Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

Lời nói đầu Đại hội VI của Đảng vào tháng 12/1986 đã đánh đấu sự nghiệp đổi mới toàn diện của Việt Nam. Chúng ta tiến hành đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước. Hơn 15 năm qua đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước nhà: tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, đời sống vật chất tinh thần ngày càng được nâng cao. Để đáp ứng được các nhu cầu phát triển trên nhà nước cần có những khoản đầu tư lớn từ ngân sách nhà

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước (NSNN). ở nước ta hiện nay và đa số các nước trên thế giới NSNN dựa chủ yếu vào nguồn thu từ thuế và phí, chiếm trên 80% số thu ngân sách. Do vậy, cùng với việc cải cách kinh tế, hệ thống thuế của Việt Nam cũng phải thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện, thuận lợi cho thúc đẩy kinh tế phát triển. ở Việt Nam song song với việc cải cách hệ thông thu thuế, chúng ta cũng xây dựng được một hệ thống chính sách thuế tương đối hoàn chỉnh gồm 9 sắc thuế cơ bản. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta hiện nay gômf nhiều thành phần kinh tế, vận động có sự quản lý của nhà nước nên hệ thống chính sách thuế hiện hành mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần song vẫn còn bộc lộ nhược điểm và có những vấn đề không thích hợp. Để đáp ứng yêu cầu trong tập trung NSNN, đồng thời bảo đảm tính hợp lý công bằng, mục tiêu của mỗi sắc thuế trong việc khuyến khích sản xuất, đáp ứng yêu cầu hội nhập trong khu vực và quốc tế nên trong quá trình cải cách thuế bước 2 Quốc Hội đã ban hành 2 luật thuế mới là thuế Giá trị gia tăng (GTGT) và thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) thay thế cho thuế doanh thu và lợi tức trước đây, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999. Như vậy đến thời điểm hiện nay, sau hơn 3 năm thực hiện luật thuế GTGT của chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến, vẫn còn mới đối với Việt Nam nên trong quá trình thực hiệnvẫn còn nhiều vướng mắc, tồn tại cần giải quyết. Đặc biệt trong nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần, việc áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể càng gặp nhiều khó khăn do đặc điểm, vai trò của thành phần kinh tế này trong nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu kinh nghiệm thế giới, phân tích thực tế ở Việt Nam và tại các địa bàn cụ thể nhằm phát hiện các vấn đề nảy sinh, tìm ra được nguyên nhân, nhằm đưa ra được những giải pháp thích hợp đối với thành phần kinh tế này trong việc áp dụng thuế GTGT là điều cần thiết, quan trọng đảm bảo sự thành công toàn diện và vững chắc trong việc triển khai thuế GTGT ở Việt Nam. Với đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGTđối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội” nhằm đáp ứng phần nào những đòi hỏi ở trên. Bài viết vạch ra những đề xuất để tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT tai Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng. Bài viết gồm 3 phần chính: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế GTGT. Chương II: Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung và thực tiễn công tác thực hiện thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng, tham khảo ý kiến và sự hướng dẫn của Thầy giáo- T.S Đàm Văn Huệ, cán bộ thuế Nguyễn Văn Phường, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, là một sinh viên tầm hiểu biết còn hạn chế, kiến thức tích luỹ được chưa nhiều, thời gian nghiên cứu có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất kính mong được sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô giáo, các cán bộ tại Chi cục thuế để đề tài này được hoàn thiện hơn. Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng trong việc hướng dẫn chỉ bảo tôi trong các vấn đề liên quan trên thực tế, và sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy giáo Đàm Văn Huệ trong việc nghiên cứu, lựa chọn và viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 2002 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Loan Bảng chữ viết tắt Ngân sách nhà nước: NSNN Đối tượng nộp thuế: ĐTNT Giá trị gia tăng: GTGT Thu nhập doanh nghiệp: TNDN Hai Bà Trưng: HBT Nguyên vật liệu: NVL Thành phần kinh tế cá thể: TPKTCT Doanh thu: DT Đăng ký kinh doanh: ĐKKD chương I Những vấn đề cơ bản về thuế Giá trị gia tăng Sự phát triển bền vững của nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều chính sách trong đó chính sách thuế có vai trò và vị trí hết sức quan trọng. Nằm trong hệ thống chính sách tài chính quốc gia, chính sách thuế có tác động lớn trong điều hành nền kinh tế vĩ mô, nó là nhân tố quyết định quy mô NSNN, tham gia vào việc điều hành điều tiết nền kinh tế. Vì vậy trước khi nghiên cứu về một bộ phận của hệ thống thuế GTGT cấn hiểu rõ bản chất và những vấn đề chung về thuế. I- Một số vấn đề chung về thuế 1. Khái niệm và đặc điểm của thuế Khi nghiên cứu sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước, sự xuất hiện của bộ máy quản lý nhà nước đòi hỏi phải có điều kiện vật chất để đảm bảo cho nhà nước tồn tại, hoạt động thực hiện chức năng của mình. Các nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, trong khi đó nhà nước không phải là một tổ chức kinh tế cho nên để tồn tại hầu hết các chính phủ ở các quốc gia đều phải tìm cách khai thác mọi nguồn thu dưới mọi hình thức có thể trong đó nguồn thu từ thuế và phí, lệ phí là phổ biến nhất. Thuế so với nguồn thu khác có tính ổn định hơn và tạo ra sự chủ động trong việc bố trí chi tiêu của nhà nước, đồng thời nó tạo ra nguồn thu lớn nhất cho NSNN, qua đó NN cũng có thể nắm bắt được các tín hiệu của nền kinh tế để thực hiện qúa trình điều chỉnh. Chính vì vậy đứng trên các góc độ khác nhau thuế cũng được nhìn nhận theo các góc độ khác nhau. Theo quan điểm của Mác: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là cái mà nhà nước thu của dân mà không bù lại”. Trên góc độ NSNN: “Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định không hoàn lại trực tiếp đối với các tổ chức kinh tế và công dân trong nhà nước". Trên phương tiện kinh tế: “Thuế là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và quốc dân để hình thành nên một quỹ tiền tệ tập chung lớn nhất của nhà nước”, theo các quan điểm trên mặc dù có sự klhác nhau nhưng đều có những điểm chung nhất đó là: Thuế là một biện phát tài chính của nhà nước mang tính chất bắt buộc. Về nội dung vật chất: Thuế là một bộ phận của cải từ khu vực tư chuyển vào khu vực công. Bộ phận của cải đó được dùng cho việc nuôi sống bộ máy nhà nước và trang trải các khoản chi phí công cộng. Với những nết chung đó có thể nhận thức một cách toàn diện về thuế: “Thuế là một biện phát tài chính bắt buộc của nhà nước nhằm động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi tiêu hàng hoá, dịch vụ và từ việc lưu trữ chuyển dịch tài sản của mọi thành viên trong xã hội nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của nhà nước, khoản thu nhập này mang tính chất bắt buộc không hoàn trả trực tiếp được phát luật quy định". Xuất phát từ những vấn đề trên cho thấy, thuế là một phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu có tính khách quan khi có đủ hai điếu kiện đó là: Sự xuất hiện của nhà nước và sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư. Bởi vì khi xuất hiện nhà nước dùng quyền lực chính trị để ban hành những quy định pháp luật cần thiết làm công cụ phân phối lại một phần của cải vật chất của xã hội dưới hình thức giá trị sáng tạo và hình thành một quỹ tiền tệ tập trung. Đồng thời sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư trong xã hội, là cơ sở chủ yếu để tạo ra khả năng và nguồn thu để thuế tồn tại và phát triển. Nhiệm vụ chính trị của mỗi nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp và thành phần kinh tế là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò, nội dung và đặc điểm của thuế. Từ đó cho thấy bản chất của thuế lệ thuộc vào bản chất của nhà nước. Từ các khái niệm và bản chất của thuế ở trên, có thể phân biệt thuế với các phạm trù kinh tế khác căn cứ vào những đặc điểm chủ yếu sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc mang tính cưỡng chế và tính phát lý cao vì thế thuế được quy địng trong hiến pháp của nhà nước, được điều chỉnh bởi luật và pháp lệnh. Tính bắt buộc của thuế là một tất yếu khách quan, nó xuất phát từ tính chất cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc điểm sử dụng loại hàng hóa này đó là vấn đề mà trong kinh tế học gọi là “người đi xe không mất tiền”, chính vì vậy mà nhà nước đặt ra sự đóng góp mang tính chất bắt buộc. Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Việc động viên qua thuế không gắn liền với lợi ích cụ thể mà người lộp thuế thụ hưởng đối với việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng của nhà nước. Thuế mang tính chất nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước, nó không phải là một khoản đối giá. Người công dân không có quyền đòi hỏi ở nhà nước cung cấp cho họ một lượng giá trị hàng hóa, dịch vụ tương ứng với số họ đã nộp. Đặc điểm này giúp phân biệt số thuế với phí và lệ phí. Thuế là hình thức phân phối lại, vừa chứa đựng yếu tố kinh tế và xã hội. Đặc điểm này cho thấy một quan điểm rõ ràng: Việc đánh thuế của chính phủ không thể thoát ly yếu tố kinh tế - xã hội, bởi vì nguồn thu nhập của thuế chính là kết quả của quá trình hoạt động kinh tế. Không có hoạt động kinh tế hoặc hoạt động kinh tế kém hiệu quả không thể tạo ra được nguồn thu của thuế. Ngược lại việc đánh thuế của chính phủ sẽ ảnh hưởng đến quá trình kinh tế xã hội. Chính mối quan hệ này đặt ra cho những nhà hoạch định chính sách và quản lý thuế sự cân nhắc cần thiết khi thực hiện hành vi đánh thuế. 2. Vai trò của thuế. Trong điều hành vĩ mô của chính phủ, thuế là nguồn đóng góp chủ yếu vào NSNN, nó còn là công cụ quan trọng tham gia vào công việc điều hành điều tiết sản xuất, giá cả, xuất nhập khẩu,... Thuế phục vụ cho nền kinh tế đất nước. Do đó vai trò của thế được thể hiện trên các lĩnh vực sau: Thứ nhất: Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ từ nền kinh tế quốc dân. Một ngân sách lành mạnh trước hết phải dựa vào nguồn thu trong nước mà trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu chiếm đến 80%-90% tổng số thu của NSNN. Nguồn thu của thuế lấy từ thu nhập quốc dân sản xuất, khả năng động viên của thuế phụ thuộc cơ bản vào sự phát triển và hiệu quả sản xuất, trình độ và ý thức tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân. Vì vậy chính sách động viên về thuế phải được đặt trong mối quan hệ chung theo hướng xoá bỏ các khoản chi bao cấp, không tận thu để bao chi, phải thu đúng, thu đủ nhằm bồi dưỡng phát triển nguồn thu lâu dài trên nguyên tắc phân phối hợp lý thu nhập quốc dân giữa nhà nước và xã hội, giữa tích tụ và tập chung. Muốn vậy hệ thống thuế và chính sách thuế mới phải được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế, thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập của doanh nghiêp và xã hội để đảm bảo yêu cầu vốn đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của nhà nước, có phần tích luỹ cho xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ. Đồng thời thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế lâu dài, góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định xã hội. Thứ hai: Thuế là công cụ chủ yếu của nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô thúc đẩy sản xuất phát triển mở rộng, lưu thông hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng, và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho NSNN, mà yêu cầu cao hơn là qua chính sách thuế góp phần thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế xã hội. Vì vậy, để phát triển kinh tế đòi hỏi nhà nước phải sử dụng các công cụ kinh tế trong đó có chính sách thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô điều tiết thị trường, ngăn lừa và xử lý những đột biến, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nội dung điều tiết của thuế thể hiện trên cả hai phương diện vừa khuyến khích, vừa hạn chế thông qua việc xây dựng cơ cấu các loại thuế, biểu thuế, chính sách miễn giảm thuế... Chính sách thuế khi được áp dụng thống nhất sẽ đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế góp phần phục vụ có hiệu quả chủ chương giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành nghề, địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết nền kinh tế bao gồm cả sản xuất và lưu thông dịch vụ, các thành phần kinh tế hoạt động theo đúng định hướng phát triển của nhà nước. Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê kiểm soát thúc đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất, hạ giá thành tăng hiệu quả kinh tế. Chính sách thuế tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển nhưng không đồng nghĩa với buông lỏng quản lý làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia. Thông qua chính sách thuế, nhà nước khuyến khích động viên doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật, khai thác vật tư, nguyên vật liệu trong nước, thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm khâu trung gian, hạn chế đầu cơ tích trữ lũng đoạn thị trường. Để góp phần phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế chính sách thuế cần có tác dụng khuyến khích khai thác nguyên vật liệu trong nước, khuyến khích mở rộng giao lưu hàng hóa, đấu tranh chống trốn lậu thuế, làm ăn phi pháp. Đồng thời cũng cần quan tâm đến tính trung lập của thuế và nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp. Thứ ba: Thuế góp phần thực hiện bình đẳng, điều hòa thu nhập bảo đảm công bằng xã hội giữa các thành viên. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả lỗ lực của một cộng đồng. Trong hoàn cảnh thu thập xã hội có sự chênh lệch lớn giữa các tầng lớp dân cư. Nhà nước cần phải thực hiện yêu cầu điều hòa thu nhập thông qua chính sách thuế. Vai trò điều hòa thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp hài hòa giữa việc động viên phù hợp với khả năng và tính chất của hoạt động sản xuất kinh doanh với việc tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế bằng các chế độ biện pháp thu thuế... Việc xây dựng và thực hiện chính sách thuế phải dựa vào những căn cứ vững chắc với sự phân tích toàn diện khoa học về đặc điểm, điều kiện tổ chức kinh doanh, tính chất hoạt động mức thu nhập nội dung kinh tế của thu nhập. Nhưng không phải mọi sắc thuế đều thực hiện được chức năng này, mà mỗi sắc thuế chỉ có thể đáp ứng được một phần, một vấn đề, một khía cạnh. Yêu cầu bình đẳng về động viên đóng góp được thể hiện qua việc áp dụng chính sách thuế thống nhất giữa các thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư. Sự công bằng về thuế trước hết phải xuất phát từ nhận thức đầy đủ và xác định đúng đắn quyền lợi nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế đối với nhà nước. Nhưng sự công bằng trong chính sách thuế không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa. Mà về nguyên tắc tuỳ theo từng loại thuế, tuỳ theo ý nghĩa kinh tế của mỗi sắc thuế mà thực hiện sự công bằng theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang. Bình đẳng công bằng xã hội không chỉ là đạo lý chung mà còn được biểu hiện bằng những chính sách, chế độ cụ thể, được thể chế hóa bằng những văn bản pháp quy rõ ràng. Việc sử lý vi phạm cần thực hiện đúng pháp luật không phân biệt cá nhân loại thành phần kinh tế. Nguyên tắc công bằng ở đây không mâu thuẫn hoặc loại trừ việc thực hiện một số chính sách ưu đãi trong thuế. Vậy tính công bằng luôn được coi là đặc trưng nổi bật và là mục tiêu quan trọng trong các chính sách của nhà nước. Trong chính sách thuế công bằng được thể hiên ở sự đóng góp thuế bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong môi trường kinh tế xã hội. Thứ tư: Thuế là một công cụ để kiểm tra giám sát. Trong chính sách thuế muốn thu đúng, thu đủ số thuế cần phải hiểu biết nắm rõ ĐTNT, phạm vi, lĩnh vực hoạt động của các ĐTNT. Thông qua các hoạt động kiểm tra, kiểm soát đó cán bộ thu thuế dễ dàng phát hiện ra những vi phạm sai sót những gian lận trong quá trình hạch toán kinh tế của doanh nghiệp, những vi phạm trong chế độ hoá đơn, chứng từ, các loại mặt hàng kinh doanh nhằm chốn thuế để có thể có những biện pháp quản lý thích hợp đặc biệt đối với thành phần kinh tế nhà nước. Đồng thời qua chính sách thuế có thể kiểm soát được mức thu nhập từ đó đánh giá được mức sống của dân cư, tình hình kinh tế của dất nước để có những điều chỉnh kinh tế vĩ mô thích hợp. Với các vai trò của thuế ở trên, hệ thống chính sách thuế phải từng bước sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát triển của kinh tế đất nước và hội nhập với hệ thống chính sách thuế khu vực và thế giới. 3. Những yếu tố cơ bản của một số sắc thuế Hệ thống thuế của một quốc gia bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau, mỗi sắc thuế có một vai trò nhất định và nó tác động lên một bộ phận, một vấn đề kinh tế nhất định nhưng mỗi sắc thuế đều được xác lập trên những yếu tố trên bao gồm: * Tên gọi: Thể hiện đối tượng hoặc mục đích tác động của sắc thuế đó. * Đối tượng nộp thuế: ĐTNT chỉ rõ sắc thuế có điều chỉnh hoạt động kinh tế của ai? Về đại thể ĐTNT theo luật quy định có thể là các thể nhân và pháp nhân. Thể nhân là các các nhân mà hoạt động kinh tế của họ được pháp luật thừa nhận. Trong thực tế ĐTNT và đối tượng trả thuế là hai khái niệm không phải bao giờ cũng đồng nhất. Đối tượng trả thuế là người cuối cùng gánh chịu gánh nặng thuế. * Đối tượng chịu thuế: Đối tượng chịu thuế chỉ rõ sắc thuế đó điều chỉnh vào các hoạt động kinh tế nào. Đối tượng chịu thuế có thể được xác định trên một đơn vị giá trị. Tuỳ theo một sắc thuế mà đối tượng chịu thuế khác nhau. * Thuế xuất và biểu thuế: Thuế xuất chỉ rõ mức động viên của sắc thuế đó trên đơn vị của một đối tượng chịu thuế. Thuế xuất là linh hồn của một sắc thuế, nó thể hiện quan điểm động viên của nhà nước đối với từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo từng luật thuế mà người ta có thể áp dụng các dạng thuế suất khác nhau. Trong thực tế có các dạng thuế suất: + Thuế suất cố định: Là một loại thuế được ấn định bằng một số tuyệt đối trên cơ sơ thuế. + Thuế suất tỷ lệ: Thuế suất được ấn định bằng tỷ lệ % trên cơ sở thuế. Đây là loại thuế được áp dụng phổ biến nhất nó có thể thực hiện được và đảm bảo tính công bằng. + Thuế suất theo giá trị của cơ sở thuế: Là loại thuế suất phụ thuộc vào sự biến động giá trị của đối tượng chịu thuế. Loại thuế suất này được thiết kế theo tỷ lệ % trên giá trị của cơ sở thuế. Loại thuế suất này bao gồm: - Thuế suất luỹ tiến từng phần: Được tính bằng tỷ lệ % trên cơ sở thuế nhưng áp dụng theo từng bậc khác nhau. - Thuế suất luỹ tiến toàn phần: Được tính bằng tỷ lệ % trên cơ sở thuế được áp dụng một cách duy nhất đối với cơ sở thuế, tỷ lệ % tăng dần đối với toàn bộ cơ sở thuế. + Thuế suất luỹ thoái: Là loại thuế suất lỉ lệ % càng giảm khi cơ sở thuế càng tăng. Ngoài những yếu tố kể trên trong các sắc thuế còn chứa đựng các yếu tố kỹ thuật khác như: + Chế độ miễn giảm toàn thuế + Trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm của cơ quan thuế. Như vậy, ở trên đã nghiên cứu toàn bộ những vấn đề chung về thuế, nhằm hiểu rõ bản chất chức năng, vai trò của thuế trước khi tìm hiểu một sắc thuế rất quan trọng và mới được áp dụng ở Việt Nam, đó là thuế giá trị gia tăng (GTGT). II- Thuế giá trị gia tăng (GTGT) 1. Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT 1.1- Một số khái niệm chung về GTGTvà thuế GTGT * Giá trị gia tăng: Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm đối với một sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ do cơ sở sản xuất chế biến, buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu thô hay hàng hoá mua vào làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Nói cách khác đây là số chênh lệch giữa “giá đầu ra” và “giá đầu vào“ do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ. Giá trị gia tăng có thể được tính bằng hai phương pháp là phương pháp cộng hoặc phương pháp trừ do quan điểm xem xet GTGT trên hai góc độ khác nhau. - Theo phương pháp cộng: GTGT là giá trị các yếu tố cấu thành giá trị tăng thêm và được tính theo công thức: GTGT = Tiền lương (chi phí lao động) + lợi nhuận. - Theo phương pháp trừ: GTGT là khoản chênh lệch giữa giá trị khâu sau của sản phẩm (giá trị đầu ra) với giá trị của nguồn vật liệu hay sản phẩm ở khâu trước mà nhà kinh tế đã sử dụng để tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ mới (giá trị đầu vào). GTGT = Doanh số đầu ra - Doanh số đầu vào. ã Thuế GTGT là gì? Thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh trên GTGT của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đây là một loại thuế gián thu, một loại yếu tố cấu thành trong giá cả của hàng hóa, dịch vụ nhằm động viên đóng góp của người tiêu dùng tương tự như thuế doanh thu. Tuy nhiên thuế GTGT có điểm cơ bản khác với thuế doanh thu là chỉ người bán hàng hóa, dịch vụ lần đầu phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ doanh thu. Còn người bán hàng ở các khâu tiếp theo đó chỉ phải nộp thuế trên phần GTGT. Vì vậy thuế GTGT là một sắc thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhỏ trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa từ khâu đầu đến người tiêu dùng, khi khép kín một chu kỳ kinh tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là sản phẩm hàng hóa, dịch vụ dù qua nhiều khâu hay ít khâu, từ sản xuất đến tiêu dùng đều chịu thuế như nhau. Thuế GTGT không phải do người tiêu dùng trực tiếp nộp mà do người bán sản phẩm hoặc dịch vụ nộp thay vào kho bạc do trong giá bán hàng hóa, dịch vụ có cả thuế GTGT. Thuế GTGT đánh cả vào các sản phẩm tiêu thụ trong nước kể cả hàng hóa nhập khẩu. Thông thường các hàng hóa, dịch vụ dùng cho mục đích xuất khẩu không thuộc diện chịu thuế GTGT. Mức thuế phải nộp thường căn cứ vào công dụng vật chất của sản phẩm, không phân biệt người mua dùng vào mục đích gì. Thuế GTGT thường có vai trò quan trọng trong toàn bộ hệ thống thuế và thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của NSNN (khoảng 30%-40%). - Phương pháp tính thuế GTGT Xuất phát từ khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT, cách tính GTGT ở trên. Các nhà kinh tế đã đưa ra bốn phương pháp cơ bản sau: + Phương pháp cộng trực tiếp (phương pháp kế toán): Thuế GTGT phải nộp = (Tiền lương + Lợi nhuận) x Thuế suất thuế GTGT + Phương pháp cộng gián tiếp. Thuế GTGT phải nộp = Tiền lương + Thuế suất thuế GTGT + Lợi nhuận x Thuế suất thuế GTGT Đứng trên góc độ pháp lý, do tiền lương và lợi nhuận không phải lúc nào cũng tính được do đó việc quản lý và thu thuế là rất khó khăn. Trên góc độ tâm lý: Tạo ra một sự trùng lặp khi người nộp thuế cho rằng họ phải nộp cả thuế TNCN (thuế TNDN) do đó dễ gây ra tâm lý, sự phản ứng từ phía người nộp thuế. Đó là lý do vì sao hai phương pháp tính thuế này chỉ tồn tại trên lý thuyết. + Phương pháp trừ trực tiếp: Thuế GTGT phải nộp = Doanh số đầu ra - Doanh số đầu vào x Thuế suất thuế GTGT Theo phương pháp tính này có nhược điểm là nó sẽ không đảm bảo nếu doanh số đầu ra và doanh số đầu vào có mức thuế xuất khác nhau. Đồng thời khi kinh doanh các hàng hóa mua vào với nhiều mức khác nhau sẽ xác định được số đầu ra và số đầu vào. + Phương pháp trừ gián tiếp: Thuế GTGT phải nộp = Doanh số đầu ra x Thuế suất thuế GTGT - Doanh số đầu vào x Thuế suất thuế GTGT Phương pháp tính thuế này khắc phục được tất cả các nhược điểm ở trên và được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới. 1.2- Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu, áp dụng từ sau đại chiến thế giới thứ nhất nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Do thuế doanh thu có nhiều nhược điểm trong đó nổi bật là thuế thu chồng chéo, trùng lắp. Vì Vậy qua nhiều lần sửa đổi bổ sung đến năm 1954 chính thức được áp dụng đầu tiên ở Pháp. Lúc đầu thuế GTGT được ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp với thuế suất đồng nhất là 20% và chỉ khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên vật liệu. Sau đó, do nó có nhiều ưu điểm nên được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ như hiện nay. Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT đã nhanh tróng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có trên 120 nước áp dụng thuế GTGT. Khi áp dụng thuế GTGT bộc lộ nhiều ưu điểm so với các loại thuế khác trước đây, vì vậy nhiều nước coi thuế GTGT như là một giải pháp tốt nhất để tăng tính trung lập và khuyến khích quá trình công nghiệp hóa và tăng năng suất. Một số nước sử dụng thuế GTGT không chỉ thay thế các loại thuế gián thu với nhiều nhược điểm, mà còn làm tăng thu cho NSNN. Hiện nay, thuế GTGT được đánh giá như một nguồn thu đang nổi lên, kết hợp với tăng tiêu dùng, đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tổng số thu của các nước đang sử dụng loại thuế này. Trên thực tế, thuế GTGT được áp dụng rộng rãi trên thế giới bởi vì những nguyên nhân sau: + Trên thế giới quá trình ra nhập các khối liên minh kinh tế và tiền tệ diễn ra mạnh, sôi động ở mọi khu vực. + Có sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế. + Thuế GTGT là một công cụ thuế mạnh. Đối với những nước có hệ thống thu thuế kém phát triển, thuế GTGT càng có vai trò quan trọng. + Thuế GTGT nếu được thiết kế và quản lý tốt thường tạo nên sự công bằng cao đối với hàng hóa và dịch vụ, cũng như trong thương mại quốc tế. Tuy mô hình thuế GTGT ở các nước là khác nhau và đa dạng nhưng về cơ bản phương pháp tính đều giống nhau và hầu hết các nhà cung cấp và nhập khẩu đều phải đăng kí thuế GTGT. Như vậy với những thuân lợi trong việc áp dụng thuế GTGT sẽ ngày càng được áp dụng phổ biến và rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. 2. Đặc điểm chung của thuế GTGT và tác động của nó đến một số vấn đề kinh tế. Được áp dụng phổ biến trên thế giới, có nhiều nguyên nhân cho thấy thuế GTGT có lợi thuế lớn hơn các loại thuế khác trong đó vấn đề quan trọng là xuất phát từ đặc điểm của loại thuế này nhằm phân biệt nó với loại thuế khác: + Đây là loại thuế gián thu, đánh vào sự tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của mọi thành viên trong nền kinh tế. + Phạm vi đối tượng của thuế rộng. + Thuế GTGT không đánh vào các hoạt động đầu tư, không căn cứ vào hình thái hay công dụng của hàng hóa mà căn cứ vào chính giá trị của sản phẩm hàng hóa đó. + Thuế GTGT không làm tăng đột biến giá cả của hàng hóa mà nó chỉ phụ thuộc vào phần GTGT qua từng khâu lưu chuyển. + Thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao vì nó không can thiệp vào việc khuyến khích hay hạn chế sản xuất một ngành nào đó, không ảnh hưởng đến việc điều khiển vốn của nền kinh tế với thuế suất thấp nên nó không tạo ra sự cách biệt. + Đối tượng miễn giảm thuế rất hạn hẹp do vậy nó bảo đảm được nguồn thu. + Thuế GTGT là một loại thuế đòi hỏi sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ phải chặt chẽ vì căn cứ tính thuế chủ yếu là giá mua vào và giá bán ra, là những vấn đề liên quan đến chứng từ hoá đơn. + Đây là một loại thuế đơn giản trong cách tính, cách quản lý và thu nộp thuế nhưng nó lại mang lại một nguồn thu lớn cho NSNN so với các loại sắc thuế khác. * Tác động của thuế GTGT Xuất phát từ những đặc điểm và những vấn đề ở trên cho thấy thuế GTGT cũng có những ưu nhược điểm của nó so với các loại sắc thuế khác, thể hiện ở tác dụng và hạn chế của nó. Tác dụng cơ bản của thuế GTGT: ã Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. ã Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho NSNN. ã Thuế tính trên giá bán hàng hóa, dịch vụ nên không phải đi sâu xem xét, phân tích, về tính hợp lý hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức, quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. ã Thuế được hoàn đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng suất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. ã Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. ã Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hóa đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ thường xảy ra trốn lậu thuế, tuy vậy ở khâu bán lẻ cuối cùng giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều. ã Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế. Thông thường trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Từ đó tạo được tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh doanh. ã Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hóa, chuyên môn hóa sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm. Nhìn chung trong các sắc thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế. * Hạn chế của thuế GTGT Tuy nhiên, bên cạnh đó thuế GTGT không phải là hoàn hảo nên nó cũng bộc lộ yếu điểm của mình như: ã Chi phí về quản lý, thu thuế GTGT rất tốn kém, để thực hiện tốt thuế GTGT công tác ghi chép hóa đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng minh bạch. Trên thực tế không phải các doanh nghiệp vừa và lớn thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này. Do đó, hầu hết các nước đang thực hiện thuế GTGT đều phải sử dụng máy vi tính để bảo đảm chống thất thu thuế đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi quản lý chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. ã Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính tích luỹ thoái. Tỷ lệ động viên qua thuế GTGT với người có thu nhập thấp lại lớn hơn với người có thu nhập cao, thuế không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người nghèo và người giầu. ã Giữa lý luận và thực tế, thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán. Thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm nhưn._.g đối với một số ngành dịch vụ (như phục vụ, sửa chữa, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học) cách đánh thuế và khấu trừ thuế GTGT như thế nào là hợp lý?. Đối với tài sản cố định mức khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào thuế nào là thỏa đáng... Những vấn đề này là nội dung tranh luận trong nhiều cuộc hội thảo trên thế giới, nhưng đến nay ở nhiều nước trên thế giới vẫn có những quan điểm và cách xử lý rất khác nhau. ã Thuế GTGT có ưu điểm là có tính trung lập cao. Đồng thời cũng lại có nhược điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo, không thật thích hợp với nền kinh tế bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vì những đặc điểm trên, thuế GTGT bị phản ứng và không dẽ dàng được chấp nhận đặc biệt là ở Việt Nam. 3. Điều kiện áp dụng thuế GTGT Thuế GTGT có những đặc điểm, những ưu điểm và tác động rất lớn đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy để phát huy có hiệu quả việc áp dụng thuế GTGT, hạn chế thấp nhất những nhược điểm của nó đòi hỏi việc áp dụng phải dựa trên những điều kiện cần thiết để có một sắc thuế áp dụng trong thực tế được hoàn thiện theo hướng tốt nhất. ở đây, thuế GTGT cũng cần những điều kiện áp dụng của nó đó là: * Những điều kiện chung ã Đối với nền kinh tế phát triển tương đối ổn định, theo nghiên cứu cho thấy thuế GTGT là sắc thuế của nền kinh tế đã phát triển và khi đó giá cả của hàng hóa ổn định hợp lý. Nền kinh tế ổn định đảm bảo cho giá cả hàng hóa ở khâu sau thường cao hơn khâu trước, khi đó thuế đầu ra thường lớn hơn đầu vào, trường hợp hoàn thuế ít xảy ra. ã Nhà nước phải thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật. Nhà nước thực hiện việc thu thuế và quản lý nền kinh tế là hai mặt của một quá trình thống nhất và biện chứng với nhau. Trong trường hợp thuế doanh thu, thuế được thu đứt ở từng khâu và từng cơ cở kinh doanh cho nên nếu có thất thu thuế ở một cơ sở hay một khâu nào đó chỉ là hiện tượng cá biệt, độc lập và mang tính tạm thời. Đối với thuế GTGT, nếu Nhà nước không quản lý được nền kinh tế thì không những không thu được mà còn có thể mất đi một phần thuế ở các khâu trước đó do phải hoàn thuế. ã Chế độ sổ sách hoá đơn chứng từ phải chặt chẽ. Các cơ sở kinh doanh phải thực phải thực hiện việc ghi chép đầy đủ, sổ sách kế toán phải thống nhất. Hóa đơn chứng từ phải sử dụng trong tất cả các hoạt động giao dịch. Việc tính toán, theo dõi và quản lý của cơ quan thuế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở chế độ kế toán thống nhất, hóa đơn chứng từ đầy đủ. Vì vậy nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần, nhiều loại hình doanh nghiệp đều phải được bình đẳng trước pháp luật, hệ thống tài khoản phải thống nhất. ã Các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phải phát triển ổn định ở trình độ cao. Trong một nền kinh tế mà đại bộ phận các quan hệ thanh toán, giao dịch đều được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng thì Nhà nước sẽ thông qua hệ thống ngân hàng để kiểm tra, giám sát được tất cả các hoạt động của các doanh nghiệp. Trên cơ cở đó cơ quan thuế có thể kiểm tra được việc kê khai, tính và nộp thuế GTGT của các doanh nghiệp một cách dễ dàng. ã Trình độ của cán bộ thuế không ngừng được nâng cao cùng với ý thức chấp hành luật thuế của người dân. Vì với cách tính và đặc điểm của thuế của thuế GTGT đòi hỏi cán bộ thuế phải có đủ trình độ, năng lực để thực hiện các quy định, tính và quản lý thu thuế đúng theo quy định của luật thuế và của nhà nước. Đồng thời thuế GTGT chỉ phát huy tích cực đối với nền kinh tế khi các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và luật thuế GTGT nói chung trong việc kê khai nộp thuế. Mặt khác, khi áp dụng thuế GTGT tiền thuế phải được ghi rõ trên các hóa đơn hàng hóa và người mua hàng phải thanh toán. Trong điều kiện như vậy, các cơ sở kinh doanh cũng như mọi người dân phải hiểu về nghĩa vụ đóng thuế, biết ghi chép và lưu giữ hóa đơn chứng từ, đó là cơ sở cho việc tính thuế. ã Phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quản lý thu thuế. Do đặc điểm của thuế GTGT là loại thuế mà khi tính thuế phải nộp ở khâu sau liên quan chặt chẽ đến thuế ở khâu trước đó nên để quản lý được thuế cần phải quản lý chặt chẽ doanh số bán ra và mua vào của các cở sở kinh doanh. Điều đó chỉ thực hiện được tốt khi có hệ thống máy vi tính nối mạng giữa các cơ sở kinh doanh và cơ quan thuế cũng như trong nội bộ ngành thuế. * Những điều kiện cụ thể ã Về phương diện pháp lý Cần phải có luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đây là điều kiện đầu tiên cho việc tiến hành triển khai áp dụng thuế GTGT ở một nước. Để được thực hiện một cách trôi chảy, luật thuế GTGT cần phải đáp ứng được các yêu cầu cư bản sau: Thứ nhất: Đối tượng chịu thuế, nộp thuế phải được xác định rõ ràng. Thứ hai: Phương pháp tính thuế phải khoa học. Phương pháp tính thuế là một trong những nội dung rất quan trọng, quyết định sự thành công của luật thuế GTGT. Phương pháp tính thuế và phạm vi áp dụng của các phương pháp đó có quan hệ mật thiết với hệ thống sổ sách và các tài khoản kế toán phải sử dụng. Phương pháp tính thuế còn là cơ sở để xác định việc khấu trừ thuế và vì thế nó giữ vai trò quyết định trong việc quản lý chống thất thu thuế. Thứ ba: Thuế suất phải hợp lý. Số lượng và các mức thuế suất cụ thể được quy định trong luật thuế phải phù hợp thực trạng nền kinh tế, với đời sống của nhân dân và trình độ quản lý của cơ quan thuế. Tuỳ thuộc tình hình cụ thể của mỗi nước mà có các mức thuế suất khác nhau. Thứ tư: Các luật thuế khác có liên quan phải được thực hiện đồng bộ. Thuế GTGT chỉ có thể phát huy được tác dụng tích cực khi nó được đặt trong mối quan hệ ràng buộc với các luật thuế khác như thuế truy thu đặc biệt, thuế xuất khẩu nhập khẩu, thuế TNDN... Do đó, để áp dụng thuế GTGT, chính phủ cần điều chỉnh lại các luật thuế trên để các chính sách thuế đó bổ trợ cho nhau và cùng phát huy tác dụng tốt đối với nền kinh tế. ã Điều kiện về tổ chức thực hiện: + Công tác kế toán và hóa đơn chứng từ ở các doanh nghiệp phải được đổi mới phù hợp để phù hợp với việc tính thuế GTGT. + Đổi mới công tác quản lý của cơ quan thuế: Cấp mã số thuế, ứng dụng tin học vào công tác quản lý thuế, phát hành và quản lý hóa đơn chứnh từ... Điều đó cũng đặt ra việc hoàn thiện và đổi mới công tác quản lý và sắp xếp lại cán bộ của ngành thuế. + Tuyên truyền giải thích mọi người cùng hiểu và thực hiện luật thuế mới. Tóm lại, thuế GTGT chỉ có thể được áp dụng một cách hoàn chỉnh trong một nền kinh tế ổn định. ở đó nhà nước đã thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật và sự phát triển của lực lượng sản xuất phải đạt được đến trình độ nhất định. Tuy nhiên trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật như hiện nay, các quốc qia không nhất thiết phải đợi thiết lập đầy đủ các điều kiện mới có thể dùng được. Thực tiễn sự phát triển của thuế GTGT cho thấy khi cần thiết phải áp dụng thuế GTGT, các nước phải chuẩn bị các điều kiện cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Đối với Việt Nam điều kiện áp dụng thuế GTGT trong gia đoạn hiện nay như sau: + Đối với một số điều kiện tiền đề, chúng ta không thể hoàn thiện được trong thời gian ngắn mà cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Hơn thế nữa, các điều kiện đó chỉ có thể được hoàn thiện đồng bộ với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Bởi vậy những điều kiện áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam phải được thực hiện dần dần. + Bên cạnh đó cần tập trung hoàn thiện những điều kiện trực tiếp như việc hoàn thiện luật thuế GTGT. Quản lý chặt chẽ công tác kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ trong nền kinh tế. Đây là những điều kiện quan trọng trong công tác tổ chức thực hiện luật thuế GTGT. III- Thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 1. Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT hiện hành Luật thuế GTGT được quốc hội khóa IX thông qua kỳ họp thứ 11 (từ ngày 2/4 đến 10/5/1997) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999 thay cho luật thuế doanh thu. 1.1- Phạm vi áp dụng Thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh trên phần giá tri tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy phạm vi áp dụng của thuế là rất rộng. * Đối tượng chịu thuế GTGT: Theo quy định tại điều 2 luật thuế GTGT và điều 2 nghị định số 79/2000 NĐ-CP ngày 29/12/2000 của chính phủ thì đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng không chịu thuế. * Đối tượng nộp thuế: Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các tổ chức cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu). Tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa bao gồm: + Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đang kí kinh doanh theo luật doanh nghiệp, luật doanh nghiệp nhà nước và luật HTX. + Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các đơn vị sự nghiệp khác. + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. + Cá nhân, hộ gia đình sản xuất kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh doanh khác. Ngoài ra trong luật thuế GTGT cũng quy định các đối tượng không chụi thuế GTGT gồm 26 nhóm hàng hóa được quy địng cụ thể tại mục II phần A thông tư số 122/2000/Thuế-BTC của Bộ tài chính ra ngày 29/12/2000. 1.2- Căn cứ tính thuế. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. * Giá tính thuế Theo quy định tại điều 7 luật thuế GTGT và điều 6 Nghị định 79/2000/NĐ-CP giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ được xác định cụ thể như sau: + Đối với hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước: là giá bán chưa có thuế GTGT. Giá tính thuế đối với các loại hàng hóa dịch vụ bao gồm các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng trừ các khoản phụ thu và phí thu mà các cơ sở kinh doanh phải nộp NSNN. + Đối với hàng hóa nhập khẩu: Là giá tại cửa khẩu nước nhập cộng với thuế nhập khẩu. Giá tính thuế = Giá trị cửa khẩu nước nhập (CIF) + Thuế nhập khẩu + Đối với hàng hóa dùng để biếu, tặng, tiêu dùng nội bộ: Giá tính thuế là giá hàng hóa tương đương cùng loại trên thị trường. + Đối với tiền thu từ hoạt động cho thuê tài sản: giá tính thuế là giá thu được từng kỳ, số tiền ứng trước, trả trước. + Đối với hàng hóa bán trả góp: Là giá hàng hóa bán thanh toán một lần (hay trả một lần). + Đối với hàng hóa gia công: Là số tiền thu từ gia công hàng hóa, bạo gồm tiền thuê gia công và chi phí nguyên vật liệu. + Đối với một số chứng từ thang toán đã bao gồm cả thuế: Giá tính thuế = Giá thanh toán 1+% thuế suất + Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam: Giá tính thuế là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài. + Đối với xây dựng lắp đặt: Giá tính thuế là giá trị xây dựng lắp đặt. + Đối với dịch vụ đại lý môi giới, uỷ thác XNK và dịch vụ khác hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng chưa có thuế GTGT. + Đối với vận tải, bốc xếp dỡ: Là cước vận tải, bốc xếp. * Thuế suất thuế GTGT ở Việt nam hiện nay đang áp dụng 4 mức thuế GTGT cụ thể: + Thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu hoặc liên quan đến xuất khẩu. + Thuế suất 5%: áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ mang tính tất yếu và các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp chưa qua chế biến, các hàng hóa, dịch vụ được khuyến khích phát triển. + Thuế suất 10%: áp dụng đối với tất cả các mặt hàng không áp dụng mức 0%, 5%, 20%. Các mặt hàng này không mang tính phổ thông. + Thuế suất 20%: áp dụng đối với các mặt hàng mang tính chất đặc biệt, cao cấp, xa xỉ, các mặt hàng ít được khuyến khích tiêu dùng. 1.3- Phương pháp tính thuế ở Việt Nam vì có nhiều thành phần kinh tế nên không thể áp dụng một phương pháp thống nhất. Vì vậy chúng ta áp dụng hai phương pháp là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ thuế tuỳ theo đối tượng và điều kiện mà áp dụng theo phương pháp phù hợp. * Phương pháp khấu trừ thuế. ã Đối tượng áp dụng: Là tất cả các đơn vị tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp được thành lập theo luật công ty, luật doanh nghiệp, luật HTX cùng một số hộ kinh doanh lớn. Đồng thời tất cả các đối tượng, các cơ sở kinh doanh này đều thực hiện được đầy đủ chế độ hạch toán hóa đơn chứng từ. ã Phương pháp tính: Thuế GTGT phải nộp - Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Trong đó: Thuế GTGT đầu ra = Doanh số bán ra x Thuế suất thuế GTGT của HH, DV đó Doanh số bán ra = Khối lượng HH, DV x Giá tính thuế của HH, DV đó Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn mua HH, DV - Thuế GTGT được khấu trừ khống theo quy định Tỷ lệ khấu trừ không được quy định: + Tỷ lệ 3% trên giá mua đối với hàng hóa, dịch vụ và đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT có hóa đơn bán hàng. + Tỷ lệ 2%-5%: Đối với các cơ sở kinh doanh thương mại và sản xuất mua hàng hóa của người trực tiếp sản xuất không có hóa đơn. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà quy định mức khấu trừ không khác nhau: * Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp. ã Đối tượng áp dụng: Là các hộ kinh doanh cá thể không có điều kiện để áp dụng đầy đủ chế độ hạch toán kế toán hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Các cở sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ. ã Phương pháp tính: Đánh trên phần tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ Số thuế GTGT phải nộp = GTGT x Thuế suất thuế GTGT Nếu cơ sở sản xuất kinh doanh có đầy đủ hoá đơn, chứng từ đầu vào, đầu ra: GTGT = Doanh số bán ra - Doanh số mua vào - Nếu cơ sở sản xuất kinh doanh chỉ có hoá đơn đầu ra, không có hoá đơn đầu vào: GTGT = Doanh số bán ra x Tỉ lệ % GTGT Nếu cơ sở sản xuất kinh doanh đều không có điều kiện có cả hoá đơn chứng từ đầu vào và đầu ra thì ấn định một mức doanh số: GTGT = Doanh số khoán x Tỉ lệ % GTGT 1.4- Quy định về hóa đơn chứng từ Đối với thuế GTGT áp dụng hai loại hoá đơn là hàng hóa giá trị gia tăng và hoá đơn bán hàng. ã Hóa đơn thuế GTGT áp dụng đối với các đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Đối với các cơ sở, đơn vị kinh doanh khi xuất hoá đơn thuế GTGT phải ghi đầy đủ chi tiết. Nếu hóa đơn ghi không đầy đủ thì cơ sở mua hàng sẽ không được khấu trừ và cơ sở bán hàng phải tính và nộp thuế trên giá thanh toán. ã Hoá đơn bán hàng: áp dụng đối với đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Các đơn vị sử dụng hoá đơn đặc thù phải tuân theo những quy định về phát hành hoá đơn của cơ quan thuế. 1.5- Miễn giảm thuế * Miễn giảm thuế GTGT. Bộ Tài chính quy định thủ tục và thẩm quyền xét miễn giảm thuế trong các trường hợp sau: ã Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc ĐTNT GTGT theo phương pháp khấu trừ trong những năm đầu áp dụng thuế GTGT mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế. ã Mức thuế GTGT được xét giảm đối với từng cơ sở kinh doanh tương ứng với số lỗ nhưng không quá số chênh lệch giữa thuế GTGT phải nộp với số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây của năm được xét giảm thuế. ã Thời gian được xét giảm thuế GTGT theo quy định trên được xét từng năm, tính theo năm dương lịch và chỉ thực hiện trong ba năm đầu kể từ năm 1999 đến hết năm 2001. Các đối tượng thuộc đối tượng miễm giảm thuế phải nộp hố sơ đề nghị giảm thuế gửi cơ quan thuế. Cơ quan thuế phối hợp với các ngành liên quan xem xét và thông báo giảm thuế đối với các cơ sở kinh doanh được miễm giảm. ã Đối với các trường hợp được miễm giảm thuế theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia hoặc theo các cam kết của chính phủ về việc miễm giảm thuế do chính phủ hoặc Bộ tài chính quy định. ã Miễm thuế chỉ được áp dụng trong hai trường hợp: + Các hộ kinh doanh có thu nhập một tháng < 210.000 đ (lương tối thiểu). + Các hộ sản xuất kinh doanh nghỉ quá 15 ngày trong một tháng thì được xem xét miễm thuế trong tháng đó. 1.6- Hoàn thuế GTGT * Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế. ã Cơ sở kinh doanh thuộc ĐTNT theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau: +Cơ sở kinh doanh trong ba tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế toán) có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế . + Cơ sở kinh doanh có hàng hóa xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng hoặc theo chuyến hàng (nếu xác định được thuế GTGT đầu vào riêng của chuyến hàng ). ã Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian từ một năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu trở lên thì được xét hoàn thuế từng quý. ã Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị hoàn thuế. ã Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. ã Các cơ quan nhà nước không được hoàn thuế. * Thủ tục hoàn thuế. Do chủ doanh nghiệp đề nghị xin hoàn thuế, có các bản kê hàng hóa mua vào, bán ra. Cơ quan thuế tiếp nhận hồ sơ thực hiện việc kiểm tra và xác định số hoàn thuế. Lập quyết định hoàn thuế. Tiền hoàn thuế GTGT được sử dụng từ quỹ hoàn thuế GTGT tại kho bạc nhà nước. 1.7- Đăng ký, kê khai nộp thuế và quyết toán thuế * Đăng ký nộp thuế Cơ sở kinh doanh phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế trong vòng 10 ngày kể từ khi được cấp giấy kinh doanh. Các doanh nghiệp đặt ở đâu thì phải đăng ký với cơ quan thuế ở địa phương đó. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, nếu thực hiện được đúng, đủ các điều kiện mua bán hàng có đầy đủ hóa đơn, chứng từ, ghi chép hạch toán sổ kế toán đúng chế độ, kê khai, nộp thuế GTGT đúng chế độ và tự nguyện đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì được áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đăng ký nôp thuế với cơ quan thuế. Cơ quan thuế có trách nhiệm cấp mã số thuế và giấy chứng nhận đăng ký thuế cho cơ sở kinh doanh. * Kê khai nộp thuế. Hàng tháng vào ngày 10 các cơ sở kinh doanh phải nộp tờ khai thuế GTGT nếu có thuế GTGT đầu ra lớn hơn thuế GTGT đầu vào chậm nhất phải nộp thuế vào ngày 15 hàng tháng, nếu nộp chậm một ngày phạt 0.1%. * Quyết toán thuế Việc quyết toán thuế được thực hiện trong 60 ngày đầu của năm tiếp theo và phải hoàn tất việc quyết toán thuế của năm trước trong hai tháng đầu năm. 1.8- Sử lý vi phạm về thuế ĐTNT vi phạm luật thuế GTGT bị xử lý tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà bị cảnh cáo hoặc phạt tiền. ã Nếu không thực hiện đúng quy định về sổ sách chứng từ: Tuỳ theo mức độ mà cảnh cáo hoặc phạt tiền. ã Nếu nộp chậm tiền thuế thì mỗi ngày phạt 0,1% số tiền chậm nộp. ã Khai man, trốn thuế thì ngoài phải nộp đủ số thuế theo quy định tuỳ tính chất và mức độ vi phạm còn bị phạt từ 1-5 lần số tiền thuế gian lận, nếu nghiêm trọng sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Cơ quan thuế khi phát hiện các cơ sở kinh doanh vi phạm phải kiểm tra xác định rõ hành vi vi phạm, mức độ, nguyên nhân vi phạm, trách nhiệm của tổ chức cá nhân đối với việc vi phạm, lập hồ sơ theo quy định và ra quyết định sử phạt. Các ĐTNT cũng có quyền khiếu lại nếu cơ quan thuế thi hành không đúng luật thuế GTGT. 2. Thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 2.1- Sự tồn tại của thành phần kinh tế cá thể trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam Sau hơn một thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới cùng với sự chuyển biến của nền kinh tế, thành phần kinh tế cá thể đã được “khai sinh trở lại“, từng bước phát triển và càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước. Trong những năm trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế cá thể được coi là “hàng ngày, hàng giờ” đẻ ra CNTB vì vậy luôn là đối tượng của cải tạo XHCN và không được khuyến khích phát triển. Sau khi đất nước lâm vào tình trạng khủng khoảng trầm trọng. Đến đại hội VI (1986) đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, mạnh dạn phê phán những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, nóng vội trong cải tạo XHCN những năm qua. Đại Hội nêu rõ “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần kinh tế XHCN gồm: khu vực kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và các thành phần kinh tế khác như: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân”. Tại Đại hội VII chủ trương này tiếp tục được khẳng định. Thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế cá thể gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Nếu như thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo nắm giữ những bộ phận then chốt thì thành phần kinh tế cá thể nói riêng và kinh tế ngoài quốc doanh nói chung chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng ngày càng pháp triển và chiếm một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Nó không những tạo ra một lượng sản phẩm không nhỏ trong tổng sản phẩm xã hội mà nguồn thu từ thành phần kinh tế này vào NSNN cũng chiếm một tỷ trọng lớn và nó còn thu hút được một lực lượng lớn lao động nhàn rỗi, đáp ứng được yêu cầu của xã hội mà thành phần kinh tế quốc doanh chưa thực hiện được. Như vậy thành phần kinh tế cá thể vẫn còn tồn tại như một tất yếu khách quan. Nó bổ xung hỗ trợ cho thành phần kinh tế quốc doanh nhất là khi sự đầu tư của nhà nước cho thành phần kinh tế này còn hạn chế, chưa đạt được hiệu quả và thành phần kinh tế này cũng chưa xứng với vị trí chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Phạm vi hoạt động của thành phần kinh tế cá thể rất rộng lớn, phát triển trong tất cả các ngành, nghề ở các thành thị và nông thôn, đặc biệt nó dễ dàng và linh hoạt trong việc chuyển đồi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường và nền kinh tế. Tiềm lực kinh tế và trí sáng tạo của quần chúng, động lực làm giầu của người kinh doanh, tinh thần lao đọng cần cù của nhân dân được khơi dậy và khuyến khích phát triển đã tạo ra được nội lực mới cho nền kinh tế. Với một lực lượng lao động lớn, khả năng về vốn kỹ thuật và tay nghề, trang bị và công cụ sẵn có trong tay có thể vận dụng nguồn hàng, nguồn tài nguyên tại chỗ, sẵn có để tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống, tăng cường nguồn hàng suất khẩu, bổ sung cho thành phần kinh tế quốc doanh về mặt nguyên liệu, vật liệu trong sản xuất, về thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành công nghiệp quốc doanh và là trung gian lưu chuyển hàng hóa giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Riêng đối với ngành tiểu thủ công nghiệp, không những hỗ trợ cho thành phần kinh tế quốc doanh mà còn phục vụ đắc lựu cho đời sống hàng ngày của người dân. Mặt khác, với những ngành nghề đa dạng và phong phú lại phân bổ ở mọi nơi, mọi vùng trên đất nước, từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi tới miền ngược, kể cả những nơi mà kinh tế quốc doanh không vươn tới được. Với vai trò như vậy sự tồn tại của khu vực kinh tế cá thể là cần thiết khách quan, bắt nguồn từ nhu cầu sản xuất, đời sống và xã hội. Với những ưu điểm trên, hoạt động của thành phần kinh tế này ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 2.2- Sự cần thiết phải quản lý thuế GTGT đối với khu vực kinh tế cá thể. Xuất phát từ sự tồn tại tất yếu và vai trò của thành phần kinh tế cá thể. Trong điều kiện các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng trước pháp luật thì ta không chỉ tăng cường quản lý thu thuế đối với thành phần kinh tế quốc doanh mà còn phải chú trọng nhiều đến thành phần kinh tế quốc doanh và cụ thể là thành phần kinh tế cá thể, một thành phần có số lượng rất lớn, địa bàn trải rộng và đặc biệt còn mang nhiều những khó khăn trong công tác quản lý thu nộp. Hiện nay, kinh tế cá thể chưa được định hướng phát triển theo quy hoạch kinh tế - xã hội của từng địa bàn, chưa gắn với chế biến sản xuất xuất khẩu, các tổ chức, đơn vị trong thành phần này tự bung ra và tự điều chỉnh trong quan hệ thị trường với các thành phần kinh tế khác. Thu thuế đối với khu vực kinh tế cá thể thực sự là một mặt trận nóng bỏng và vô cùng phức tạp. Khu vực kinh tế cá thể bao gồm nhiều đối tượng kinh doanh, quy mô hoạt động đa dạng, rất linh hoạt gắn với quyền lợi, thu nhập trực tiếp của họ. Trong những năm qua với sự đổi mới về kinh tế các loại hình kinh doanh phát triển rất nhanh, số hộ tham gia kinh doanh ngày càng nhiều, một số hoạt động kinh doanh đúng hướng mang lại hiệu quả kinh tế cao, chấp hành nghiêm chỉnh các luật thuế. Tuy nhiên, tình trạng trốn lậu thuế, trốn tránh sự kiểm tra kiểm soát của cơ quan thuế diễn ra thường xuyên với rất nhiều thủ đoạn, từ đơn giản như kê khai ít, trốn doanh thu, có không ít trường hợp họ còn đe dọa khống chế cán bộ thuế khi kiểm tra xử lý. Do đó một vấn đề nhức nhối không những với ngành thuế mà còn gây sự lo lắng đối với xã hội là việc thất thu từ khu vực này khá lớn. Đặc biệt đối với luật thuế GTGT và thuế TNDN mới được áp dụng 3 năm nên trong quá trình thực hiện còn có nhiều khó khăn do nhận thức của người dân, đồng thời do trình độ cán bộ quản lý nói chung chưa theo kịp với sự phát triển cũng như các thủ đoạn trốn thuế của các đối tượng kinh doanh trong cơ chế thị trường. Vì vậy, yêu cầu về tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với khu vực này trở nên cấp thiết. Tăng cường quản lý thu thuế thực chất là dùng các biện pháp để thu được số thuế vào NSNN một cách hợp lý và có hiệu quả nhất. Nói một cách cụ thể thì tăng cường quản lý trên các khía cạnh sau: + Quản lý về ĐTNT. + Quản lý căn cứ tính thuế - doanh số. + Quản lý thu nộp thuế. Việc quản lý chặt chẽ thuế sẽ góp phần hạn chế tối đa hiện tượng trốn lậu thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ theo đúng quy mô kinh doanh của từng cơ sở, góp phần bảm bảo tính công bằng xã hội. Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các hộ kinh doanh. 2.3- Thuế GTGT áp dụng với các hộ kinh doanh Do có nhiều nguyên nhân về mặt hóa đơn chứng từ, do dặc trưng của ngành nghề sản xuất kinh doanh nên các hộ kinh doanh khó áp dụng phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Vì vậy Bộ tài chính đã có thông tư hướng dẫn một số điểm về thu thuế GTGT đối với các cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT như sau: 2.3.1. Đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế GTGT theo quy định tại thông tư số 173/1998/TT- BTC ngày 22-12-1998 của Bộ tài chính là các cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa , dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh, có đăng ký kinh doanh hay không đăng ký kinh doanh (gọi chung là hộ kinh doanh) thuộc đối tượng phải nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp bao gồm: + Các cá nhân và nhóm cá nhân sản xuất , kinh doanh theo quy định. + Các hộ kinh tế gia đình sản xuất kinh doanh theo quy định bao gồm cả những hộ nông dân có chế biến sản phẩm nông sản do mình trực tiếp sản xuất ra. + Các cá nhân kinh doanh lưu động. + Người cho thuê tài sản: Nhà, cửa hàng, kho bãi... + Các cá nhân, nhóm cá nhân hành nghề tự do. + Các cá nhân, nhóm cá nhân làm việc trong các tổ chức kinh tế nhận khoán tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. 2.3.2. Căn cứ tính thuế. Căn cứ tính thuế GTGT đối với hộ cá thể sản xuất kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp là GTGT và thuế suất. * GTGT: GTGT của hàng hóa, dịch vụ là chênh lệch giữa giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán ra trừ (-) giá thanh toán của hàng hóa và dịch vụ mua vào. GTGT = Doanh số bán ra - Doanh số mua vào. + Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra (gọi là doanh số bán ra) tính theo số lượng hàng hóa dịch vụ bán ra và giá bán thực tế bên mua phải thanh toán bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm (nếu có). + Giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng: Được xác định bằng số lượng hàng hóa, dịch vụ nhân (x) với đơn giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào mà cơ sở đã dùng vào sản xuất kinh doanh tương ứng với số lượng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra. Đối với một số ngành nghề kinh doanh GTGT được xác định như sau: + Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh thương nghiệp. GTGT là số chênh lệch giữa danh số bán ra với giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán ra thì xác định như sau: Giá thanh toán hàng mua vào tương ứng = Giá thanh toán mua hàng tồn đầu kỳ + Giá thanh toán mua hàng trong kỳ - Giá thanh toán mua hàng tồn cuối kỳ + Đối với xây dựng, lắp đặt : Giá trị gia tăng = Tiền thu về XD, lắp đặt công trình, hạng mục công trình - Chi phí vật tư, NVL, vận tải, mua ngoài khác phục vụ hoạt động đó + Đối với hoạt động vận tải: Giá trị gia tăng = Tiền thu cước vận tải, bốc xếp - Chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế vàchi phí mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải + Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống: Giá trị gia tăng = Tiền thu về bán hàng ăn uống, DV và thu khác - Giá thanh toán hh, dv mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống + Đối với hoạt động cho thuê tài sản: Giá trị gia tăng = Tiền thu về cho thuê - Giá trị vật tư NVL, dùng cho sửa chữa và chi phí điện , nước + Đối với hoạt động bán hàng, uỷ thác mua hàng hưởng hoa hồng GTGT như đối với hoạt động kinh doanh thương nghiệp. + Đối với các hoạt động kinh doanh khác: Giá trị gia tăng = Tiền thu về hoạt động kinh doanh - Giá thanh toán của hh, dv mua ngoài để phục vụ cho hoạt động kinh doanh đó * Thuế suất thuế GTGT. Theo quy định thuế suất thuế GTGT được áp dụng thống nhất mức thuế suất chung của._. của hộ kinh doanh và ấn định mức thuế cao cùng với việc sử phạt hành chính. Đặc biệt là những hộ sản xuất kinh doanh mà sử dụng những hóa đơn không phải do Bộ Tài chính phát hành mà không đăng ký thì phải bị xử lý và coi như hành vi khai man, trốn lậu thuế. Thứ ba: Cán bộ thuế cần phải có sự kiểm tra khóa sổ kế toán, cuối tháng hoặc cuối quý của các hộ sản xuất, kinh doanh xem có chính xác, có khớp với số liệu trên những hóa đơn, chứng từ mua bán của tháng đó hay không, có như vậy thì việc quản lý GTGT tính thuế mới được chặt chẽ. Nhờ đó chống được tình trạng trốn lậu thuế, khai man đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Thứ tư: Cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra việc kê khai GTGT tính thuế của từng tháng. Nếu phát hiện có sự chênh lệch giữa số liệu kê khai và số liệu quyết toán do nguyên nhân khách quan thì yêu cầu cơ quan kê khai bổ sung kịp thời. Đối với các trường hợp cố tình kê khai sai số chênh lệch lớn phải tiến hành tính số thuế phải nộp và phạt trốn lậu thuế theo quy định của pháp luật. 3. Giải pháp quản lý thu nộp tiền thuế Đây là khâu quan trọng nhất, là hiệu quả thể hiện kết quả các khâu trước đã được làm tốt chưa. Vấn đề chủ yếu ở khâu này là cần phải tìm ra phương hướng để đẩy nhanh việc nộp thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh và hạn chế tối đa thuế nợ đọng, cũng như giải quyết các số thuế còn tồn đọng. Trong năm, các nhân viên trong toàn Chi cục đã tham mưu cố vấn cho ban chấp hành lãnh đạo Chi cục xây dựng các kế hoạch năm, quý, tháng giao cho đội thuế phường. Nhưng để kế hoạch thực sự mang tính chất thực tiễn là mục tiêu phấn đấu và thước đo đánh giá kết quả hoạt động của cơ sở, đòi hỏi Chi cục cần chú trọng xây dựng đội ngũ kế hoạch đủ về số lượng, am hiều các lĩnh vực, các diễn biến của thị trường. * Tăng cường việc giám sát, đôn đốc thường xuyên của cán bộ thuế nhằm thúc đẩy nhanh việc thu nộp tiền thuế. Qua ba năm thực hiện thuế GTGT, Chi cục thuế có tỷ lệ nợ đọng thuế tương đối thấp, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những yếu kém. Để khắc phục những tồn tại trong vấn đề này, Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng cần có những giải pháp sau: - Cán bộ thuế phải đôn đốc thu nộp thường xuyên theo đúng ngày, đúng số tiền, địa điểm ghi thông báo thuế, không để cho các hộ dây dưa tiền thuế, thu dứt điểm số thuế phải thu ngày tháng, Chi cục cần có sự phân công rõ ràng. Thường xuyên các cán bộ phụ trách phải chấm bộ để theo dõi kết quả thu nộp, nhằm phát hiện ra những hộ nợ đọng thuế và tìm ra nguyên nhân để có biện pháp xử lý thích hợp. - Đối với những hộ thu theo phương pháp kê khai, công tác quyết toán thuế phải được làm kịp thời theo định kỳ vào cuối tháng, cuối quý, cuối năm. - Cần áp dụng việc thu thuế qua Kho bạc đối với tất cả các hộ sản xuất, kinh doanh nhằm hạn chế việc tiêu cực từ cán bộ thuế. * Biện pháp xử lý những hộ cố tình vi phạm Trong trường hợp các hộ cố tình vi phạm về chế độ sổ sách kế toán, cố tình không chịu nộp thuế, cũng như không trả tiền thuế nợ, phải có biện pháp xử lý kịp thời như phạt hành chính, phạt tiền, tịch thu tài sản và cao hơn nữa là truy tố. - Đối với những hộ nợ đọng thuế phải làm đủ căn cứ để có cơ sở cho thanh tra của Chi cục hay đội liên ngành xử lý, chỉ làm thủ tục xoá bỏ hộ nợ đọng thuế khi hộ đó thực sự bỏ kinh doanh hay có lý do chính đáng khác. - Đối với cán bộ thuế: Những cán bộ thuế đã thu tiền thuế nhưng lại xâm phạm tiêu tiền thuế và chuyển sang khoản thuế nợ đọng, tiền thuế không nộp đúng thời gian quy định thì sẽ bị xử phạt nộp chậm theo quy định. Muốn phát hiện được tình trạng trên ban lãnh đạo Chi cục thuế cần phải cử đoàn thanh tra tổ chức kiểm tra toàn bộ biên lai nộp thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, có thể đột xuất hoặc thường xuyên để so sánh với số thu của từng cán bộ thuế cố tình vi phạm. Thông báo cho các hộ khi nộp tiền thuế phải yêu cầu cán bộ nộp thuế đưa ngay biên lai nộp tiền thực. Bên cạnh đó Chi cục cũng cần phải khen thưởng kịp thời với những cán bộ có thành tích trong việc hoàn thành quản lý thu nộp tiền thuế. Nói chung, quy tắc thu nộp tiền thuế cần phải thực hiện theo đúng quy trình thu thuế đối với các hộ kinh doanh. Khuyến khích cán bộ nộp thuế tại Kho bạc sau đó báo về cho cơ quan thuế nhằm tránh tình trạng như hiện nay là các cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu từng hộ gây tốn kém chi phí về người và của, dễ dẫn đến tiêu cực đối với các cán bộ thuế. 4. Biện pháp nhằm tăng cường việc quản lý sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ Trong thực tế khi áp dụng luật thuế này vấn đề sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ luôn là trở ngại lớn nhất. Đặc biệt đối với việc thực hiện quy trình quản lý thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh. Trong tình hình chung đó việc chấp hành chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ của các hộ do Chi cục quản lý còn chưa tốt. Trên địa bàn Quận số hộ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ còn chiếm tỷ lệ thấp, số hộ nộp thuế theo phương pháp có liên quan đến việc phải mở sổ sách kế toán hóa đơn, chứng từ chỉ chiếm khoảng 20%. Vì vậy, vấn đề đặt ra khi áp dụng thuế GTGT cho đến nay vẫn là các biện pháp nhằm củng cố đối với các hộ kinh doanh đã áp dụng chế độ kế toán, thống kê, đồng thời từng bước triển khai việc áp dụng chế độ kế toán, thống kê đối với các hộ cá thể kinh doanh đang nộp thuế theo phương pháp khoán, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, chống thất thu thuế GTGT có hiệu quả lớn. Thứ nhất là: Cần tuyên truyền, giải thích cho các hộ kinh doanh hiểu về tác dụng, vai trò của việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán. Cần giải thích cho các hộ kinh doanh hiểu được việc sử dụng hóa đơn, chứng từ sẽ làm cho họ không bị thiệt thòi khi căn cứ tính thuế chính xác hơn, đồng thời được khấu trừ thuế đầu vào khi mua hàng. Qua đó, cũng thuận lợi cho việc kiểm tra thực hiện kế hoạch, chủ trương, hợp đồng sản xuất, kinh doanh, thu chi tài chính, kỷ luật thanh toán, kiểm tra sử dụng và bảo vệ tài sản, tiền vốn nhằm đảm bảo tính chủ động trong sản xuất kinh doanh và vật tư, tài chính của hộ kinh doanh. Thứ hai là: Phải đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc quản lý hàng hóa, công tác quản lý hóa đơn phải được thực hiện từ gốc. Trước hết, mỗi lần mua hóa đơn cơ sở phải xuất trình sổ theo dõi mua hóa đơn với cơ quan thuế. Khi nhận hóa đơn do cơ quan thuế giao cơ sở phải đếm từng quyển, từng tờ đối chiếu với sổ theo dõi, đồng thời cơ sơ kinh doanh phải viết đầy đủ về tên, địa chỉ, mã số ngành nghề vào tất cả các liên giao cho khách hàng trước khi sử dụng quyển hóa đơn đó, nhằm ngăn chặn tình trạng các cơ sở kinh doanh bán lại hoá đơn trắng cho người khác sử dụng. Cần quy định cán bộ trực tiếp quản lý cơ sở phải thường xuyên theo dõi kiểm tra, quản lý việc ghi chép trên hóa đơn trước khi mua hóa đơn mới. Đối với các hộ nghỉ kinh doanh lâu, cán bộ thuế cần lập biên bản tạm thu hồi các quyển chưa dùng tránh việc lợi dụng hoá đơn còn lại để xuất hàng chốn lậu thuế. Trường hợp bị mất hóa đơn hộ kinh doanh phải lập biên bản ghi rõ nguyên nhân, báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý và thông báo rộng rãi để vô hiệu hoá việc sử dụng hóa đơn đã mất. Trong quá trình sử dụng hóa đơn, chứng từ cán bộ thuế thường xuyên theo dõi để phát hiện các trường hợp lô hàng không xuất hóa đơn, nội dung ghi chép không rõ ràng, không đúng quy định và xử lý theo chế độ. Thứ ba là: Tăng cường các biện pháp nhằm ngăn chặn việc trốn thuế qua sử dụng hóa đơn GTGT, Chi cục thuế cần làm những việc sau: - Khi kiểm tra thuế đầu vào, đầu ra (đối với các hộ nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ) cán bộ thuế phải đối chiếu kỹ lưỡng các hóa đơn GTGT do các hộ sản xuất, kinh doanh phát hành. Những hóa đơn có giá trị lớn phải đối chiếu với cơ quan thuế quản lý và người bán hàng để phát hiện những thủ đoạn gian dối. - Phối hợp chặt chẽ với công an kinh tế quận để phát hiện các trường hợp mua bán hóa đơn GTGT bất hợp pháp nhằm trốn thuế. - Xử lý nghiêm minh các đối tượng in, mua bán hóa đơn giả hoặc vi phạm những quy định sử dụng hóa đơn GTGT. Hiện nay, Bộ Tài chính có khuyến khích các doanh nghiệp tự in, phát hành hoá đơn nhưng thường chỉ thực hiện được ở các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, đối với các hộ việc sử dụng hoá đơn in sẵn của Bộ Tài chính vẫn là phổ biến, do đó thông qua việc bán hoá đơn này cơ quan thuế sẽ có biện pháp quản lý thuận lợi hơn. Thứ tư là: Phải có chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm trong việc sử dụng hóa đơn, chứng từ và việc quản lý chúng đối với các bộ thuế. 5. Biện pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế Trong các năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra tại Chi cục luôn đạt được những kết quả tốt trong việc kiểm tra doanh thu, thực hiện chế độ sổ sách kế toán, kiểm tra các hộ nghỉ kinh doanh. Đặc biệt đã rất tích cực trong công tác kiểm tra, quyết toán thuế tại các hộ kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại Chi cục vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt trong việc kết hợp quy trình quản lý thu thuế đối với các hộ. Trong thực hiện quy trình, vai trò kiểm tra, giám sát lẫn nhau rất quan trọng nhưng bộ phận thanh tra, kiểm tra chỉ mới thực hiện những công việc đơn giản, chưa hỗ trợ được đội thuế theo dõi tình hình thu nộp của các hộ một cách sâu sát. Đặc biệt công tác kiểm tra nội bộ mới chỉ thực hiện theo cách chống đối. Vì vậy, đối với công tác thanh tra, kiểm tra cần có các biện pháp để tăng cường hiệu quả cho hoạt động này như: - Chức năng thanh tra, kiểm tra giữ một vai trò quan trọng, nhưng để đảm bảo cho cơ chế tự kê khai nộp thuế hoạt động hiệu quả, chức năng thanh tra cần được tăng cường. Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra là giảm xuống mức thấp nhất sự chênh lệch giữa số thuế đối tượng tự kê khai và số thuế phải nộp theo luật định. Do trên địa bàn có số lượng cơ sở kinh doanh lớn, việc kiểm tra các đối tượng trong năm là khó thực hiện, vì vậy phạm vi kiểm tra cần được phân loại theo từng loại căn cứ vào sổ bộ thuế môn bài để có thể kiểm tra cả về số lượng ĐTNT, mức doanh thu và kiểm tra tình hình nộp thuế. Từ đó, có kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện phù hợp với quy mô của ĐTNT. - Đối với công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ: Thường xuyên tăng cường kiểm tra chéo sổ sách, kiểm tra chéo địa bàn để nâng cao trách nhiệm và hạn chế bớt những tiêu cực của cán bộ thuế. - Đẩy mạnh tiến độ kiểm tra quyết toán thuế GTGT đối với các hộ. - Kết hợp kiểm tra thường xuyên và kiểm tra đột xuất, kết hợp với các ngành chức năng kiểm tra việc đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế. Để đạt được hiệu quả trong công tác trên thì các cán bộ thanh tra cần thường xuyên nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của họ. 6. Biện pháp tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục luật pháp về thuế Đến nay không còn là thời điểm truyền đạt chính sách, chế độ thuế chung chung mà cần sâu sát cơ sở, nắm bắt thắc mắc cụ thể và kịp thời giải đáp để mọi cơ sở kinh doanh và các tầng lớp dân cư thông suốt về thuế GTGT, tạo điều kiện giúp cho các hộ thuộc mọi quy mô kinh doanh nắm chắc những việc thật cụ thể mà họ phải làm từ quá trình kê khai, đăng ký mã số thuế đến tính thử, đến việc kê khai đăng ký mua hoá đơn, viết hoá đơn, lập sổ sách kế toán theo hệ thống tài khoản có liên quan đến thuế GTGT. Trong công tác tuyên truyền không chỉ là một chiều mà cần lắng nghe thắc mắc, tâm tư, nguyện vọng để giải đáp hoặc phản ánh lên cấp trên nghiên cứu sửa đổi bổ sung để chính sách ngày càng phù hợp, hoàn thiện. Cần quan tâm tới cả những hình thức xử lý vi phạm để phát huy tính giáo dục, răn đe, ngăn ngừa vi phạm về thủ tục khai báo, quản lý về sử dụng hoá đơn, kế toán, về trốn lậu thuế. Thành lập các điểm tư vấn pháp luật về thuế, kịp thời giúp đỡ các cơ sở kinh doanh nắm bắt và thực hiện đúng các luật thuế hiện hành. 7. Các biện pháp về tổ chức cán bộ Thường xuyên kiểm tra việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ thuế. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tổ chức cán bộ, đơn vị có hoàn thành được nhiệm vụ được giao hay không là phụ thuộc vào yếu tố con người. Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng đã chú trọng công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ thuế. Việc bố chí sắp xếp công việc tương đối phù hợp với mỗi cán bộ. Song so với yêu cầu, nhiêm vụ đặt ra thì công tác tổ chức cán bộ của Chi cục vẫn còn có nhiều hạn chế cần khắc phục theo hướng: - Có kế hoạch thường xuyên cử cán bộ đi các lớp chuyên môn như đại học chuyên ngành về thuế, cử các cán bộ thuế đi dự các lớp tập huấn về nhiệm vụ do ngành thuế tổ chức. - Kiện toàn các tổ chức chuyên môn trên văn phòng đủ về số lượng, mạnh về chất lượng để đảm bảo được nhiệm vụ của mình. - Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện nay, Chi cục phải thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về tin học để đưa nên mạng máy tính sử dụng vào quản lý thuế. * Tuyển dụng những cán bộ thuế có đủ năng lực về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Điều kiện môi trường làm việc dễ làm thoái hoá, biến chất cán bộ thuế, trong điều kiện thay đổi cán bộ thuế không thực hiện được do số lượng cán bộ thuế còn ít, và việc thay đổi sẽ dẫn đến hiện tượng các cán bộ thuế chưa nắm được tình hình trên địa bàn mình quản lý đã phải chuyển đi nơi khác, do đó cần phải đẩy mạnh công tác thanh tra nội bộ làm trong sạch đội ngũ cán bộ thuế. Trong điều kiện hiện nay ở Chi cục phải quản lý một số lượng hộ kinh doanh quá lớn, trong khi số cán bộ thuế còn quá ít. Do đó Chi cục phải tổ chức tuyển dụng thêm các công nhân viên có trình độ chuên môn sâu, có tư cách đạo đức tốt. Hạn chế việc nhận những cán bộ quen biết mà trình độ kém hoặc không đúng chuyên môn. Có như vậy thì Chi cục thuế mới có đủ sức mạnh, khả năng, điều kiện để hoàn thành nhiệu vụ trong giai đoạn hiện nay. * Có sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cấp ngành khác. Chi cục thuế phải luôn tăng cường phối hợp với các ngành, các cấp có thẩm quyền trong việc quản lý thu thuế đặc biệt đối với các ngành nội chính như công an kinh tế, viện kiểm soát, quản lý thị trường trên địa bàn Quận để tạo điều kiện thuận lơi trong việc quản lý các ĐTNT, quản lý khâu thu nộp tiền thuế và xử lý những trường hợp vi phạm. IV- Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy tiến trình hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các hô kinh doanh cá thể trên địa bàn Quận Hai bà trưng 1. Đối với Nhà nước. * Hoàn thiện luật thuế GTGT Thực tế cho thấy luật thuế GTGT về cơ bản đã khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu trước đây. Nhưng bên cạnh đó thuế GTGT áp dụng đối với thành phần kinh tế cá thể chưa thực sự phù hợp, không phản ánh đúng được bản chất của thuế GTGT do các yếu tố, điều kiện thực hiện thuế GTGT đối với thành phần kinh tế này chưa đầy đủ. Vì vậy đối với thành phần kinh tế này có thể thực hiện điều chỉnh chuyển đổitheo hướng sau:một bộ phận hộ đã thực hiện đủ các điều kiện về chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ thì chuyển sang tính và nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Một bộ phận còn lại do không thể thực hiện được các điều kiện của thuế GTGT thì nên chuyển sang điều chỉnh theo một luật thuế mới không phải là thuế GTGT, như luật thuế doanh thu. Có như vậy thì thuế GTGT mới thực sự phản ánh được bản chất của mình và Nhà nước mới quản lý được thuế đối với thành phần kinh tế cá thể này. Tuy nhiên, trong thời gian này, khi vẫn tiếp tục áp dụng thuế GTGT đối với thành phần này nên xem xét để giải quyết những vấn đề như: - Hoàn thiện phương pháp tính thuế GTGT, khắc phục tình trạng hai sân chơi, cho phép các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế đầu vào khi mua hàng hóa, dịch vụ của các đơn vị theo phương pháp gián tiếp, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh của các cơ sở kinh doanh trong mọi thành phần kinh tế, đặc biệt đối với thành phần kinh tế cá thể. Đối với các cơ sở kinh doanh chưa tính thuế theo phương pháp khấu trừ nhưng có lập hoá đơn, chứng từ thông thường theo quy định thì có thể bóc tách GTGT đầu ra từ doanh thu có thuế GTGT: (Doanh thu có thuế GTGT x Thuế suất)/ (1 + thuế suất ) và thuế GTGT đầu vào từ chi phí mua hàng từ bên ngoài có thuế GTGT= (Chi phí có thuế GTGT x Thuế suất)/ (1+ thuế suất ). - Đối với các hộ kinh doanh nhỏ cần quy định rõ tiêu thức phân loại trên cơ sở điều tra khảo sát để áp dụng mức thuế khoán sát với thực tế hoạt động kinh doanh. Mức thuế khoán phải được rà soát lại sau một thời gian nhất định. - Vấn đề áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể có những quy định về việc quản lý ĐTNT trong đó quản lý các hộ kinh doanh còn rất nhiều vấn đề còn bàn cãi vì vậy đối với những hộ nghỉ kinh doanh này cần có những chính sách quy định cụ thể như: + Các cơ quan thuế không phải là cơ quan cho phép kinh doanh, do vậy không có thẩm quyền xét cho nghỉ kinh doanh vì vậy những hộ kinh doanh khi nghỉ chỉ báo cơ quan thuế, cho nên cơ quan thuế kiểm tra xác minh các hộ kinh doanh đó là rất khó. Vì vậy nên chăng việc xét nghỉ kinh doanh cần để cho cơ quan thuế, như vậy sẽ dễ theo dõi quản lý hơn. + Việc xét miễn, giảm cần quy định hợp lý hơn nên miễn giảm thuế cho từng ngày là hợp lý nhất, căn cứ vào số thuế trung bình phải nộp tính ra của mỗi ngày. + Cần có một quy trình kiểm tra thực địa các hộ nghỉ một cách khoa học, thường xuyên, đảm bảo không để hiện tượng báo nghỉ để xin miễn giảm thuế. - Do trong hoạt động sản xuất, kinh doanh không phải lúc nào họ cũng chỉ quan hệ với các doanh nghiệp có sử dụng hóa đơn GTGT để dược khấu trừ thuế đầu vào mà họ còn có quan hệ với các doanh nghiệp khác, có hàng hóa dịch vụ không sử dung hóa đơn GTGT. Vì vậy để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và mang lại lợi nhuận cao thì Nhà nước cần phải mở rộng việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào của một số hàng hoá, dịch vụ có sử dụng hóa đơn thông thường hợp lệ. - Mở rộng ĐTNT theo phương pháp khấu trừ. Để tạo môi trường bình đẳng trong việc nộp thuế thì trong thời gian tới nhà nước cần mở rộng diện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ bằng các quy đinh bắt buộc các hộ có quy mô vừa và lớn, phải nộp thuế theo phương pháp khấu trừ để đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. * Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế GTGT. Hệ thống luật thuế của chúng ta hiện nay không đồng bộ, đan xen nhiều bậc kể cả luật thuế cũ, mới, luật sửa dổi bổ sung. Vì thế cơ cấu tổ chức quản lý thu không kịp thay đổi so với sự thay đổi này, và trong một trình độ có hạn đã làm ảnh hưởng nhiều đến công tác thu thuế. Do đó đòi hỏi Nhà nước cần ban hành đồng bộ hệ thống luật thuế, khắc phục tình trạng chắp vá chồng chéo của các văn bản hướng dẫn, nên thiết kế và ban hành một luật thuế GTGT mới thay thế hoàn toàn luật thuế GTGT đã ban hành trước đây. * Hoàn thiện các luật thuế khác và các vấn đề có liên quan. - Cùng với việc sửa đổi phải bổ sung văn bản luật thuế GTGT, cần nhanh chóng ban hành luật kế toán- kiểm toán trong nền kinh tế, trang bị cho các cơ quan thuế những phương tiện hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra thu thuế. - Song song với những thay đổi trên cần có những quy định pháp lý nhằm hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, kết hợp với các cơ quan Kho bạc, Ngân hàng để cùng thực hiện việc nộp tiền thuế. 2. Đối với Tổng cục thuế và Cục thuế Hà Nội * Về việc sắp xếp, tổ chức lại ngành thuế: Nên có sự tổ chức sắp xếp các bộ phận quản lý thu thuế đối với thành phần kinh tế cá thể sao cho phù hợp, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế. Đặc biệt nhằm làm giảm chi phí cho việc quản lý thu đối với bộ phận kinh tế này. * Hình thành và phát triển “nhóm tư vấn thuế” Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các ĐTNT đặc biệt là đối với loại hình hộ kinh doanh. Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề. Vì vậy, ở Việt Nam đã có một số công ty tài chính của nước ngoài có hoạt động tư vấn thuế. Do đó trong thời gian tới các cơ quan thuế nên thành lập các nhóm tư vấn thuế. Đây là một dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Nhóm tư vấn thuế nằm trong cơ cấu tổ chức ngành thuế. Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thuế. Đồng thời để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn này nên coi tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế. * Về cơ sở vật chất: - Cần tăng cường cơ sở vật chất cho các quận, huyện để phục vụ cho công tác quản lý và thuận lợi cho việc thu thuế tại các Chi cục như xây dựng và quy định các điiểm thu thuế trên địa bàn, trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc tính và thu thuế. - Xây dựng phần mềm máy tính phục vụ riêng cho việc quản lý thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng. Nối mạng cục bộ đối với ngành thuế để tạo điều kiện cho việc kiểm tra, kiểm soát thuế dễ dàng hơn, hiện đại hơn nhằm hoàn thiện việc thực hiện thuế GTGT một cách tiên tiến hơn. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các Chi cục trong việc áp dung các chương trình này bằng việc cấp kinh phí đào tạo, trang bị hệ thống máy vi tính và chương trình phần mềm phục vụ cho việc quản lý thuế tại các đơn vị này. - Tăng cường việc giáo dục, tuyên truyền các chính sách thuế và đặc biệt là thuế GTGT nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân. 3. Đối với chính quyền và các cơ quan chức năng khác có liên quan * Tăng cường sự lãnh đạo của chính quyền các cấp và sự phân phối với các cơ quan chức năng. - Các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng của các cấp, ngành đều phải coi thuế là một công tác trọng tâm thuộc trách nhiệm của mình. Từ đó tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng các chương trình, đề án cụ thể, có biện pháp thiết thực, sâu sát. Để hỗ trợ cho công tác thuế, UBND, các cơ quan liên quan cần thực hiện tốt chính sách, chế độ quản lý kinh tế tài chính trên địa bàn quận. Bên cạnh đó chỉ đạo các cơ quan có liên quan trên địa bàn hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện nhiệm vụ. - Các phòng kế hoạch, thống kê, lao động, vật giá cần phối hợp các cơ quan thuế để nắm chắc hơn hoạt động của các hộ kinh doanh, phối hợp với Viện kiểm sát, Công an, Tòa án xử lý vi phạm, kiên quyết đấu tranh chống trốn lậu thuế. Đặc biệt các ngành Tài chính, Ngân hàng, Kho bạc, Bưu điện cần phối hợp với cơ quan thuế để tạo điều kiện mở thêm các điểm thu thuế, hiện đại hoá các điểm thu thuế, hiện đại hoá các điểm thu đảm bảo thu nộp thuế nhanh gọn, kịp thời đầy đủ. Ngoài ra có thể theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh, doanh thu phát sinh của các hộ kinh doanh thông qua việc mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng của các hộ. * Các cơ quan chính quyền cần quan tâm hơn đến việc xây dựng cơ sở vật chất cần thiết phục vụ cho công tác thu thuế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị các máy móc kỹ thuật hiện đại để việc quản lý thu thuế được tốt hơn. Kết luận Qua bài viết với đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng” đã cho phép nghiên cứu rất nhiều vấn đề, từ lý luận đến thực tiễn, liên quan đến thuế GTGT và thành phần kinh tế cá thể. Qua đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng cũng như sự đòi hỏi đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu của NSNN ngày càng tăng, đã làm cho công tác quản lý thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi các biện pháp quản lý thu thuế của cơ quan thuế cũng như của từng cán bộ thuế càng phải hoàn thiện hơn, nhằm đáp ứng những yêu cầu của các chính sách thuế mới đặt ra hiện nay. Đặc biệt là việc áp dụng 2 luật thuế mới là thuế GTGT và thuế TNDN. Thuế GTGT đã áp dụng ở Việt Nam được hơn 3 năm, trong điều kiện nước ta còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được các điều kiện áp dụng luật thuế tiên tiến này. Do đó, nó đòi hỏi cần phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ từ bản chất, ưu, nhược điểm, điều kiện áp dụng, đến việc xem xét thực trạng áp dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, là việc xem xét áp dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, trong thời gian thực tập tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng, cùng với những kiến thức đã tiếp thu, tìm hiểu, nghiên cứu được tại trường, kết hợp với thực tiễn áp dụng đã cho tôi thấy thuế GTGT là một sắc thuế mới, hiện đại, có sự thay đổi khác biệt lớn đối với các sắc thuế trước đây. Mặc dù đã áp dụng được 3 năm, nhưng qua thực tế nói chung và tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng nói riêng cho thấy luật thuế này cũng không tránh khỏi những vướng mắc, hạn chế trong quá trình thực hiện. Do đó, bằng những kiến thức đã học và tìm hiểu trên thực tế, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra những nguyên nhân còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp, tạo điều kiện cho việc áp dụng luật thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mang lại hiệu quả cao nhất, tăng thu cho NSNN, thúc đẩy kinh tế cá thể phát triển và thực hiện công bằng xã hội. Tôi hy vọng những đề xuất trên sớm được Chi cục xem xét, áp dụng nhằm đem lại hiệu quả tốt đối với công tác thu thuế GTGT tại Chi cục trong thời gian tới. Với trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, thời gian có hạn nên việc thực hiện đề tài khó tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Tôi mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, các cán bộ tại Chi cục thuế để đề tài được hoàn thiện và có tính khả thi hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - T.S Đàm Văn Huệ, các cán bộ tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng - Tài chímh đã tận tình giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2002 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Loan Mục lục Lời nói đầu 1 chương I: Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng 4 I- Những vấn đề chung về thuế 4 1. Khái niệm và đặc điểm của thuế 4 2. Vai trò của thuế 6 3. Những yếu tố cơ bản của một sắc thuế 8 II- Thuế giá trị gia tăng 10 1. Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT 10 1.1. Một số khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT 10 1.2. Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT 12 2. Đặc điểm chung của thuế GTGT và tác động của nó đến một số vấn đề kinh tế 12 3. Điều kiện áp dụng thuế GTGT 16 III- Thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 18 1. Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT hiện hành 18 1.1- Phạm vi áp dụng 19 1.2- Căn cứ tính thuế 19 1.3- Phương pháp tính thuế 21 1.4- Quy định về hoá đơn chứng từ 22 1.5- Miễn giảm thuế 23 1.6- Hoàn thuế GTGT 23 1.7- Đăng ký kê khai nộp thuế và quyết toán thuế 24 1.8- Xử lý vi phạm về thuế 25 2. Thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 25 2.1. Sự tồn tại của thành phần kinh tế cá thể trong đIều kiện hiện nay ở Việt Nam 25 2.2. Sự cần thiết phải quản lý thuế GTGT đối với khu vực kinh tế cá thể 27 2.3. Thuế GTGT áp dụng đối với các hộ kinh doanh 28 Chương II: Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng 33 I- Khái quát vềthành phần kinh tế hộ cá thể và Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng 33 1. Khái quát về các hộ cá thể trên địa bàn quận HBT 33 2. Giới thiệu chung về chi cục thuế quận HBT 34 2.1- Quá trình ra đời và chức năng nhiệm vụ của chi cục thuế quận HBT 34 2.2- Bộ máy tổ chức quản lý thu thuế tại chi cục thuế HBT 35 2.3- Đội ngũ cán bộ quản lý 38 3. Tình hình công tác quản lý thu thuế trong những năm gần đây 38 3.1- Kết quả thu NSNN của chi cục thuế trong thời gian qua 38 3..2- Đánh giá kết quả thu NSNN và các mặt công tác khác tại Chi cục thuế quận HBT 39 II- Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể trong vài năm qua tại chi cục thuế HBT 43 1. Quy trình quản lý thu thuế hộ cá thể kinh doanh CTN 43 1.1- Nội dung quy trình quản lý thu thuế 43 1.2- Thực trạng việc thực hiện quy trình tại chi cục 47 2. Kết quả về tình hình thu thuế GTGT dối với các hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục thuế quận HBT 51 2.1- Tình hình quản lý ĐTNT (theo bộ thuế môn bàI) 52 2.2- Tình hình quản lý căn cứ tình thuế 54 2.3- Quản lý thu nộp tiền thuế 58 III- Đánh giá việc thực hiện thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể ở Chi cục thuế Quận HBT 60 1. Những mặt đã đạt được 60 2. Những khó khăn và tồn tại trong quá trình áp dụng 61 Chương III: Kinh nghiệm một số nước, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT dối với các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận HBT 64 I- Kinh nghiệm của một số nước về áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 64 II- Mục tiêu, định hướng hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam và những định hướng đối với việc phát triển kinh tế cá thể trong việc áp dụng thuế GTGT 68 III- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế quận HBT 72 1. Giải pháp trong việc quản lý đối tượng nộp thuế 72 2. Quản lý về GTGT tính thuế 76 3. Giải pháp quản lý thu nộp tiền thuế 78 4. Biện pháp nhằm tăng cường việc quản lý sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ 79 5. Biện pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế 81 6. Biện pháp tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục luật pháp về thuế 82 7. Các biện pháp về tổ chức cán bộ 82 IV. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy tiến trình hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận HBT 84 1. Đối với Nhà nước 84 2. Đối với Tổng cục thuế và Cục thuế Hà Nội 86 3. Đối với chính quyền và các cơ quan chức năng khác có liên quan 87 Kết luận 88 Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo Bài giảng môn tài chính công của cô Nguyễn Thị Bất Bài giảng môn quản lý thuế của thầy Phan Hữu Nghị Giáo trình quản lý thuế Nhà nước của trường ĐHTC Giáo trình quản lý thuế của trường ĐHKTQD Chính sách thuế trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 xuất bản năm 1996 Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam xuất bản năm 1997 Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành xuất bản năm 2000 Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam của Nhà Xuất Bản Tài Chính năm 1997 Báo cáo tổng kết cuối năm 1999, 2000, 2001 của Chi cục thuế Quận HBT Tạp chí phát triển kinh tế số 113/2000, 114/2000 11. Tạp chí tài chính số 7,8/2000; số 1,2,3/2001 12. Tạp chí kinh tế và phát triển số 42/2000, số 1, 2/2002 và một số tạp chí có liên quan như: Tạp chí thương mại, ngân hàng… ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33947.doc
Tài liệu liên quan