Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình xuất khẩu mây tre đan của Công ty Việt Ba

Mục lục Lời nói đầu 2 Chương I: Những lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3 I. Khái niệm - vai trò của hoạt động xuất khẩu 3 1. Khái niệm. 3 2. Vai trò. 3 II.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. 5 III. Qui trình xuất khẩu - nội dung hoạt động xuất khẩu. 8 Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan tại công ty Việt Ba. 16 I. Giới thiệu chung về Công ty xuất nhập khẩu Thương Mại Viêt BA 16 1. Quá trình hình thành và phát triển 16 2. Nhiệm vụ - quyền hạn

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình xuất khẩu mây tre đan của Công ty Việt Ba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17 3. Cơ cấu tổ chức của công ty 17 4. Các mặt hàng xuất khẩu và nguồn hàng 21 5. Các nguồn lực chủ yếu của công ty 22 6. Các khoản phải nộp ngân sách 24 7. Thị trường xuất khẩu 25 II. Qui trình xuất khẩu và nội dung hoạt động của công ty. 26 1. Vai trò của hàng mây tre đan 26 2. Chủng loại hàng mây tre đan 27 3. Nguồn cung cấp hàng mây tre đan 27 4.Thị trường xuất khẩu 28 5. Hình thức xuất khẩu 29 6. Phương thức thanh toán 30 III. Đánh giá thuận lợi và khó khăn 30 1. Nhận xét chung về hoạt động xuất khẩu 30 2. Những thuận lợi và khó khăn 31 Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu 33 I. Phương hướng phát triển 33 1. Phương hướng phát triển chung 33 2. Phương hướng phát triển hàng mây tre đan 35 II. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu 36 1. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của công ty. 37 2. Một số kiến nghị với cơ quan chức năng có liên quan 40 Kết luận 45 Lời nói đầu Trong điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN tiếp tục được xây dựng đồng bộ và có hiệu quả .Để có thể đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước cần phải làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy đẩy nhanh sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội mở đường hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, doanh nghiệp nhà nước được xem như bộ xương sống của nền kinh tế quốc dân. Từ khi thành lập đến nay CÔNG TY TNHH VIÊT BA không ngừng phát triển mạnh mẽ và luôn hoàn thành xuất sắc mọi chỉ tiêu đề ra.Nhờ vậy mà đơn vị đã đạt được nhiều thành tựa quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển cho Công ty. Công ty Xuất nhập khẩu Thương Mại Việt Ba chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng chính như hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mây tre đan, hàng thêu, đồ sành sứ Bát Tràng...Trong sự đa dạng và nhiều chủng loại hàng hoá như vậy,công ty đã lựa chọn cho mình một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược phù hợp với nhu cầu hiện tại của thị trường và điều kiện sẵn có của mình. Một trong số các mặt hàng xuất khẩu chiến lược đó có hàng mây tre đan. Hàng mây tre đan được làm từ các nguồn nguyên liệu như song mây, tre, rang, nứa,...Mà các nguồn nguyên liệu này rất sẵn có ở các vùng thôn quê và chi phí thấp . Hơn thế, các sản phẩm mây tre đan được sản xuất thủ công nên cần nhiều lao động. Do vậy. đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan là vấn đề cấp thiết không chỉ riêng của Công ty Xuất nhập khẩu công ty Việt Ba Vì vậy mà trong quá trình thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu Việt Ba ,qua tìm hiểu và nắm bắt được phần nào vấn đề cấp thiết đó, em mong muốn được học hỏi nghiên cứu nên đã chọn “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện qui trình xuất khẩu hàng mây tre đan tại Công ty Xuất nhập khẩu Việt Ba” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục đích của chuyên đề là nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận chung và thực tế phát triển của công ty để đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan, tạo ra nhiều việc làm cho các làng nghề, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động. Với mục đích đó luận văn bao gồm 3 chương với nội dung như sau: - Chương 1: Những lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. - Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan tại công ty. - Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan. Chương i Những lý luận chung về hoạt động xuất khẩu I. Khái niệm-vai trò của hoạt động xuất khẩu : 1). Khái niệm về hoạt động xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Sự trao đổi mua bán hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức ở cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế-xã hội, thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Các mối quan hệ này xuất hiện khi có sự phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất. Chuyên môn hoá đã thúc đẩy nhu cầu mậu dịch nhưng ngược lại, một quốc gia sẽ không tiến hành chuyên môn hoá sản xuất nếu không chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động trao đổi hàng giữa các quốc gia. Mà hoạt động trao đổi hàng hoá này lại có ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của mỗi cá nhân, hay quốc gia.Khi chưa diễn ra hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ thì cá nhân cũng như tổ chức phải tự thoả mãn lấy nhu cầu của mình nên nhu cầu bị bó hẹp không kích thích hoạt động sản xuất hàng hoá phát triển, kéo theo nền kinh tế trong nước chậm phát triển. Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và tác động của các quy luật kinh tế khách quan, phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng nên sự ràng buộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Chuyên môn hoá sản xuất là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Phương thức đó là khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở ra tiêu dùng trong nước nhập khẩu. 2). Vai trò của hoạt động xuất khẩu : Hoạt động xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng hoá của quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể. Và nó chỉ ra những lĩnh vực, sản phẩm có thể chuyên môn hoá được, những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quốc tế. Vì thế, nó đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại. Cụ thể là các vai trò sau: 2.1). Xuất khẩu đóng vai trò tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. Bởi quá trình công nghiệp hoá đất nước, phát triển, ổn định nền kinh tế đòi hỏi phải có một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, kỹ thuật, vật tư, công nghệ tiên tiến…Mà nguồn vốn dùng cho nhập khẩu được hình thành từ: + Liên doanh đầu tư nước ngoài . + Vay nợ, viện trợ, tài trợ. + Thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ. + Xuất khẩu. + Thuế. Trong các nguồn trên, nguồn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ đều là những nguồn phải thanh toán trong một thời gian nhất định và mang tính lệ thuộc vào các quốc gia đó.Bởi vậy, chỉ có xuất khẩu mới là nguồn chính cho nhập khẩu, và quyết định đến quy mô và tốc độ của hoạt động nhập khẩu. 2.2). Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Thay đổi cơ cấu kinh tế và tiêu dùng một cách có lợi nhất là một trong những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Và sự chuyển dịch cơ cấu này còn chịu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu. Các ảnh hưởng đó được nhìn nhận theo các hướng sau: + Xuất khẩu những sản phẩm trong nước ra nước ngoài, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và có xu hướng phát triển theo những ngành đang chiếm ưu thế xuất khẩu. + Căn cứ vào nhu cầu của thj trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm cần thiết. Đây chính là một ảnh hưởng tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. + Xuất khẩu còn tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Như sự phát triển của hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan sẽ kéo theo sự phát triển của các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan. + Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước. + Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật , công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế. + Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng sản phẩm. Cuộc canh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. + Hoạt động xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. 2.3). Hoạt động xuất khẩu tạo thêm việc làm và cải thiện đời sống cho nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phát triển tạo cơ hội mở rộng sản xuất thu hút nguồn lao động dư thừa trong xã hội, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống của nhân dân. 2.4). Xuất khẩu còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ quốc tế trong nước. Xuất khẩu vừa mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa làm cho nền kinh tế trong nước gắn chặt vơí phân công lao động quốc tế. Thông thường, hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế,...phát triển. Đến lượt mình, các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu đối với mọi nền kinh tế. Như Lê-nin đã nhận xét: “ Không có thị trường nước ngoài thì một nước tư bản chủ nghĩa không thể sống được”. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu: 1). Nhân tố pháp luật: Hoạt động xuất khẩu diễn ra khi có sự tham gia của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Mà mỗi quốc gai lại có một bộ luật riêng được xây dựng dựa trên trình độ phát triển của quốc gia đó. Bộ luật này không chỉ chi phối đến các hoạt động kinh doanh tại quốc gia đó mà còn chi phối đến các hoạt động kinh tế quốc tế. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, khai thác các cơ hội kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận. Hơn thế qua hệ thống các văn bản pháp luật, doanh nghiệp có thể biết mình được phép kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng nào, hạn ngạch xuất khẩu là bao nhiêu, ... Do vậy, để tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế, ngoài việc tuân theo luật thương mại trong nước, các doanh nghiệp ngoại thương còn phải tuân theo luật thương mại của các đối tác cùng với các thông lệ quốc tế hiện hành. 2). Nhân tố thuế quan: Thuế quan xuất khẩu là loại thuế được đánh vào mỗi đơn vị hàng sản xuất, nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước. Vì thế, thuế quan đã ảnh hưởng đến hạn ngạch xuất khẩu hàng hoá. Thuế quan được tính theo 3 cách sau: + Thuế quan được tính theo mỗi đơn vị vật chất của hàng hoá. + Thuế quan được tính theo giá trị hàng hoá. + Thuế quan hỗn hợp. Thuế quan là một công cụ quản lý kinh tế lâu đời nhất của Nhà nước,nó đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nhưng thuế quan xuất khẩu gây nên sự khó cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước trên thị trường quốc tế, gây bất lợi cho sản xuất trong nước.Thuế quan xuất khẩu còn gây ra xu hướng làm hạ thấp tương đối giá cả trong nước nên không khuyến khích sản xuất trong nước hoặc làm thay đổi một cách bất lợi cho các loại hàng hoá này.Vì vậy, Nhà nước nên có một chính sách thuế xuất khẩu hợp lý đối với từng mặt hàng, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu phát triển. 3). Nhân tố khoa học công nghệ: Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, khoa học-công nghệ đã đạt được những bước tiến vượt bậc. Các thành tựu khoa học-công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã thu được nhiều lợi ích từ việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ. Có thể kể ra một số các lợi ích khi áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ như sau: + Nhờ có sự phát triển của KHCN, các doanh nghiệp thực hiện chuyên môn hoá sản xuất ở mức cao hơn, có điều kiện nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên. + Hệ thống bưu chính viễn thông phát triển tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong công tác giao dịch. Doanh nghiệp có thể đàm phán với khách hàng qua telex, điện tín, fax, mạng internet...Qua hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp có thể truyền đạt và nhận biết các thông tin nhanh nhất về thị trường, các ý tưởng cải tiến hoặc đổi mới sản phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. + Khoa học công nghệ còn giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu chính xác về đối tác. Từ đó, lập ra các kế hoạch, chiến lược kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro. + Khoa học công nghệ còn được doanh nghiệp áp dụng vào việc thử nghiệm, thiết kế, cải tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu hướng biến động của thị trường. 4). Nhân tố chính trị: Chính trị là tổng thể các quan điểm, các phương pháp hoạt động thực tế nhất định của Đảng, của Nhà nước, của giai cấp. Nó bao gồm cả những yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Vì thế, chính trị có thể kích thích cũng có thể cản quá trình quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh phát triển theo hướng nhất định. Ví dụ như đường lối chính trị sai sẽ dẫn tới sự bế tắc về kinh tế, thậm chí sự đổ vỡ của hệ thống chính trị. Hay sự bất ổn chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kinh doanh nên buộc các đối tác phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh và đánh giá lại các cơ hội kinh doanh trên thị trường để phân bổ lại nguồn lực vào thị trường có độ an toàn cao hơn. Bởi vậy, một đất nước phát triển khi mà Chính phủ nước đó thể hiện sự quan tâm đến đời sống của người dân, các thành phần kinh tế bằng cách tạo ra một môi trường hoạt động lành mạnh với đầy đủ thông tin, có các quy định bảo vệ quyền lợi của họ…Cùng với việc ban hành các quy định đó là việc ban hành các văn bản luật đòi hỏi mọi người phải thi hành nghiêm minh các quy định trên. 5). Các yếu tố về văn hoá-xã hội: Văn hoá-xã hội là tổng thể các đặc trưng-diện mạo về tinh thần, vật chất, trí thức và tình cảm...Khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội...Trong đó, văn hoá tinh thần bao gồm: đạo đức, các chuẩn mực, lối sống, tư duy, ngôn ngữ, tình cảm, thẩm mỹ, nghệ thuật, tôn gióa, khoa học, thể chế xã hội, phong tục tập quán...Còn văn hoá vật chất bao gồm: các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc có giá trị, hệ thống các trang thiết bị, công nghệ cho sản xuất... Văn hoá chính là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái hợp lý và sự phát triển bền vững, an toàn cho cộng đồng, xã hội và nhân loại. Nói cách khác, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy, văn hoá là một trong các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp ngoại thương. Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải quan tâm nghiên cứu sản xuất các sản phẩm phù hợp với các yếu tố văn hoá của quốc gia, địa phương đó. 6). Các yếu tố về tỷ giá hối đoái: Trong hoạt động thương mại quốc tế thường lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Do đó, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Bởi tỷ giá hối đoái được dùng để tính giá trị giữa các đồng tiền khác nhau nên ảnh hưởng trực tiếp đến nhà xuất khẩu và trở thành một trong các nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của công tác xuất nhập khẩu. Khi một hợp đồng xuất khẩu được ký kết với phương thức thanh toán là đồng ngoại tệ trong một thời hạn nhất định. Trong thời hạn này, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền có thể biến động gây nên thiệt hại lớn cho một bên và đem lại một khoản lớn cho bên kia. Vì thế, lợi ích của cả hai bên đều bị ảnh hưởng và không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của bên nào. Chính vì vậy, khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần lưu ý đến yếu tố tỷ giá hối đoái để quyết định có ký hợp đồng hay không. 7). Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Các yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.Các yếu tố đó là: a). Ban lãnh đạo của doanh nghiệp: Ban lãnh đạo là một bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là những người đứng mũi chịu sào, xây dựng các chiến lược kinh doanh, các mục tiêu cho doanh nghiệp. Đồng thời họ còn có chức năng giám sát, đánh giá và điều chỉnh quá trình thực hiện các kế hoạch hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ cũng là những người phải gánh vác trách nhiệm kinh doanh trực tiếp trước cơ quan Nhà nước trực thuộc địa phương mà doanh nghiệp đó có trụ sở chính. Chính vì vậy, trình độ năng lực quản lý của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. b). Cơ cấu tổ chức bộ máy doanh nghiệp: Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ loại trừ được các nhiễu trong quá trình truyền đạt thông tin từ ban lãnh đạo đến các thành viên trong doanh nghiệp. Hơn thế, một cơ cấu tổ chức hợp lý còn phát huy được sức mạnh, năng lực của từng thành viên, tránh sự chồng chéo trong quản lý và gây lãng phí trong đào tạo. Như vậy, cơ cấu tổ chức không những ảnh hưởng đến quá trính ra quyết định kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. c). Nguồn lực trong doanh nghiệp: Các nguồn lực trong doanh nghiệp gồm nguồn lực con người, nguồn vốn kinh doanh, nguồn tài sản cố định như các thiết bị văn phòng, máy móc, phân xưởng… Con người : là một trong các nguồn quan trọng. Các hoạt động kinh doanh xuất khẩu chỉ có thể được thực hiện khi có điều hành của con người. Chính con người đã tác động vào các khâu nghiên cứu tìm kiếm thị trường, lựa chọn sản phẩm thích ứng, tìm hiểu về đối tác, phương thức giao dịch, đàm phán để ký kết hợp đồng. Và thông qua con người hàng hoá mới đến được nơi nó cần đến: từ sản xuất đến sản xuất hay từ sản xuất đến tiêu dùng… Vốn kinh doanh : Một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh với một số vốn nhỏ thì chỉ có thể kinh doanh trong một quy mô hẹp, bởi với số vốn đó doanh nghiệp không thể tiến hành cải tiến công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ... Nói tóm lại, các yếu tố trên là quan trọng đối với quá trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Muốn kinh doanh có hiệu quả cao buộc doanh nghiệp phải đưa ra các chiến lược phát triển, quyết định linh hoạt theo sự biến động của chúng. III. Qui trình Xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là một hình thức bán hàng hoá, dịch vụ giữa các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là nhằm tối đa hoặc ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đầu tư. Nhờ phát triển hoạt động xuất khẩu ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ số lượng sản phẩm bán ra khắp toàn cầu. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu ; chọn đối tác kinh doanh; các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện hợp đồng; đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu . Mỗi khâu này phải được nghiên cứu đầy đủ, sâu sát, tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. 1). Nghiên cứu tiếp cận thị trường nước ngoài: Thị trường là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường. Thị trường là tổng thể khối lượng cầu có khả năng thanh toán và khối lượng cung có khả năng đáp ứng theo mỗi mức giá nhất định. Nghiên cứu thị trường nhằm nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các qui luật vận động của thị trường để kịp thời đưa ra các quyết định. Vì thế nó có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Vì thế, khi nghiên cứu về thị trường nước ngoài, ngoài các yếu tố chính trị, luật pháp, cơ sở hạ tầng, phong tục tập quán,...doanh nghiệp còn phải biết nên xuất khẩu mặt hàng nào, dung lượng thị trường hàng hoá đó là bao nhiêu, đối tác kinh doanh là ai, phương thức giao dịch như thế nào, sự biến động của hàng hoá trên thị trường ra sao, cần có chiến lược kinh doanh gì để đạt được mục tiêu đề ra. a). Nhận biết mặt hàng xuất khẩu: Để nhận biết mặt hàng xuất khẩu phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về qui cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như các tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tìm hiểu giá thị trường thương phẩm của hàng hoá, chu kỳ sống mà sản phẩm đang trải qua, tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng kinh doanh. Chu kỳ sống của sản phẩm gồm có bốn giai đoạn. Để phân tích xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống của sản phẩm là rất quan trọng. Bởi qua phân tích, doanh nghiệp có thể nắm bắt được những đặc điểm đặc trưng của từng giai đoạn để có những biện pháp thích hợp tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh. Cụ thể như, ở giai đoạn 1, giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ sống của sản phẩm, sản phẩm cần được người tiêu dùng biết đến nên doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương như quảng cáo, khuyến mãi nhằm thu hút sự quan tâm của khách hàng. Còn nếu sản phẩm đang ở giai đoạn 2, giai đoạn phát triển của sản phẩm thì doanh nghiệp cần tăng số lượng sản phẩm trên thị trường để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Hoặc sản phẩm đang trong giai đoạn suy thoái, giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của sản phẩm, doanh nghiệp cần có quyết định rút khỏi thị trường nếu không muốn bị thua lỗ nặng. Tỷ suất ngoại tệ hàng sản xuất là số lượng bản tệ phải chi ra để có thể thu về một đồng ngoại tệ. Việc tính toán tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng là một nhân tố quan trọng để nhận biết được mặt hàng kinh doanh xuất khẩu. Trên cơ sở so sánh tỷ suất này với tỷ giá hối đoái hiện hành với mức doanh lợi thu được từ thị trường trong nước để quyết định có xuất khẩu hàng hoá hay không? Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ giá hối đoái thì xuất khẩu có hiệu quả. Việc nghiên cứu nhận biết hàng hoá mà thị trường có nhu cầu sẽ tránh lãng phí vật chất, tiền của của doanh nghiệp và thể hiện tư tưởng bán cái mà thị trường đang cần chứ không phải cái mà doanh nghiệp có, tạo uy tín với người tiêu dùng. b). Dung lượng thị trường hàng xuất khẩu: Dung lượng là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định, trong thời gian nhất định(thường là một năm). Dung lượng thị trường không cố định, có thay đổi tuỳ theo diễn biến của thị trường ,do tác động của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Song nắm vững dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trong từng thời kỳ sẽ có ý nghiã quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trên thị trường giúp các nhà kinh doanh cân nhắc các đề nghị, ra quyết định kịp thời, nhanh chóng chớp được thời cơ, đạt hiệu quả kinh doanh cao. Vì vậy,trong quá trình nghiên cứu dung lượng thị trường, doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu thật của khách hàng,kể cả lượng dự trữ,xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các vùng, các khu vực trên từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng; phải nắm bắt được các đối thủ cạnh tranh, các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng xuất khẩu. c). Chọn đối tác kinh doanh: Trong hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, đối tác kinh doanh hay bạn hàng là những người, tổ chức có quan hệ với ta nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hay các loại dịch vụ, các hoạt động hợp tác kỹ thuật liên qua tới việc cung cấp hàng hoá. Kết quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu phụ thuộc vào đối tác kinh doanh cụ thể mà doanh nghiệp đã lựa chọn nên tốt nhất doanh nghiệp chọn đối tác trực tiếp tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. Đồng thời doanh nghiệp cần làm rõ quan điểm chính trị, triết lý kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín của đối tác trên thương trường. Việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, song còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch. 2). Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu: Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Nó luôn gắn liền với thị trường và là một nhân tố cấu thành thị trường. Giá cả luôn biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như : cung cầu về hàng hoá, lạm phát, chu kỳ kinh doanh, cạnh tranh. Giá cả của hàng hoá trong thương mại quốc tế bao gồm cả giá vốn của hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác. Do đó, khi nghiên cứu về giá cả hàng hoá phải nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Có như vậy sẽ dự đoán tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá. Việc nghiên cứu và tính toán chính xác giá cả của các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là một việc khó khăn, đòi hỏi phải xem xét trên nhiều khía cạnh. Nhưng nó lại là một nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp đồng kinh doanh thương mại quốc tế. Mà trong các hợp đồng thương mại quốc tế có một số cách tính giá trị như sau: - Giá cố định: là giá được qui định vào lúc ký hợp đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thoả thuận khác giữa hai bên. - Giá qui định sau: là giá không được qui định ngay từ khi ký hợp đồng mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng tại một thời điểm nào đó với những nguyên tắc nào đó do hai bên qui định trước. - Giá linh hoạt: là giá xác định trong lúc ký hợp đồng nhưng có thể xem xét lại khi giao hàng, bởi lúc giao hàng giá thị trường của hàng hoá có biến động lớn. - Giá di động: là giá được tính dứt khoát vào lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá qui định ban đầu, có đề cập đến những biến động lớn về chi phí sản xuất trong thời gian thực hiện hợp đồng. Những mặt hàng được tính giá di động thường là có thời gian chế tạo dài. Trong hợp đồng có qui định mức giá cơ sở và cơ cấu, phương thức tính giá di động. Nói tóm lại, việc nghiên cứu giá cả thị trường xuất khẩu là cần thiết đối với các doanh nghiệp ngoại thương, bởi nó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng do sự khác nhau về vị trí địa lý, về chính sách thuế quan, về thủ tục nhập khẩu nên kéo dài thời gian mua bán và vận chuyển qua nhiều nước, vì thế việc tính toán giá cả lại càng phức tạp hơn. Để đạt được hiệu quả kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải nắm vững qui luật vận động của giá cả trên thị trường quốc tế. Đồng thời phải có phương pháp tính toán giá cả chính xác và khoa học để giá cả thực sự trở thành đòn bẩy trong buôn bán quốc tế. 3). Lập phương án kinh doanh: Sau khi đã nghiên cứu xong mặt hàng mà thị trường có nhu cầu, lựa chọn được đối tác kinh doanh và giá cả của hàng hoá xuất khẩu, doanh nghiệp ngoại thương cần lập một phương án kinh doanh. Để thông qua phương án, doanh nghiệp dễ dàng tiến hành các bước kinh doanh. Nội dung của phương án kinh doanh bao gồm các bước sau: + Đánh giá khái quát về tình hình thị trường và đối tác xuất khẩu. + Chọn mặt hàng, thời cơ và phương thức xuất khẩu. + Đề ra các mục tiêu và các biện pháp thực hiện mục tiêu, cụ thể như sau: Biện pháp trong nước : đầu tư sản xuất trong nước, cải tiến bao bì, mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm … Biện pháp ngoài nước: đẩy mạnh quảng cáo, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút đầu tư nước ngoài, trang bị công nghệ tiên tiến … + Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế trong việc kinh doanh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ theo các chỉ tiêu sau: * .Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu : phản ánh đồng bản tệ bỏ ra để thu được số đồng ngoại tệ thông qua xuất khẩu . Công thức tính: Giá quốc tế cho xuất khẩu 1 đơn vị hàng. Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu = Giá thu mua 1 đơn vị hàng để xuất khẩu . Như vậy,tỷ suất ngoại tệ được thể hiện bằng 2 đơn vị tiền tệ:ngoại tệ và bản tệ. * Tỷ suất lợi nhuận: phản ánh mức phần trăm lợi nhuận thu về. Gồm 3 loại tính: Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu : phản ánh lợi nhuận thu được trên một đơn vị lưu chuyển hàng hoá. Lợi nhuận kinh doanh PDT = x 100% Tổng doanh thu Tỷ suất lợi nhuận này càng lớn kết quả hoạt động kinh doanh càng cao và ngược lại. Không nên dùng tỷ suất này để so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận theo vốn: phản ánh khả năng sinh lời trên một đồng vốn bỏ ra, đồng thời phản ánh hiệu quả sử dụng vốn. Lợi nhuận kinh doanh Tỷ suất lợi nhuận theo vốn = x 100% Vốn kinh doanh bình quân Với tỷ suất này có thể so sánh hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí : cho biết với một đồng chi phí bỏ ra doanh nghiệp có thể thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận kinh doanh Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = x 100% Tổng chi phí kinh doanh * Thời gian hoàn vốn : trong những thương vụ có thời gian dài, doanh nghiệp cần phải tính đến thời gian hoàn vốn. Vốn kinh doanh Thời gian hoàn vốn = Doanh thu Đó là thời gian cần thiết để tổng doanh thu có thể hoàn lại toàn bộ vốn bỏ ra. Phương án kinh doanh hàng xuất khẩu là cơ sở để đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu với bạn hàng nước ngoài. 4). Hình thức và biện pháp giao dịch, đàm phán để ký kết hợp đồng xuất khẩu: Nội dung tiếp theo của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là tiến hành giao dịch đàm phán để đi đến những thoả thuận chung trong thương mại quốc tế. Đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là việc gặp gỡ, trao đổi, bàn bạc giữa các đối tác xuất khẩu đưa ra những đIều khoản cụ thể trong hợp đồng để đi đến ký kết các hợp đồng. Thông thường, người ta dùng các hình thức đàm phán sau: a). Đàm phán qua thư tín: Đây là một hình thức đàm phán chủ yếu để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, trong hoạt động kinh doanh nói chung. Thư tín được dùng cho những cuộc tiếp xúc ban đầu hoặc những cuộc giao dịch không có đIều kiện gạp gỡ. Đàm phán qua thư tín cũng được coi là một cuộc giao tiếp trực tiếp. Khi sử dụng đàm phán qua thư tín phải luôn luôn thận trọng tron._.g cách viết thư và gửi thư. Bởi nếu ta viết trực tiếp vào ngay vấn đề dẫn đến một cuộc giao dịch khô khan, cứng nhắc. Nhưng nếu viết vòng vo tam quốc, xoáy trôn ốc từ ngoài vào trong sẽ làm cho đối tác hiểu sai vấn đề, đôi khi xem nhẹ vấn đề đang đề cập. Ưu điểm lớn nhất của phương thức đàm phán này là tiết kiệm được chi phí giao dịch. Nhưng nó cũng có nhược điểm là không nắm bắt đầy đủ thông tin về đối tác nên không biết được ý đồ của đối tác. b). Đàm phán qua điện thoại: Việc đàm phán qua điện thoại được tiến hành rất nhanh chóng và thuận tiện cho nhà kinh doanh, trong cùng một lúc có thể đàm phán với nhiều đối tác ở những nơi khác nhau. Việc trao đổi qua điện thoại là việc trao đổi thông tin qua miệng, không có gì làm bằng chứng cho những quyết định, thoả thuận giữa hai bên. Do vậy, chỉ nên dùng hình thức đàm phán này trong trường hợp thật cần thiết, khẩn trương hay cần xác định một vài chi tiết nhỏ. Bởi vì, tiến hành đàm phán theo hình thức này rất tốn kém. c). Đàm phán qua gặp gỡ trực tiếp: Là hình thức hai bên gặp nhau để trình bày quan điểm kinh doanh. Việc gặp gỡ trực tiếp trong đàm phán là rất quan trọng. Nó cho phép hai bên cùng trao đổi, thảo luận những vấn đề chi tiết trong hợp đồng. Từ đó, có những biện pháp phù hợp tháo gỡ vướng mắc. Với hình thức đàm phán này, nhà kinh doanh vừa trình bày cặn kẽ, vừa tìm hiểu được tâm lý của đối tác. Qua đó, nhà kinh doanh có thể tuỳ cơ ứng biến. Song hình thức đàm phán này đòi hỏi năng lực đàm phán giỏi và tốn kém, mất thời gian. Hơn thế, nó còn cần có một địa bàn tốt. Tất cả các phương thức đàm phán trên, mỗi phương thức đều có những ưu nhược điểm riêng, đòi hỏi nhà kinh doanh phải vận dụng khéo léo từng phương pháp sao cho kết quả đạt được là tối ưu. Các bước tiến hành một cuộc đàm phán như sau: + Chào hàng: là công việc mà nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Nếu bên mua đồng ý thì có thể hỏi giá và đặt hàng. + Hoàn giá : khi bên mua nhận lời chào hàng và chấp nhận mua nhưng đưa ra đề nghị giảm giá đối với bên bán. Lời đề nghị đó được gọi là hoàn giá. Hoàn giá được đưa ra nhiều lần trong một cuộc đàm phán mới có một thoả thuận thống nhất về giá cả. + Chấp nhận : đó là sự đồng ý hoàn toàn với mọi điều kiện chào hàng mà phía bên kia đưa ra. Tiếp đó là thành lập hợp đồng mua bán. + Xác nhận : để tránh những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên phải thống nhất vơí nhau về điều kiện giao hàng và lập ra các văn bản để làm cơ sở cho việc ký kết các hợp đồng sau này. Một hợp đồng mua bán ngoại thương có các nội dung cơ bản sau: + Số hiệu hợp đồng. + Ngày tháng ký kết hợp đồng. + Tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, tài khoản ngân hàng của các bên tham gia ký kết. + Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng: - Tên hàng hoá xuất khẩu : tên hàng, nhãn hiệu, đặc tính sản phẩm. - Số lượng và cách xác định : có thể đưa ra số lượng, khối lượng chính xác hoặc quy định đúng sai. - Giám định hàng hoá . - Thời gian, phương tiện và địa điểm giao hàng. - Bao bì đóng gói, ký hiệu hàng hoá . - Điều kiện xếp dỡ hàng hoá và thưởng phạt. - Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu . - Đồng tiền thanh toán, phương thức và thời gian thanh toán. - Trách nhiệm của các bên vi phạm hợp đồng. - Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng. - Các điều kiện khác. - Hiệu lực của hợp đồng. + Chữ ký của các bên. 5). Thực hiện hợp đồng xuất khẩu : Sau khi hợp đồng đã được ký kết, các bên tiếp tục bước tiếp theo là thực hiện hợp đồng. Lúc này, bên xuất khẩu cần phải tiến hành thực hiện các công việc sau: a). Kiểm tra L/C do bên mua mở. Nếu hợp đồng được thanh toán bằng L/C thì doanh nghiệp xuất khẩu cần phảI kiểm tra xem ngân hàng mở L/C của bên mua là ngân hàng nào, có đủ số tiền thanh toán không, thời gian hiệu lực của L/C, ngân hàng đó thanh toán có uy tín không… b). Xin giấy phép xuất khẩu. Giấy phép xuất khẩu là điều kiện quan trọng về mặt pháp lý để tiến hành thực hiện các hoạt động xuất khẩu hàng hoá . Giấy phép chỉ rõ doanh nghiệp có quyền kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng ghi trong giấy phép và tại một cửa khẩu nhất định. c). Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp ngoại thương tác động đến các lĩnh vực sản xuất, khai thác hoặc nhập khẩu để tạo ra nguồn hàng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp ngoại thương có thể nghiên cứu các nguồn khả năng đáp ứng và điều kện nguồn lực có thể khai thác được hoặc doanh nghiệp hợp tác, liên doanh, liên kết .... với đối tác để tạo ra loại hàng có chất lượng tốt, giá cả phải chăng, cung ứng kịp thời. Như vậy, đối với doanh nghiệp trực tiếp sản xuất cung ứng hàng xuất khẩu thì việc chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu tương đối đơn giản, bởi vì sản phẩm xuất khẩu chỉ là khâu cuối cùng của việc tiêu thụ sản phẩm. Còn đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì việc đầu tiên để chuẩn bị nguồn hàng là thu gom hàng hoá từ các cơ sở cung ứng bằng cách nhận uỷ thác, gia công .... Sau khi đã thu gom đầy đủ hàng hoá trong hợp đồng, doanh nghiệp xuất khẩu tiến hành đóng gói bao bì và chuyển đến địa điểm vận chuyển giao hàng. d). Kiểm nghiệm hàng hoá : Quá trình kiểm nghiệm được tiến hành tại cửa khẩu do chi nhánh hoặc trung tâm thuộc cơ quan trung ương thực hiện. Thông thường chậm nhất 7 ngày trước khi bốc hàng lên tàu, chủ hàng phải báo cáo cho cơ quan có liên quan và sắp xếp lại hàng để thuận tiện cho việc kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra thấy có hoặc nghi ngờ có tốn thất hàng hoá phải có kiến nghị bằng văn bản đối với phía đối tác. Khi dỡ hàng nếu có hư hỏng phải mời cơ quan có thẩm quyền đến lập biên bản xác nhận. e). Uỷ thác thuê tàu: Việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào những điều khoản trong hợp đồng xuất khẩu . Nếu trong hợp đồng ghi rõ quy định giao hàng là CIP thì doanh nghiệp xuất khẩu phải thuê tàu. Và thông thường tuỳ theo khối lượng hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp thuê tàu chở cho phù hợp đỡ tốn kém. f). Mua bảo hiểm hàng hoá : Trong quá trình vận chuyển hàng hoá thường có rủi ro bất ngờ xảy ra. Do đó, để hạn chế mức thiệt hại, bảo đảm an toàn cho hàng hoá doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm, doanh nghiệp nên cân nhắc các yếu tố: tính chất hàng hoá, bao bì, tình hình chính trị xã hội. Và tuỳ theo khối lượng hàng hoá, kế hoạch chuyên chở mà mua loại bảo hiểm năm, bảo hiểm chuyến,…cho phù hợp. g). Làm thủ tục hải quan: Khi hàng hoá được vận chuyển qua cửa khẩu phải được làm thủ tục hải quan. Đây là một giải pháp để Nhà nước quản lý và ngăn chặn xuất khẩu hàng cấm qua biên giới. Để làm thủ tục này, doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện theo các bước sau: + Khai báo thủ tục hải quan: đòi hỏi chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá xuất khẩu và xuất trình giấy phép kinh doanh xuất khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói,… + Xuất trình hàng hoá : hàng hoá xuất khẩu được sắp xếp thuận tiện cho việc kiểm tra. + Thực hiện các quyết định của hải quan. h). Giao hàng lên tàu: Chủ hàng phải nộp bản đăng ký hàng chuyên chở và xuất trình bản này cho người vận chuyển, theo dõi lịch trình để đưa hàng lên tàu được sự giám sát của hải quan, rồi lấy vận đơn đường biển. i).Làm thủ tục thanh toán: Sau khi giao xong hàng lên tàu, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ lập bộ chứng từ gửi cho người mua để thanh toán. Và tuỳ theo điều khoản thanh toán trong hợp đồng mà lập các chứng từ khác nhau. Trong hoạt đồng kinh doanh xuất khẩu, thanh toán là một khâu rất quan trọng. Nó đảm bảo cho người xuất khẩu được thu tiền về và tiếp tục chu kỳ kinh doanh. k). Giải quyết khiếu nại ( nếu có). 2.6). Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu và tiếp tục quá trình kinh doanh: Để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu có thể dựa vào các chỉ tiêu cụ thể sau: lợi nhuận hàng xuất khẩu, so sánh giá xuất khẩu với giá quốc tế, so sánh doanh thu xuất khẩu, so sánh giá cả của từng mặt hàng, nhóm hàng giữa các khu vực thị trường và các thương nhân với nhau. Các chỉ tiêu này thể hiện sự tiết kiệm lao động xã hội được thực hiện trực tiếp thông qua trao đổi trong thương mại quốc tế. Khi tính toán các chỉ tiêu này một điểm cần lưu ý đó là sự khác nhau giữa giá cả trong nước và gía cả quốc tế và sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường. Chương ii Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan của công ty thương mại việt ba. I. Giới thiệu chung về xuất nhập khẩu của công ty thương mại Việt Ba 1. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty thương mại Việt Ba: Công ty Thương mại Việt Ba được thành lập theo quyết định 253/TTG của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 29 tháng 4 năm 1995. Công ty ra đời trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị sản xuất, lưu thông, sự nghiệp. Công ty Thương mại Việt Ba là Công ty TNHH, hoạt động kinh doanh theo luật định, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo hiến pháp và pháp luật. Tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong số vốn công ty quản lý, có con dấu, có tài sản và các quỹ tập trung được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước, được tổ chức hoạt động theo điều lệ công ty. Công ty Thương mại Việt Ba có tên giao dịch quốc tế là Viet Ba Trade Company. Công ty có trụ sở giao dịch chính tại thành phố Hà Nội. Công ty Thương mại Việt Ba chính thức đi vào hoạt động từ năm 1995. Từ đó đến nay công ty luôn khẳng định được chỗ đứng của mình trong thị trường trong nước cũng như trong thị trường quốc tế. Trong những năm qua công ty luôn có tốc độ tăng trưởng khá cao, đảm bảo công ăn việc làm và thu nhập cho nhân viên của công ty thông qua hình thức cung cấp sản phẩm mây tre đan mỹ nghệ và hàng thủ công. Sau đay em xin trình bày mọt bản thống kê về sự phát triển của công ty Thương mại Việt Ba : (ĐV:1000đ) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Tăng trưởng bình quân/năm Doanh thu 5.375.950 6.012.733 6.614.006 11% Lãi 175.399 200.766 225.031 10% Nộp ngân sách 773.555 835.393 902.222 8% Theo số liệu thống kê cho thấy các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2002 có mức tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng của năm 2000 và năm 2001. Nếu so sánh với mức tăng bình quân của các doanh nghiệp thuộc khối kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thì mức tăng mà công ty Thương mại Việt Ba đạt được là một cố gắng lớn. Năm 2002 tổng số nộp ngân sách ba loại thuế chính đạt 902.222.000 đồng, tăng 8 % so với năm 2001. Điều này cho thấy công ty làm ăn ngày càng có hiệu quả và từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường cả trong nước và quốc tế. Công ty đã trở thành cầu nối tin cậy giữa người sản xuất và khách hàng. 2. Chức năng nhiệm vụ của công ty : - Công ty Thương mại Việt Ba có nhiệm vụ thực hiện việc kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và nhập khẩu nguyên liệu giấy, theo chủ trương của Nhà nước là khuyến khích xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, đồng thời công ty nhập khẩu nguyên vật liệu giấy phân phối trong nước. Đây là thị trường có rất nhiều tiềm năng và rộng lớn. Công ty đã có kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn kinh doanh. Công ty đã chú trọng vào việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng mạng lưới cung - tiêu rộng khắp đảm bảo khi có đơn đặt hàng là có hàng xuất khẩu ngay.hàng hoá trước khi xuất khẩu được kiểm tra, đánh giá rất kỹ lưỡng đảm bảo uy tín cho công ty - Trong quá trình kinh doanh, Công ty còn liên kết với nhiều đối tác, tổ chức kinh tế phù hợp với quy định,chính sách của nhà nước và phù hợp với pháp luật. - Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Công ty luôn có trách nhiệm bảo toàn và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời công ty còn có tráchnhiệm bảo toàn và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai do nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. - Công ty Thương mại Việt Ba còn tổ chức công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học vào trong công tác kinh doanh, như mở trang Web và địa chỉ kinh doanh trên mạng để tiện trong việc giao dịch với khách hàng quốc tế ... 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy - trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận trong công ty. 3.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty thương mại Việt Ba: - Ban giám đốc và bộ phận trực thuộc. - Các đơn vị thành viên công ty * Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty thương mại Việt Ba: Ban Giám Đốc Văn phòng Ban XNK Ban tài chính kế toán Ban tổ chức Cán Bộ Trung tâm thông tin Văn phòng đại diện Các chi nhánh Các trạm kinh doanh Các phòng kinh doanh Phòng kế hoạch thị trường Phòng tổ chức hành chính 3.2. Các đơn vị thành viên Chỉ qua vài năm hoạt động cho đến nay mà công ty đã có những thành công cả về trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế, cộng thêm vào đó với sự chỉ đạo của tổng giám đốc đầy kinh nghiệm và luôn đặt hai chữ "thành công" lên hàng đầu đã giúp cho công ty ngày càng đi vào hưng thịnh, có vị trí trên thương trường quốc tế. Ngoài ra các thành viên trong Công ty là những người năng động , có trình độ học vấn cao. -Tổng giám đốc -Phó giám đốc -Phòng tổ chức hành chính -Ban tài chính kế toán -Ban xuất nhập khẩu -Ban tổ chức cán bộ lao động -Văn phòng -Văn phòng đại diện -Các chi nhánh -Các trạm kinh doanh -Các phòng kinh doanh -Phòng kế hoạch thị trường -Trung tâm thông tin 3.3 Trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận trong công ty: 3.3.1 Trách nhiệm và quyền hạn của Tổng giám đốc Chịu trách nhiệm trước Công ty về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và trực tiếp chỉ đạo các lĩnh vực sau: công tác tổ chức nhân sự,công tác tài chính kinh tế, công tác thi đua khen thưởng và kỷ luật, công tác thanh tra bảo vệ , công tác xây dựng các qui chế sản xuất kinh doanh của công ty , công tác thị trường, công tác xây dựng xuất nhập khẩu.Với tư cách vừa là Tổng giám đốc, vừa là chủ đầu tư của công ty nên ngoài việc thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của Công ty còn chịu trách nhiệm về sự phát triển của Công ty. Do vậy, mà quyền hạn của Tổng giám đốc có quyền quyết định mọi việc trong Công ty, có quyền điều hành cao nhất ,là đại diện pháp nhân của Công ty, do đó chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. 3.3.2 Trách nhiệm và quyền hạn của Phó giám đốc Giúp giám đốc điều hành các lĩnh vực sau: Công tác tiêu thụ sản phẩm, báo cáo thống kê, công tác văn phòng, công tác thu hồi công nợ và thay mặt giám đốc điều hành mọi hoạt động của công ty khi giám đốc đi vắng.Phó giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Công ty theo sự phân công của Tổng giám đốc, do đó chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện. 3.3.3 Trách nhiệm và quyền hạn của các phòng ban Văn phòng của Công ty, các ban chuyên môn có chức năng tham mưu , giúp việc cho Tổng giám đốc trong quản lý điều hành công việc phù hợp với từng bộ phận mình phụ trách. - Văn phòng quản lý tài sản cố định của Công ty, mua sắm trang thiết bị làm việc. - Phòng tổ chức hành chính: a). Có nhiệm vụ tham mưu giúp giám đốc về công tác tổ chức như: + Xây dựng phương án bố trí, sắp xếp cán bộ viên chức toàn công ty và từng đơn vị. + Xây dựng quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ. + Làm công tác khác về tổ chức như: quản lý hồ sơ cán bộ viên chức, làm thủ tục về tiếp nhận, nghỉ hưu thôi việc, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật cán bộ. b). Có nhiệm vụ tham mưu giúp giám đốc về công tác hành chính quản trị như: + Xây dựng phương án bảo vệ đảm bảo công tác an ninh trật tự an toàn cơ quan. +Làm tốt công tác văn thư, lưu trữ, quản lý dấu công ty, dấu chức danh. + Quản lý nhà khách, đảm bảo các yêu cầu vật chất cho công tác điều hành hàng ngày. + Đảm bảo công tác vệ sinh môi trường cơ quan. - Ban tài chính kế toán:giúp việc cho giám đốc thực hiện quản lý về mặt tài chính , kế toán giám sát bằng vốn lưu động các hoạt động kinh tế tài chính của công ty, trực tiếp quản lý các khoản công nợ của công ty,thông tin kinh tế, hạch toán kinh tế kế toán theo đúng điều lệ ,pháp lệnh kế toán thống kê của nhà nước và những quy định của công ty. -Phòng kế hoạch thị trường: Chức năng nhiệm vụ của phòng này là : a). Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của toàn công ty. b). Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và phối hợp với phòng kế toán tài vụ giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị trực thuộc công ty. c). Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh, đề xuất ý kiến với giám đốc. d). Chịu trách nhiệm liên đới khi xảy ra kinh doanh thua lỗ hoặc thất thoát vốn do yếu tố chủ quan gây ra. - Ban xuất nhập khẩu: Do phạm vi hoạt động rộng lớn và để phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh công ty đang chuẩn bị mở thêm một ban kinh doanh ,tiêu thụ giúp cho công ty về công tác tiêu thụ kinh doanh và xuất nhập khẩu .Tiến hành nhập các vật liệu đầu vào mà trong nước chưa có khả năng sản xuất được ,và tiến hành xuất khẩu những sản phẩm đầu ra của công ty. - Ban tổ chức cán bộ lao động :thực hiện việc điều động cán bộ nhân viên trong công ty. - Trung tâm thông tin : tìm hiểu và cập nhập mỗi thông tin trong ngành ở trong nước và ngoài nước -Văn phòng đại diện ở các tỉnh: Có nhiệm vụ giúp giám đốc làm công tác tiếp thị. Trong một số trường hợp đặc biệt văn phòng đại diện được giám đốc uỷ nhiệm ký một số văn bản của công ty, tổ chức xuất nhập khẩu hàng hoá do tự khai thác được thị trường đảm bảo có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách và các quy định của Nhà nước, của địa phương nơi đặt văn phòng đại diện. - Các chi nhánh: Công ty có các chi nhánh với nhiệm vụ như sau: a). Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh: có nhiệm vụ sản xuất hàng xuất khẩu, kinh doanh du lịch và dịch vụ đầu tư. b). Chi nhánh Lạng Sơn: có nhiệm vụ kinh doanh thuốc trừ sâu, hoa quả và lập cơ sở sản xuất, gia cô tinh dầu. - Các trạm kinh doanh: a). Trạm Chương Mỹ: làm nhiệm vụ sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mây tre đan. b). Trạm xuất khẩu Thường Tín: có nhiệm vụ tổng hợp các mặt hàng gồm mây tre đan, sơn mài, sơn khảm, gỗ mỹ nghệ, thảm len … c). Trạm Ba Vì: với nhiệm vụ kinh doanh thuốc trừ sau, lạc nhân xuất khẩu, hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp. - Các phòng nghiệp vụ kinh doanh: a). Phòng nghiệp vụ kinh doanh I: là phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp, kinh doanh đa dạng, kể cả xuất nhập khẩu cũng như các mặt hàng nội địa. b). Phòng nghiệp vụ kinh doanh II: cũng là phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp các mặt hàng, nhưng chủ yếu là chè, thủ công mỹ nghệ, nhập ô tô, xe máy. c). Phòng nghiệp vụ kinh doanh III: có nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu là hàng nông lâm sản, sợi tơ. d). Phòng nghiệp vụ kinh doanh hàng mây tre đan: chuyên làm hàng xuất khẩu mây tre đan. 4. Các mặt hàng xuất khẩu và nguồn hàng cung ứng của công ty: 1.Các mặt hàng xuất khẩu: Do nhu cầu ngày càng lớn của thị trường vì vậy để đáp ứng với nhu cầu lớn đó , công ty liên tục tổ chức sản xuất, gia công, chế biến và thu mua các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mây tre đan, , hải sản, dược liệu, gốm sứ, hàng may mặc, tơ tằm, thêu ren, các loại thảm len, thảm cói ….Với sự đa dạng nhiều chủng loại hàng hoá như vậy nhưng công ty đã lựa chọn một số mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược. Các mặt hàng xuất khẩu chiến lược này vừa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của thị trường vừa được làm từ những nguồn nguyên liệu rẻ tiền sẵn có trong địa phương. Đó là hàng mây tre đan, tơ thảm thêu, lạc nhân, hoa quả nông sản, chè … Với một nguyên liệu chính, công ty đã biết kết hợp với các nguyên liệu khác tạo ra nhiều mẫu mã chủng loại khác nhau phù hơpj với thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước. Ví dụ từ nguyên liệu song mây, tre, nứa cá thể kết hợp với sắt, rang, gỗ để tạo ra các sản phẩm bền đẹp hơn như : bàn, ghế, tủ, lẵng hoa, giá báo, giá sách … 2.Phương thức kinh doanh của công ty: - Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh được vận dụng các phương thức : trực tiếp xuất khẩu, xuất khẩu uỷ thác qua các đơn vị khác, nhận xuất khẩu mặt hàng của các đơn vị khác ( các đơn vị uỷ thác phải có đăng ký kinh doanh và các mặt hàng kinh doanh phù hợp với nội dung đăng ký ), hợp đồng gia công, kinh doanh mua bán hàng nội địa, nhận đại lý mua bán hàng. - Đối với các đơn vị kinh doanh phải chấp hành nghiêm túc pháp lệnh hợp đồng kinh tế, được Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua ngày 25/8/1989. + Đối với hợp đồng mua bán ký với khách hàng nước ngoài: Các đơn vị soạn thảo trình giám đốc công ty ký. Giám đốc công ty có thể ký giấy uỷ quyền cho các phó giám đốc, trưởng phòng, giám đốc xí nghiệp, trưởng chi nhánh, hoặc trạm trưởng ký hợp đồng. + Đối với hợp đồng mua bán ký kết với bạn hàng trong nước: Giám đốc công ty uỷ quyền cho các đồng chí trưởng phòng nghiệp vụ, giám đốc xí nghiệp, trưởng trạm, hoặc trưởng chi nhánh ký. 3. Nguồn hàng cung ứng của công ty: Bởi nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất của công ty là đảm bảo cung ứng cho sản xuất tiêu dùng những loại hàng cần thiết, đủ về số lượng, tốt về chất lượng ,đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng phải được đảm bảo đủ điều kiện và kịp thời gian yêu cầu, thuận lợi cho khách hàng. Vì thế, công ty cần phảI tổ chức tốt công tác tạo nguồn hàng cung ứng. Việc tạo ra các nguồn hàng cung ứng được dựa trên toàn bộ các hình thức, phương thức và điều kiện của công ty tác động đến lĩnh vực sản xuất, khai thác hoặc nhập khẩu. Hiện nay, để có đủ lượng hàng cho nhu cầu xuất khẩu, công ty chủ yếu tiến hành thu mua từ nhiều nguồn hàng khác nhau ở các làng nghề của huyện, thị xã trong tỉnh Hà Tây. Các làng nghề của tỉnh Hà Tây chủ yếu là các làng nghề truyền thống nổi tiếng trên thế giới. Dường như tên tuổi các làng nghề được gắn liền với các sản phẩm, ví dụ như lụa Vạn Phúc (thị xã Hà Đông ), pháo Bình Đà, mây tre đan Phú Nghĩa ( huyện Chương Mỹ ) … Phương thức thu mua của công ty là thu mua trực tiếp. Nghĩa là, khi các phòng kinh doanh ký kết xong hợp đồng xuất khẩu sẽ cử cán bộ nghiệp vụ trực tiếp xuống địa phương, làng nghề có nguồn hàng xuất khẩu đó để ký hợp đồng mua bán. Hoặc công ty thu mua dưới hình thức mua gom ( mua không cần hợp đồng ), hay còn gọi là hình thức mua đứt bán đoạn. Hình thức thu mua gom hàng hoá được công ty sử dụng tương đối nhiều do các làng nghề của tỉnh Hà Tây chủ yếu là các đơn vị sản xuất nhỏ, phân tán không đồng đều, phát triển tự phát không được Nhà nước quản lý chặt chẽ, chưa được quy hoạch đầu tư tập trung thành một cơ sở sản xuất lớn. Ví dụ, để có nguồn hàng mực khô xuất khẩu sang Trung Quốc, công ty đã ký hợp đồng mua bán với chi nhánh Công ty xuất nhập khẩu thành phố Hồ Chí Minh. Hay công ty tổ chức thu mua gom hàng mây tre đan của các cơ sở sản xuất Phú Nghĩa, Phú Vĩnh (huyện Chương Mỹ ), Ninh Sở ( huyện Thường Tín) để xuất khẩu sang thị trường Nga và các nước Đông Âu, Châu á .… 5. Các nguồn lực chủ yếu của công ty: 5.1. Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển lâu dài của một doanh nghiệp. Vì vậy, công ty rất chú trọng quan tâm đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Do vậy công ty liên tục tiến hành tổ chức các khoá học chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng cán bộ công nhân viên của công ty. Các khoá học này được các giảng viên trường đại học Ngoại Thương giảng dạy nhằm tạo ra những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, hăng say với nghề nghiệp. 5.2. Nguồn vốn của công ty: Vốn cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, không có vốn doanh nghiệp không thể tiến hành các hoạt động kinh doanh. Do vậy ngay từ khi thành lập, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Công ty Thương Mại Việt Ba thành lập với phần lớn vốn là do liên doanh với các nhà đầu tư khác, còn lại là do công ty tự bổ sung .Theo như lời tổng giám đốc cho biết thì trước khi công ty được thành lập ,tổng giám đốc đã cùng với cộng sự của mình chuẩn bị khá kỹ càng bằng khoảng thời gian là 3 năm.Do vậy mà số vốn bỏ ra ngay từ ban đầu so với các công ty khác là khá lớn Song vốn vẫn là vấn đề nổi cộm của công ty. Bảng 1: Nguồn vốn của công ty qua một số năm. Đơn vị tính: 1000VNĐ. Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Vốn lưu động 10.469.337 23.026.377 33.168.845 Vốn cố định 1.549.148 2.314.771 2.097.155 Tổng nguồn vốn 12.018.485 25.341.148 35.266.000 ( Nguồn từ công ty ). Nguồn vốn của công ty tăng lên qua mỗi năm. So sánh năm 1999 với năm 1998 ta thấy nguồn vốn tăng lên một lượng là 13.322.663 nghìn VNĐ gấp 2,1 lần, trong đó vốn lưu động tăng 12.557.040 nghìn VNĐ gấp 2,2 lần và vốn cố định tăng 765.623 nghìn VNĐ gấp 1,49 lần. Còn năm 2000 nguồn vốn tăng lên một lượng là 9.924.852 nghìn VNĐ gấp 1,39 lần so với năm 1999, trong đó vốn lưu động tăng 10.142.468 nghìn VNĐ gấp 1,44 lần còn vốn cố định giảm 217.616 nghìn VNĐ do công ty bàn giao trạm Thường Tín và bán ô tô. So với năm 1998, nguồn vốn của công ty vào năm 2000 còn tăng lên gấp 2,93 lần, nghĩa là thêm một lượng vốn là 23.247.515 nghìn VNĐ. Đây là những kết quả đáng mừng cho công ty, nhưng cũng có một câu hỏi đặt ra là nguồn vốn của công ty tăng là do đâu ? Bảng 2: Một số thành phần chính dẫn đến tăng nguồn vốn của công ty. Đơn vị tính : 1000 VNĐ. Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Khoản phải thu 8.834.099 17.888.526 25.244.326 Hàng tồn kho 175.673 2.778.152 5.163.103 Vay ngắn hạn 664.035 8.022.907 11.013.715 ( Nguồn từ công ty). Vốn cố định của công ty chủ yếu được sử dụng để trang bị tài sản cố định hữu hình như mua sắm mới máy móc, đầu tư xây dựng…Còn vốn lưu động chủ yếu là các khoản phải thu, hàng tồn kho và vốn lưu động khác. Theo bảng 2 ta thấy khoản phải thu và hàng tồn kho của công ty năm 1999 chiếm 82% tổng nguồn vốn của công ty, tăng một lượng là 11.656.906 nghìn VNĐ gấp 2,29 lần so với năm 1998. Vì thế mà công ty phải vay thêm vốn để kinh doanh, năm 1999 vay ngắn hạn của công ty tăng 7.358.872 nghìn VNĐ gấp 12,1 lần so với năm 1998. Đến năm 2000. khoản phải thu và hàng tồn chiếm 86 % tổng nguồn vốn, tăng 9.740.751 nghìn VNĐ gấp 1,47 lần so với năm 1999 và tăng một lượng là 21.397.657 nghìn VNĐ gấp 3,37 lần so với năm 1998. Và để tiếp tục kinh doanh, công ty đã vay vốn ngắn hạn một lượng lớn hơn năm 1999 là 2.990.808 nghìn VNĐ gấp 1,37 lần. So với năm 1998, vay ngắn hạn của công ty năm 2000 tăng lên một lượng lớn hơn rất nhiều là 10.349.680 nghìn VNĐ gấp 16,6 lần. Như vậy thực chất qua mỗi năm, các khoản phải thu và hàng tồn tăng lên rất nhiều đã kéo theo nguồn vốn của công ty tăng lên. Và qua đó cho thấy một thực tế là công ty đã bị chiếm dụng một lượng vốn lớn. Vì vậy, công ty cần phải có ngay một giải pháp thích hợp cho vấn đề này, cần nhanh chóng thu hồi các khoản nợ và thanh toán các khoản nợ phải trả. Bảng 3 : Kim ngạch xuất khẩu của công ty qua một số năm. Đơn vị tính : 1000 USD. Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 -Kim ngạch xuất khẩu 7.000 8.071 9.739 15.400 -Tổng kim ngạch XNK 13.521 13.255 15.973 21.270 -Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu 52 % 61 % 61 % 72 % ( Nguồn từ công ty). Theo bảng số liệu 3 ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng lên qua mỗi năm, song tốc độ tăng không đồng đều. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng 15,3 % tương đương với 1.071 nghìn USD so với năm 1997. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng 20,67% tương đương với 1.668 nghìn USD so với năm 1998. Đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu là 58% tương đương với một lượng là 5.661 nghìn USD so với năm 1999. Nhưng so với năm 1997 và năm1998, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của công ty năm 2000 sẽ là một con số khá lớn :tăng 91 % ( tương đương với 7.329 nghìn USD ) so với năm 1998 và tăng 120 % (tương đương với 8.400 nghìn USD ) so với năm 1997. Với tốc độ tăng trưởng này công ty sẽ ngày một lớn mạnh hơn và vững bước đi lên cùng đất nước. Để đạt được kết quả này, công lớn phải thuộc về sự chỉ đạo sáng suốt của đội ngũ lãnh đạo của công ty, sự năng động của các trưởng phòng kinh doanh cùng với lòng hăng say với nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty nên các mặt hàng xuất khẩu của công ty ngày càng được mở rộng, chiếm được niềm tin ở khách hàng và kim ngạch xuất khẩu tăng lên qua mỗi năm. 6. Các khoản nộp ngân sách và lợi nhuận của công ty : Cùng với sự gia tăng của kim ngạch xuất khẩu, các khoản đóng góp của công ty cũng tăng lên theo thời gian. Bảng 4 : Các khoản nộp ngân sách của công ty. Chỉ tiêu Đơn vị Năm1998 Năm 1999 Năm 2000 1. Các khoản nộp NS Triệu VNĐ 2.852 16.152 15.426 - Thuế GTGT “” 698 4.499 993,6 - Thuế XNK “” 1.909 11.520 14.224 - Thuế vốn “” 52 24 20 - Thuế lợi tức “” 88 15 38,4 - Khoản nộp khác “” 105 94 150 2, Lợi nhuận “” 60,22 74,647 120 3,Thu nhập bình quân 1000VNĐ 456 566 653 ( Nguồn từ công ty ). Trong khi các doanh nghiệp khác phải nợ ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng thì Công ty Thương Mại vẫn đều đặn nộp ngân sách với số tiền hàng tỷ đồng. Nếu năm 1998, công ty nộp ngân sách là 2,8 tỷ đồng thì đến năm 1999 là 16,1 tỷ đồng và năm 2000 số tiền nộp ngân sách là 15,4 tỷ đồng tuy đã giảm xuống nhưng không đáng kể. Điều này chứng tỏ công ty là một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả với số lợi nhuận tăng hàng năm. Năm 1998, lợi nhuận của công ty là hơn 60 triệu đồng nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 120 triệu đồng gấp 2 lần năm 1998 và 1,62 lần so với năm 1999. Mà lợi nhuận phản ánh một cách đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của công ty, phản ánh kết quả sử dụng các nguồn lực của các doanh nghiệp. Lợi nhuận là một đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người lao động ra sức nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Và mọi hoạt động kinh doanh của công ty đều hướng vào mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao chứng tỏ khả năng mở rộng kinh doanh và phát triển của công ty, thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên cũng tăng theo. Năm 1998, thu nhập bình quân ở công ty là hơn 400 nghìn đồng thì năm 2000 tăng lên hơn 600 nghìn đồng gấp 1,5 lần so với năm 1998 và gấp 1,1 lần so với năm 1999. Tuy vẫn còn là con số rất nhỏ so với một số công ty liên doanh nhưng so với các doanh nghiệp nhà nước thì không phải nhỏ. 7. Thị trường xuất khẩu của công ty: Nhờ thực hiện chính sách đối ngoại, đa dạng hoá, đa phương hoá Việt Nam muốn là bạn v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36984.doc
Tài liệu liên quan