Một số giải pháp nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vưc kinh tế Nhà nước trong xu thế hội nhập kinh tế

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................. trang 1 CHƯƠNG I : Một số lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta. Thành phần kinh tế Nhà Nước và xu thế hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay....................................... trang 3 1.1) Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay ..................................................................................

pdf74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vưc kinh tế Nhà nước trong xu thế hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.............. trang 3 1.1.1) Khái niệm thành phần kinh tế................................................. trang 3 1.1.2) Quan điểm – chủ trương của Đảng về nền kinh tế nhiều thành phần................................................................................. trang 4 1.1.2.1) Nhận thức về sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta. ...................................................................................... trang 4 1.1.2.2) Chủ trương của Đảng. ..................................................... trang 4 1.1.3) Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. .......................................................................... trang 5 1.2) Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước trong nền kinh tế ở nước ta. .......................................................................................................... trang 6 1.2.1) Khái niệm kinh tế Nhà Nước. ................................................. trang 6 1.2.2) Vai trò của thành phần kinh tế Nhà Nước. ............................. trang 6 1.2.2.1) Vai trò kinh tế. ................................................................ trang 7 1.2.2.2) Vai trò chính trị. .............................................................. trang 7 1.2.2.3) Vai trò xã hội. ................................................................. trang 7 1.2.3) Các giai đoạn hình thành và phát triển DNNN ở nước ta. ...... trang 8 1.3) Vai trò của kinh tế Nhà Nước ở một số nước trên thế giới. ............... trang 9 1.4) Tài chính doanh nghiệp đối với sự phát triển nền kinh tế. ................ trang 11 1.4.1) Khái niệm tài chính doanh nghiệp .......................................... trang 11 1.4.2) Vai trò của tài chính đối với sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. ..................................................................... trang 11 1.4.3) Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. ......................................................... trang 11 1.5) Xu hướng Hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. ............................... trang 13 1.5.1) Khái niệm toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.......................... trang 13 1.5.1.1) Toàn cầu hóa. ................................................................. trang 13 1.5.1.2) Hội nhập kinh tế. ............................................................ trang 13 Trang 1 1.5.2) Tác động của hội nhập kinh tế đối với các nước đang phát triển. .................................................................................. trang 14 1.5.2.1) Tác động tích cực............................................................ trang 15 1.5.2.2) Tác động tiêu cực ........................................................... trang 16 CHƯƠNG II : Thực trạng hoạt động, tình hình tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta trong thời gian qua .................................................................................................... trang 19 2.1) Chủ trương của Đảng đối với sự đổi mới và phát triển của thành phần kinh tế nhà nước. ......................................................................... trang 19 2.1.1) Sự cần thiết phải đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với các DNNN........................................................................... trang 19 2.1.2) Chủ trương sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của Đảng. ......................................................................................... trang 20 2.1.3) Quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ............... trang 21 2.2) Kết quả đạt được của DNNN trong quá trình sắp xếp, đổi mới vừa qua ở nươc ta ................................................................................. trang 23 2.3) Những nhược điểm tồn tại cần khắc phục của DNNN....................... trang 30 2.3.1) Hiệu quả và tính cạnh tranh còn thấp. .................................... trang 30 2.3.2) Trình độ công nghệ lạc hậu. ................................................... trang 33 2.3.3) Quy mô còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo. .................................. trang 33 2.3.4) Lao động thiếu việc làm, năng suất lao động chưa cao.......... trang 35 2.3.5) Trình độ quản lý còn yếu kém. ............................................... trang 35 2.3.6) Cơ chế, chính sách còn nhiếu bất cập. .................................... trang 35 2.4) Những yếu kém của hoạt động tài chính khu vực kinh tế Nhà Nước ..................................................................................................... trang 36 2.5) Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta trong xu thế hội nhập................................................................................................ trang 36 CHƯƠNG III : Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tài chính đối với khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay trong xu thế hội nhập kinh tế................................................................ trang 41 3.1) Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế đối với khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta. ................................................................................................. trang 41 3.1.1) Đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa. ......... trang 42 3.1.2) Cải thiện môi trường kinh doanh............................................. trang 44 Trang 2 3.1.3) Tăng cường thu hút vốn đầu tư, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống lãng phí và thất thoát vốn. ........................................................................... trang 44 3.1.4) Đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. ..... trang 45 3.1.5) Cải cách hành chánh, nâng cao năng lực quản lý................... trang 46 3.2) Đổi mới công tác quản lý của Nhà Nước đối với Ngân sách Nhà Nước. .................................................................................................... trang 46 3.3) Tiếp tục quá trình cải cách Hệ thống thu thuế Nhà Nước. ................ trang 50 3.4) Phát triển thị trường tài chính, huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.................................................................................................... trang 55 3.4.1) Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến khích sản xuất kinh doanh. ................................................................................ trang 55 3.4.2) Đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính. ............................... trang 56 3.4.3) Đa dạng hóa các kênh và hình thức động viên nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. ...................................... trang 57 KẾT LUẬN ............................................................................................... trang 59 Phụ lục. Tài liệu tham khảo. Trang 3 777 MỞ ĐẦU I/ Tính cấp thiết của đề tài : Kinh tế nhà nước ra đời gắn liền với sự hình thành Nhà Nước và sở hữu nhà nước. Cũng như các Nhà Nước khác, nước ta trong tất cả các giai đoạn phát triển của mình đều quan tâm đến sự phát triển của kinh tế nhà nước nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước vì các mục tiêu phát triển kinh tế – chính trị – xã hội của đất nước trong mỗi thời kỳ. Hiến Pháp nước ta đã khẳng định : “Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.” (Điều 19 – Hiến Pháp 1992). Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước luôn là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà Nước. Gần 20 năm qua, kể từ Đại hội Đảng lần VI, nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực, nhưng vừa triển khai, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Khoá IX đã có Nghị quyết 03-NQ/TW về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã nêu :” Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước (gồm doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn và doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà Nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. (trích Nghị quyết 03-NQ/TW BCH TW Khoá IX). Trong bối cảnh nước ta đang chuẩn bị tích cực cho việc đón đầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Để kinh tế nhà nước thực sự vững mạnh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và có thể cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trong nước cũng như trên trường quốc tế. Có nhiều phương hướng được đặt ra, trong đó việc nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước là một trong những việc làm cấp thiết. Trang 4 II/ Mục đích nghiên cứu : Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu những lý luận về nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, tài chính doanh nghiệp nhà nước và xu thế hội nhập kinh tế kết hợp với thực trạng hoạt động và khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước, mà biểu hiện là doanh nghiệp nhà nước. Nhằm tìm ra một số giải pháp phù hợp nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay. III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Luận văn có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học như : kinh tế, tài chính, kế toán, kinh tế đối ngoại, pháp luật và các mối quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu tập trung vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tài chính của khu vực kinh tế nhà nước trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay ở nươc ta. IV/ Phương pháp nghiên cứu : Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, gắn việc nghiên cứu với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể để việc đánh giá mang tính khách quan thực tế. Ngoài ra còn kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như : phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh …. V/ Bố cục của luận văn : Ngoài Phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương : Chương I : Một số lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta. Kinh tế Nhà Nước và xu thế hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay. Chương II : Thực trạng hoạt động, tình hình tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta trong thời gian qua. Chương III : Một số giải pháp nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước trong xu thế hội nhập. W * X Trang 5 CHƯƠNG I : MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN - KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1) Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 1.1.1) Khái niệm thành phần kinh tế. Dưới giác độ kinh tế chính trị thành phần kinh tế là một khái niệm để chỉ kết cấu kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá độ. Khái niệm này được Lênin sử dụng đầu tiên khi phân tích kết cấu kinh tế – xã hội nước Nga sau cách mạng tháng 10. “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” (Trích V.I Lênin toàn tập (3). NXB tiến bộ Mát xcơ va 1978, trang 248). Như chúng ta đã biết, trong bất cứ chế độ kinh tế – xã hội nào, ngoài phương thức sản xuất tiêu biểu cho chế độ kinh tế – xã hội đương thời giữ địa vị thống trị, chi phối. Còn chứa đựng những tàn dư của phương thức sản xuất trước và tồn tại những nhân tố của phương thức sản xuất kế sau. Những phương thức này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối. Nhưng nói chung trong thời kỳ quá độ, khó có thể có phương thức sản xuất nào giữ địa vị thống trị theo nghĩa đầy đủ. Vì phương thức sản xuất giữ địa vị thống trị trong thời kỳ trước đang suy thoái, không còn đủ sức chi phối nền kinh tế quốc dân nữa; còn phương thức sản xuất mới đang lên nhưng chưa giành được địa vị thống trị. Trong thời kỳ đó mỗi phương thức sản xuất là mỗi bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế – xã hội, vừa có tính chất độc lập tương đối vừa tác động lẫn nhau, vừa hợp tác vừa đấu tranh nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn nhau. Mỗi bộ phận ấy theo quan niệm của Lênin là thành phần kinh tế. Cũng như phương thức sản xuất, mỗi thành phần kinh tế bao gồm một lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất nhất định phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy. Do đó tiêu chí cơ bản để phân định thành phần kinh tế là quan hệ sản xuất. Trang 6 1.1.2) Quan điểm – chủ trương của Đảng về nền kinh tế nhiều thành phần. 1.1.2.1) Nhận thức về sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta : Quan hệ sở hữu là nền tảng quyết định và chi phối mọi quan hệ về kinh tế và lợi ích trong xã hội. Nó là cơ sở của mâu thuẫn, của đối kháng giai cấp và là mục tiêu trực tiếp của các cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Tuy nhiên giành được quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội mới là mục tiêu trực tiếp, chứ chưa phải là mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng. Mục tiêu cuối cùng là lợi ích kinh tế và tiến bộ xã hội có được từ quyền sở hữu tư liệu sản xuất đã giành được qua cách mạng xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nươc ta đã đặt ra hai nhiệm vụ cơ bản phải thực hiện là : - Giành lấy quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu cùng với chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. - Xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Mà cốt lõi là xác lập cơ cấu về sở hữu tư liệu sản xuất và cơ cấu các thành phần kinh tế một cách phù hợp với yêu cầu của quy luật và thực tế khách quan của nền kinh tế thời kỳ quá độ ở nước ta. 1.1.2.2) Chủ trương của Đảng : Trước đây thành phần kinh tế dựa trên hình thức tư hữu không được thừa nhận, được coi là đối tượng phải được cải tạo và xóa bỏ. Tại Đại hội VI của Đảng (12/1986) đường lối đổi mới đã khẳng định xây dựng phát triển kinh tế nước ta với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài. “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế” (Trích nghị quyết Trung ương 6 – Khoá VI) Chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình kinh tế hỗn hợp, đan kết các hình thức sở hữu. Tư nhân được kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà luật pháp không cấm. Các Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991), lần thứ VIII (7/1996) và lần thứ IX (4/2000) đều tiếp tục khẳng định quan điểm trên. Quan điểm trên của Đảng đã được khẳng định trong Hiến pháp nươc ta năm 1992 cụ thể như sau : “Điều 15 : Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.” Trang 7 Đại hội Đảng lần thứ IX xác định hiện nay ở nước ta tồn tại sáu thành phần kinh tế sau : Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản Nhà nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, với sự đa dạng hóa của nền kinh tế thị trường đã hình thành nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen nhau, bổ sung nhau như việc liên doanh, liên kết giữa khu vực kinh tế nhà nước với khu vực kinh tế tư nhân và nước ngoài, cũng như hình thức góp vốn giữa tư nhân trong nước và nước ngoài … 1.1.3) Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là tất yếu khách quan, vì : -Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao để có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu để thiết lập chế độ công hữu, nên còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu là tất yếu. -Những thành phần kinh tế do lịch sử để lại đặc trưng cho phương thức sản xuất cũ tuy không còn giữ vị trí thống trị nhưng vẫn còn có những tác dụng nhất định đối với lực lượng sản xuất, có lợi cho sự phát triển kinh tế. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho quan hệ sản xuất mới từng bước được tạo ra và ngày một lớn mạnh. Đây là thành phần kinh tế thể hiện lực lượng kinh tế của Nhà Nước Xã hội chủ nghĩa. -Mỗi một thành phần kinh tế trong quá trình phát triển đều có những lợi thế so sánh nhất định, do đó việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế sẽ khai thác tối ưu tiềm năng của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, khắc phục tình trạng độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. 1.2) Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước trong nền kinh tế ở nước ta. 1.2.1) Khái niệm kinh tế Nhà Nước. Theo như quan niệm của Lênin về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ đã trình bày ở trên, thì kinh tế nhà nước không tương ứng với quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế – xã hội nào cả. Kinh tế nhà nước không chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà nó tồn tại cả trong chủ nghĩa tư bản và thậm chí cả trong các chế độ xã hội trước đó. Theo cách hiểu chung nhất thì kinh tế nhà nước là phần tài sản do nhà nước làm chủ sở hữu. Hay nói cách khác, kinh tế nhà nước là bộ phận của nền kinh tế quốc dân thuộc sở hữu nhà nước. Hiện nay ở nhiều nước, kinh tế nhà nước thường bao gồm những bộ phận cơ bản sau đây : -Tài nguyên khoáng sản và phần đất đai thuộc sở hữu nhà nước. -Ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, ngân sách nhà nước, tài chính nhà nước. Trang 8 -Hệ thống dự trữ quốc gia và bảo hiểm quốc gia. -Các dịch vụ công do nhà nước đảm nhiệm. -Các doanh nghiệp nhà nước. Ngày nay cũng có quan điểm cho rằng kinh tế nhà nước còn bao gồm cả nguồn nhân lực, hệ thống các chính sách, công cụ quản lý nhà nước … Xét về chức năng, cơ cấu kinh tế nhà nước bao gồm hai hệ thống : hệ thống doanh nghiệp nhà nước và hệ thống phi doanh nghiệp. Hệ thống phi doanh nghiệp gồm : ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, các quỹ quốc gia, tài nguyên …. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước gồm các doanh nghiệp làm nhiệm vụ kinh doanh và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích. 1.2.2) Vai trò của thành phần kinh tế Nhà Nước. Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải cho xã hội cũng như tạo động lực cho nền kinh tế quốc dân. 1.2.2.1) Vai trò kinh tế : Vai trò kinh tế của nhà nước bắt nguồn từ chức năng của Nhà nước trong quản lý và phát triển kinh tế – xã hội. Kinh tế nhà nước trước hết được sử dụng như một nguồn lực để phát triển kinh tế, tạo ra của cải cho xã hội, sử dụng như một công cụ trong quản lý kinh tế xã hội. - Kinh tế nhà nước được Nhà Nước sử dụng như một công cụ can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết, chi phối sự vận động của nền kinh tế theo định hướng của Nhà Nước nhằm khắc phục những khuyết tật vốn có của cơ chế thị trường. Khắc phục trạng thái độc quyền tự nhiên, những tác động hướng ngoại phát sinh trong nền kinh tế thị trường. - Lấp vào những ngành nghề mà khu vực kinh tế tư nhân hoặc không muốn làm, hoặc không có khả năng làm. Đầu tư vào những ngành quyết định cho sự phát triển dài hạn. Có tác dụng mở đường, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng, đảm bảo sự công bằng và hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 1.2.2.2) Vai trò chính trị. - Kinh tế nhà nước cung cấp cho Nhà nước một cơ sở kinh tế, để Nhà Nước trở thành một lực lượng chi phối trực tiếp đối với các thành phần kinh tế khác. Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, kinh tế nhà nước còn cung cấp nguồn lực chủ yếu cho hoạt động của Nhà Nước bên cạnh nguồn thu ngân sách từ thuế. Là công cụ trực tiếp hữu hiệu để thúc đẩy nền kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội theo Nghị quyết của Đảng và những chính sách mà Chính phủ đã đề ra. - Là khu vực cung cấp những hàng hóa, dịch vụ cho các hoạt động an ninh quốc phòng mà khu vực kinh tế tư nhân không được phép làm, không làm được hoặc không muốn làm. Trang 9 1.2.2.3) Vai trò xã hội. - Là công cụ để điều tiết nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, giúp cho xã hội phát triển ổn định. Trong nền kinh tế thị trường, chịu sự tác động của các quy luật thị trường, muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải cạnh tranh và tạo ra lợi nhuận. Do đó nền kinh tế thị trường tồn tại những khuyết tật gây ảnh hưởng tiêu cực về mặt xã hội như : phân hoá giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp và ô nhiễm môi trường … Ở đây, sự tác động của kinh tế nhà nước bằng những chính sách vĩ mô có vai trò quyết định nhằm giữ nền kinh tế phát triển ổn định, giảm thiểu những tác động tiêu cực về mặt xã hội. - Ngoài ra sự phát triển của kinh tế nhà nước còn giúp tạo ra việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp, tăng thu nhập cho xã hội và giảm bớt sự bất bình đẳng trong xã hội, nâng cao phúc lợi, an sinh xã hội. - Thông qua kinh tế nhà nước mà Nhà Nước thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế về cơ cấu vùng, cơ cấu ngành cũng như cơ cấu thành phần kinh tế. Một cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại. - Kinh tế nhà nước cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, làm gia tăng phúc lợi xã hội và được phân phối công bằng cho mọi người. 1.2.3) Các giai đoạn hình thành, phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta. Kinh tế nhà nước ra đời gắn liền với sự hình thành Nhà Nước và sở hữu nhà nước. Cũng như các Nhà Nước khác, nước ta trong tất cả các giai đoạn phát triển của mình đều quan tâm đến sự phát triển của kinh tế nhà nước nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước do Nhà Nước đầu tư vốn, làm chủ sở hữu và quản lý thuộc các lĩnh vực của nền kinh tế vì các mục tiêu phát triển kinh tế – chính trị – xã hội của đất nước trong mỗi thời kỳ. Từ năm 1955, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm đến nay, sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước trải qua các giai đoạn sau : a) Giai đoạn 1955-1975 : trong giai đoạn này doanh nghiệp nhà nước chủ yếu hình thành do Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp quản, quốc hữu hóa của chính quyền thực dân Pháp. Trong thời gian đầu (1955 – 1965) nhiệm vụ chính là khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế tư bản tư nhân, tiểu nông, tiểu thương và bắt đầu thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đến giữa những năm 1960, Mỹ bắt đầu leo thang cuộc chiến tranh tại Việt nam, nhiệm vụ của các doanh nghiệp nhà nước ngoài việc sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng còn phải sản xuất phục vụ kháng chiến. Trong giai đoạn này doanh nghiệp nhà nước là lực lượng kinh tế lớn mạnh và giữ vai trò độc quyền. b) Giai đoạn 1975 – 1986 : đây là giai đoạn tiếp quản, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng mới các doanh nghiệp nhà nước tại miền Nam. Trong giai Trang 10 đoạn này do ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch, tập trung, quan liêu bao cấp đã ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp nhà nước, tổng sản phẩm xã hội có chiều hướng giảm sút, tỷ lệ lạm phát phi mã đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế (xem bảng 1). Bảng 1 : tỷ lệ đóng góp của DNNN trong tổng sản phẩm xã hội (1960 – 1985) 1960 1965 1970 1975 1980 1985 38,4% 45,2% 44,4% 32,3% 35,4% 35,7% (Nguồn : Đổi mới tăng cường thành phần kinh tế nhà nước, GS.TS Vũ Đình Bách, NXB CTQG 2001, trang 87) 0.00% 10.00% 20.00% 30.00% 40.00% 50.00% 1960 1965 1970 1975 1980 1985 Đồ thị : Tỷ lệ đóng góp của DNNN trong tổng sản phẩm xã hội 1960-1985 (Nguồn : bảng 1) c) Giai đoạn đổi mới kinh tế từ sau Đại hội VI (1986) của Đảng đến nay : giai đoạn này thực hiện nhiều cuộc cải cách lớn trong chính sách kinh tế vĩ mô nhằm hướng các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Khởi đầu đổi mới là cải cách giá áp dụng cơ chế theo giá thị trường, củng cố chất lượng và giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước thông qua sát nhập, giải thể, phá sản, cổ phần hóa và bán doanh nghiệp nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước tại nước ta đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 cụ thể như sau : “Điều 19 : Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.” Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 20/04/1995 đã đưa ra định nghĩa doanh nghiệp nhà nước như sau :”Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà Nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà Nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”. Như vậy về bản chất các đặc Trang 11 trưng của doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ bao cấp của nền kinh tế kế hoạch. 1.3) Vai trò của kinh tế Nhà Nước và kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước ở một số nước trên thế giới. Sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước đều nhằm thực hiện tốt hơn những chức năng kinh tế vĩ mô của Nhà Nước. Tuy nhiên ở các nước khác nhau sự phát triển này có những nét đặc thù riêng. So với khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế nhà nước nhiều khi là gánh nặng đối với nền kinh tế thị trường, vì một mặt chúng sử dụng các nguồn lực một cách kém hiệu quả, gây lãng phí và mặt khác chúng hút cạn nguồn ngân sách của chính phủ, dẫn đến những hậu quả xấu đối với nền kinh tế vĩ mô. Nhưng với các đặc trưng và vai trò của khu vực kinh tế nhà nước thì không thể xoá bỏ hoàn toàn các doanh nghiệp nhà nước mà ngược lại cần phải quan tâm nhiều hơn đến khu vực kinh tế này. Trong thực tế không thể có một nền kinh tế do bàn tay vô hình điều khiển để vận hành có hiệu quả mà cần phải có sự can thiệp của bàn tay Nhà Nước. Mặc dù xu thế chung Nhà Nước dần dần ngày càng thoát ly khỏi các hoạt động kinh doanh, nhưng vai trò chung của Nhà Nước trong nền kinh tế không có gì giảm sút. Nhiệm vụ của Nhà Nước về mặt kinh tế là hạn chế những tiêu cực mà bản thân thị trường không thể điều tiết. Bên cạnh đó Nhà Nước còn có vai trò tạo ra phúc lợi xã hội và nhiệm vụ phân phối lại thu nhập nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Tuy các nhà kinh tế có sự nhất trí rằng cạnh tranh sẽ đem lại hiệu quả cao, là động lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển, kích thích đổi mới và sáng tạo. Tuy nhiên lịch sử phát triển kinh tế cũng cho thấy một số trường hợp cạnh tranh không đem lại hiệu quả, đây cũng là một vấn đề cần lưu ý trong thị trường cạnh tranh. Do đó Nhà Nước có vai trò hướng dẫn sự cạnh tranh trong nền kinh tế để phát huy hiệu quả. Đối với các nước đang phát triển thì việc phát triển khu vực kinh tế nhà nước mà cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước được coi là một công cụ hữu hiệu để thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, được sử dụng như là một công cụ để ổn định và phát triển kinh tế, nâng cao vai trò của Nhà Nước trong việc kế hoạch hóa và kiểm soát sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng của Nhà Nước. Tuy nhiên cũng tồn tại nhược điểm là doanh nghiệp nhà nước tại các nước đang phát triển hoạt động hiệu quả còn thấp. Đối với các nước phát triển thì khu vực kinh tế nhà nước không những phát triển mạnh trong lĩnh vực công ích mà các doanh nghiệp nhà nước có mặt hầu hết ở những ngành, những lĩnh vực then chốt như : công nghiệp nặng, hàng không, đường sắt, tài chính, bảo hiểm …. Tuy Nhà Nước ngày càng tư nhân hóa Trang 12 khu vực kinh tế công, nhưng Nhà Nước vẫn có thể chi phối hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân với tư cách là cổ đông. Như vậy tại các nước phát triển thì khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân đã xâm nhập nhau, đan xen nhau nhằm tận dụng những ưu thế của nhau và ngày càng phát triển. Tại cuộc Hội thảo tổng kết 20 năm đổi mới của Việt Nam ngày 01/07/2005, bàn về những vấn đề rất phức tạp và hệ trọng đối với tương lai của Việt Nam như : các thách thức to lớn cho sự phát triển và vươn lên của Việt Nam từ bên trong và bên ngoài; khan hiếm dầu lửa và chiến tranh giành giật tài nguyên thiên nhiên; tranh chấp về nguồn nước; phân chia lại thị trường thế giới; các thay đổi chiến lược trong khu vực Đông Nam Á trong tương lai và vị trí của Việt Nam. Giáo sư Robert Wade – Đại học Kinh tế London – khẳng định phải có vai trò tích cực của Nhà Nước trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Cải cách doanh nghiệp nhà nước không phải là vấn đề riêng có của Việt Nam. Cho đến nay, ở các nước đang phát triển và thậm chí các nước công nghiệp phát triển thì công cuộc cải cách._. doanh nghiệp nhà nước vẫn đang diễn ra với nhiều sắc thái và mức độ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị của các nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nươc thường do ba bộ phận hợp thành. Một là, phân loại sắp xếp hợp lý toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước. Hai là, cải tiến tổ chức, nâng cao hiệu quả của từng doanh nghiệp nhà nước. Ba là, thay đổi thể chế kinh tế nói chung, tạo cho các doanh nghiệp nhà nước môi trường cạnh tranh nhất định, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả hơn. Cả ba bộ phận này cần phải được tiến hành một cách đồng bộ. - Tại Trung Quốc : năm 1978 Trung Quốc thực hiện công cuộc cải cách, mở cửa, đề ra xây dựng thể chế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm khắc phục những khuyết tật của thể chế kinh tế kế hoạch hóa trước đây, đặt cải cách xí nghiệp “quốc hữu” - tức doanh nghiệp nhà nước – là khâu trọng tâm trong cải cách kinh tế. Từ năm 1978 – 1983 là giai đoạn mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước. Một mặt chuyển từ cấp phát thành vay ngân hàng, mặt khác đẩy mạnh cải cách để hỗ trợ như điều chỉnh quan hệ phân phối giữa Nhà Nước và doanh nghiệp; thực hiện nhiều hình thức trích nộp lợi nhuận, khoán lỗ, lãi; khuyến khích kinh doanh dưới nhiều hình thức sở hữu … từng bước đã thay đổi tình trạng chính quyền can thiệp quá nhiều vào doanh nghiệp nhà nước, tạo cơ chế kích thích lợi ích, ràng buộc trách nhiệm. Thực thi những chính sách đặc biệt và biện pháp linh hoạt đối vơi hoạt động kinh tế đối ngoại, xây dựng các đặc khu kinh tế ở Thẩm Quyến, Chu hải, Sán Đầu và Hạ Môn. Từ năm 1984 – 1992 : để ổn định quan hệ phân phối giữa Nhà Nước và doanh nghiệp và cải thiện tình hình tài chính nhà nước, thì cho phép doanh nghiệp nhà nước thực hiện chế độ khoán trách nhiệm giám đốc và doanh nghiệp Trang 13 tự quyết định phân phối trong doanh nghiệp. Bằng hình thức khoán này, Nhà Nước đã từng bước chuyển phương thức quản lý trực tiếp chủ yếu thông qua kế hoạch pháp lệnh sang phương thức quản lý gián tiếp. Giao cho các doanh nghiệp mở rộng quyền tự chủ như : sắp xếp nhân sự, giữ lại một phần lợi nhuận, chủ động đầu tư trong mức độ cho phép. Từ năm 1992 đến nay chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, hình thành thể chế mới của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Từng bước điều chỉnh cơ cấu và tiến hành cải tổ mang tính chiến lược đối với xí nghiệp quốc doanh qua việc cổ phần hóa, từng bước xây dựng các xí nghiệp quốc hữu hiện đại. Mục tiêu chính trong giai đoạn này là điều chỉnh mối quan hệ về quyền tài sản, tiến hành phân tách giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giao quyền tự chủ, có trách nhiệm bảo toàn và làm tăng giá trị tài sản nhà nước. Đến nay qua hơn 20 năm mở cửa, hệ thống các xí nghiệp quốc doanh Trung Quốc đã có những biến đổi to lớn, trình độ trang bị kỹ thuật được nâng cao rõ rệt, nhiều doanh nghiệp nhà nước mạnh và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong cũng như ngoài nước. Sự trưởng thành và lớn mạnh của doanh nghiệp nhà nước đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế của Trung Quốc, doanh nghiệp nhà nước chẳng những có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc mà còn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hiện đại hóa đất nước. - Tại Pháp : trước những năm 1980 chính phủ Pháp quản lý doanh nghiệp nhà nước rất chặt chẽ một cách tập trung, can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp. Đến năm 1982 thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước từng bước cải cách, thay thế việc quản lý tập trung qua việc hậu kiểm, mở rộng quyền tự chủ, tăng cường tác dụng của các tổ chức điều tiết như : hội đồng cạnh tranh, hội đồng giao dịch chứng khoán … Hiện nay doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 30% trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, chủ yếu trong các ngành kinh tế then chốt và quan trọng. Ngành giao thông vận tải gồm các công ty đường sắt và công ty hàng không : chủ yếu do Nhà Nước nắm giữ, tuy từng bước đã được tư nhân hóa, nhưng Nhà Nước vẫn nắm giữ đa số cổ phần trong các công ty trên; Ngành năng lượng : doanh nhghiệp nhà nước chiếm 69% giá trị sản lượng toàn ngành; Ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm : ngân hàng Nhà Nươc và các tổ chức tài chính Nhà Nước kiểm soát toàn diện hoạt động của hệ thống tài chính và bảo hiểm. - Tại một số nước phát triển như Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Ý … đa số các doanh nghiệp nhà nước là tập trung vào các doanh nghiệp công ích và thường không tập trung vào việc phát triển các doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới hình thức 100% vốn Nhà Nước. Các quốc gia trên đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước thông qua hình thức mua cổ phần với những mưc độ cao thấp khác nhau, tùy thuộc vào những yếu tố nhất định. Số lượng cổ phần mà Nhà Nước nắm giữ trong Trang 14 những doanh nghiệp này thường ở mức khống chế. Tuy nhiên, có một điểm rất đáng quan tâm liên quan đến vấn đề sở hữu và quyền quản lý là : quyền ra quyết định không còn chịu bất kỳ một sự chi phối nào do lượng cổ phần đã được phân tán ở một mức độ cao trên tổng số cổ đông trong một tập đoàn lớn, ngoại trừ những quyết định đặc biệt tầm quốc gia thì phải dựa vào chính sách của Chính phủ cũng như xu thế phát triển chung của toàn ngành và của nền kinh tế. - Tại Malaysia : trong giai đoạn 1966-1970 chi tiêu của Chính phủ dành cho doanh nghiệp nhà nước là 1,4 tỷ đô la Mỹ, chiếm 32% toàn bộ chi tiêu công cộng. Đến 1981-1986 con số chi tiêu này đã lên tới 30 tỷ đô la Mỹ, chứng tỏ vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhà nước. - Tại các nước công nghiệp mới NIC (New Industrial Countries) : đã tạo lập một cơ chế kinh tế kết hợp có hiệu quả sự can thiệp tích cực của Nhà Nước với sự điều tiết của thị trường. Doanh nghiệp nhà nước được sử dụng như là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà Nước kiểm soát, điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước tập trung cao vào việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng, chẳng hạn như cung cấp cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc. Nhưng đặc điểm nổi bật là sự chuyển đổi một cách linh hoạt của khu vực doanh nghiệp nhà nước về hình thức sở hữu, Nhà Nước thành lập một số các doanh nghiệp đảm nhận chức năng tiên phong nắm giữ các ngành mũi nhọn nhất định theo chiến lược phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể, cho đến khi không cần thiết phải có vai trò mở đường nữa thì các doanh nghiệp này tiến hành cổ phần hoá và Nhà Nước lại tiến hành thành lập các doanh nghiệp khác với vai trò mở đường trong các lĩnh vực mới. Cứ thế sự chuyển đổi này lại tiếp nối một cách rất linh hoạt và hiệu quả. 1.4) Tài chính doanh nghiệp đối với sự phát triển nền kinh tế. 1.4.1) Khái niệm tài chính doanh nghiệp. Để hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải có tiền để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị, thanh toán việc mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân …. Và khi bán hàng sẽ thu được tiền bán hàng và lại tiếp tục sử dụng tiền thu về từ bán hàng để mua nguyên vật liệu, trả lương …. Như vậy việc chi dùng thường xuyên vốn tiền tệ đòi hỏi phải có các khoản thu bù đắp và tạo nên quá trình luân chuyển vốn. Trong quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp phát sinh nhiều mối quan hệ kinh tế thông qua tuần hoàn luân chuyển vốn, gắn với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quan hệ kinh tế này thuộc về phạm trù tài chính. Tài chính doanh nghiệp ra đời từ nền kinh tế hàng hóa và đã trở thành công cụ quản lý sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp. Như vậy, tài chính là một phạm trù kinh tế ra đời và phát triển gắn liền vơi kinh tế hàng hóa, nó phản ánh sự vận động của các nguồn lực tài chính thông Trang 15 qua những hình thức của hoạt động đầu tư, phân phối thu nhập, mua bán giữa các chủ thể trong xã hội. 1.4.2) Vai trò của tài chính đối với sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn hoạt động và phát triển thì yếu tố quan trọng đầu tiên chính là vốn. Vốn là nhân tố đặc biệt quan trọng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được quan niệm như là khối lượng giá trị được tạo lập và đưa vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, vốn được biểu hiện bằng giá trị và đại diện cho một khối lượng tài sản nhất định. Giữa vốn và tiền có quan hệ với nhau, muốn có vốn thì phải có tiền, song có tiền, thậm chí những khoản tiền lớn cũng không phải là vốn. Một khối lượng tiền được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp khi đáp ứng các điều kiện : tiền phải được bảo đảm bằng một lượng tài sản có thực, tiền phải được tích tụ và tập trung đủ để đầu tư cho sự hoạt động của một dự án và tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Như vậy vốn là nhân tố đầu vào quan trọng, nhưng tiền cũng đồng thời là kết quả phân phối thu nhập đầu ra của quá trình đầu tư. Sau một thời gian dài vận động trong quá trình đầu tư thì vốn phải được thu về để tiếp tục chu kỳ kinh doanh sau : vốn không được mất đi mà luôn phải được bảo toàn để tái sản xuất và thu được phần tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Do đó việc tổ chức và quản lý tốt hoạt động tài chính trong doanh nghiệp, là yếu tố cơ bản đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động và không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng tác động trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sẽ làm tăng tích lũy của doanh nghiệp, làm giảm bớt nhu cầu về vốn tiền tệ, tăng vòng quay vốn kinh doanh, nhờ đó tình hình tài chánh của doanh nghiệp sẽ tốt hơn. Nhiệm vụ của nhà quản trị tài chính là bảo đảm đủ tiền cho hoạt động sản xuất kinh doanh và thanh toán các khoản nợ. Muốn vậy thì tài chính doanh nghiệp phải có nguồn hình thành để bảo đảm yêu cầu trên. Nguồn tài trợ trong doanh nghiệp gồm nhiều hình thức khác nhau. Nếu căn cứ vào phạm vi có thể phân ra như sau : * Các nguồn đầu tư, tài trợ từ bên ngoài doanh nghiệp : như các khoản phải trả khách hàng, nợ tích lũy, vay từ các tổ chức tài chính tín dụng, phát hành cổ phiếu …. * Các nguồn từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp : đây là nguồn tài trợ nội sinh, từ bên trong nội bộ doanh nhgiệp hay còn gọi là khả Trang 16 năng tự tài trợ. Nguồn này bao gồm hai thành phần chính là khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận được tái đầu tư. 1.4.3) Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của nền tài chính quốc gia. Do đó nếu một quốc gia có nền tài chính vững chắc và lành mạnh, thì doanh nghiệp có nhiều khả năng sẽ có được nguồn tài trợ bên ngoài vững chắc, nhưng điều này chưa chắc là tình hình tài chính của các doanh nghiệp là lành mạnh, mà còn tùy thuộc vào sự quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp. Ngược lại nếu tình hình tài chính của các doanh nghiệp hoạt động ổn định và có hiệu quả thì sẽ tác động nhất định đến sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. 1.4.4) Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhằm phân loại và có biện pháp khuyến khích động viên về vật chất, tinh thần đối với doanh nghiệp và người quản lý, điều hành doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, xử lý kịp thời đối với những doanh nghiệp yếu kém. Thông thường các chỉ tiêu sau được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước : a/ Các tiêu chuẩn định tính : Căn cứ vào kết quả đạt được của doanh nghiệp nhà nước đối với tình hình tăng trưởng kinh tế quốc gia nói chung, có thể nêu ra một số tiêu chuẩn chung về mặt định tính để đánh giá hiệu quả hoạt động như sau : - Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải nắm được nhu cầu của thị trường, tạo ra khối lượng của cải vật chất đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước, giúp Nhà Nước giải quyết các mối quan hệ cân đối bảo đảm an ninh kinh tế quốc gia. Ngoài ra cũng phải hướng tới xuât khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu. - Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm phát huy tốt lợi thế cạnh tranh với các doanh nghiệp khác có khả năng hội nhập ngày càng cao vào thị trường khu vực và thế giới. - Hoạt động của doanh nghiệp nhà nươc phải mang tính chất mở đường, hoạt động ở những ngành trọng điểm cần cho sự phát triển kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, thể hiện vai trò quan trọng không thể thay thế được của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. b/ Các tiêu chuẩn định lượng : Căn cứ vào doanh thu và chi phí của doanh nghiệp, các chỉ tiêu định lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước gồm có một số chỉ tiêu chủ yếu sau : - Chỉ tiêu tổng hợp : * Mức tăng đóng góp của doanh nghiệp nhà nước trong GDP trong nền kinh tế qua các năm. Trang 17 * Mức tăng đóng góp vào giá trị sản xuất phân theo các ngành. * Tỷ suất lợi nhuận trên vốn. - Chỉ tiêu kỹ thuật : một số chỉ tiêu về tài chính doanh nghiệp sau cần quan tâm khi xem xét hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm : a)Tỷ số thanh toán – Liquidity ratios : * Tỷ số thanh toán hiện hành (Current ratio) = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng trả nợ của công ty. * Tỷ số thanh toán nhanh (Quick ratio) = (Tài sản lưu động – hàng tồn kho) / Nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng thanh khoản nhanh của tài sản. b)Tỷ số hoạt động – Actitvity Ratios : * Vòng quay các khoản phải thu (Accounts receivable turnover ratio) = Doanh thu / Các khoản phải thu. Nếu vòng quay thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do bị chiếm dụng, còn vòng quay cao quá thì sẽ giảm sức cạnh tranh. * Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (Sales to fixed assets ratio) = Doanh thu / Tài sản cố định. * Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản (Sales to total assets ratio) = Doanh thu / Toàn bộ tài sản. c)Tỷ số đòn bẩy tài chính – Financial Leverage ratios : * Tỷ số nợ trên tài sản (Debt ratio) = Tổng nợ / Tổng tài sản. * Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu (Debt to equity ratio) = Tổng nợ / Vốn chủ sở hữu. * Tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi vay (Times interest eared ratio) = Lãi trước thuế và lãi vay / Lãi vay. Tỷ số này này dùng để đo mức độ mà lợi nhuận phát sinh do sử dụng vốn để bảo đảm trả lãi vay hàng năm. d)Tỷ số sinh lợi - Profitability ratios : * Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu (Hệ số lãi ròng - Net profit margin ratio) = Lãi ròng / Doanh thu. * Hệ số lãi gộp (Gross profit margin ratoi) = Lãi gộp / Doanh thu. Hệ số lãi gộp biến động sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận, hệ số này thể hiện khả năng bù đắp các khoản chi phí kinh doanh, đặt biệt là định phí để đạt lợi nhuận. * Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản – ROA (return on total assets ratio) = Tổng tài sản / Vốn chủ sở hữu. Tỷ suất này đo lường khả năng sinh lợi trên một đồng vốn đầu tư. • Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu hay còn gọi là tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần – ROE (Return on equity ratio) = Lợi nhuận ròng / Vốn chủ sở hữu. Các nhà đầu tư quan tâm đến chỉ tiêu này vì cho thấy khả năng tạo lãi của một đồng vốn. Trang 18 Ta có phương trình Dupont như sau : Lãi ròng Doanh thu Tổng tài sản ROE = ______________ x _______________ x ______________ Doanh thu Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Trong các chỉ tiêu định lượng nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước có tính chất bao trùm hơn hết, cụ thể thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Do vậy, muốn tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện pháp tăng doanh thu, giảm chi phí, tăng vòng quay của tài sản, thay đổi cơ cấu tài chính. 1.5) Xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. 1.5.1) Khái niệm toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế hiện nay. Xu thế khách quan này bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự thay đổi trong phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên giữa hai khái niệm này có sự khác biệt nhau. 1.5.1.1) Toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là khái niệm chỉ xu thế vận động khách quan bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật của thương mại và đầu tư quốc tế với sự nâng cao vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của nhân loại gắn vơi thời đại kinh tế tri thức. Tuy nhiên toàn cầu hóa hiện còn nhiều tranh cãi và ý kiến trái ngược nhau. Một số ủng hộ quan điểm toàn cầu hóa như là một phương tiện để phát triển kinh tế, nhưng cũng có một số phản đối toàn cầu hóa vì những khuyết tật do mặt trái của nó mang lại. 1.5.1.2) Hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế không chỉ đơn thuần là những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị trường mà là việc thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài chính quốc tế, thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư bao gồm các lĩnh vực sau : - Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất xuất nhập khẩu bằng không. Giảm thiểu và tiến tới loại bỏ những hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với thương mại. - Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại dịch vụ, tức là tự do hóa việc cung cấp và kinh doanh các hình thức dịch vụ. - Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường cho tự do hóa hơn nữa thương mại. Trang 19 - Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại như : thủ tục hành chính, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh … nhằm thuận lợi hóa thương mại. - Triển khai những hoạt động hợp tác kinh tế, văn hóa xã hội nhằm nâng cao năng lực của các nước trong quá trình hội nhập. Như vậy khái niệm hội nhập kinh tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. 1.5.2) Tác động của hội nhập kinh tế đối với các nước đang phát triển. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Ngay từ Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn kinh tế thế giới tổ chức tại Davos, Thụy Sĩ (28/1/1999 – 2/2/1999) đã khẳng định : toàn cầu hóa không còn là một xu thế nữa mà đã trở thành một thực tế. Trước sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ đã làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa, xã hội hoá nền kinh tế, cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này đã tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu vực, vì vậy đòi hỏi các quốc gia phải cùng nhau tham gia giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể giải quyết riêng lẻ. Việc tổ chức lại thị trường trên phạm vi toàn thế giới bắt nguồn từ các nước công nghiệp phát triển vì họ ở thế mạnh và thường áp đặt các luật chơi. Đối với các nước đang phát triển, vừa có yêu cầu phát triển vừa có yêu cầu tự bảo vệ nên cũng tham gia để tranh thủ lợi ích và cũng để bảo vệ mình. Lợi ích ở đây là mở cửa được thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ qua đầu tư trực tiếp, tạo việc làm, tăng trưởng kinh tế, học tập kinh nghiệm quản lý … Tuy nhiên, đối với những nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém, sức cạnh tranh hạn chế, thì hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có cơ hội mà còn có cả khó khăn, thậm chí thách thức lớn. Nhưng cứ đứng ngoài cuộc thì khó khăn có thể còn lớn hơn nhiều, do đó cần phải chủ động hội nhập gắn với chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế quản lý, cải cách hành chính … để phát huy nội lực, vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội để phát triển. Trang 20 1.5.2.1) Tác động tích cực. a) Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển : Các nước đang phát triển nếu chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Lợi thế so sánh luôn biến đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, phần lớn các nước đang phát triển chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp như lao động rẻ, nguồn tài nguyên và thị trường lớn … Tuy nhiên nếu biết tận dụng lợi thế vốn có của mình các nước đang phát triển có thể tham gia vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu với cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên liệu, cần ít vốn đầu tư, công nghệ trung bình tiên tiến để tạo ra những hàng hóa – dịch vụ không thể thiếu trong cơ cấu hàng hóa – dịch vụ trên thị trường thế giới. Hiện các nước đang phát triển ngày càng đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ kinh tế quốc tế, tỷ trọng hàng công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng tăng : năm 1985 là 47%, năm 1998 là 70%; các nước đang phát triển đang nắm giữ khoảng 25% lượng hàng công nghiệp xuất khẩu trên toàn thế giới. b) Tăng nguồn vốn đầu tư : Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế nổi bật ở dòng luân chuyển của vốn toàn cầu. Điều này tạo cơ hội cho các nước đang phát triển có thể thu hút được nguồn vốn bên ngoài cho sự phát triển kinh tế. Như vậy cùng với sự ổn định về mặt chính trị thì việc thiết lập một cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư nội địa thích hợp là cơ sở để định hướng và thu hút đầu tư bên ngoài, vì các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm các ưu đãi từ những điều kiện và môi trường đầu tư bên trong để thúc đẩy chương trình đầu tư của họ. Lượng vốn đầu tư trực tiếp FDI vào các nước đang phát triển tăng khá nhanh, năm 1996 các nước đang phát triển tiếp nhận 129 tỷ USD vốn FDI; đến năm 1999 vốn FDI vào các nước phát triển tăng lên 198 tỷ USD - trong đó 97 tỷ vào khu vực Châu Mỹ la tinh và 91 tỷ USD vào Châu Á. c) Nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ : Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển có điều kiện tiếp cận và thu hút những kỹ thuật, công nghệ tiến tiến, hiện đại của thế giới, qua đó nâng dần trình độ công nghệ sản xuất của mình. Vì trong quá trình tham gia vào liên doanh, liên kết, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự án FDI … các nước đang phát triển sẽ tiếp cận những công nghệ tiên tiến, học tập được những kiến thức về quản lý, những kỹ năng làm việc mới phong phú, đa dạng hơn. Đây là cơ hội để các nước đang phát triển tìm ra chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hóa của mình. Trang 21 d) Thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực : Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nước đang phát triển phải tổ chức lại cơ cấu kinh tế hợp lý. Ngày nay kinh tế thế giới đang chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, do vậy các nước phát triển có hàm lượng chất xám cao, công nghệ kỹ thuật hiện đại và hàm lượng vốn lớn đang chiếm ưu thế, còn ở những nước đang phát triển chỉ có thể đảm nhận những ngành có hàm lượng cao về lao động, nguyên liệu và có hàm lượng thấp về công nghệ, vốn. Do vậy hầu hết nền kinh tế của các nước đang phát triển đều tiến tới mô hình kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế dựa vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến. Muốn vậy đòi hỏi cơ cấu kinh tế nội lực phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu đa dạng, thể chế kinh tế linh hoạt để thích ứng và đương đầu với những thay đổi của các điều kiện phát triển kinh tế toàn cầu. Ngày nay cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực : giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, chất lượng hàng hoá xuất khẩu được nâng lên. e) Mở rộng kinh tế đối ngoại : Ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không thiết lập quan hệ kinh tế với các nươc khác, do vậy hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các nước đang phát triển mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong hoàn cảnh quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, quá trình toàn cầu hóa được thúc đẩy mạnh mẽ thì các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành một nhân tố không thể thiếu được để thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi nước, nhất là những nước đang phát triển. f) Cơ sở hạ tầng được tăng cường : Các nước đang phát triển có mức thu nhập tính theo đầu người thấp, do đó tích lũy cũng thấp, trong khi đang cần những lượng vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng những công trình thiết yếu để phát triển kinh tế như : cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, điện, nuớc … Do đó muốn tăng cường cơ sở hạ tầng thì phải tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. 1.5.2.2) Tác động tiêu cực a) Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc xuất khẩu : Nền kinh tế của các nước đang phát triển cơ cấu lại theo hướng thị trường mở, hội nhập quốc tế. Nhưng quá trình trên lại phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu, mà xuất khẩu lại phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường thế giới, vào giá cả thế giới và phụ thuộc vào lợi ích của nước nhập khẩu, vào độ mở cửa của các nước phát triển … do vậy cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn. Trang 22 b) Lợi thế của các nước phát triển đang bị yếu dần : Nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, do vậy mà những yếu tố vốn được coi là lợi thế của các nước đang phát triển như tài nguyên, lao động dồi dào, chi phí lao động thấp .. sẽ yếu dần đi. Còn ưu thế sẽ chuyển sang kỹ thuật – công nghệ cao, về vốn dồi dào, về sở hữu trí tuệ… vốn đang là thế mạnh của các nước phát triển. Như vậy có thể nói trong tương lai thì nền kinh tế có công nghệ tri thức, kỹ năng tinh xảo được coi là các nguồn lực có lợi thế so sánh cao, vì vậy lợi thế so sánh đang ngày càng nghiêng dần về các nước phát triển. c) Nợ nần của các nước phát triển tăng lên : Do nhu cầu về vốn cho việc tham gia vào toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, một số nước đang phát triển cần những khoản vay lớn để phát triển kinh tế. Tuy nhiên do cơ cấu kinh tế không hợp lý, hạn chế về quản lý dẫn đến đầu tư kém hiệu quả nên hiện nay nợ nần của nhiều nước đang phát triển ngày càng lớn. Gánh nặng nợ đè lên nền kinh tế của các nước đang phát triển, là lực cản kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này, nền kinh tế lâm vào bế tắc, không có lối thoát đẫn đến vỡ nợ. Cụ thể như cuộc khủng hoảng tài chính tại Thái Lan vào những năm 1997, khủng hoảng nợ dẫn đến tuyên bố phá sản tại Argentina những năm 2000. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1999, thì tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP của một số nước đang phát triển rất lớn, cụ thể như sau : Brazin 24%, Mexico 38%, Indonesia 65%, Philippin 51%. d) Sức cạnh tranh của nền kinh tế kém : Toàn cầu hoá đã đẩy mạnh vấn đề cạnh tranh toàn cầu ngày càng trở nên quyết liệt. Nhưng do xuất phát điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia là khác nhau, nên cơ hội và rủi ro của các nước là không bằng nhau, do đó nền kinh tế của các nước đang phát triển dễ bị thua thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang sức với các nước phát triển. e) Phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn giữa các quốc gia : Quá trình hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa cũng đồng thời là quá trình làm tăng thêm khoảng cách phân hóa giàu nghèo giữa hai nhóm nước : phát triển và đang phát triển. Đây cũng chính là một trong những quan điểm chính của những người phản đối toàn cầu hóa. Hiện nay các nước phát triển đang nắm giữ ¾ sức sản xuất của toàn thế giới, nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại, các phát minh, sáng chế. Ngoài ra các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế như : Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) … đều nằm dưới sự chi phối của các nước phát triển. Còn các nước đang phát triển thì nền kinh tế chưa đủ sức để chống đỡ vòng xoáy của các cuộc khủng hoảng kinh Trang 23 tế cũng như cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Do vậy mà các nước đang phát triển ngày càng bị nghèo đi so với các nước phát triển. f) Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi : Ngày nay các nước phát triển ngày càng chuyển dịch những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang các nước đang phát triển. Do vậy các nước phát triển chuyển dịch đầu tư sang các nước đang phát triển không chỉ dựa vào nguồn tài nguyên, lao động dồi dào mà còn dựa vào việc không bị những ràng buộc khắt khe trong việc bảo vệ môi trường. 1.5.3) Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam với khu vực và thế giới 1.5.3.1) Các biện pháp đơn phương : - Kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế. - Trong lĩnh vực đầu tư và thương mại, nước ta đã ban hành và sửa đổi, bổ sung nhiều lần Luật đầu tư nước ngoài. - Đã ban hành Pháp lệnh về Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia, cố giắng đưa pháp luật nước ta ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ thương mại quốc tế. Đẩy nhanh tiến trình cải cách thủ tục hành chính. - Chủ động từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cải cách và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. 1.5.3.2) Quan hệ song phương : Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với trên 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết nhiều hiệp định kinh tế thương mại song phương. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) ký kết ngày 13/07/2001. Đây là kết quả của 4 n._. gần 19% so với thực hiện 2003 đạt 36,3% GDP. Trong đó đầu tư nguồn vốn ngân sách ước đạt 61 ngàn tỷ đồng, bằng 114% kế hoạch năm và tăng 29,7% so với 2003. - Luật ngân sách đã được ban hành và thực hiện tạo điều kiện cho việc thu đúng, thu đủ và thu kịp thời. Việc chi ngân sách đã được kiểm soát thông qua công tác lập dự toán và kiểm toán ngân sách Nhà Nước. - Quan hệ giữa ngân sách trung ương và địa phương theo hướng tăng cường quyền chủ động cho địa phương, một số địa phương đã tăng số thu ngân sách, bảo đảm lấy thu bù chi không những ngân sách trung ương không còn cấp bù mà còn và nộp về cho trung ương. Theo Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2005 của Ngân hàng thế giới (WB) nhận định : Quốc Hội được trao quyền nhiều hơn, chịu trách nhiệm phê duyệt ngân sách bao gồm cả việc phân bổ ngân sách cho các cấp chính quyền địa phương. Ngoài ra mức độ phân quyền ngày càng rõ nét. Khoảng 44% ngân sách Nhà Nước được giao cho địa phương quản lý, đồng thời có những tiến bộ vững chắc trong quản lý tài chính công (Nguồn : Báo Tuổi trẻ ngày 26/11/2004). - Tiếp tục quá trình tập trung cải cách và kiện toàn hệ thống thu thuế tạo môi trường tài chính thuận lợi, khuyến khích sản xuất. - Nhà Nước đã từng bước cắt giảm các khoản chi hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Trong giai đoạn đang tiến hành sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh gắn với thị trường, chủ động hạch toán, bảo toàn và phát triển vốn, kinh doanh có hiệu quả, tăng sức cạnh tranh. - Chính sách khai thác các nguồn lực ngoài ngân sách Nhà Nước được chú trọng, thực hiện xã hội hóa đầu tư, xã hội hóa một số khoản chi ngân sách nhằm đáp ưng các nhu cầu nâng cao chất lượng, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa. - Những cơ chế, chính sách về ngân sách đã tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa có hiệu quả, khuyến khích đầu tư xã hội, mở rộng thị trường, phát triển khoa học công nghệ, phát triển kinh tế xã hội các vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên hoạt động ngân sách Nhà Nước vẫn còn những khó khăn và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định trong quá trình hội nhập phát triển, thể hiện : Trang 62 - Cơ sở để động viên tổng sản phẩm xã hội vào ngân sách chưa vững chắc. Cụ thể là cơ cấu nguồn thu trong nước tăng chậm do hiệu quả nền kinh tế còn thấp; nguồn thu ngân sách chưa thực sự bắt nguồn từ kết quả sản xuất kinh doanh, từ hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà vẫn bị chi phối bởi các khoản thu thiếu chắc chắn, phụ thuộc yếu tố bên ngoài như : thu từ xuất khẩu dầu thô phụ thuộc vào giá dầu thế giới, thu từ thuế nhập khẩu … đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà Nước. Ngân sách địa phương phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ đất, từ xổ số kiến thiết và trợ cấp của ngân sách trung ương. - Chính sách thuế đang tiếp tục hoàn thiện còn nhiều vấn đề cần giải quyết, việc làm cho chính sách thuế đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, dễ kiểm tra kiểm soát vẫn chưa thực hiện được. Công tác quản lý, điều hành thu ngân sách vẫn còn tồn tại thất thu thuế, trốn thuế, lậu thuế nhất là việc thoái thu thuế giá trị gia tăng. Kiểm soát thu nhập cá nhân để làm cơ sở thu thuế thu nhập cá nhân chưa thực hiện được. - Công tác quản lý và giám sát tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lỏng lẻo dẫn đến chất lượng công trình không cao, thất thoát, lãng phí lớn. Nợ xây dựng cơ bản lớn (năm 2003 trên 11.000 tỷ đồng) và kéo dài do công tác lập dự án, chuẩn bị đầu tư, quản lý vốn còn hạn chế. - Sức ép chi ngân sách vẫn còn lớn do đòi hỏi của nền kinh tế xã hội ngày càng cao, trong khi sự phân bổ ngân sách còn tình trạng dàn trải. Mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà Nước không thể tách rời mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn tăng cường sức cạnh tranh, chuẩn bị để hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Do đó việc tăng cường nền tảng của ngân sách Nhà Nước phải đi đôi với việc tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế. Để khắc phục những khó khăn, hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà Nước cần thực hiện một số giải pháp sau : - Chính sách thu ngân sách cần được hoạch định theo hướng động viên hợp lý các nguồn lực của nền kinh tế, giải quyết được mối quan hệ lợi ích giữa Nhà Nước, doanh nghiệp và xã hội. Nhằm bảo đảm đủ nguồn tài chính để Nhà Nước thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng; tạo động lực cần thiết cho doanh nghiệp tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chú trọng đến xu hướng hội nhập kinh tế, chuyển đổi nguồn thu để vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách. Trang 63 - Việc chi ngân sách cần tiếp tục cơ cấu lại theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, cắt giảm dần các khoản chi bao cấp. Việc chi ngân sách phải được cân nhắc trên cơ sở phối hợp giữa vốn của ngân sách và các nguồn lực tài chính khác trong xã hội để bảo đảm tinh thiết thực và hiệu quả, hạn chế vay thương mại nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách. Cân đối thu chi ngân sách địa phương theo nguyên tắc chi phải cân bằng với thu, tốc độ chi đầu tư phát triển phải lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, bảo đảm tiết kiệm chi thường xuyên để tạo tích lũy từ nội bộ ngân sách cho đầu tư phát triển. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành ngân sách, cơ chế phân cấp quản lý ngân sách, hệ thống định mức chi tiêu ngân sách cho phù hợp, thực hiện công khai và minh bạch hoá ngân sách các cấp. Ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách để phát huy tính tự chủ, năng động của chính quyền địa phương cho phù hợp vơi tình hình cụ thể của từng địa phương. - Tiếp tục kiện toàn hệ thống chính sách thuế, điều chỉnh cơ cấu các sắc thuế và thuế suất cho phù hợp với yêu cầu phát triển, hội nhập kinh tế và các cam kết quốc tế. Sửa đổi và hoàn thiện các loại thuế gián thu, nâng dần tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu ngân sách nhằm tạo môi trường bình đẳng, công bằng xã hội và tăng nguồn thu cho ngân sách. - Chi đầu tư từ ngân sách phải được thực hiện tập trung, dứt điểm theo từng công trình tránh tình trạng chi đầu tư dàn trải keo dài, nhằm đáp ứng yêu cầu tiết và hiệu quả. Chú ý tập trung chi đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm để tạo động lực phát triển cho cả nền kinh tế. - Đổi mới các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho việc thúc đẩy xuất khẩu và xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới. Mở rộng hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội nhằm huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội. Mở rộng xã hội hóa một số khoản chi ngân sách, thực hiện khoán chi đối với một số đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao tính tự chủ và tiết kiệm trong chi tiêu. 3.3) Tiếp tục quá trình cải cách hệ thống thu thuế Nhà Nước. Công cuộc cải cách hệ thống thuế trong thời gian qua được tiến hành song song với quá trình đổi mới của nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Về cơ chế chính sách đã hình thành hệ thống các Luật thuế, Pháp lệnh thu phí và lệ phí bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng đối với mọi thành phần kinh tế. Trang 64 Thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy sản kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà Nước. Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách Nhà Nước ngày càng tăng : năm 2000 đã tăng 13,7 lần so với năm 1990. Cụ thể năm 1991 đạt 13,1% GDP, năm 1999 đạt 18,6% GDP; năm 2000 đạt 19,7% GDP, năm 2001 đạt 20,4% GDP; năm 2003 đạt 21,8% GDP, năm 2004 đạt 22,8% GDP. Ngoài việc bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên của ngân sách, thuế còn bảo đảm tăng chi hàng năm cho đầu tư phát triển, trả nợ nước ngoài, dự trữ cho Nhà Nước. (Nguồn : Tổng cục thuế). Về quản lý thu thuế, đã sắp xếp và củng cố hệ thống tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước, công tác quản lý thuế đã chuyển đổi từ phương thức quản lý cũ là cơ quan thuế làm thay việc kê khai và tính thuế của doanh nghiệp sang phương thức mới là đề cao tính chủ động, tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp qua việc tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Cơ quan thuế tập trung vào việc hướng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra việc kê khai, đôn đốc thu nộp do đó hiệu quả quản lý thuế ngày càng nâng cao. Tuy nhiên hệ thống chính sách thu và công tác quản lý thuế trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế như sau : - Hệ thống chính sách thuế chưa điều tiết hết các nguồn thu trong nền kinh tế như : chưa điều chỉnh đầy đủ đối tượng chịu thuế, chưa có thuế bảo vệ môi trường để điều tiết các đối tượng gây ô nhiễm nhằm bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái, chưa có thuế tài sản để điều tiết một phần thu nhập của người có quyền sở hữu, sử dụngnhiều tài sản … - Chính sách thuế hiện hành chưa thật sự bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ thuế, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mỗi sắc thuế còn có nhiều mức thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp còn phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. - Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt còn nặng về bảo hộ sản xuất trong nước trên diện rộng, chưa tạo áp lực mạnh để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, chưa thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư công nghệ và nâng cao trình độ quản lý. Do đó khi hội nhập kinh tế và gỡ bỏ hàng rào thuế quan sẽ tạo áp lực về sức cạnh tranh. Chưa có công cụ chống lại các biện pháp trợ giá, chuyển giá, chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào nước ta. - Năng lực, trình độ quản lý thuế còn có những điểm chưa đáp ứng so với yêu cầu quản lý thuế hiện đại, khoa học. Nhận thức về trách nhiệm và nghĩa Trang 65 vụ thuế của doanh nghiệp chưa cao. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc kê khai thuế. Công tác quản lý thuế còn ở trình độ thấp, chưa xứng tầm khi nước ta hội nhập và tham gia nền kinh tế thế giới. - Việc tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn, giải thích chính sách chưa chưa thường xuyên và sâu rộng để nâng cao tinh thần tự giác tuân thủ, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và của nhân dân. Với mục tiêu là xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý và hiện đại hóa công tác quản lý thuế nhằm bảo đảm nguồn lực tài chính phục vụ công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước, tạo sự công bằng xã hội, động viên nguồn thu vào ngân sách Nhà Nước và chuẩn bị đón đầu hội nhập kinh tế thế giới, cần thực hiện một số giải pháp sau : - Thuế giá trị gia tăng là một trong những loại thuế gián thu điều tiết một phần vào thu nhập của người tiêu dùng. Do đó thuế giá trị gia tăng có diện điều chỉnh rộng và sẽ trở thành một sắc thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống thuế và sẽ bù đắp được nguồn thu thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế suất theo cam kết quốc tế. Cần tiếp tục hoàn thiện thuế giá trị gia tăng theo hướng mở rộng diện chịu thuế, giảm bớt số nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế nhằm ổn định nguồn thu cho ngân sách và tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn. - Thuế tiêu thụ đặc biệt cần mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và điều chỉnh thuế suất đối với một số hàng hóa dịch vụ xa xỉ, cao cấp nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, bảo đảm tiết kiệm trong tiêu dùng và bảo hộ sản xuất trong nước. -Thuế xuất nhập khẩu trong thời gian tới thực hiện lộ trình cam kết quốc tế phải cắt giảm. Tuy nhiên cần xây dựng các luật thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử, vì đây là một công cụ để bảo vệ nền kinh tế trong hoạt động thương mại quốc tế. - Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu điều tiết thu nhập từ kết quả sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ và hiệu quả của nền kinh tế và của doanh nghiệp. Hiện nay do năng suất, hiệu quả và mức tích lũy của nền kinh tế nước ta còn thấp so với các nước, quy mô của doanh nghiệp còn nhỏ, công nghệ lạc hậu. Do đó để nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp phát triển bền vững, tăng tích lũy vốn, khuyến khích đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu cần hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng giảm nghĩa vụ thuế. Bởi vì có tích lũy để đầu tư phát triển, nhất là về công nghệ thì sẽ giảm chi phí sản xuất, tăng Trang 66 năng suất lao động, giảm giá thành sẽ tạo động lực nâng cao sức cạnh tranh, tăng thu nhập, đồng thời giá thành hạ sẽ khuyến khích tiêu dùng, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất, tạo nguồn tích lũy và tăng nguồn thu từ tiêu dùng nội địa từ đó tạo đà cho phát triển bền vững. - Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp của mọi người dân cho ngân sách Nhà Nước. Hiện nay nguồn thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp do đó cần xây dựng thuế thu nhập cá nhân theo hướng vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, vứa mở rộng diện động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân sách góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, một trong những khuyết điểm của nó là môi trường sinh thái ngày càng xấu đi do bị khai thác cạn kiệt, ô nhiễm. Do đó cần ban hành thuế bảo vệ môi trường thu vào các đối tượng gây ô nhiễm nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, chống chuyển dịch công nghệ bẩn vào nước ta, ngăn chặn biến nước ta thành bãi rác của việc tiêu thụ rác thải công nghiệp và tạo lập quỹ để cải tạo môi trường. - Khi phát triển nền kinh tế thị trường, ngày càng làm phân hóa đời sống của người dân. Do đó sẽ có một bộ phận dân cư sỡ hữu nhiều loại tài sản. Nhằm điều tiết một phần thu nhập từ việc sở hữu tài sản, giảm phân hoá giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội và tạo lập quỹ để chống đói nghèo. Cần ban hành thuế tài sản nhằm điều tiết một phần thu nhập của những cá nhân có quyền sở hữu, quyền sử dụng nhiều tài sản có giá trị cao. - Cần ban hành các chính sách khuyến khích và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn thuế, kế toán thuế và kiểm toán. Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện tốt công tác kế toán, hạch toán đúng kết quả sản xuất kinh doanh, và xác định đúng nghĩa vụ nộp thuế với Nhà Nước. Nâng cao tính tự nguyện và chủ động trong việc tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế vào ngân sách kịp thời và đầy đủ. - Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về thuế, nhất là công tác hoàn thuế nhằm ngăn chặn kịp thời việc chiếm đoạt tiền thuế của Nhà Nước và các trường hợp trốn lậu thuế. - Hiện đại hóa công tác quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ để ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới. Trang 67 3.4) Phát triển thị trường tài chính, huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 3.4.1) Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến khích sản xuất kinh doanh. Môi trường đầu tư ở nước ta ngày càng được cải thiện, cùng với việc tiếp tục giữ vững ổn định về tình hình chính trị, xã hội và an ninh, Nhà Nước đã chú trọng tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các rào cản về vốn, cơ chế chính sách pháp luật và cải cách thủ tục hành chính, giảm sự can thiệp trực tiếp của Nhà Nước đối với hoạt động của doanh nghiệp, mở rộng quyền tự chủ tài chính của doanh nghiệp nhà nước. Đã tập trung vốn đầu tư từ ngân sách Nhà Nước kết hợp với dầu tư của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm ổn định giá cả thị trường và kìm chế lạm phát ở mức hợp lý nhờ đó môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thông thoáng và thuận lợi. Tuy nhiên những năm gần đây việc sút giảm vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam một phần do môi trường đầu tư của nước ta hiện nay kém thuận lợi hơn một số nước trong khu vực. Do đó cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư và khuyến khích sản xuất kinh doanh và huy động được tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội. - Do đó cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách để thu hẹp và đi đến chấm dứt mọi sự phân biệt đối xử không bình đẳng trong các quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng, miễn giảm thuế, giá thuê đất, giá cước dịch vụ viễn thông, việc thuê và tuyển chọn lao động … giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp dân doanh, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa người trong nươc và người nước ngoài. - Đi đôi với việc nhanh chóng xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử không bình đẳng, phải tiếp tục đổi mới chính sách, bảo đảm sự ổn định, công khai, minh bạch và tăng cường sức cạnh tranh lành mạnh, chống bao cấp của Nhà Nước dẫn tới độc quyền trong kinh doanh. Tiếp tục tăng cường đầu tư của Nhà Nước và khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội. - Ngoài ra tăng cường cải cách hành chính, từng bước điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà Nước định giá như : cước bưu điện viễn thông, tiền thuê đất, giá máy bay … ngang bằng các nước khu vực. Có cơ chế quản lý và kiểm soát các mặt hàng độc quyền, cơ chế chống bán phá giá và cơ chế kiểm soát việc chuyển giá nội bộ trong doanh nghiệp để bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh. Trang 68 3.4.2) Đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính. Hệ thống thị trường tài chính nước ta đã hình thành và bước đầu đạt được những kết quả nhất định trong việc phát huy các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán sau gần năm năm hoạt động đang có bước chuyển động theo hướng phát triển lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Thị trường tiền tệ cũng đang từng bước vận động phù hợp với cơ chế thị trường. Thị trường dịch vụ tài chính, kế toán, kiểm toán đã từng bước mở rộng quy mô, phát triển với tốc độ cao, theo số liệu của Bộ Tài chính đạt 15% - 18%/ năm, số lượng doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại hoạt động Việt Nam ngày càng tăng tạo điều kiện hội nhập nhanh với quốc tế. Thị trường bảo hiểm tăng nhanh về quy mô và tốc độ phát triển đạt trên 30% năm. Khung pháp lý cho thị trường bất động sản bước đầu được thiết lập. - Tuy nhiên trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện và có chính sách tài chính đủ mạnh để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ các thị trường như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để vừa huy động thêm được nhiều nguồn lực, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong nhân dân. Đồng thời có biện pháp để phát triển thị trường tài chính hoàn chỉnh, có quy mô và phạm vi hoạt động rộng, an toàn, được quản lý, giám sát chặt chẽ, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia và có khả năng cạnh tranh, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. - Tiếp tục tăng cường, quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các khoản vay nước ngoài thông qua việc thiết lập và vận hành hệ thống giám sát nợ quốc gia. Kiểm soát các nguồn vốn vay nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn, bảo đảm an ninh tài chính trong hội nhập và phát triển, chủ động thực hiện các biện pháp giảm nợ quốc gia, tăng cường tích luỹ để từng bước đưa nền kinh tế đi lên. Tại cuộc Hội thảo tổng kết 20 năm đổi mới của Việt Nam ngày 01/07/2005, trong chủ đề thảo luận về dự báo về nhu cầu vốn để tăng trưởng của Việt Nam và các biện pháp cần được tiến hành kịp thời. Để tăng trưởng và phát triển, Việt Nam cần rất nhiều vốn và nguồn vốn ấy phải được tạo ra từ thị trường vốn chứ không thể trông cậy mãi vào nguồn viện trợ phát triển (ODA) hay phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư nước ngoài (FDI). Dự báo trong tương lai thì nguồn vốn ODA cho Việt Nam không thể tiếp tục tăng vô tận, để tăng trưởng và phát triển Việt Nam phải tạo ra nguồn vốn từ các kênh huy động vốn theo cơ chế thị trường. Thị trường chứng khoán của Việt Nam còn nhỏ bé, có nhiều lý do làm Trang 69 chậm sự phát triển của thị trường này, trong đó có nguyên nhân sâu xa về quản trị công ty. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá về danh nghĩa và hình thức có đầy đủ như hội đồng quản trị, ban giám sát nhưng lại không dám làm cáo bạch, không dám để kiểm toán và không dám ghi danh. (Nguồn : TS Lê Đăng Doanh, Báo Tuổi trẻ chủ nhật số 27-05 ngày 10/07/05). - Do đó cần sớm ban hành Luật Thị trường chứng khoán, phát triển thị trường cổ phiếu trên cơ sở lựa chọn, cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, kinh doanh có hiệu quả để niêm yết. - Tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ các tổ chức tài chính thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư, vì sự có mặt của nguồn vốn đầu tư gián tiếp sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cấp về vốn, quản trị và điều hành cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường. Theo Ông Dominic Scriven – giám đốc Tổ chức tài chính phi ngân hàng Dragon Capital (Anh quốc) – trong số 200 triệu đô la Mỹ mà quỹ này huy động được trong 10 năm tại Việt Nam, thì đã đầu tư khoảng 80% vào hơn 40 doanh nghiệp, đó là các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngân hàng cổ phần, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Còn năm 2004 nguồn vốn gián tiếp huy động vào Việt Nam khoảng từ 100 – 110 triệu đô la Mỹ là một con số khiêm tốn so với tiềm năng. Với tốc độ phát triển hiện nay của Việt Nam thì việc đầu tư vào các ngành khả năng sinh lợi lớn như điện, thép, ngân hàng, viễn thông, giáo dục, y tế … khả năng huy động vốn đầu tư gián tiếp là rất lớn và có khả năng huy động được từ các tổ chức tài chính. Nhưng vấn đề quan trọng là thị trường vốn phải thực sự phát triển và hấp dẫn nhà đầu tư, do đó cần cải thiện môi trường đầu tư và phát triển thị trường tài chính lành mạnh nhằm thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. (Nguồn : báo tuổi trẻ ngày 16/07/2005). - Tổ chức thực hiện tốt thị trường bảo hiểm, tổ chức lại các công ty bảo hiểm thành tập đoàn bảo hiểm có số vốn lớn, quy mô hoạt động rộng nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. Phát triển các công ty môi giới bảo hiểm để hỗ trợ thị trường bảo hiểm phát triển. Mở rộng giơi hạn và phạm vi tham gia của nước ngoài vào hệ thống thị trường bảo hiểm Việt Nam phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và khả năng cạnh tranh của thị trường trong nước. - Nâng cao chất lượng của dịch vụ kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà Nước. Bước đầu đã ban hành Luật kế toán, Luật thống kê, kiểm tra thi và cấp chứng chỉ hành nghề kế toán, chứng chỉ kiểm toán viên. Trang 70 Thực hiện việc chuyển đổi hình thức sở hữu Nhà Nước đối với một số công ty kiểm toán để mở rộng sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Đào tạo các chuyên gia kế toán, kiểm toán để tiến tới thực hiện quốc tế hoá tiêu chuẩn, trình độ và quy trình nghiệp vụ dịch vụ kế toán, kiểm toán, bảo đảm nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị phần của các công ty kiểm toán trong nước và tiến tới xuất khẩu các dịch vụ kế toán, kiểm toán ra nước ngoài. 3.4.3) Đa dạng hóa các kênh và hình thức động viên nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. - Ngoài vốn ngân sách Nhà Nước dành cho đầu tư phát triển cần đa dạng hóa các công cụ thu hút các nguồn lực theo cơ chế thị trường bằng các hình thức trái phiếu, cổ phiếu, các quỹ đầu tư, các tổ chức tài chính trung gian và hình thức huy động vốn khác thông qua kênh thị trường vốn, thị trường chứng khoán. - Chấm dứt việc ỷ lại vào ngân sách Nhà Nước, trông chờ vào vốn vay tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp Nhà Nước, mà phải tạo lập vốn thông qua thị trường vốn là giải pháp cơ bản, lâu dài để phát huy có hiệu quả cao nguồn lực cho đầu tư. - Tiếp tục thực hiện phát hành và huy động công trái và trái phiếu chính phủ để đầu tư các công trình trọng điểm của đất nước, nhằm làm giảm áp lực lên ngân sách và huy động được nguồn lực trong dân. - Hoàn chỉnh khung pháp lý cho các hoạt động giao dịch, mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ tạo vốn, tạo động lực mạnh để khuyến khích các tổ chức kinh tế tạo vốn thông qua thị trường vốn. - Đối với doanh nghiệp nhà nước mở rộng quyền tự chủ tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc vay vốn, quản lý tài sản. Mở rộng việc bán cổ phần ra bên ngoài để huy động các thành phần kinh tế khác, tập trung xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của doanh nghiệp nhà nước. W * X Trang 71 KẾT LUẬN Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng, tuy nhiên các nước trên thế giới đều coi trọng khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của quốc gia trong cạnh tranh và để xác lập một vị thế chính trị nhất định. Đối với nước ta hiện nay thì độc lập tự chủ về kinh tế phải bảo đảm một điều kiện tiên quyết là định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra độc lập tự chủ về kinh tế phải là chủ động mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế, trên cơ sở phát huy nội lực, lợi thế so sánh để cạnh tranh có hiệu quả. Quá trình đổi mới trong thời gian qua, nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Năm 1994 là quan sát viên của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT), năm 1995 thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, năm 1995 là thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và trong tương lai gần sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chứng tỏ một sự độc lập, chủ động chuẩn bị tích cực cho hội nhập. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì hội nhập và cạnh tranh là hai mặt của quá trình toàn cầu hoá. Để hội nhập được thì phải đương đầu với cạnh tranh và cạnh tranh được thì sẽ hội nhập thành công. Do đó để đón đầu hội nhập nước ta cần nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trong khu vực và quốc tế, trong đó khu vực kinh tế Nhà Nươc với vai trò chủ đạo của nền kinh tế phải thực sự vững mạnh, là chỗ dựa cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp Nhà Nước là một yêu cầu cấp thiết hiện nay nhằm nâng cao năng lực hoạt động, lành mạnh hóa tình hình tài chính và tăng cường khả năng cạnh tranh. Nếu tiếp tục hoạt động kém hiệu quả sẽ trở thành lực cản lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh như vậy, khu vực kinh tế Nhà Nước muốn tồn tại và phát triển cần phải nâng cao năng lực tài chính, hoạt động có hiệu quả để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường và giữ vững vai trò chủ đạo của mình trong sự phát triển bền vững của nền kinh tế. X * Y Trang 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Nghị quyết Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 6 – Khóa VI. 2) Nghị quyết Đảng, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 – Khoá IX. 3) GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền, “Tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản thống kê 1994. 4) TS. Trần Ngọc Thơ, “Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, Nhà xuất bản thống kê 2003. 5) TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS. Nguyễn Thị Liên Hoa, “Tài chính quốc tế”, Nhà xuất bản thống kê 2000. 6) Mai Ngọc Cường, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân 2001. 7) GS.TS. Vũ Đình Bách, “Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước lý luận, chính sách và giải pháp”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2001. 8) PGS. TS. Trần Đình Ty, “Quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ”, Nhà xuất bản lao động 2002. 9) GS.TS Lê Văn Tư, TS. Nguyễn Quốc Khanh, “Một số vấn đề về chính sách tỉ giá hối đoái cho mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam”, Nhà xuất bản thống kê 2000. 10) PGS. TS. Phan Thanh Phố, “Việt Nam vơi tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2005, 11) Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trương ương – Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp. 12) Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Bộ Tài Chính,”Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội”, Tạp chí cộng sản số 55, 61. 13) TS. Lê Đăng Doanh, “Năng lực cạnh tranh của Việt nam bị tụt hạng”, Báo Tuổi trẻ 22/10/2004. 14) Vũ Phạm Tín, “Hội nhập kinh tế quốc tế “, Viện kinh tế TP.Hồ Chi Minh. 15) Tạp chí cộng sản. Web site 16) Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Web site 17) Bộ kế hoạch đầu tư. Web site 18) Bộ Tài chính. Web site Trang 73 19) Tổng cục thuế. Web site 20) Tổng cục thống kê. Web site 21) VietNamNet. Web site 22) Tạp chí kinh tế phát triển, số 138, 141, 144, 146. Trường Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 23) GS. TSKH. Tào Hữu Phùng, Phó chủ nhiệm ủy ban kinh tế & ngân sách Quốc Hội, “Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước”, Tạp chí cộng sản số 53. 24) Báo cáo của Bộ tài chính tại Hội nghị sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà Nước tại Hà Nội ngày 15 – 16/03/2004. 25) TSKH. Trần Nguyễn Tuyên, Kinh tế xã hội Viêt nam 3 năm 2001-2003, Tổng cục thống kê. 26) Lương văn Tự, Tạp chí thương mại, số 11/2004. 27) Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Kim Quy (2001), “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước”, Trường Đại học kinh tế TP.HCM. 28) Luận văn thạc sĩ Phan Thị Cẩm Thy (2003), “Một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực tài chính cho khu vực kinh tế nhà nước ở Việt nam trong xu thế hội nhập”, Trường Đại học kinh tế TP.HCM. 29) Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Chi (2004), “Kinh doanh vốn cổ phần công ty một phương thức đầu tư tài chính mới cho thị trường tài chính tại Việt Nam”, Trường Đại học kinh tế TP.HCM. 30) Báo Tuổi trẻ ngày 22/10/2004, 20/11/2004, 22/11/2004, 26/11/2004. 31) Báo Hải quan, ngày 18/03/2004. 32) Báo Người lao động, ngày 22/11/2004, 26/11/2004, 28/12/2004. Trang 74 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1026.pdf
Tài liệu liên quan