Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Từ Liêm

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI – KINH TẾ QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ -----------˜&™----------- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT KHẨU TẠI NHNo&PTNT TỪ LIÊM Giáo viên hướng dẫn: TS Tạ Văn Lợi Sinh viên thực hiện: Đặng Thị Hoàng Ánh Lớp: Kinh doanh quốc tế A Khoá: 47 Hệ: Chính quy Năm 2009 22.7 LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan: chuyên đề tốt nghiệp “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNo&PTNT Từ Liêm” là công trình nghiên cứu của riêng em. Các số liệu trong chuyên đề được sử dụng trung thực. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong chuyên đề này chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình nào khác. Em xin chân thành cảm ơn TS Tạ Văn Lợi đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn Chi nhánh NHNo&PTNT Từ Liêm đã tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập. Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2009. Sinh viên Đặng Thị Hoàng Ánh DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TTXNK Tài trợ xuất nhập khẩu DNXNK Doanh nghiệp xuất nhập khẩu DNXK Doanh nghiệp xuất khẩu DNNK Doanh nghiệp nhập khẩu DNNN Doanh nghiệp nhà nước DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh DNTN Doanh nghiệp tư nhân ĐTNN Đầu tư nước ngoài CTTNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn CTCP Công ty cổ phần NH Ngân hàng NHNN Ngân hàng nhà nước NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TTQT Thanh toán quốc tế BTT Bao thanh toán DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ. Bảng 2.1 Cơ cấu tín dụng theo thời gian Bảng 2.2 Quy mô tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu Bảng 2.3 Cơ cấu dư nợ tín dụng XNK theo thành phần kinh tế Bảng 2.4 Tình hình mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu Bảng 2.5 Tỷ trọng giá trị tín dụng TTXNK trên tổng giá trị tín dụng cho vay Bảng 2.6 Quy mô tín dụng TTXNK bình quân Bảng 2.7 Tình hình gia tăng khách hàng tại NHNo&PTNT Từ Liêm Bảng 2.8 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng TTXNK Biểu đồ 2.1 Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động Biểu đồ 2.2 Cơ cấu nguồn vốn huy động theo thành phần kinh tế Biểu đồ 2.3 Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng Biểu đồ 2.4 Lợi nhuận NH Từ Liêm 2006-2008 Biểu đồ 2.5 Doanh số cho vay XNK Biểu đồ 2.6 Cơ cấu dư nợ tín dụng theo thời gian Biểu đồ 2.7 Tỷ trọng dư nợ TDTTXNK theo thành phần kinh tế Biểu đồ 2.8 Doanh số cho vay xuất khẩu Biểu đồ 2.9 Doanh số cho vay thanh toán tiền hàng nhập khẩu Hình 1.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHNo&PTNT Từ Liêm năm 2008 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc trưng và xu hướng phát triển phổ biến của nền kinh tế thế giới, bất kể đó là nền kinh tế có quy mô và trình độ phát triển ra sao và thuộc chế độ chính trị nào. Chính xu hướng này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia phát triển một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Hầu hết tất cả các doanh nghiệp của mỗi nước đều mong muốn hướng ra thị trường quốc tế bởi những lợi ích đem lại từ hoạt động này. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế bởi những hạn chế từ bản thân các doanh nghiệp như kinh nghiệm kinh doanh quốc tế còn ít, chưa có nhiều uy tín trên thị trường quốc tế… Đặc biệt khả năng tài chính của các doanh nghiệp còn hạn chế so với giá trị các thương vụ mà doanh nghiệp tham gia, dẫn tới việc doanh nghiệp không đáp ứng được hết yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh như thu mua nguyên vật liệu, sản xuất, vận chuyển đối với doanh nghiệp xuất khẩu hay quá trình thanh toán đối với doanh nghiệp nhập khẩu…Việc thiếu vốn cũng như việc không có uy tín trên thị trường thế giới sẽ hạn chế khả năng tiếp cận với các đối tác nước ngoài, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp…Để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt, mở rộng thị trường, thị phần, các doanh nghiệp rất cần đến nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài để thực hiện các thương vụ mà mình tham gia. Mà ngân hàng lại là một trung gian tài chính có uy tín, có khả năng về tài chính và hoạt động có hiệu quả cho nên dẫn tới quan hệ vay mượn, tài trợ và giúp đỡ từ ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK là một hoạt động hết sức phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro. Nó không chỉ chịu tác động của chính sách kinh tế trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm, nguồn luật khác nhau và bị ảnh hưởng mạnh theo sự biến động của thị trường quốc tế. Vì vậy để có thể tham gia tài trợ xuất nhập khẩu một cách an toàn và có hiệu quả thì ngoài việc xây dựng được một chu trình kinh doanh các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khép kín thì bản thân mỗi ngân hàng cần phải được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện đại, có đội ngũ cán bộ kinh doanh hoạt động ngân hàng đối ngoại đủ năng lực và có tính chuyên nghiệp cao…Tuy nhiên thực tế cho thấy hiện nay các ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Từ Liêm nói riêng mặc dù đã chú trọng tới hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu song hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế như doanh số còn thấp, chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức, các hình thức tài trợ và đối tượng tài trợ còn ít chưa đa dạng, kèm với đó là tình trạng thiếu lao động, trình độ cán bộ và công nghệ còn hạn chế ảnh hưởng tới hiệu quả công việc. Do đó việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với NHNo&PTNT Từ Liêm nói riêng và hệ thống các ngân hàng thương mại nói chung. Xuất phát từ vấn đề trên em xin chọn đề tài: “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNo&PTNT Từ Liêm” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng TTXNK tại NH Từ Liêm. Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu vào các vấn đề: Về hoạt động: tín dụng TTXNK của NHNo&PTNT Từ Liêm. Về thời gian: nghiên cứu từ năm 2006-2008. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu là nhằm đưa ra một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK cho NHNo&PTNT Từ Liêm trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu. Hệ thống hoá cơ sở lý luận liên quan đến hoạt động tín dụng TTXNK cũng như hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK tại các ngân hàng thương mại hiện nay. Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng TTXNK và thực trạng đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK của NHNo&PTNT Từ Liêm trong giai đoạn 2006-2008 nhằm làm rõ những mặt đã đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân tồn tại. Trên cơ sở định hướng về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới và phương hướng hoạt động của NHNo&PTNT Từ Liêm, đề tài đề xuất một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK trong những năm tiếp theo. Bố cục của chuyên đề. Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương cơ bản: Chương I: Lý luận chung về tín dụng TTXNK và hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng TTXNK và đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK tại NHNo&PTNT Từ Liêm. Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK tại NHNo&PTNT Từ Liêm. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1.1. Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Tài trợ của ngân hàng thương mại về bản chất cũng là khoản tín dụng được cấp bởi ngân hàng. Do đó để hiểu rõ được khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, chúng ta cần làm rõ khái niệm tín dụng ngân hàng. Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng. Tuy nhiên theo cách hiểu chung nhất thì tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người đi vay và người cho vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”. Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt động XNK, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động XNK của các quốc gia. Bởi cùng với quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá, thị trường thương mại thế giới được mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư đang trở thành nhu cầu cấp bách của các DNXNK. Do khả năng tài chính có hạn mà các DNXNK không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc có đủ vốn để thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Từ đó làm nảy sinh nhu cầu vay mượn vốn từ bên ngoài. Mà ngân hàng lại là một trung gian tài chính có uy tín, có khả năng tài chính và hoạt động hiệu quả cho nên đã dẫn tới quan hệ vay mượn vốn giữa một bên là ngân hàng với một bên là các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Như vậy ta có thể hiểu “Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là hình thức tài trợ, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác. Giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn”. Nhu cầu được tài trợ XNK là những nhu cầu vốn tạm thời thiếu hụt của khách hàng trong quá trình kinh doanh XNK. Đối với nhà XK đó là những nhu cầu vốn tạm thời thiếu hụt trong quá trình kinh doanh xuất khẩu như quá trình thu gom hàng hoá cũng như quá trình chế biến hàng hoá chuẩn bị cho xuất khẩu. Đặc biệt đối với những nhà XK lớn có uy tín, có nhiều hợp đồng xuất khẩu liên tục thường có nhu cầu vốn ngay để sản xuất kinh doanh. Đối với nhà nhập khẩu đó là nhu cầu về tiền để thanh toán cho nhà XK nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hoá. 1.1.2. Sự phát triển của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tín dụng TTXNK của ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú. Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các đơn vị xuất nhập khẩu để bổ sung vốn lưu động thu mua chế biến sản xuất hàng xuất khẩu theo các hợp đồng đã được ký kết hoặc cho vay để thanh toán cho các nguyên vật liệu, hàng hóa, vật tư nhập từ nước ngoài… Từ hình thức cho vay ngắn hạn là chủ yếu, ngân hàng đã mở rộng cho vay trung dài hạn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngân hàng cho vay để mua sắm trang thiết bị máy móc, cải tiến công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thị giới. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện cho vay gián tiếp bằng uy tín và năng lực tài chính của mình thông qua việc đứng ra bảo lãnh cho các DNXNK nhằm giúp họ có thể thực hiện các hợp đồng ngoại thương có giá trị lớn. Đa số các doanh nghiệp này đều có khả năng thực hiện được hợp đồng (nhà XK) hay khả năng thanh toán (nhà NK) song chưa có nhiềy uy tín trên thị trường thế giới. Điều này gây tâm lý lo ngại cho các đối tác nước ngoài về uy tín cũng như khả năng thực hiện hợp đồng của các DNXK hay khả năng thanh toán của DNNK. Với cam kết bảo lãnh của ngân hàng tài trợ rằng trong trương hợp các DNXNK không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ đã cam kết thì ngân hàng sẽ đứng ra thực hiện. Như vậy phía đối tác nước ngoài sẽ gạt bỏ được sự lo ngại về vấn đề uy tín cũng như khả năng hoàn thành hợp đồng hay khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Nhờ có bảo lãnh của ngân hàng mà các DNXNK đã không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt, mở rộng được thị phần, thị trường và nâng cao uy tín, hình ảnh của mình trên trường quốc tế. Nếu doanh nghiệp có hối phiếu trong tay có thể đưa đến ngân hàng chiết khấu cũng như các chứng từ có giá trị thanh toán khác. Ngân hàng sẽ mua lại bộ chứng từ và có quyền truy đòi tiền từ nhà nhập khẩu theo hối phiếu. Trường hợp DNXK có những hợp đồng xuất liên tục và dài hạn theo định kỳ với điều kiện thanh toán trả chậm nhưng có nhu cầu vốn ngay, DNXK bán các khoản thanh toán chưa đến hạn cho ngân hàng. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ thu tiền từ DNNK, đây chính là hình thức tín dụng bao thanh toán. Như vậy, do trình độ kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán ngày càng phát triển, các phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng, nghiệp vụ tài trợ xuất khẩu phát triển dưới nhiều hình thức ngày càng đa dạng, phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu. 1.1.3. Vai trò của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. 1.1.3.1. Đối với doanh nghiệp. Thứ nhất: Tín dụng TTXNK giúp cho các DNXNK thực hiện được những hợp đồng ngoại thương có giá trị lớn vượt quá khả năng tài chính của mình. Thông thường, các hợp đồng ngoại thương thường được ký kết với giá trị lô hàng ở mức vừa và lớn. Điều này đòi hỏi các hai bên người NK và người XK phải có nguồn vốn tương đối lớn để có thể đáp ứng được các yêu cầu của quá trình thu mua, chế biến và sản xuất đối với nhà XK và quá trình thanh toán đối với nhà NK. Tuy nhiên trên thực tế phần lớn các doanh nghiệp không có đủ lượng vốn lớn như vậy. Bởi nguồn lực tài chính của doanh nghiệp thường được san sẻ cho các lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn các DNXK không chỉ sản xuất hàng hoá phục vụ mục đích xuất khẩu mà còn sản xuất hàng hoá để phục vụ thị trường trong nước hoặc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Nguồn lực tài chính hạn hẹp sẽ hạn chế khả năng tiếp cận với các đơn hàng cũng như các đối tác lớn. Để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt, doanh nghiệp sẽ nhờ đến nguồn vốn của ngân hàng thông qua việc tài trợ. Hơn nữa, các hợp đồng ngoại thương thường được thực hiện trong một thời gian tương đối lâu. Thời gian thực hiện hợp đồng được tính từ khi nhà XK tiến hành thu mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất cho đến khi nhà NK nhận được hàng và tiến hành thanh toán cho nhà XK. Do đó, một hợp đồng ngoại thương có thể kéo dài nhiều tháng liên tục, thậm chí hàng năm hoặc hơn. Trong khoảng thời gian đó có thể xuất hiện tình trạng doanh nghiệp cần vốn cho các đơn đặt hàng mới hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Như vậy nhờ có hoạt động tín dụng TTXNK mà DNXNK mới có vốn kịp thời để nhanh chóng thực hiện các đơn đặt hàng khác. Thứ hai: Tín dụng TTXNK làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông qua tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp nhận được vốn để thực hiện thương vụ. Đối với DNXK, vốn tài trợ giúp cho doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với DNNK, vốn tài trợ giúp cho doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ. Cả hai trường hợp trên đều giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả cao khi thực hiện thương vụ. Thứ ba: Tín dụng TTXNK giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Ngoài việc được tài trợ về vốn, nhiều trường hợp các doanh nghiệp XNK còn được ngân hàng đứng ra bảo lãnh để giúp họ có thể thực hiện được các hợp đồng ngoại thương có giá trị lớn. Các doanh nghiệp này đa số là những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hợp đồng (nhà XK) hoặc khả năng thanh toán (nhà NK) nhưng lại thiếu uy tín trên thị trường thế giới. Trong khi đó phía đối tác lại rất quan tâm đến uy tín và khả năng thực hiện hợp đồng của người bán hay khả năng thanh toán của người mua. Trong các trường hợp này cùng với sự bảo lãnh của ngân hàng phía đối tác nước ngoài sẽ hoàn toàn an tâm về khả năng thực hiện hợp đồng của nhà xuất khẩu cũng như khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Và như vậy các DNXNK sẽ không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt. Có thể nói thông qua sự tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp sẽ có được sự hậu thuẫn to lớn không chỉ về vốn mà về cả uy tín trên thị trường quốc tế giúp cho doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn trôi chảy, quan hệ được với các khách hàng tầm cỡ thế giới, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường thế giới. 1.1.3.2. Đối với ngân hàng thương mại. Tài trợ của ngân hàng thương mại là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, thời gian thu hồi vốn nhanh và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân hàng. Thứ nhất: Tín dụng TTXNK nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Đối với nhà XK, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ giao hàng để đòi tiền nhà NK nước ngoài đã chỉ định việc thanh toán tiền hàng phải thông qua tài khoản của nhà XK được mở tại ngân hàng. Đối với nhà NK, khi tài trợ ngân hàng buộc họ tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Việc quản lý chặt chẽ nguồn thu giúp ngân hàng tránh được rủi ro mất vốn tài trợ. Thứ hai: Tín dụng TTXNK đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Đồng vốn tín dụng gắn liền với thương vụ, trong nhiều trường hợp vốn tín dụng được thanh toán thẳng cho bên thứ 3 mà không thông qua bên xin cho vay như ngân hàng thanh toán thẳng tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng của nhà xuất khẩu…Việc làm này sẽ hạn chế được tình trạng doanh nghiệp xin vay vốn sử dụng vốn sai mục đích, giúp ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng. Thứ ba: Tín dụng TTXNK tạo nguồn thu cho ngân hàng. Thông qua các khoản tín dụng cấp cho DNXNK, ngân hàng sẽ thu được các khoản phí hấp dẫn được thể hiện thông qua các lãi suất cho vay. Các khoản phí ngân hàng thu được thường cao, hấp dẫn vì giá trị tín dụng thường ở mức vừa và lớn, đóng góp quan trọng vào thu nhập của ngân hàng. Ngoài ra thông qua tín dụng TTXNK, các ngân hàng còn mở rộng được quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, từng bước nâng cao hình ảnh, uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế. Thực tế cho thấy hầu hết các ngân hàng ở khắp nơi trên thế giới đều đặc biệt chú trọng trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng quốc tế hoặc hẹp hơn là hoạt động cho vay xuất nhập khẩu. 1.1.3.3. Đối với nền kinh tế. Hoạt động tín dụng TTXNK là nhân tố quan trọng làm tăng hiệu quả hoạt động ngoại thương, góp phần gia tăng kim ngạch xuất- nhập khẩu, cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu theo hướng tích cực. Hoạt động tín dụng TTXNK của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bởi thông qua hoạt động tài trợ của ngân hàng mà doanh nghiệp có điều kiện thay đổi dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng đã tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Tín dụng TTXNK giúp cho hàng hoá được lưu thông một các trôi chảy, dễ dàng tiếp cận được với thị trường mới. Bởi nhờ có vốn vay của ngân hàng mà các hàng hoá theo nhu cầu của thị trường có thể thực hiện thường xuyên và liên tục hơn góp phần nâng cao tính năng động của nền kinh tế, ổn định thị trường. 1.1.4. Các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại. 1.1.4.1. Trong khuôn khổ phương thức tín dụng chứng từ. 1.1.4.1.1. Tài trợ dành cho nhà nhập khẩu. Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu. Đây được xem là hình thức tài trợ NK phổ biến trên thế giới cũng như Việt Nam. Đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng. Mọi thư tín dụng đều được mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho nhà XK hoặc chấp nhận hối phiếu do nhà XK ký phát nếu nhà XK xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C. Ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro nếu như nhà NK không có khả năng thanh toán cho nhà XK nước ngoài, khi đó ngân hàng vẫn buộc phải thanh toán cho phía nước ngoài để đảm bảo uy tín của mình. Điều này có nghĩa ngân hàng đã cấp một khoản tín dụng cho nhà NK. Vì vậy, trước khi mở L/C ngân hàng phải tiến hành kiểm tra tình hình tài chính và khả năng thanh toán, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà NK… Cho vay ký quỹ L/C. Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng xin được bảo lãnh. Thông thường khoản tiền này được tính tỷ lệ với giá trị mà khách hàng xin bảo lãnh. Trong trường hợp thiếu sự tin cậy hoặc thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao thì ngân hàng yêu cầu ký quỹ 100% giá trị mà khách hàng xin bảo lãnh. Trong thanh toán quốc tế, khách hàng phải thực hiện ký quỹ khi đề nghị ngân hàng mở L/C hay xác nhận tín dụng thư… Cho vay ký quỹ là hình thức tài trợ NK bởi do tính rủi ro của thương vụ quá cao, ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ với giá trị lớn mà khả năng doanh nghiệp không thể đáp ứng hoặc đáp ứng một phần. Điều này gây trở ngại cho khách hàng trong quá trình thực hiện thương vụ vì tiền ký quỹ là món tiền bị phong toả khách hàng không được sử dụng đến suốt thời gian được ngân hàng bảo lãnh dẫn tới vốn lưu động của doanh nghiệp bị thu hẹp. Khi đó căn cứ vào uy tín của khách hàng, hiệu quả của thương vụ hoặc trên tài sản đảm bảo ngân hàng có thể xét cho vay ký quỹ. Nó vừa giải quyết được khó khăn của khách hàng vừa tăng tính an toàn và mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Tuy nhiên, chỉ nên cho vay ký quỹ đối với khách hàng thực hiện cho việc bảo lãnh và thanh toán thông qua chính ngân hàng cho vay. Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán bộ chứng từ giao hàng. Theo hình thức này, khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất hoặc kinh doanh. Đồng thời, khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân tích kế hoạch và phương án của khách hàng, ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức tài trợ mà ngân hàng chấp nhận tài trợ. Tất cả công đoạn này phải thực hiện trước khi bộ chứng từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng đứng ra tài trợ. Truờng hợp bộ chứng từ đã về mà khách hàng mới xin tài trợ thanh toán thì khả năng bị ngân hàng từ chối thanh toán rất cao vì ngân hàng có quá ít thời gian để xem xét bộ chứng từ cũng như đánh giá khả năng hoàn vốn của khách hàng cho khoản tiền mà ngân hàng tài trợ. Khi hàng hoá, bộ chứng từ về đến nơi, nhà NK có thể nhận được sự tài trợ của ngân hàng thông qua hình thức cho vay thanh toán L/C trong trường hợp L/C trả ngay hoặc ngân hàng thay mặt nhà NK ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu trong trường hợp L/C trả chậm. 1.1.4.1.2. Tài trợ dành cho nhà xuất khẩu. Cho vay trên cơ sở một L/C đã được mở. Đây là loại hình tài trợ XK trước khi giao hàng dựa trên một L/C cụ thể đã được mở. Mục đích của loại hình tài trợ này là nhằm tài trợ nhu cầu vốn lưu động cho nhà XK để thực hiện đơn đặt hàng của nhà NK nước ngoài. Quyết định cho vay phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả của thương vụ bởi nguồn trả nợ cho các khoản tài trợ xuất khẩu chính là số tiền bán hàng mà ngân hàng thu được từ người mua nước ngoài sau khi khấu trừ nợ, phần còn lại sẽ được chuyển cho nhà XK. Đối với hình thức tài tài trợ này, mức tài trợ thông thường được khống chế theo một tỷ lệ phần trăm nhất định và thường xoay quanh mức từ 70-80%. Việc nhà XK tham gia thương vụ với một tỷ lệ vốn nhất định là để gắn trách nhiệm của nhà xuất khẩu với thương vụ, đảm bảo cho thương vụ được thực hiện một cách hiệu quả, tạo khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Khi nhận L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của người nhập khẩu, thì nhà XK được đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng nếu xuất trình bộ chứng từ hợp lý phù hợp với các điều kiện đã ghi trong L/C. Nhà XK còn có thể dựa vào đó để nhờ ngân hàng phục vụ mình cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo L/C quy định. Như vậy, thư tín dụng không những là một công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là một công cụ tín dụng. Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. Chiết khấu bộ chứng từ là hình thức ngân hàng tài trợ nhà XK thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ hàng xuất khẩu hoàn hảo được xuất trình. Đây là hình thức tài trợ XK sau khi giao hàng. Sau khi gửi hàng, nhà XK xuất trình bộ chứng từ hàng xuất cùng với L/C gốc và đề nghị ngân hàng tài trợ. Sau khi xem xét bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì ngân hàng sẽ thực hiện việc chiết khấu bộ chứng từ. Như vậy, nhà XK sẽ được thanh toán ngay lập tức mà không cần chờ đợi tiền thanh toán từ nhà nhập khẩu. Căn cứ vào chất lượng bộ chứng từ bao gồm tính phù hợp với L/C, mặt hàng xuất khẩu, thị trường nước xuất khẩu, danh tiếng của ngân hàng mở L/C…mà ngân hàng quyết định chiết khấu bộ chứng từ có truy đòi hoặc miễn truy đòi. Chiết khấu bộ chứng từ miễn truy đòi: ngân hàng tiến hành mua lại bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của người XK. Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là nhà XK bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. Chiết khấu được phép truy đòi: ngân hàng thực hiện việc cho vay trên cơ sở người XK xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Khi đó, trách nhiệm của nhà xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được tiền từ nhà nhập khẩu. Trường hợp ngân hàng không thu được tiền từ người mua, ngân hàng có quyền truy đòi lại số tiền mà ngân hàng cho nhà xuất khẩu vay. 1.1.4.2. Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ. So với tín dụng chứng từ, nhờ thu ít được sử dụng trong thanh toán vì đây là phương thức thanh toán có lợi cho người mua, thường áp dụng khi hai bên quen biết, tin tưởng lẫn nhau. Tài trợ của ngân hàng trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ thể hiện như sau: Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập khẩu: ngân hàng tiếp nhận chứng từ từ ngân hàng nước ngoài, xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà NK. Nếu nhà NK không có khả năng thanh toán thì cần phải có sự hỗ trợ của ngân hàng cho vay thanh toán hàng nhập khẩu. Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất khẩu. Tương tự như phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng có thể cho DNXK vay để thu mua, chế biến sản xuất hàng xuất khẩu hoặc thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. Khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu, ngân hàng cần chú ý một số điểm sau đây: Bộ chứng từ nhờ thu chỉ được đảm bảo thanh toán bởi chính nhà NK do đó nó không được đảm bảo về mặt tín nhiệm, nghĩa là không có ngân hàng đảm bảo thanh toán. Chính vì vậy, nếu ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu thì chỉ nên chiết khấu theo hình thức có truy đòi nhằm hạn chế rủi ro có thể phát sinh. Do việc chiết khấu bộ chứng từ manh tính chất thương lượng mua bán giá trị bộ chứng từ, do đó không đòi hỏi các biện pháp bảo đảm tín dụng như tài trợ trước khi giao hàng, mà được đảm bảo bằng chính giá trị bộ chứng từ hàng xuất. Vì vậy cần phân tích thẩm định chính xác chất lượng bộ chứng từ trước khi quyết định tài trợ. 1.1.4.3. Hối phiếu. 1.1.4.3.1. Chiết khấu hối phiếu. Tín dụng chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển quyền sở hữu hối phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá hối phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Bản chất của hình thức này là ngân hàng tiến hành mua lại các hối phiếu đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán. Thông qua loại hình tín dụng này, ngân hàng đã cung ứng một khoản vốn cho DNXK để họ có điều kiện tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đây chính là khoản vốn mà nhà sản xuất cần bù đắp bởi trước đó họ đã cung ứng một khoản tín dụng thương mại (bán chịu hàng hoá) cho nhà NK. Căn cứ để ngân hàng xác định khối lượng tín dụng cấp ra (giá trị chiết khấu) là mệnh giá của hối phiếu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Công thức xác định như sau: TCK = M (1−LCK /3600 * T ) − P Trong đó: TCK: Giá trị chiết khấu. M: Mệnh giá hối phiếu. LCK: Lãi suất chiết khấu (theo năm). T: Thời gian chiết khấu (ngày). P: Lệ phí. Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền người có nhiệm vụ trả tiền hối phiếu. Khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, các ngân hàng thường gặp một số rủi ro như chiết khấu phải những hối phiếu không hợp lệ, được lập trên hành vi gian lận thương mại hay người có nghĩa vụ trả tiền hối phiếu không có khả năng thanh toán và từ chối thanh toán trả tiền khi hối phiếu đến hạn. 1.1.4.3.2. Chấp nhận hối phiếu. Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà NK và khoản vay chỉ là một hình thức một sự đảm bảo về tài chính vì thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự cho người vay. Tuy nhiên khi đến hạn thanh toán nếu nhà NK không có khả năng thanh toán thì ngân hàng sẽ phải trả nợ thay. Hình thức này thường áp dụng khi nhà XK thiếu tin tưởng vào khả năng thanh toán của nhà NK, nhà XK có thể đề nghị nhà NK yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận hối phiếu do nhà XK ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho nhà NK để họ thanh toán cho nhà XK khi hối phiếu đến hạn. 1.1.4.4. Bảo lãnh. Trong ngoại thương, nhà XK và nhà NK luôn lo ngại về các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đối với nhà NK, rủi ro xảy ra khi nhà XK không có khả năng giao hàng sau khi hợp đồng đã được ký kết. Đối với nhà XK, rủi ro xảy ra khi nhà NK sau khi nhận hàng bị mất khả năng thanh toán. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thương mại quốc tế, tránh được những rủi ro nêu trên đòi hỏi phải có sự đảm bảo của bên thứ 3 cam kết bồi thường cho bên bị thiệt hại do bên đối tác gây ra. Người thứ 3 thông thường phải là người có uy tín, có khả năng tài chính và có đủ điều kiện thực hiện ngay việc bồi thường. Trong thực tế, người có khả năng đứng ra với vai trò người thứ 3 thường là ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng là một trong những hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay. Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh được xem là loại hình tài trợ ngoại thương nhằm phòng ngừa những tổn thất cho người thụ hưởng bảo lãnh do có sự vị phạm nghĩa vụ của bên đối tác liên quan. Căn cứ vào mục đích, bảo lãnh ngân hàng gồm có một số loại cơ bản sau đây. Bảo lãnh dự thầu. Trong đó chủ thầu là người mua, nhà NK và cũng là người thụ hưởng bảo lãnh. Người dự thầu là nhà cung ứng, nhà XK và cũng là người xin bảo lãnh. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian và chi phí cho chủ thầu do những vi._. phạm của người dự thầu gây ra như: rút đơn thầu, trúng thấu nhưng bỏ không ký tiếp hợp đồng cung ứng hàng hoá…Mức bảo lãnh thông lệ là từ 2-5% giá trị hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Đây là loại bảo lãnh thông dụng trong ngoại thương. Các bên tham gia bảo lãnh gồm nhà NK là người thụ hưởng bảo lãnh, nhà XK người xin bảo lãnh. Mục đích của loại hình bảo lãnh này là tạo nghĩa vụ cho nhà XK phải thực hiện đúng những điều đã ký kết trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại cho nhà NK trong trường hợp nhà XK vi phạm hợp đồng như không giao hàng, giao hàng chậm hoặc giao hàng không đúng chất lượng, số lượng đã cam kết. Bảo lãnh thanh toán. Quan hệ giữa nhà XK và nhà NK thực chất là quan hệ tín dụng thương mại. Theo đó, nhà NK chấp nhận trả tiền hàng hoá theo một kỳ hạn nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ, nhà XK có thể yêu cầu một bảo lãnh trả chậm của ngân hàng. 1.1.4.5. Bao thanh toán. Đây là hình thức tài trợ đặc biệt cho nhà XK, ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà NK nước ngoài. Hiện nay trên thế giới nghiệp vụ BTT được thực hiện tại các ngân hàng hoặc thành lập ra các công ty riêng goi là công ty Factoring chuyên mua lại các khoản nợ. BTT có 2 hình thức chủ yếu sau: BTT có truy đòi là hình thức BTT trong đó đơn vị BTT có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. BTT miễn truy đòi là hình thức BTT trong đó đơn vị BTT chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa cụ thanh toán các khoản phải thu. Để bù đắp các rủi ro có thể phát sinh do không thu hồi được các khoản phải thu, đơn vị BTT thường áp dụng mức phí cao hơn mức có truy đòi. 1.2. ĐẨY MẠNH TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.2.1. Khái niệm. Đẩy mạnh tín dụng TTXNK là việc ngân hàng sử dụng một loạt các biện pháp thích hợp để thúc đẩy, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng TTXNK phát triển mạnh mẽ, mở rộng quy mô tài trợ, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng TTXNK, gia tăng số lượng khách hàng, gia tăng lợi nhuận và đưa hoạt động tín dụng TTXNK trở thành hoạt động chủ lực của ngân hàng trong tương lai. Để hoạt động đẩy mạnh tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thực sự đạt hiệu quả cao và bền vững đòi hỏi các phòng, ban của ngân hàng đặc biệt là phòng tín dụng và phòng thanh toán quốc tế phải biết phối hợp các hoạt động có liên quan một cách hợp lý và linh hoạt. 1.2.2. Vai trò. 1.2.2.1. Đối với ngân hàng. Thứ nhất: Nhờ đẩy mạnh tín dụng TTXNK mà ngân hàng mới có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và thuận lợi. Từ đó nâng cao được uy tín của ngân hàng. Đẩy mạnh tín dụng TTXNK đồng nghĩa với việc nguồn vốn dành cho tài trợ XNK lớn hơn, các hình thức đa dạng phong phú hơn, quy trình nghiệp vụ rõ ràng, mạch lạc tạo điều kiện cho khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng được nhanh chóng, tiết kiệm thời gian giao dịch. Thứ hai: Thông qua việc đẩy mạnh mà hoạt động tín dụng TTXNK ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân hàng tăng thu từ hoạt động này. Không những vậy nhờ có hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK mà các ngân hàng còn mở rộng được quan hệ với nhiều doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài lớn trên thế giới từng bước nâng cao hình ảnh, uy tín của mình trên trường quốc tế. 1.2.2.2. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Việc đẩy mạnh tín dụng TTXNK không chỉ đem lại lợi ích cho ngân hàng mà còn đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp XNK bởi họ chính là những người sử dụng trực tiếp các sản phẩm cho vay XNK của ngân hàng. Thứ nhất: hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK giúp doanh nghiệp được hưởng một dịch vụ hoàn hảo, khép kín và nhanh chóng. Bởi muốn đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK thì bản thân mỗi ngân hàng cần phải hoàn thiện một quy trình nghiệp vụ rõ ràng, hiệu quả đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng. Thứ hai: việc đẩy mạnh tín dụng TTXNK giúp doanh nghiệp được nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu về vốn. Thông qua việc đẩy mạnh hoạt động TDTXNK, nguồn vốn của ngân hàng dành cho hoạt động tài trợ XNK tăng lên có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn của nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Kèm với đó là quy trình thực hiện tài trợ nhanh chóng, chính xác giúp doanh nghiệp kịp thời, nhanh chóng có vốn để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt với các doanh nghiệp thu mua, chế biến hàng nông thuỷ sản. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK. 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính. 1.2.3.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Không phải lúc nào khi khách hàng có nhu cầu, ngân hàng cũng có khả năng đáp ứng được bởi những mặt hạn chế của ngân hàng như nguồn vốn không đủ lớn, các hình thức tài trợ còn quá ít không phù hợp áp dụng với điều kiện của khách hàng. Nhu cầu không được đáp ứng buộc khách hàng phải tìm tới những ngân hàng khác có nguồn vốn lớn và hình thức đa dạng phong phú hơn để xin tài trợ. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng mất đi những khách hàng tiềm năng, uy tín của ngân hàng sẽ bị giảm xuống. Vì vậy việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng được coi là một chỉ tiêu định tính để đánh giá việc đẩy mạnh tín dụng TTXNK ở mỗi ngân hàng. Bởi hoạt động tín dụng TTXNK có được đẩy mạnh thì ngân hàng mới dễ dàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp XNK, số lượng khách hàng đến xin tài trợ ngày càng tăng. Ngược lại nếu khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng kém chứng tỏ ngân hàng không chú trọng tới việc đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả của hoạt động này, chất lượng các sản phẩm- dịch vụ mà ngân hàng cung cấp chưa cao, nguồn vốn dành cho hoạt động tín dụng TTXNK còn ít không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp lớn. 1.2.3.1.2. Uy tín của ngân hàng trong lĩnh vực cho vay XNK. Đối với những ngân hàng có uy tín càng cao và tốt trong lĩnh vực tài trợ XNK thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động cùng với việc không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn là những yếu tố quan trọng giúp ngân hàng giữ chân được khách hàng truyền thống và thu hút được thêm khách hàng mới, gia tăng thị phần thị trường và tăng thu từ hoạt động này. Ngược lại với những ngân hàng nhỏ, chưa có nhiều uy tín trong lĩnh vực này thì việc đẩy mạnh sẽ gặp nhiều khó khăn do các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp chưa đủ sức thu hút khách hàng, đặc biệt là những khách hàng mới. Khi đó ngân hàng sẽ khó khăn trong việc mở rộng quy mô tín dụng TTXNK cũng như thị phần, thị trường. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng. 1.2.3.2.1. Chỉ tiêu 1. Công thức tính: Tổng giá trị tín dụng xuất nhập khẩu Tổng giá trị tín dụng cho vay. Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tín dụng xuất nhập khẩu trong tổng tín dụng cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ này cao phản ánh rằng ngân hàng chú trọng, tập trung vào cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu và đây cũng là hoạt động đóng góp chủ yếu vào thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên tỷ trọng này cao quá mức cần thiết sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi hoạt động cho vay XNK thường có mức độ rủi ro hơn so với việc cho vay thông thường do xuất hiện của các yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, mỗi ngân hàng thường chỉ dành một khoản tín dụng hợp lý nhất định dành cho hoạt động cho vay XNK nhằm hạn chế rủi ro cho mình. Nếu tỷ lệ này thấp phản ánh rằng cho vay tài trợ XNK chưa phải là hoạt động chủ đạo của ngân hàng. Ngân hàng chưa có sự đầu tư và quan tâm đúng mức tới hoạt động này. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như nhu cầu vay của doanh nghiệp XNK còn thấp hoặc chất lượng các sản phẩm- dịch vụ của ngân hàng chưa để lại ấn tượng trong tâm trí khách hàng… 1.2.3.2.2. Chỉ tiêu 2. Công thức tính: Tổng giá trị tín dụng xuất nhập khẩu Số khách hàng được tài trợ. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng XNK bình quân trên từng khách hàng. Chỉ tiêu này chỉ cho ta thấy mức cho vay bình quân của ngân hàng đối với mỗi khách hàng. Nếu tỷ lệ này càng cao chứng tỏ hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK của ngân hàng phát huy được hiệu quả. Ngân hàng không chỉ gia tăng được doanh số cho vay mà còn gia tăng được số lượng khách hàng đến xin tài trợ. Ngược lại nếu tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ hoạt động đẩy mạnh chưa tích cực, doanh số cho vay XNK thấp kèm với đó là số lượng khách hàng đến ngân hàng xin tài trợ ngày càng ít. 1.2.3.2.3. Chỉ tiêu 3. Sự tăng trưởng về số lượng khách hàng được tài trợ được xem là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá công tác đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK của NH. 100% × Tốc độ tăng trưởng = Công thức tính: SLKHN – SLKHN-1 SLKHN-1 Trong đó: SLKHN: Số lượng khách hàng năm N. SLKHN-1: Số lượng khách hàng năm N-1. Nếu tốc độ tăng trưởng dương và cao chứng tỏ hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK của ngân hàng đạt hiệu quả tốt, giúp ngân hàng thành công trong việc duy trì khách hàng truyền thống và thu hút thêm các khách hàng mới đến với các sản phẩm dịch vụ của mình. Nếu tốc độ tăng trưởng âm chứng tỏ hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK chưa phát huy được hiệu quả, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng chưa đủ sức hút với khách hàng. Ngân hàng chưa cung cấp được cho khách hàng một dịch vụ hoàn hảo. Điều này có thể do nhiều yếu tố như: trình độ cán bộ thực hiện công tác cho vay XNK còn thấp, thủ tục còn quá rườm rà gây khó khăn cho người đi vay, sản phẩm cho vay còn hạn chế không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng… Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, tất cả các lĩnh vực kinh tế đều đứng trước những cuộc cạnh tranh khốc liệt. Với ngành ngân hàng- tài chính cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Bởi cơ chế là như nhau, không có sự phân biệt đối xử giữa các ngân hàng cùng với đó là lãi suất lợi ích mà ngân hàng mang đến cho khách hàng gần như tương đồng. Muốn giữ chân khách hàng truyền thống và thu hút được thêm khách hàng mới không phải là điều đơn giản, đặt ra nhiều thử thách cho các ngân hàng. Đối với hoạt động TDTTXK cũng vậy, ngoài việc phải cung cấp một dịch vụ hoàn hảo khép kín thì bản thân mỗi ngân hàng cần đưa ra và thực hiện một số biện pháp có tính khả thi nhằm gia tăng số lượng khách hàng, gia tăng lợi nhuận cho mình như nới lỏng các điều kiện cho vay nhằm tạo điều kiện cho nhiều khách hàng được tiếp cận với nguồn vốn vay hay đưa ra các chính sách ưu đãi hợp lý dành cho khách hàng. 1.2.3.4.4. Chỉ tiêu 4. Công thức tính: Nợ quá hạn TTXNK Tổng dư nợ tín dụng TTXNK Hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK không thể đạt hiệu quả cao nếu chất lượng tín dụng TTXNK không được cải thiện. Chất lượng tín dụng tài trợ XNK được thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ tín dụng TTXNK của ngân hàng. Nếu nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng TTXNK chứng tỏ hoạt động đấy mạnh đã đạt được hiệu quả tốt. Ngược lại nếu nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ cao trong tổng dư nợ tín dụng XNK thể hiện hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đẩy mạnh tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại. 1.2.4.1. Yếu tố khách quan. 1.2.4.1.1. Môi trường kinh tế. Chính sách xuất- nhập khẩu. Những chủ trương, chính sách kinh tế- xã hội mà đặc biệt là chính sách xuất nhập khẩu của Chính phủ có tác động rất lớn tới hoạt động TDTTXNK nói chung cũng như hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK nói riêng. Tuỳ vào từng giai đoạn mà chính phủ sẽ đưa ra các chính sách xuất nhập khẩu khác nhau nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách có định hướng và phù hợp với yêu cầu khách quan. Ở hầu hết các nước mà đặc biệt ở những nước đang phát triển như Việt Nam, chính phủ thường thực hiện chính sách khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu vì xuất khẩu chính là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển và tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Việc chính phủ thực hiện chính sách khuyến khích hoạt động xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp XK có nhiều cơ hội trong việc mở rộng thị phần, thị trường, mở rộng sản xuất và được hưởng nhiều ưu đãi, hỗ trợ về vốn vay và lãi suất. Nhu cầu vốn của các DNXK càng lớn càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK, tăng nguồn thu của ngân hàng từ hoạt động này. Tỷ giá hối đoái. Điểm khác biệt của hoạt động ngoại thương so với hoạt động nội địa chính là có liên quan đến các đồng tiền khác nhau, dẫn tới việc phải mua bán, trao đổi đồng tiền của quốc gia này với quốc gia khác. Chính vì vậy mà sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động TDTTXNK nói chung. Khi tỷ giá giữa nội tệ và ngoại tệ tăng sẽ khuyến khích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Vì với một lượng nội tệ đầu tư vào sản xuất, thu gom hàng xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ nhất định, khi chuyển sang nội tệ sẽ thu được số nội tệ lớn hơn nhiều nếu tỷ giá tăng lên. Ngược lại khi tỷ giá giảm sẽ hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Việc xuất khẩu, nhập khẩu được khuyến khích hay hạn chế sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới hoạt động TDTTXNK. Lạm phát. Lạm phát có tác động mạnh lên nhiều mặt như khả năng tiêu thụ hàng hoá, giá cả thị trường, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp…Do đó, nó có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tài trợ tại các ngân hàng thương mại. Cụ thể, trong thời kỳ lạm phát cao hoạt động sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư tiêu dùng giảm, hoạt động xuất nhập khẩu giảm, vốn mà các ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp khó có thể sử dụng hiệu quả hoặc được thanh toán đúng hạn. Ngoài ra trong thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng sẽ khó khăn trong việc huy động vốn bởi tâm lý lo ngại không muốn gửi tiền vào ngân hàng của người dân. Nguồn vốn huy động giảm dẫn tới việc ngân hàng gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DN, buộc phải hạn chế hoạt động tín dụng TTXNK. 1.1.5.1.2. Môi trường luật pháp, chính trị- xã hội. Hoạt động tín dụng TTXNK tương đối phức tạp, không chỉ chịu ảnh hưởng của luật pháp quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng của các thông lệ, tập quán và luật pháp quốc tế. Vì vậy để đẩy mạnh hoạt động này thì việc xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh với quy trình rõ ràng là điều hết sức cần thiết. Ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi giúp cho các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc thực hiện quy trình nghiệp vụ, nó còn là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh nếu có giữa ngân hàng với doanh nghiệp xuất nhập khẩu xin tài trợ cũng như là với ngân hàng đại diện cho đối tác nước ngoài. Môi trường chính trị trong nước cũng như ngoài nước cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tín dụng TTXNK. Một môi trường chính trị ổn định, đảm bảo an toàn cho tài sản của doanh nghiệp sẽ tạo tâm lý thoải mái, an toàn cho các doanh nghiệp giúp họ an tâm sản xuất, mở rộng sản xuất, thị phần, thị trường. Từ đó kéo theo nhu cầu được tài trợ từ ngân hàng nhiều hơn, góp phần đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK. 1.2.4.2. Yếu tố chủ quan. 1.2.4.2.1. Các yếu tố từ phía ngân hàng. Các yếu tố từ phía ngân hàng được xem là yếu tố chủ quan, bởi nó là yếu tố nội tại bên trong ngân hàng và có tác động một cách trực tiếp tới sự phát triển của ngân hàng nói chung và hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK nói riêng. Mặc dù chịu tác động này song bản thân mỗi ngân hàng có khả năng kiểm soát các yếu tố này. Chính sách tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng. Chính sách tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng bao gồm các quan điểm, nguyên tắc và biện pháp thực hiện nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng TTXNK đi đúng với mục tiêu đã đề ra của ngân hàng, đồng thời tuân thủ tốt các quy định của Chính phủ, ngân hàng Nhà nước. Tuỳ vào từng giai đoạn phát triển khác nhau mà mỗi ngân hàng sẽ đưa ra một chính sách tài trợ xuất nhập khẩu phù hợp. Nội dung của chính sách tài trợ xuất nhập khẩu thông thường gồm có các chính sách về khách hàng, thời gian tài trợ, hạn mức tín dụng, lãi suất tín dụng, bảo đảm tín dụng và kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay của các DNXNK. Một chính sách tài trợ đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động TDTTXNK. Bất cứ một ngân hàng nào muốn đẩy mạnh hoạt động TDTTXNK thì cần phải có chính sách tài trợ phù hợp với điều kiện của ngân hàng và tình hình thực tế tại ngân hàng. Quy mô nguồn vốn của ngân hàng. Muốn đẩy mạnh tín dụng TTXNK đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có một lượng vốn rất lớn sẵn sàng đáp ứng cho mọi nhu cầu tín dụng của các DNXNK. Quy mô vốn của ngân hàng càng lớn càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK. Ngược lại khi ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn dẫn tới quy mô vốn giảm thì việc đẩy mạnh tín dụng TTXNK của ngân hàng gặp khó khăn. Bởi khi đó nguồn vốn của ngân hàng bị hạn chế nên chỉ đáp ứng được một số lượng rất nhỏ nhu cầu vay vốn của các DNXNK. Thậm chí, khi đó ngân hàng buộc phải thu hẹp, không cho vay khách hàng mới, xem xét rất kỹ việc cho vay khách hàng cũ. Việc này dẫn tới việc nhiều DNXNK buộc phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh thậm chí phải huỷ bỏ đơn hàng mới do không đủ vốn thực hiện. Như vậy nguồn vốn hạn hẹp không chỉ ảnh hưởng tới việc đẩy mạnh tín dụng TTXNK của ngân hàng mà còn ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của các DNXNK. Sự đa dạng của các hình thức tài trợ XNK. Mức độ đa dạng của các hình thức tài trợ XNK cũng ảnh hưởng tới hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK. Nếu các hình thức tài trợ XNK đa dạng và phong phú thì hoạt động đẩy mạnh sẽ đạt được hiệu quả cao do vốn tín dụng của ngân hàng được đa dạng hoá, tiếp cận với nhiều đối tượng khách hàng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngược lại ngay cả khi một ngân hàng có nguồn vốn lớn nhưng các hình thức tài trợ XNK lại quá ít và hạn chế thì hoạt động đẩy mạnh sẽ gặp nhiều khó khăn, ngân hàng buộc phải từ chối nhiều nhu cầu của DNXNK do không có hình thức tài trợ thích hợp. Trình độ của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong chiến lược đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK của mỗi ngân hàng. Do đặc thù của hoạt động tín dụng TTXNK có liên quan đến các yếu tố nước ngoài như văn hoá, thông lệ, tập quán quốc tế nên việc đẩy mạnh hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ giỏi về mặt chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có sự am hiểu sâu sắc về hoạt động thương mại quốc tế. Nguồn nhân lực có trình độ cao sẽ là yếu tố thuận lợi cho ngân hàng trong việc triển khai quy trình nghiệp vụ cũng như các hình thức tài trợ mới, giúp ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút được nhiều khách hàng. Ngược lại trình độ nguồn nhân lực thấp sẽ là yếu tố hạn chế đến việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK của ngân hàng trong tương lai. Công nghệ ngân hàng. Công nghệ ngân hàng cũng có ảnh hưởng tới hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK. Công nghệ hiện đại, tiên tiến tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng TTXNK phát triển, giúp ngân hàng thực hiện quy trình, nghiệp vụ một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng. Không chỉ giúp ngân hàng thuận lợi trong việc thực hiện quy trình nghiệp vụ, công nghệ hiện đại tiên tiến còn giúp ngân hàng thu thập được nguồn thông tin đầy đủ, có tính chính xác cao về khách hàng, đối tác nước ngoài cũng như những biến động trên thị trường trong và ngoài nước…Đây là cơ sở quan trọng để ngân hàng đưa ra các quyết định tín dụng quan trọng, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay hạn chế tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Yếu tố từ phía doanh nghiệp xuẩt nhập khẩu. Nhu cầu tài trợ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng chỉ có thể cho vay vốn được khi khách hàng có nhu cầu vay. Có cầu thì mới có cung, cầu càng lớn thì cung mới có cơ hội phát triển. Nếu nhu cầu của DNXNK càng lớn thì mới tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng quy mô tín dụng tài trợ, gia tăng thị phần và gia tăng doanh thu từ hoạt động này. Ngược lại khi nhu cầu của các DNXNK ít sẽ hạn chế sự phát triển của hoạt động tín dụng TTXNK, không chỉ quy mô tín dụng và doanh thu giảm mà ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giữ vững thị phần, thị trường do nhu cầu của các doanh nghiệp ít làm cho mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Trình độ quản lý, năng lực kinh doanh của các DNXNK. Nếu trình độ quản lý, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp tốt đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay của ngân hàng, hoạt động kinh doanh có lãi, trả nợ ngân hàng đúng thời hạn giúp ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu nợ quá hạn tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng TTXNK phát triển. Ngược lại khi trình độ quản lý, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp thấp, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, khả năng trả nợ bị suy giảm. Doanh nghiệp khó khăn trong việc trả nợ dẫn tới nợ quá hạn của ngân hàng tăng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng TTXNK, hạn chế sự phát triển của hoạt động tín dụng TTXNK của ngân hàng. Kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các DNXNK. Hoạt động kinh doanh quốc tế luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, chính vì vậy để đạt được thành công trong lĩnh vực này đòi hỏi các DNXNK phải có kiến thức sâu rộng về văn hoá, xã hội, luật pháp, thông lệ và tập quán thương mại các nước. Sự thành công hay thất bại của DNXNK có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, có sự am hiểu về bạn hàng, thị trường xuất- nhập khẩu, luật pháp và thương mại các nước…thì khả năng thành công của thương vụ rất cao. Mức độ thành công cao không chỉ giúp DNXNK nhận được mức tài trợ lớn và dễ dàng từ ngân hàng mà còn đảm bảo cho ngân hàng thu hồi được vốn tài trợ nhanh chóng. Ngược lại đối với những doanh nghiệp mới tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, kinh nghiệm còn rất ít dễ gặp phải các rủi ro như: bị đối tác nước ngoài lừa giao hàng nhưng không thanh toán hoặc bị ép phải bán lỗ với với DNXK hay bị giao hàng thiếu, không đúng với số lượng, chất lượng như thoả thuận đối với DNNK…Những rủi ro với khách hàng XNK cũng sẽ ảnh hưởng tới ngân hàng tài trợ, ngân hàng sẽ khó thu hồi được các khoản tài trợ của mình, nguy cơ nợ quá hạn tăng cao ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng nói riêng và hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK nói chung. Chương I đã khái quát hóa toàn bộ hệ thống lý luận về hoạt động tín dụng TTXNK cũng như hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK tại các ngân hàng thương mại hiện nay. Trên cơ sở đó, chương II sẽ đi sâu vào việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng TTXNK nói chung và thực trạng hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK nói riêng tại NHNo&PTNT Từ Liêm giai đoạn 2006-2008. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỪ LIÊM. 2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỪ LIÊM. 2.1.1. Một vài nét về NHNo&PTNT Từ Liêm. 2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Từ Liêm. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Từ Liêm là chi nhánh cấp I trực thuộc NH nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam( NHNo&PTNT). Ngân hàng được thành lập từ năm 1961 với tên gọi ban đầu là chi điếm NH Nhà nước huyện Từ Liêm. Nhiệm vụ chức năng cơ bản của NH trong thời kỳ này là huy động vốn tiết kiệm cấp phát vốn cho toàn bộ các cơ quan hành chính sự nghiệp và các đơn vị sản xuất trên địa bàn. Thực chất của các hoạt động này là cấp phát vốn tiền mặt cho các đơn vị theo kế hoạch. Hoạt động mang tính chất bao cấp, đồng vốn cho vay chưa tính đến hiệu quả kinh doanh. Từ sau đại hội Đảng VI (1986) nền kinh tế Việt Nam có bước chuyển mình mạnh mẽ được đánh dấu bằng việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hoà nhập cùng với tiến trình đổi mới của nền kinh tế thì hoạt động ngân hàng có những chuyển biến tích cực, góp phần huy động vốn phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Điển hình của sự đổi mới này là NĐ số 53/HĐBT về việc đổi mới tổ chức bộ máy NH Nhà nước theo hướng xây dựng hệ thống NH chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và làm dịch vụ NH, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế. Kể từ đó hoạt động của các NH nói chung và hệ thống NH Phát triển Nông Nghiệp có nhiều đổi mới. Ngày 1/8/1988 theo quyết định số 40/QĐ-NHCV, NH Phát triển Nông Nghiệp Từ Liêm chính thức ra đời và đi vào hoạt động theo mô hình tổ chức và chức năng nhiệm vụ mới theo QĐ53/HĐBT. Khi đó NH mới chỉ có 6 phòng chuyên môn, 3 phòng giao dịch, 1 quỹ tiết kiệm và 197 CBCNV. Đến năm 1990 NH được đổi tên thành NH Nông nghiệp Từ Liêm. Ngày 15/10/1996 thống đốc NH Nhà Nước Việt Nam ban hành QĐ số 280/QĐ-NH5 về việc thành lập NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Kể từ thời điểm đó NH cũng được đổi tên thành NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Từ Liêm. Với tên viết tắt: NHNo&PTNT Từ Liêm. Tên giao dịch quốc tế: The Branch for Agriculter and Rual Development of Tư Liêm District. Trụ sở đặt tại Khu liên cơ quan Từ Liêm, đường Mỹ Đình II, Từ Liêm, Hà Nội. Từ khi thành lập (1988) đến nay, NHNo & PTNT Từ Liêm hoạt động có xu hướng đi lên, kinh doanh có lãi và luôn đổi mới gắn với sự đổi mới của NHNo&PTNT Việt Nam. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, NHNo& PTNT Từ Liêm hoạt động luôn bám sát theo định hướng của ngành, đồng thời thường xuyên chấn chỉnh cơ cấu bộ máy tổ chức sao cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể 2.1.1.2. Lĩnh vực hoạt động của NHNo&PTNT Từ Liêm. NHNo&PTNT Từ Liêm là chi nhánh cấp I của NHNo&PTNT Việt Nam hoạt động trong các lĩnh vực chủ yếu sau: Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kì hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế và nước ngoài bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo&PTNT VN. Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của NHNo. Được phép vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi Tổng giám đốc NHNo&PTNT VN cho phép. Hoạt động cho vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế. Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cá nhân và hộ gia đình. Kinh doanh ngoại hối: huy động vốn, cho vay, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, NHNo&PTNT Việt Nam. Kinh doanh dịch vụ: thu chi tiền mặt, mua bán vàng bạc, dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thẻ thanh toán, nhận uỷ thác cho vay của tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các dịch vụ khác được NHNN và NHNo cho phép. 2.1.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức của NHNo&PTNT Từ Liêm. Cơ cấu bộ máy tổ chức của NH Từ Liêm bao gồm: Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 4 phó giám đốc. Theo quy chế tổ chức của NHNo&PTNT Từ Liêm, Giám đốc sẽ là người điều hành trực tiếp mọi hoạt động của Chi nhánh. Giám đốc sẽ được sự hỗ trợ của 4 phó giám đốc. Mỗi phó giám đốc sẽ phụ trách các chuyên môn khác nhau. Phòng nghiệp vụ gồm 7 phòng. Bao gồm: phòng Kế toán ngân quỹ, phòng Dịch vụ- Marketing, phòng Kinh doanh ngoại hối, phòng Kiểm tra và kiểm soát nội bộ, phòng Hành chính nhân sự, phòng Kế hoạch- Kinh doanh, phòng Điện toán. Các điểm giao dịch: gồm có 5 ngân hàng chi nhánh cấp II và 10 phòng giao dịch. Các điểm giao dịch này cũng thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng như: nhận tiền gửi, cho vay, dịch vụ khác...Các điểm giao dịch này sẽ chịu sự điều hành chỉ đạo trực tiếp từ ban lãnh đạo của NHNo&PTNT Từ Liêm. Bên cạnh đó các phòng ban chức năng của NH cũng sẽ chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo, tư vấn về chuyên môn nghiệp vụ cho từng điểm giao dịch. Dưới đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của NH Từ Liêm. Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHNo&PTNT Từ Liêm năm 2008. Ban giám đốc Phòng Kế toán- Ngân quỹ Phòng Kế hoạch- Kinh doanh Phòng Dịch vụ Marketing Phòng Hành chính nhân sự PGD Nhổn PGD Mỹ Đình PGD Chèm PGD Cổ Nhuế Phòng Kiểm tra kiểm soát Phòng Điện toán Phòng Kinh doanh ngoại hối ……. Nguồn: Phòng Hành chính- Nhân sự. 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Từ Liêm giai đoạn 2006-2008. 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, ngay từ khi mới thành lập, NHNo & PTNT Từ Liêm rất quan tâm đến nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công tác huy động vốn. Ngân hàng thực hiện các quy chế dự trữ bắt buộc, quy chế đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đồng thời thường xuyên xây dựng kế hoạch và quản lí điều hành vốn kinh doanh của mình theo hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Với nhiều biện pháp huy động vốn, trong những năm qua NHNo& PTNT Từ Liêm đã thu được những thành quả đáng khích lệ. Điều này được thể hiện rõ thông qua biểu đồ dưới đây: Đơn vị: tỷ đồng. Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn giai đoạn 2005-2008. Nguồn: Phòng Kế hoạch- Kinh doanh NHNo&PTNT Từ Liêm. Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy được trong giai đoạn từ năm 2005- 2008 nguồn vốn của NH Từ Liêm luôn tăng trưởng. Nguồn vốn năm 2005 đạt 1590 tỷ, tăng 279 tỷ so với năm 2004 tương đương 21.2%. Đến hết ngày 31/12/2006 tổng nguồn vốn huy động của NH đạt 1990 tỷ, tăng 400 tỷ so với năm 2005. Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng cao trong 2 năm 2005, 2006 lần lượt là 21.2% và 25.2% nhưng tốc độ tăng trưởng của NH trong hai năm 2007 và 2008 lại có sự sụt giảm đáng kể so với các năm trước chỉ còn 10.1% và 15%. Đặc biệt là vào năm 2007 tốc độ tăng trưởng chỉ bằng 0.4 lần so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm này là do trong năm 2007 ngân hàng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các hệ thống ngân hàng khác trên địa bàn, các hình thức huy động vốn của NH Từ Liêm chưa đa dạng, trình độ cán b._.n vốn. Mở rộng thanh toán quốc tế, bảo lãnh, mua bán ngoại tệ để tăng doanh thu ngoài tín dụng. Về tài chính: Thu đủ các nguồn phải thu. Thực hiện tiết kiệm chi phí theo quy định, tăng chênh lệch lãi suất giữa huy động vốn và cho vay. Đảm bảo quỹ thu nhập. Công tác khác: triển khai thực hiện tốt phong trào thi đua góp phần thực hiện tốt các mục tiêu và giải pháp kinh doanh. Phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh doanh năm 2009 và các năm tiếp theo. 3.2.2. Phương hướng trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NH Từ Liêm. Dựa trên những phương hướng chung và tình hình thực tế tại NH, để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động tín dụng TTXNK, NH Từ Liêm đã đưa ra những phương hướng phát triển cụ thể sau: Từng bước đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK, coi đây là một trong những hoạt động chủ lực trong những năm tiếp theo của ngân hàng. Tăng cường nguồn vốn dành cho hoạt động tín dụng TTXNK. Đặc biệt chú trọng huy động nguồn vốn trung- dài hạn nhằm nâng dần tỷ trọng dư nợ tín dụng trung- dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng XNK. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng TTXNK để đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn khác nhau của doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động sử dụng vốn. Cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động tín dụng TTXNK. Xây dựng được quy trình tài trợ khoa học vừa đáp ứng được yêu cầu về thời gian cho doanh nghiệp vừa đáp ứng được nguyên tắc an toàn, giảm thiểu rủi ro tối đa cho ngân hàng. Tăng cường công tác thu thập thông tin về tình hình biến động của thị trường trong nước cũng như ngoài nước, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp XNK…Trên cơ sở đó đưa ra các quyết định tín dụng thích hợp nhằm đảm bảo an toàn cho các khoản tài trợ. Nâng cao công tác thẩm định dự án trong xét duyệt cho vay tài trợ XNK, chỉ thực hiện tài trợ cho những phương án có tính khả thi, hiệu quả kinh tế cao tiến tới một cơ cấu tài trợ hợp lý và an toàn. Đa dạng hoá đối tượng tài trợ đi đôi với đa dạng hoá các sản phẩm cho vay XNK. Tăng cường công tác Marketing nhằm đẩy mạnh việc tuyên truyền, giới thiệu cơ chế, chính sách các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng tới đông đảo các doanh nghiệp trên địa bàn. 3.3. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TTXNK TẠI NHNo&PTNT TỪ LIÊM. Trong điều kiện nền kinh tế còn đang trong quá trình phát triển và hội nhập, hành lang pháp lý chưa đồng bộ, sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, tình hình xuất nhập khẩu còn chịu tác động mạnh mẽ của những biến động trên thị trường thế giới…nên hoạt động tín dụng TTXNK nói chung và hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK của NH Từ Liêm trong những năm qua hiệu quả chưa cao, chưa thực sự phát huy được những mặt tích cực, vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Trên cơ sơ phân tích, đánh giá ưu và nhược điểm trong hoạt động tín dụng TTXNK của NH Từ Liêm trong chương II, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động này trong thời gian tới. 3.3.1. Đa dạng hoá hình thức tài trợ. Nhìn chung hình thức tài trợ của NH Từ Liêm so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn vẫn còn ít, chưa đa dạng phong phú. Nhất là đối với tài trợ xuất khẩu, hiện nay ngân hàng chỉ có duy nhất một hình thức tài trợ đó là tài trợ dựa trên một L/C đã được mở còn các hình thức khác như: chiết khấu bộ chứng từ, chiết khấu hối phiếu...vẫn chưa được triển khai. Đối với tài trợ nhập khẩu tuy hình thức tài trợ phong phú hơn so với tài trợ xuất khẩu nhưng vẫn chưa nhiều. Ngân hàng mới có một số hình thức tài trợ chủ yếu là mở L/C thanh toán hàng nhập, cho vay thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho đối tác nước ngoài...Một số hình thức tài trợ khác như bao thanh toán cũng chưa được triển khai. Ngoài việc hình thức tài trợ còn ít, các sản phẩm cho vay XNK của NH Từ Liêm nhìn chung vẫn giống và chưa tạo được sự khác biệt với các sản phẩm của ngân hàng khác. Điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của NH Từ Liêm với các ngân hàng khác dẫn tới việc dễ mất thị phần. Do đó, việc mở rộng các hình thức đã có và áp dụng thêm những hình thức tài trợ mới là việc hết sức cần thiết trong công tác đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK của NH Từ Liêm trong thời gian tới. Nó không chỉ mang lại nhiều nguồn thu cho ngân hàng mà còn là một giải pháp hữu hiệu giúp cho NH Từ Liêm đa dạng hoá các hình thức sử dụng vốn, giảm thiểu rủi ro góp phần giúp NH Từ Liêm đạt được cả 2 mục tiêu an toàn và sinh lời trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy trong thời gian tới NH Từ Liêm cần chú trọng tới những vấn đề sau: Ngân hàng nên mở rộng việc cho vay bằng hình thức tín chấp, miễn giảm bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong trường hợp khách hàng có tín nhiệm (được xếp loại A theo tiêu thức phân loại khách hàng của NHNo&PTNT Việt Nam). Việc làm này sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng lớn, có tình hình tài chính lành mạnh đến với mình, góp phần tăng thu cho ngân hàng. Ngoài những hình thức tài trợ XNK hiện có, NH Từ Liêm cần chủ động triển khai áp dụng những hình thức XNK khác. Đặc biệt là trong hình thức tài trợ xuất khẩu, NH cần triển khai nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ khi nhà XK xuất trình bộ chứng từ, ngân hàng nên chủ yếu tập trung vào hình thức chiết khấu có truy đòi nhằm đảm bảo an toàn và giàng buộc trách nhiệm của nhà XK với những bộ chứng từ được chiết khấu tại NH. Nếu là xuất khẩu trả chậm, ngân hàng có thể tài trợ cho nhà XK thông qua nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu đã được chấp nhận và còn thời hạn. Đối với tài trợ NK, NH cũng nên triển khai một số hình thức mới như: cho vay ký quỹ để mở L/C trong trường hợp khách hàng phải chịu mức ký quỹ cao hay chấp nhận hối phiếu. Triển khai nghiệp vụ bao thanh toán. Tuy không phải là nghiệp vụ mới trên thế giới nhưng BTT còn khá mới mẻ đối với các NHTM ở Việt Nam. Bao thanh toán là một nghiệp vụ mang lại nhiều lợi ích cho cả 2 bên nhập khẩu, xuất khẩu lẫn ngân hàng được đánh giá là mang lại hiệu quả và dần thay thế hình thức L/C trong tương lai. Hiện nay, NHNo&PTNT Việt Nam đã triển khai hình thức này, nhưng tại NH Từ Liêm hình thức này vẫn chưa được triển khai. Nguyên nhân là do nghiệp vụ này đòi hỏi NH phải có sự đầu tư lớn cả về vốn lẫn nhân lực. Mặc dù vậy, việc tập trung vào triển khai hình thức BTT là chuyện sớm muộn và thực sự cần thiết để đẩy mạnh hoạt động TDTTXNK cho NH Từ Liêm trong tương lai. Bên cạnh việc triển khai tích cực và có hiệu quả hình thức BTT thì NH cần tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng thêm nhiều hình thức tài trợ khác. Chẳng hạn như mở rộng hoạt động cho vay đồng tài trợ để giải quyết cho vay các dự án XNK đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong khi ngân hàng còn thiếu vốn. Việc phát triển hoạt động cho vay đồng tài trợ sẽ giúp ngân hàng tận dụng được các khoản vốn từ nhỏ nhất vào cho vay, đồng thời chia sẻ rủi ro với các ngân hàng khác (trong trường hợp dự án có rủi ro lớn) nhưng vẫn giữ chân được khách hàng. 3.3.2. Đa dạng hoá đối tượng tài trợ. Việc đa dạng hoá đối tượng tài trợ là một hướng đi đúng đắn và được đại đa số ngân hàng áp dụng hiện nay bởi những lợi ích mà nó mang lại như: Thu hút được nhiều khách hàng đến với sản phẩm- dịch vụ của ngân hàng. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng lựa chọn được các đối tượng cho vay hợp lý. Giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro do vốn vay được phân bổ cho nhiều doanh nghiệp thay vì chỉ tập trung ở một vài doanh nghiệp. Ngân hàng có thể thu được lợi nhuận từ nhiều nguồn khác nhau. Thông qua việc phân tích thực trạng cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế và số lượng khách hàng được tài trợ trong những năm vừa qua, ta có thể thấy rằng đối tượng cho vay chủ yếu của NH Từ Liêm là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn) với một tỷ trọng tương đối lớn, còn các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ/Tổng dư nợ cho vay. Đối với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong những năm qua NH Từ Liêm chưa tiến hành tài trợ. Thực tế cũng chỉ ra rằng, trong những năm qua khách hàng được tài trợ tại ngân hàng vẫn là những khách hàng truyền thống có mối quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng như công ty thiết bị vệ sinh Việt Ý, công ty TNHH Ngân Hạnh, công ty TNHH Đại Phát, Koang Minh, Trung Thu...số lượng khách hàng mới gia tăng ít (năm 2006 chỉ tăng được 1, năm 2007 tăng được 3, năm 2008 không gia tăng khách hàng mới). Chính vì vậy, để đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK, nhằm giữ vững và gia tăng thị phần, gia tăng số lượng khách hàng được tài trợ trong những năm tới NH Từ Liêm cần phải: Tiếp tục thực hiện tốt chính sách khách hàng mà ngân hàng đã đề ra trong những năm vừa qua. Tích cực duy trì giữ vững số lượng khách hàng truyền thống thông qua những ưu đãi mà NH cam kết thực hiện như giảm phí dịch vụ hay ưu đãi về lãi suất, ưu tiên về thời gian thực hiện giao dịch. Đối với những khách hàng mới đến ngân hàng giao dịch, ngân hàng cần chủ động trong việc tạo tâm lý an toàn, thoải mái thông qua cam kết giữ vững chất lượng sản phẩm, tích cực trong việc tư vấn miễn phí cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ tại ngân hàng. Từng bước tiếp cận và mở rộng tín dụng với đối tượng khách hàng mới đặc biệt là DNTN và DN có vốn ĐTNNN. Đối với DNTN, NH cần chủ động tìm kiếm những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có phương án kinh doanh khả thi để thực hiện tài trợ. Đối với các DN có vốn ĐTNN chủ yếu tập trung tại các khu công nghiệp, ngân hàng nên mở rộng thêm các chi nhánh cấp II tại đây để tạo cơ hội tiếp xúc với đối tượng khách hàng này nhiều hơn trong thời gian tới. Tăng cường công tác huy động vốn phục vụ cho hoạt động TTXNK. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, tiềm lực tài chính là vấn đề sống còn quyết định đến khả năng tài trợ của ngân hàng. Vì các ngân hàng chỉ được phép tài trợ trong khuôn khổ nhất định so với vốn tự có để hạn chế rủi ro. Đây là quyết định của NHNN do vậy cách tốt nhất để thực hiện đẩy mạnh hoạt động cho vay XNK là bản thân mỗi ngân hàng phải không ngừng tìm cách tăng cường huy động vốn để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho khách hàng. Một nguồn vốn dồi dào sẽ là cơ sở giúp NH Từ Liêm mở rộng quy mô tín dụng TTXNK, tài trợ có hiệu quả cho các dự án xuất nhập khẩu lớn. Chính vì vậy việc trong những năm tới NH Từ Liêm cần phải đặc biệt chú trọng tới những vấn đề sau: Cần phải tận dụng nguồn vốn huy động được cho hoạt động cho vay XNK một cách hợp lý, phân bổ một cách khoa học. Ngân hàng nên đặt ra chỉ tiêu kế hoạch cho hoạt động cho vay XNK. Tiếp tục hoạt động tăng cường huy động vốn nhằm đảm bảo nguồn vốn dành cho hoạt động tài trợ XNK được ổn định và ngày càng gia tăng. Để huy động được nhiều vốn, NH Từ Liêm có thể sử dụng các biện pháp như: đa dạng hoá các hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi bằng ngoại tệ, vàng hay kỳ phiếu với nhiều kỳ hạn khác nhau hay đa dạng hoá các hình thức trả lãi như trả trước, trả sau... Đi đôi với việc đa dạng hoá, NH Từ Liêm cần đưa ra mức lãi suất huy động linh hoạt nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư hay các tổ chức kinh tế trong xã hội. Tiếp tục phát huy hiệu quả của các chương trình huy động vốn đã mang lại thành công cho ngân hàng như huy động tiết kiệm bằng đồng Việt Nam bảo đảm giá trị theo vàng, huy động tiết kiệm hưởng lãi bậc thang theo thời hạn gửi hay chương trình cộng điểm tặng quà... Ngoài việc tập trung huy động vốn ngắn hạn, ngân hàng cũng nên chú trọng vào việc huy động tiền gửi trung- dài hạn nhằm tạo nguồn vốn trung- dài hạn dành cho tài trợ XNK. Bởi cùng với quá trình CNH-HĐH đất nước, nhu cầu nhập khẩu những dây chuyền công nghệ, máy móc hiện đại ngày càng tăng. Đây sẽ là một thị trường đầy triển vọng và hứa hẹn đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. 3.3.4. Tiếp tục nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng xuất nhập khẩu. Mục đích của việc đẩy mạnh hoạt động TDTTXNK là từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Để làm được những điều đó, ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng. Bởi nếu việc thẩm định không rõ ràng, chặt chẽ sẽ khiến ngân hàng gặp phải rủi ro lớn khi đầu tư vào những dự án kém hiệu quả, không khả thi. Trong những năm qua công tác thẩm định của NH Từ Liêm nhìn chung cũng đạt được những thành tựu đáng kể khi tỷ lệ dư nợ quá hạn XNK giảm đáng kể từ 59.17% năm 2006 xuống còn 11.89% năm 2008 nhưng đây vẫn là một tỷ lệ cao so với các ngân hàng khác, không đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng. Chính vì vậy trong những năm tới NH Từ Liêm cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau nhằm cải thiện và tiếp tục nâng cao chất lượng công tác này. NH Từ Liêm cần phải thành lập một hệ thống phân tích và xử lý thông tin rõ ràng. Đây là yếu tố hết sức quan trọng bởi nó quyết định đến chất lượng tín dụng TTXNK tại ngân hàng. Ngoài thông tin được cung cấp từ phía khách hàng, NH Từ Liêm phải chủ động thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như từ sổ sách lưu trữ tại ngân hàng, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng hay từ phía bạn hàng, đối tác có quan hệ với doanh nghiệp hoặc trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNN...nhằm đánh giá tính chính xác của thông tin. Trên cơ sở thông tin thu được, NH sẽ tiến hành phân tích, đánh giá về khách hàng những khía cạnh sau: tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, tài sản bảo đảm, uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng... để đưa ra các quyết định tín dụng phù hợp. Để có được một hệ thống thông tin rõ ràng và chính xác đòi hỏi trong những năm tới NH Từ Liêm phải đầu tư xây dựng cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho việc lưu trữ, khai thác và trao đổi thông tin với các chi nhánh khác trong toàn hệ thống của NHNo. NH Từ Liêm phải chú trọng đầu tư nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng thường xuyên cập nhật cho họ những kiến thức về pháp luật, thị trường kinh doanh của nhiều ngành nghề. Đồng thời, NH Từ Liêm cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát hoạt động của cán bộ tín dụng tránh tình trạng cán bộ tín dụng thông đồng với doanh nghiệp gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng. NH cần tiếp tục tăng cường phối hợp giữa phòng Tín dụng và Phòng Thanh toán quốc tế trong công tác thẩm định dự án đặc biệt là thẩm định về khả năng tài chính của doanh nghiệp và tính hiệu quả của phương án kinh doanh để tránh đầu tư phải những dự án kém hiệu quả, không có tính khả thi. 3.3.5. Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng. Nếu như trước đây số lượng các NH còn hạn chế, các NH hầu như không quan tâm nhiều đến các hình thức tiếp thị, quảng bá các sản phẩm dịch vụ của mình. Tuy nhiên ngày nay với sự bùng phát của lĩnh vực NH số lượng các ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Muốn thu hút và tạo ấn tượng với khách hàng các NH buộc phải sử dụng nhiều tới các hình thức tuyên truyền quảng bá nhằm tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm dịch vụ. Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của các hoạt động Marketing nhưng trong những năm vừa qua hoạt động Marketing về các sản phẩm dịch vụ nói chung và sản phẩm cho vay XNK nói riêng của NH Liêm vẫn còn hạn chế chưa để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của khách hàng. Số lượng quảng cáo ít, hình thức quảng cáo còn hạn chế chủ yếu là các phương thức truyền thống. Cùng với đó là sự cạnh tranh gay gắt của một loạt các NH lớn trên cùng địa bàn như: ViettinBank, SHB, BIDV…Do đó để cạnh tranh được với ngân hàng khác trên địa bàn, NH Từ Liêm cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động Marketing để không chỉ quảng bá hình ảnh cho mình mà còn để thu hút thêm khách hàng mới. Cụ thể: NH Từ Liêm cần đẩy mạnh công tác tiếp thị, đầu tư nhiều hơn cho công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về NH cũng như chất lượng của dịch vụ-sản phẩm cho vay XNK mà ngân hàng cung cấp. NH có thể tiếp cận với khách hàng bằng nhiều phương tiện như: quảng cáo trên truyền hình, trên báo chí chuyên dành cho DNXNK hay trên mạng Internet. Với tiềm lực về mặt tài chính như hiện nay, NH nên thành lập một trang Website riêng chuyên giới thiệu về các sản phẩm, dịch vụ cơ chế chính sách của mình. Đây là hình thức quảng cáo rất hiệu quả và có sức lan toả rộng. Ngoài các hình thức tiếp thị truyền thống như báo, đài, tivi, tờ rơi...ngân hàng cần tích cực thực hiện các hình thức tiếp thị mới như tổ chức các cuộc hội thảo dành cho khách hàng để có thể giới thiệu về những lợi ích của sản phẩm. Ban hành và đưa đến tận tay doanh nghiệp các tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ cũng như các thủ tục cần thiết khi thực hiện tài trợ XNK nhằm giúp cho doanh nghiệp hiểu biết sâu hơn về hoạt động này. Để thu hút được nhiều khách hàng đến với mình, NH Từ Liêm cần chủ động hơn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu khách hàng nhằm xác định mong muốn của họ về sản phẩm, nghiên cứu về các sản phẩm của các ngân hàng lớn có thế mạnh trong lĩnh vực này như VietcomBank, Eximbank…để tìm ra những điểm mạnh của họ để học tập, biết cách tránh những điểm yếu, hạn chế để có thể đưa ra các sản phẩm hoàn thiện, mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng. Có thể nói trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì tăng cường hoạt động Marketing là giải pháp cần thiết và quan trọng đối với NH Từ Liêm nhằm mở rộng hoạt động và thiết lập quan hệ với khách hàng vay vốn một cách thường xuyên và lâu dài, nâng cao số lượng khách hàng, tạo sự gắn bó chặt chẽ và có lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng, đảm bảo sự phát triển bền vững ổn định và lâu dài của ngân hàng, tạo dựng và không ngừng củng cố thương hiệu trong tâm trí khách hàng. 3.3.6. Một số giải pháp khác. Hoàn thiện hệ thống quy trình nghiệp vụ tài trợ XNK. Sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt động XNK của nước ta phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phát triển trong đó có nghiệp vụ tài trợ XNK. Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao và bền vững, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần nhanh chóng hoàn thiện quy trình nghiệp vụ tài trợ XNK sao cho phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Hiện nay tại NH Từ Liêm chỉ có rất ít văn bản quy định, điều chỉnh hoạt động tài trợ XNK. Kèm với đó là phần lớn các văn bản này còn chưa rõ ràng, mạch lạc dễ gây hiểu lầm. Cùng với đó là quy trình nghiệp vụ tài trợ XNK của ngân hàng Từ Liêm vẫn giống các hình thức cho vay khác trong khi đó do đặc thù của hoạt động cho vay XNK lại phức tạp hơn nhiều so với cho vay thông thường đòi hỏi phải có một quy trình rõ ràng, mạch lạc cần có sự phối hợp giữa các phòng ban đặc biệt là phòng Tín dụng và Phòng Thanh toán quốc tế. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện quy trình tài trợ một cách hợp lý, khoa học đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và ngân hàng là yêu cầu cần thiết cho sự phát triển của hoạt động tín dụng TTXNK của NH Từ Liêm trong tương lai. Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện nghiệp vụ tài trợ XNK. Có thể nói trình độ của nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng phản ánh trực tiếp chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, quyết định tới sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Đối với hoạt động TDTTXNK cũng vậy, trình độ của đội ngũ cán bộ sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả của hoạt động này. Hiện tại, đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tài trợ XNK tại NH Từ Liêm đều đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về bằng cấp, trình độ chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ và tin học, 100% cán bộ có trình độ đại học và tiếng anh bằng C. Tuy nhiên do hoạt động tài trợ XNK tương đối phức tạp và khó khăn nên trong thực tế, cán bộ vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ kèm với đó là tình trạng thiếu cán bộ dẫn tới việc một cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công việc nên hiệu quả công việc chưa cao. Do vậy trong thời gian tới, NH Từ Liêm cần phải lưu ý một số vấn đề sau: NH Từ Liêm cần phải bổ sung thêm cán bộ cho phòng Thanh toán quốc tế nhằm tránh tình trạng làm việc quá tải. Phân công rõ ràng cán bộ tín dụng chuyên phụ trách mảng tín dụng TTXNK tránh tình trạng quá tải làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và chất lượng các khoản vay. NH Từ Liêm cần đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng TTXNK. Ngân hàng cần kết hợp hài hoà giữa đào tạo tập trung với đào tạo tại chỗ, đào tạo ngắn hạn với đào tạo dài hạn từng bước nâng cao trình độ cán bộ. NH Từ Liêm cần kết hợp với NHNo&PTNT Việt Nam tổ chức hội thảo chuyên đề hàng năm để trao đổi và học tập kinh nghiệm giải quyết các tình huống phát sinh trong hoạt động tài trợ XNK, cập nhật các quy định mới điều chỉnh hoạt động tín dụng TTXNK coi đó là cơ sở để cán bộ đưa ra các quyết định cho vay hợp lý, chính xác. NH phải đưa ra chính sách khen thưởng hợp lý tạo động lực cho cán bộ công nhân viên. Đối với những cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có thành tích tốt trong công việc cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng. Bên cạnh đó cũng cần có chính sách kỷ luật, xử lý vị phạm đối với các cán bộ có hành vi vi phạm đạo đức, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tăng cường công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, công nghệ trở thành một phần tất yếu quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của các ngân hàng. Nó là yếu tố làm tăng năng lực cạnh tranh cho mỗi NH, giúp ngân hàng thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác tiết kiệm chi phí đẩy nhanh tốc độ thanh toán và lưu chuyển tiền tệ. Nhận thức được điều đó trong những năm qua NH Từ Liêm luôn quan tâm đến việc đầu tư đổi mới trang thiết bị, áp dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất vào các nghiệp vụ của mình đặc biệt là trong nghiệp vụ tài trợ tín dụng TTXNK bởi đây là nghiệp vụ đòi hỏi độ chính xác cao, nhanh chóng và kịp thời. Trong năm 2007 NH đã tiến hành thay thế và lắp đặt hệ thống máy tính mới nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang chương trình IPCAS. Chương trình mới tỏ ra khá hiệu quả giúp cho công tác thanh toán và các hoạt động khác diễn ra nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Tuy nhiên số lượng máy tính được thay thế mới còn chưa nhiều, cùng với đó là việc mới áp dụng công nghệ này nên NH còn gặp khá nhiều khó khăn: mặt kỹ thuật chưa ổn định, sự cố mạng, trình độ cán bộ còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghệ mới dẫn tới hiệu quả công việc còn thấp. Chính vì vậy trong những năm tới NH Từ Liêm cần phải: Tiếp tục đầu tư, đổi mới toàn bộ hệ thống máy tính, đẩy mạnh việc ứng dụng các công nghệ cao vào các nghiệp vụ của mình nhằm đảm bảo khả năng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ, tiên tiến, tiện ích cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước. Tăng cường công tác đào tạo nâng cao trình độ công nghệ mới cho cán bộ thông qua việc thường xuyên tổ chức các khoá học đào tạo, mời các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghệ về giảng dạy, giải đáp thắc mắc những vấn đề mà cán bộ gặp phải trong quá trình áp dụng công nghệ mới. 3.4. Một số kiến nghị. 3.4.1. Kiến nghị với chính phủ. Thứ nhất là duy trì môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định. Tình hình kinh tế- xã hội trong thời gian qua có nhiều diễn biến phức tạp ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng thương mại. Đặc biệt là vào năm 2008 nền kinh tế Việt Nam không những phải đối mặt với những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại như lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại, thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm…gây xáo trộn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động của các ngân hàng nói riêng. Mặc dù chính phủ đã có những biện pháp điều chỉnh kịp thời khắc phục khó khăn, kiềm chế lạm phát, ổn định xã hội…nhưng nhìn chung hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn bị ảnh hưởng tiêu cực. Vì vậy, việc xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô ổn định và phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể là điều hết sức cần thiết. Việc xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mọi hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động tín dụng TTXNK của các ngân hàng thương mại nói chung và NH Từ Liêm nói riêng. Về chính trị: tiếp tục duy trì môi trường chính trị- xã hội ổn định nhằm duy trì tốt niềm tin của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ thương mại của Việt Nam và các nước phát triển, thúc đẩy hoạt động tín dụng TTXNK của các ngân hàng thương mại phát triển. Thứ hai là từng bước hoàn thiện củng cố môi trường pháp lý lành mạnh, xây dựng đồng bộ các luật nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người đầu tư, cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà Việt Nam hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi việc xây dựng hành lang pháp lý không những phải phù hợp với những hoạt động kinh tế trong nước mà còn phải phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. 3.4.2. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam. Để đảm bảo thực hiện tốt chiến lược phát triển nói chung và hoạt động tín dụng TTXNK nói riêng, với điều kiện đặc thù của mình NH Từ Liêm có một số kiến nghị sau với NHNo&PTNT Việt Nam. Cụ thể: Triển khai nhanh chóng, kịp thời việc hướng dẫn thi hành cụ thể các văn bản, chính sách, quy chế của chính phủ, của NH Nhà nước và các bộ ngành có liên quan đến hoạt động XNK cũng như những văn bản hướng dẫn quy định về hoạt động tín dụng TTXNK của NHNo&PTNT Việt Nam tới chi nhánh. Tiếp tục hỗ trợ NH Từ Liêm trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ thực hiện nghiệp vụ tín dụng TTXNK nói riêng bằng việc mở các lớp đào tạo hoặc hỗ trợ kinh phí đào tạo cho NH Từ Liêm trong thời gian tới. Việc đào tạo được những cán bộ nguồn là điều kiện thuận lợi cho NH Từ Liêm trong việc hỗ trợ các chi nhánh NH cấp II hay các Phòng Giao dịch. Đồng thời tiếp tục hỗ trợ cho NH Từ Liêm trong việc nâng cấp, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ cho ngân hàng. 3.4.3. Kiến nghị với doanh nghiệp XNK. Trong những năm qua bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, trình độ và năng lực quản lý tốt, có sự am hiểu sâu rộng về nghiệp vụ ngoại thương, bạn hàng, thị trường…vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp trình độ quản lý còn yếu kém, thiếu hiểu biết về hoạt động ngoại thương gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng TTXNK của ngân hàng. Chính vì vậy, để hoạt động đẩy mạnh đạt hiệu quả tốt thì NH Từ Liêm rất cần đến sự phối hợp từ các doanh nghiệp XNK. Cụ thể: Thứ nhất là các doanh nghiệp XNK cần nâng cao trình độ và năng lực quản lý. Trình độ, năng lực quản lý tốt giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa hiệu quả của nguồn vốn vay, làm ăn kinh doanh có lãi, trả nợ ngân hàng đúng thời hạn, giúp ngân hàng giảm thiểu nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK của ngân hàng. Thứ hai là doanh nghiệp cần trang bị và nâng cao kiến thức cho các cán bộ thực hiện nghiệp vụ XNK. Bên cạnh việc đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ về nghiệp vụ ngoại thương, quy trình thanh toán quốc tế, doanh nghiệp XNK cần tạo điều kiện cho họ nắm bắt được những thông tin về luật pháp, thông lệ, tập quán thương mại các nước và đặc biệt là những thay đổi trong hoạt động thương mại quốc tế. Thứ ba là doanh nghiệp XNK cần minh bạch hoá tình hình tài chính. Trong những năm qua số lượng khách hàng đến xin tài trợ tại NH Từ Liêm khá nhiều nhưng do tình hình tài chính không rõ ràng buộc ngân hàng phải từ chối nhằm hạn chế rủi ro. Vì vậy việc minh bạch hoá tình hình tài chính sẽ là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này được tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Các doanh nghiệp XNK nên thực hiện kế toán doanh nghiệp theo một chuẩn mực nhất định và thực hiện kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập. Việc làm này giúp các doanh nghiệp có một tình hình tài chính minh bạch, rõ ràng. KẾT LUẬN Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK phát triển mạnh mẽ. Hoạt động XNK phát triển dẫn tới nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp XNK ngày càng gia tăng. Điều này mở ra những cơ hội thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực tài trợ XNK. Để tận dụng tốt cơ hội mang lại đòi hỏi mỗi ngân hàng cần có sự quan tâm, đầu tư đúng mức tới hoạt động này. Việc đánh giá đúng những kết quả đã đạt được và nhận ra những hạn chế cùng với nguyên nhân tồn tại trong hoạt động tín dụng TTXNK sẽ là cơ sơ quan trọng đưa ra những giải pháp hữu ích giúp ngân hàng đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK. Qua quá trình thực tập, tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng TTXNK của NH Từ Liêm, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp “ Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNo&PTNT Từ Liêm” với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn và các anh chị tại đơn vị thực tập. Chuyên đề đã giải quyết được một số vấn đề sau: Hệ thống hoá cơ sơ lý luận về hoạt động tín dụng TTXNK và đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK tại ngân hàng thương mại. Trên cơ sở vận dụng cơ sở lý luận, đề tại đi sâu vào phân tích thực trạng hoạt động tín dụng TTXNK nói chung và hoạt động đẩy mạnh tín dụng TTXNK nói riêng tại NH Từ Liêm nhằm đánh giá những kết quả đạt được đồng thời tìm ra các hạn chế và nguyên nhân dẫn tới các mặt hạn chế này. Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng TTXNK cho ngân hàng trong tương lai. Mặc dù đã cố gắng song do hạn chế về mặt kiến thức và thời gian nên việc nghiên cứu chưa thực sự chuyên sâu và đầy đủ nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý và tận tình chỉ bảo của thầy cô và bạn bè để chuyên đề này được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. PGS TS Nguyễn Thị Hường, TS Tạ Lợi (2007), Nghiệp vụ ngoại thương, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. GS TS Lê Tư (2004), Tín dụng xuất nhập khẩu và Thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê. PGS TS Nguyễn Văn Tiến (2005), Thanh toán quốc tế và Tài trợ ngoại thương, Nhà xuất bản Thống kê. TS Nguyễn Minh Kiều (2005), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản Thống kê. Nguyễn Mai Anh (2007), Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp, Đại học KTQD, Hà Nội. Vũ Thị Kim Dung (2008), Mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Habubank chi nhánh Cầu Giấy, Luận văn tốt nghiệp, Đại hoạc KTQD, Hà Nội. Báo cáo thường niên NHNo&PTNT Từ Liêm năm 2006. Báo cáo thường niên NHNo&PTNT Từ Liêm năm 2007. Báo cáo thường niên NHNo&PTNT Từ Liêm năm 2008. NHNo&PTNT Từ Liêm chặng đường 15 năm đổi mới và phát triển. Website: www.Agribank.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22044.doc
Tài liệu liên quan