cực đẩy nhanh tiến độ thi công, rút ngắn thời gian ứ đọng, tăng v._. kế hoạch huy động vốn, lập kế hoạch sử dụng vốn cũng là một trong những giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho Công ty. Khi có nguồn tài trợ, Công ty cần chủ động lập kế hoạch về phân phối và sử dụng hợp lý, đạt kết quả cao nhất. Từ đó, tiến hành phân bổ vốn sử dụng cho các hoạt động của quá trình sản xuất của Công ty, từng bộ phận chức năng sẽ tiến hành xây dựng dự toán chi phí giá thành cho hoạt động SXKD. Trên cơ sở đó, Công ty giao hạn mức sử dụng vốn cho từng bộ phận. Khi sử dụng vốn, Công ty cần phải căn cứ vào kế hoạch đã lập làm cơ sở điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế: nếu phát sinh thêm nhu cầu vốn Công ty cần phải đáp ứng kịp thời, nếu thừa vốn cần xử lý ngay, không để vốn bị ứ đọng. Để tránh lãng phí, cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì công tác dự toán chi phí cần dựa vào chi phí phát sinh thực tế của những công trình, trong đó có tính đến những biến động về giá cả trên thị trường yếu tố đầu vào. Thực hiện chặt chẽ việc thẩm định, lựa chọn dự án đầu tư. Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng nhất để quyết định việc bỏ vốn đầu tư, là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư. Việc lựa chọn dự án đầu tư tốt hay không có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Để có quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn dự án đầu tư đòi hỏi Công ty cần phải tính toán, nghiên cứu các yếu tố như: khả năng tài chính, điều kiện cung cấp sản phẩm, tính khả thi và kết quả mà dự án mang lại. Đồng thời, cần chú trọng bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, công tác quản lý cho các cán bộ tại các dự án để đảm bảo công tác thực hiện, quản lý, giám sát dự án đầu tư theo đúng quy định. Mặt khác, Công ty cần chủ động tìm kiếm, lựa chọn những dự án đầu tư có hiệu quả và có thời gian thu hồi vốn nhanh như các lĩnh vực đầu tư về khu đô thị, khu công nghiệp, các dự án về văn phòng cho thuê, thủy điện… để làm chủ đầu tư hoặc góp vốn liên doanh, liên kết. Tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao. Doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố trong quá trình sản xuất. Quản lý TSCĐ, VCĐ Nhìn chung, TSCĐ, công nghệ sản xuất ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện nay vẫn còn lạc hậu. Để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước vươn ra ngoài nước, các doanh nghiệp phải mạnh dạn đầu tư đổi mới thay thế TSCĐ cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất. Sự đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ có thể làm cho tỷ trọng VCĐ trên tổng số vốn SXKD tăng lên, tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản phẩm tăng lên. Nhưng nhờ tăng năng suất của máy móc, thiết bị dẫn đến tăng khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ, giảm tiêu hao các chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương công nhân sản xuất… kết quả cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao, tăng giá bán, tăng khối lượng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn SXKD. Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, VCĐ các doanh nghiệp nói chung và Công ty nói riêng phải tổ chức tốt việc sử dụng TSCĐ, bao gồm: Tiếp tục duy trì khả năng khai thác toàn bộ của TSCĐ hiện có, bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, phát huy tối đa công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm. Hạn chế thời gian ngừng nghỉ của máy móc, phương tiện thi công. Đối với máy móc thi công trong thời gian chờ việc có thể cho thuê dưới hình thức thuê hoạt động. Kiểm tra định kỳ, phân loại TSCĐ, xác định số TSCĐ sử dụng kém hiệu quả, những tài sản đã cũ, lạc hậu để kịp thời có kế hoạch thanh lý, nhượng bán, tránh tình trạng tài sản hư hỏng không sử dụng được. Xử lý dứt điểm những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi VCĐ chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho SXKD. Phân cấp quản lý TSCĐ cho các phân xưởng, bộ phận trong xí nghiệp, bộ phận trong nội bộ Công ty nhằm nâng cao trách nhiệm vật chất trong việc quản lý, chấp hành nội quy, quy chế sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa TSCĐ, giảm tối đa thời gian ngừng việc sửa giữa ca hoặc phải ngừng việc để sửa chữa sớm hơn so với kế họach. Công ty phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn VCĐ: quản lý chặt chẽ TSCĐ về mặt hiện vật, không để mất mát hoặc hư hỏng TSCĐ trước thời hạn khấu hao. Hàng năm phải lập kế hoạch khấu hao theo tỷ lệ Nhà nước quy định và điều chỉnh kịp thời giá trị TSCĐ khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao và giá thành sản phẩm, bảo toàn VCĐ. Thực hiện thường xuyên việc đánh giá lại giá trị của TSCĐ: đánh giá đúng đắn giá trị của TSCĐ (vô hình và hữu hình) sẽ giúp cho việc phản ánh chính xác sự biến động của VCĐ và tính đúng, đủ chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm nhằm bảo toàn VCĐ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đánh giá chính xác giá trị TSCĐ vô hình đôi khi gặp khó khăn. Do vậy, Công ty cần căn cứ vào các văn bản pháp luật để đánh giá đúng đắn giá trị TSCĐ vô hình, đồng thời phải thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với giá trị thực tế nhằm bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Đối với TSCĐ hữu hình, Công ty có thể sử dụng phương pháp đánh giá theo nguyên giá, giá trị phục hồi hoặc theo giá trị còn lại để xác định quy mô vốn, Công ty cần điều chỉnh chính sách khấu hao cho từng tài sản. Trong công tác đầu tư TSCĐ, Công ty cần chú ý những điểm sau: Việc đầu tư phải dựa trên khả năng hiện có về năng lực thi công cơ giới, kết hợp với việc nghiên cứu TSCĐ đầu tư về các mặt: công nghệ, năng suất, tuổi thọ kỹ thuật… Trong thời gian tới, Công ty cần đầu tư lớn hơn nữa vào phương tiện vận tải để có thể đáp ứng những công trình quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp. Việc đầu tư TSCĐ nên dựa trên nguồn vốn dài hạn. Khi TSCĐ được đảm bảo bằng nguồn vốn dài hạn thì Công ty sẽ tránh được những biến động về tài chính, rủi ro do sử dụng nguồn vốn ngắn hạn mang lại. Vì vậy, trước khi tiến hành đầu tư, Công ty cần tìm nguồn tài trợ hợp lý như nguồn vốn khấu hao, vốn tự bổ sung, vay dài hạn… Để nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị, tăng cường nhân lực, thi công cơ giới, Công ty cần mạnh dạn hơn nữa trong lựa chọn phương thức thuê, thuê mua tài chính. Công ty cần lưu ý nhiều hơn đến thuê tài chính vì nó mang lại nhiều tiện ích hơn hẳn so với việc huy động vốn thông qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng để đổi mới máy móc thiết bị. Quản lý TSLĐ, VLĐ Hiệu quả sử dụng vốn SXKD nói chung và hiệu quả sử dụng VLĐ nói riêng phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ. Do vậy các doanh nghiệp cần phải tăng cường các biện pháp quản lý TSLĐ, VLĐ dưới đây: Xác định đúng nhu cầu VLĐ cần thiết cho từng thời kỳ SXKD nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Nếu tính không đúng nhu cầu VLĐ dễ dẫn đến tình trạng thiếu vốn, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán, SXKD sẽ bị ngừng trệ, hoặc là huy động thừa vốn dẫn đến lãng phí và làm chậm tốc độ luận chuyển vốn. Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng VLĐ. Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm. Tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và các quy định về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách. Bằng các hình thức kích thích vật chất thông qua tiền lương, tiền thưởng và kích thích tinh thần nhằm động viên công nhân viên chức nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí tiền lương. Tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường trong và ngoài nước nhằm tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nhanh, số lượng nhiều, chiếm lĩnh và vươn lên làm chủ thị trường. Xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với các khách hàng (cung cấp vật tư, hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm, tín dụng…) nhằm củng cố uy tín trên thương trường. Trong các giao dịch kinh tế, tài chính với khách hàng phải tổ chức tốt quá trình thanh toán, tránh và giảm các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn chưa đòi được. Đồng thời cũng không để tình trạng công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán. Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. Bên cạnh các biện pháp trên, Công ty cần chủ động phòng ngừa rủi ro bằng cách mua bảo hiểm tài sản. Đồng thời, cần lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn bù đắp khi vốn kinh doanh bị thiếu hụt. Tiết kiệm tối đa chi phí SXKD Trước tình hình cạnh tranh trên thị trường giữa các đối thủ cạnh tranh trong ngành ngày càng quyết liệt thì mọi biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm là một trong những biện pháp làm tăng lợi nhuận cũng như hiệu quả sử dụng vốn của đơn vị. Để tiết kiệm chi phí cần thực hiện một số giải pháp sau: Chi phí nguyên vật liệu: khoản chi phí này là khoản chi rất lớn trực tiếp tạo ra sản phẩm, ngoài những nguyên vật liệu dùng ngay vào sản xuất còn một khối lượng nguyên vật liệu trong hàng tồn kho làm tăng lượng vốn ứng trước, tăng chi phí. Để giảm khoản chi phí này phải thực hiện triệt để các biện pháp tiết kiệm từ khâu thu mua cho đến khâu sử dụng nguyên vật liệu. Xây dựng định mức sử dụng vật liệu hiệu quả nhất, thực hiện sử dụng đúng định mức quy định, đặc biệt chống thất thoát hoặc hao hụt. Trong quá trình sử dụng nguyên vật liệu, cần tiến hành giao sử dụng định mức đối với từng tổ, từng đội sản xuất theo từng công trình và hạng mục công trình để vừa đảm bảo nhu cầu sản xuất, vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của người quản lý tại các đội. Chi phí nhân công: nhân công sản xuất tại công trình do các đội quản lý lập bảng chấm công, hàng tháng các đội gửi về thanh toán, vì vậy cần quản lý chi phí này một cách chặt chẽ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đội quản lý. Nhân công được chia thành: nhân công chủ chốt có tay nghề của Công ty và nhân công phổ thông do thuê ngoài. Đối với nhân công của Công ty: đây là nguồn nhân công có tay nghề đã qua đào tạo, cần bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động, có cơ chế thưởng phạt gắn liền với lợi ích của người lao động. Do đặc điểm xây dựng các công trình rải rác, cần điều chuyển nhân công đi các nơi, vì vậy cần có chính sách, biện pháp khuyến khích về mặt tài chính, tạo nơi ăn ở thuận lợi để nâng cao tính tự giác và tinh thần trách nhiệm. Đối với lao động thuê ngoài: là những lao động phổ thông làm việc khuân vác, vận chuyển… Công ty có thể sử dụng nguồn lao động dồi dào này ngay tại địa phương mà không cần điều chuyển công nhân của mình từ xa tới. Đây là nguồn nhân công có ưu thế là khá dồi dào, giá thành rẻ, Công ty không cần lo cơ sở vật chất như nơi ăn, ngủ nên giảm được một khoản chi phí. Đối với lao động này, Công ty cần đưa ra chế độ thù lao hợp lý, khuyến khích họ làm việc tích cực. Đồng thời, tổ chức phân tán đều lao động thuê vào từng tổ, đội sản xuất để thuận lợi cho việc quản lý và giám sát thi công trong quá trình sản xuất. Ngoài ra, Công ty cần có những biện pháp tăng năng suất, như: đảm bảo môi trường làm việc tốt cho CBCNV, cung ứng đầy đủ thiết bị thi công, vật tư, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, thực hiện nghiêm ngặt chế độ an toàn vệ sinh lao động và các chính sách bảo hiểm cho người lao động. Chi phí máy thi công: do địa bàn hoạt động rộng, các công trình nằm rải rác, máy móc có nơi thừa song có nơi lại thiếu, vì vậy, trong quá trình sử dụng, Công ty có thể tận dụng gối đầu máy móc, hoặc cho thuê những máy móc thi công đang chờ việc để tăng thu nhập và làm giảm hao mòn vô hình. Đồng thời, nếu việc thi công ở xa, việc điều chuyển máy thi công tốn kém thì Công ty cần chủ động tìm kiếm nguồn cho thuê bên ngoài nhằm tiết kiệm chi phí. Cùng với đó, Công ty cần tăng cường công tác kiểm tra, đầu tư, sửa chữa máy móc thi công nhằm nâng cao năng lực sản xuất hiện có, đảm bảo cho hoạt động SXKD diễn ra thường xuyên, liên tục. Tăng cường công tác quản trị tài chính doanh nghiệp Quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp nói chung và của CTCP Sông Đà 12 nói riêng. Ví dụ, qua số liệu, tài liệu kế toán, đặc biệt là các báo cáo tài chính (như bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh doanh, chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động SXKD) Công ty thường xuyên nắm được số vốn hiện có, cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng, giảm vốn trong kỳ, mức độ đảm bảo VLĐ, tình hình và khả năng thanh toán, từ đó đánh giá chính xác tình hình tài sản, vốn hiện có của Công ty. Thông qua xác định mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh (kết cấu tài sản), đòn bẩy tài chính (kết cấu nguồn vốn), Công ty dần hoàn thiện cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh. Từ đó, Công ty có thể tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả và tiết kiệm, giám sát, kiểm tra thường xuyên các hoạt động SXKD, đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý kịp thời các vấn đề tài chính nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành thuận lợi theo các chương trình, kế hoạch đề ra như huy động vốn bổ sung đầy đủ, kịp thời, xử lý số vốn thừa, đẩy mạnh tiến độ tiêu thụ sản phẩm, thu hồi các khoản nợ phải thu, thanh toán các khoản nợ đến hạn trả… Như vậy, tổ chức tốt công tác quản trị tài chính ở doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh, sử dụng các loại vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Với vai trò to lớn như vậy, một mặt Công ty cần nhận thức đúng đắn về công tác quản trị doanh nghiệp, mặt khác cần tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ phụ trách công tác này. Hiện nay ở Công ty, vai trò của phân tích tài chính chưa được quan tâm đầy đủ. Việc phân tích chỉ được tiến hành vào cuối năm và chỉ ở một số chỉ tiêu tổng quát theo quyết định của TCT Sông Đà nên phản ánh được rất ít tình hình hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của Công ty. Mặt khác phòng Tài chính – Kế toán của Công ty chỉ có một chuyên viên tài chính, trong thời gian tới, Công ty nên cử những cán bộ làm công tác kế toán học thêm các khóa về tài chính để đảm bảo chất lượng cho công tác phân tích tài chính. Làm được điều này, việc sử dụng vốn kinh doanh của Công ty mới có cơ sở vững chắc trên sự kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, phục vụ cho lợi ích cuối cùng và lớn nhất là sự phát triển của doanh nghiệp. Phát huy vai trò của Tài chính Doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với việc sử dụng vốn từ khâu mua sắm tài sản, vật tư đến dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Định kỳ doanh nghiệp phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế, trong đó có phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân dẫn đến thành tích, tiến bộ so với kỳ trước để có biện pháp phát huy và phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại trong quản lý sử dụng vốn, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời cho phù hợp với diễn biến thực tế của hoạt động SXKD. Đẩy mạnh công tác thanh toán và thu hồi công nợ Qua xem xét các bảng số liệu trong chương 2, ta thấy khoản mục “khoản phải thu” của Công ty luôn là bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, cũng từ phân tích, ta biết được điều này là do đặc thù của doanh nghiệp trong ngành xây dựng và là vấn đề nan giải, tồn tại của toàn ngành. Nguyên nhân chủ yếu là hầu hết các công trình thi công bên A thiếu vốn, các công trình được ghi trong kế hoạch song song dàn trải dẫn tới nhiều công trình có kế hoạch đầu tư song chưa được cân đối nguồn vốn cho nên bên A thanh toán chậm trễ. Hiện tượng này chỉ tồn tại ở những công trình có vốn ngân sách. Câu hỏi đặt ra là tại sao doanh nghiệp vẫn làm trong điều kiện thiếu vốn? Câu trả lời chính là trách nhiệm phải lo công ăn việc làm cho hơn 1000 cán bộ công nhân viên và sử dụng, khai thác các thiết bị máy móc đã mua sắm. Do vậy, vấn đề nợ phải thu trở thành một trong những vấn đề nổi cộm, bức xúc trong việc quản lý tài chính của ngành, nó làm cho nhiều công trình bị dở dang không có vốn để hoàn thành dứt điểm, gây lãng phí các nguồn lực. Thực hiện tốt công tác thu hồi nợ , cải thiện tình hình công nợ, tăng cường khả năng thanh toán lành mạnh là những vấn đề quan trọng có tính chất quyết định đến tốc độ luân chuyển vốn SXKD, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để thực hiện tôt công tác này, Công ty cần chú ý đến các biện pháp sau: Quy định rõ về các điều khoản thanh toán trong hợp đồng như: phương thức thanh toán, thời gian thanh toán… Nếu bên A (chủ đầu tư) thực hiện sai hợp đồng thì phải chịu phạt tài chính tùy theo mức độ vi phạm. Với biện pháp này, Công ty sẽ ràng buộc khách hàng hơn với trách nhiệm thanh toán. Khi ký kết hợp đồng với bên A, Công ty phải dứt khoát không thi công những công trình thiếu vốn hoặc có vốn tới đâu làm tới đó. Đồng thời, bên A phải ứng trước một phần giá trị công trình (khoảng 10%) trên giá trị hợp đồng đã ký. Trường hợp cùng một lúc thực hiện nhiều hợp đồng thi công, Công ty cần thu thập các thông tin về chủ đầu tư, qua đó phân tích, xem xét chủ đầu tư nào có khả năng thanh toán nhanh thì ưu tiên thi công dứt điểm công trình đó. Đối với những khách hành có mối quan hệ thường xuyên và chấp hành đúng chế độ thanh toán đối với Công ty thì Công ty có thể ưu tiên thực hiện hợp đồng và cố gắng thực hiện bàn giao thanh quyết toán công trình trước thời hạn. Công ty phải theo dõi chặt chẽ các khoản phải thu, cần ghi sổ đối chiếu hàng tháng và theo dõi chặt chẽ các khoản nợ phải thu, lập kế hoạch cụ thể về việc thu hồi các khoản nợ này đối với từng đối tượng. Động viên khách hàng ứng trước tiền hàng và mua hàng trả tiền ngay bằng cách trích tỷ lệ phần trăm tiền thưởng trên tổng tiền thu bán hàng chi những đối tượng này. Đối với các khoản vốn do khách hàng chiếm dụng, Công ty cần tổ chức tốt và đa dạng hóa các hình thức thanh toán giữa Công ty và khách hàng, tăng cường áp dụng các biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán sớm tiền hàng trước thời hạn công trình hoàn thành bàn giao, thường xuyên theo dõi tình hình công nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ đủ và đúng hạn. Đồng thời, đối với những khách hàng nợ quá hạn, nợ khó đòi cần tiếp tục theo dõi, đôn đốc thu hồi, có thể áp dụng chế độ phạt khi trả quá hạn. Trong thời gian tới, Công ty cần trích lập dự phòng phải thu khó đòi để khi phát sinh những khoản nợ khó đòi, tình hình tài chính của Công ty không bị ảnh hưởng. Công ty cần có qui chế về quản lý công nợ, đặc biệt nợ phải thu khách hàng để qui định nguyên tắc quản lý công nợ, công tác thu hồi công nợ, chế độ thưởng phạt đối với việc thu hồi công nợ, chi phí cho công tác thu hồi nợ, đặc biệt là nợ khó đòi. Đồng thời, công ty cần có biện pháp hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị, bộ phận có biện pháp theo dõi quản lý công nợ để giải quyết dứt điểm không để nợ đọng. Ngoài ra, Công ty cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng lực, có ý thức trách nhiệm cao trong thanh quyết toán và đòi nợ, đồng thời gắn trách nhiệm và quyền lợi của họ với công tác này. Thường xuyên chủ động cử cán bộ xuống tận các công trình để đối chiếu với Ban quản lý dự án về tiến độ thi công, khối lượng hoàn thành mà không thụ động chờ các công trình báo cáo về. Thực hiện việc này, một mặt giúp Công ty đưa ra biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo công trình hoàn thành đúng thời hạn, mặt khác giúp Công ty chủ động hơn trong khâu làm thủ tục thanh quyết toán công trình. Bên cạnh đó, Công ty cần phải có kế hoạch trả các khoản nợ phải trả và các khoản vốn chiếm dụng. Trong chừng mực nhất định, số vốn chiếm dụng được phần nào giảm bớt sự thiếu hụt về vốn kinh doanh. Nếu Công ty có kế hoạch trả nợ phù hợp thì không những giải quyết khó khăn về vốn kinh doanh mà còn giữ được mối quan hệ tốt với đối tác. Ngược lại, nếu chiếm dụng vốn quá lớn mà không chấp hành đúng kỷ luật trong thanh toán thì Công ty không những làm mất uy tín với bạn hàng mà còn làm tăng thêm gánh nặng về nợ cho chính mình. Ngoài ra, đối với nợ đến hạn, sắp đến hạn, Công ty cần tìm nguồn để trả nợ, đảm bảo uy tín và lợi ích các bên, đồng thời không gây biến động về vốn và nguồn vốn kinh doanh của Công ty. Một số kiến nghị Để các biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đã nêu ra trên đây được thực hiện cơ bản triệt để, tạo điều kiện cho Công ty duy trì được đà tăng trưởng như các năm vừa qua, nâng cao được hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công ty có một số kiến nghị như sau: Kiến nghị đối với Tổng Công ty Sông Đà Đề nghị Tổng Công ty có biện pháp và cơ chế để các đơn vị nội bộ thanh toán đúng hạn các khoản công nợ đối với CTCP Sông Đà 12, đặc biệt là các công nợ cung cấp vật tư tại các công trình trọng điểm như: thủy điện Tuyên Quang, thủy điện Sơn La, Sê San 3,… tạo điều kiện về vốn để Công ty hoàn thành nhiệm vụ. Đề nghị TCT hỗ trợ đơn vị, các Ban điều hành cùng làm việc với Chủ đầu tư thanh toán kịp thời cho đơn vị tiền khối lượng xây dựng các hạng mục công trình, các công việc đã hoàn thành tại các công trình thủy điện đơn vị tham gia thi công. Đề nghị TCT có ý kiến với Chủ đầu tư và các cơ quan có thẩm quyền không tính chiết giảm 5% đối với một số công trình chỉ định thầu, đặc biệt trong công tác xây lắp hệ thống điện và cấp thoát nước phục vụ thi công trên công trường. Đề nghị TCT tiếp tục phân giao nhiệm vụ cho Công ty được tham gia các công việc tại các công trình, dự án do TổTCTng Công ty làm Tổng thầu hoặc Chủ đầu tư như: các thủy điện, các khu đô thị, các nhà máy, các công trình giao thông… Kiến nghị đối với Nhà nước Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu ngành: chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ở mỗi ngành là khác nhau và trong từng giai đoạn cũng có sự thay đổi. Nhà nước cần phải nghiên cứu để đưa ra một hệ thống chỉ tiêu phù hợp với các ngành kinh doanh, từ đó sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc so sánh, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả kinh doanh nói chung. Hệ thống pháp luật hiện nay chưa được đồng bộ và hoàn thiện, vì vậy doanh nghiệp còn bị chi phối chồng chéo từ nhiều luật khác nhau, nên rất khó vận dụng. Do đó, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng, hoàn thiện công tác tổ chức quản lý hành chính để khuyến khích các doanh nghiệp bộc lộ năng lực, tận dụng cơ hội làm ăn, tăng cường tính chủ động cho các doanh nghiệp. Đồng thời, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, để các doanh nghiệp đều có thể tiếp cận với thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng như cho các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận được với nhiều nguồn vốn khác nhau. Bên canh đó, Nhà nước cần đưa ra các chính sách kinh tế, tài chính đúng đắn góp phần làm cho nền kinh tế ổn định, lành mạnh. Đó là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động SXKD nói chung, bảo toàn và sử dụng vốn hiệu quả nói riêng. Cải cách hệ thống thống kê, kế toán, kiểm toán theo thông lệ thị trường thế giới hạn chế đến mức tối đa tình trạng báo lãi nhưng thực ra lại lỗ, để chính thức đưa các DNNN bước chân vào thị trường cạnh tranh. Những doanh nghiệp nào hoạt động không hiệu quả sẽ bị thị trường đào thải, bỏ tình trạng bao cấp của Nhà nước đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Phát triển các tổ chức kinh doanh thuê mua tài chính để hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng. Hầu hết các doanh nghiệp xây dựng hiện nay đều có nhu cầu đổi mới, tăng cường năng lực các trang thiết bị thi công. Việc mở rộng hình thức này, cùng với việc Nhà nước tạo điều kiện nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại sẽ giúp các doanh nghiệp có điều kiện áp dụng công nghệ mới vào thi công, tránh được tình trạng doanh nghiệp mua máy móc về mà không sử dụng hết công suất. Hình thành các tổ chức tư vấn về kinh doanh xây dựng để hỗ trợ các doanh nghiệp. Nhà nước nên có những phương hướng hình thành các tổ chức, các hiệp hội trong xây dựng nhằm thu thập, quản lý và cung cấp thông tin, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình SXKD như: giá cả máy móc thiết bị, vật tư, lao động, những tiến bộ khoa học kỹ thuật… hay có thể hỗ trợ nhau về vốn, quản lý doanh nghiệp để có điều kiện tham gia vào dự án lớn, lựa chọn được phương án kinh doanh, tránh được những thua thiệt không đáng có. LỜI KẾT Sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là nguồn lực tài chính hiện nay đang là đòi hỏi bức xúc của các doanh nghiệp Việt Nam. Công ty cũng không nằm ngoài đòi hỏi này. Là một DNNN mới chuyển sang CTCP năm 2005, hoạt động trong các lĩnh vực chủ yếu là xây lắp, kinh doanh vật tư, vận tải và sản phẩm công nghiệp, việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn là rất cần thiết, nó góp phần đưa Công ty thành một doanh nghiệp chủ lực trong ngành. Trên cơ sở những kiến thức đã học, chuyên đề đã nghiên cứu một cách khái quát về thực trạng huy động và sử dụng vốn của CTCP Sông Đà 12 trong giai đoạn 2005 – 2008, cũng như xem xét những tồn tại, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Trong phạm vi chuyên đề, em không có tham vọng đưa ra những giải pháp hoàn toàn đúng đắn, mang lại hiệu quả tức thời tới hoạt động quản lý tài chính của Công ty mà đây chỉ là sự so sánh giữa thực tế và những lý luận đã được trang bị, với mục đích cao nhất là có thể phần nào đưa ra những nguyên nhân, gợi ý để hoàn thiện hoạt động quản lý và sử dụng vốn cho Công ty. Với những cố gắng, nỗ lực hoàn thiện của bản thân Doanh nghiệp và sự giúp đỡ của các cơ quan quản lý Nhà nước, hy vọng Công ty sẽ trở thành Doanh nghiệp hàng đầu của ngành xây dựng trong một tương lai gần. Do hạn chế trong thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và hiểu biết còn hạn chế nên chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu xót. Rất mong mọi người thông cảm và góp ý thêm. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn TS. Phan Thị Nhiệm và các cố chú, anh chị trong phòng Kinh tế - Kế hoạch đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. Lưu Thị Hương (2004), Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp”, Nxb Giáo dục. PGS. TS. Đàm Văn Nhuệ, TS. Ngô Thị Hoài Lam (2001), “Sử dụng có hiệu quả các hình thức huy động vốn của Doanh nghiệp Công nghiệp trong nền kinh tế thị trường”, Nxb Chính trị Quốc gia. Sổ tay chất lượng của Công ty Cổ phần Sông Đà 12. Báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Sông Đà 12 các năm 2005 – 2008 Một số luận văn khóa trước Website: www.sd12.com MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2 DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ 3 LỜI MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH GHIỆP 6 1.1.Tổng quan về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 6 1.1.1.Khái niệm chung về vốn 6 1.1.1.1.Khái niệm chung 6 1.1.1.2.Đặc trưng của vốn kinh doanh 6 1.1.2.Phân loại vốn 7 1.1.2.1.Theo phương thức luân chuyển 8 1.1.2.2.Theo nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp 10 1.1.3.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 15 1.2.Một số vấn đề về hiệu quả huy động vốn sản xuất kinh doanh 18 1.2.1.Khái niệm về huy động vốn và huy động vốn có hiệu quả 18 1.2.2.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn 20 1.2.2.1.Chi phí của nợ vay 20 1.2.2.2.Chi phí vốn chủ sở hữu 21 1.3.Một số vấn đề về sử dụng vốn sản xuất kinh doanh 22 1.3.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn 22 1.3.2.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 24 1.3.1.1.Các tỷ số về năng lực hoạt động 24 1.3.1.2.Các tỷ số về khả năng thanh toán 25 1.3.1.3.Các tỷ số về khả năng sinh lãi 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CTCP SÔNG ĐÀ 12 GIAI ĐOẠN 2005 – 2008 28 2.1.Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần Sông Đà 12 28 2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Sông Đà 12 28 2.1.2.Lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính 30 2.1.3.Cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành 32 2.1.4.Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2005 - 2008 36 2.1.5.Đặc điểm của quá trình SXKD 38 2.2.Thực trạng vốn kinh doanh của CTCP Sông Đà 12 39 2.2.1.Cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản của Công ty 39 2.2.1.1.Cơ cấu nguồn vốn của Công ty 39 2.2.1.2.Cơ cấu tài sản của Công ty giai đoạn 2005 – 2008 44 2.2.2.Nguồn hình thành vốn SXKD của Công ty 50 2.2.3Phương pháp quản lý vốn kinh doanh của Công ty 54 2.3.Phân tích hiệu quả huy động và sử dụng vốn SXKD của CTCP Sông Đà 12 55 2.3.1.Hiệu quả huy động vốn 55 2.3.2.Hiệu quả sử dụng vốn 56 2.3.2.1.Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định 56 2.3.2.2.Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động 58 2.3.2.3.Tình hình sử dụng vốn về mặt tổng thể 60 2.3.2.4.Khả năng thanh toán 62 2.4.Đánh giá thực trạng và hiệu quả huy động, sử dụng vốn SXKD 64 2.4.1.Ưu điểm 64 2.4.2.Hạn chế 66 2.4.3.Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến tình hình huy động, sử dụng vốn của Công ty…...………...…………………………………………………………………………..68 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CTCP SÔNG ĐÀ 12 TRONG THỜI GIAN TỚI 69 3.1.Nhu cầu vốn của CTCP Sông Đà 12 đến năm 2015 69 3.1.1.Định hướng, chiến lược phát triển của Công ty đến năm 2015 69 3.1.2.Nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh đến năm 2015 71 3.2.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của CTCP Sông Đà 12 72 3.2.1.Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn 72 3.2.1.1.Chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn 72 3.2.1.2.Hoàn thiện phương án sản xuất kinh doanh 73 3.2.1.3.Đa dạng kênh huy động vốn, lựa chọn nguồn tài trợ tối ưu 74 3.2.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 78 3.2.2.1.Chủ động xây dựng kế hoạch sử dụng vốn 78 3.2.2.2.Thực hiện chặt chẽ việc thẩm định, lựa chọn dự án đầu tư. 79 3.2.2.3.Tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao………………………………………………………………………………………………79 3.2.2.4.Tiết kiệm tối đa chi phí SXKD 83 3.2.2.5.Tăng cường công tác quản trị tài chính doanh nghiệp 85 3.2.2.6.Đẩy mạnh công tác thanh toán và thu hồi công nợ 86 3.2.3.Một số kiến nghị 88 3.2.3.1.Kiến nghị đối với Tổng Công ty Sông Đà 88 3.2.3.2.Kiến nghị đối với Nhà nước 89 LỜI KẾT 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25728.doc
Tài liệu liên quan