Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác mặt trận của Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác mặt trận của Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ: Chương I :Tổng quan về công tác mặt trận 1.Giới thiệu về mặt trận tổ quốcViệt Nam. 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của MTTQ Việt Nam 1.1.1 Tên gọi của mặt trận tổ quốc Việt Nam. Chúng tôi hiểu rằng tất cả các quý vị đều tán thành bản Báo cáo Chính trị của Ban trù bị Đại hội do đồng chí Hoàng Quốc Việt trình bày, tán thành bản dự thảo Chương trình Chính trị, tán thành bản dự thảo Điều lệ. Song trước khi Đại hội thông qua những văn kiện quan trọng này, theo đề nghị của một số vị, xin Đại ... Ebook Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác mặt trận của Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác mặt trận của Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội cho phép tôi trình bày thêm về cái tên: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ban trù bị Mặt trận Dân tộc thống nhất được thành lập từ mùa thu năm 1976, gồm đại biểu của 3 tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam. Ban trù bị chúng tôi đã thảo luận khá nhiều về cái tên của Mặt trận mới, chúng tôi còn trao đổi ý kiến với các thành viên trong các tổ chức Mặt trận và các địa phương. Mọi người đều thấy rằng: Cái tên Mặt trận Dân tộc Giải phóng có lịch sử vẻ vang nhưng không còn thích hợp, bởi vì dân tộc ta đã được giải phóng hoàn toàn rồi. Cái tên Liên minh Các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình cũng có lịch sử vẻ vang nhưng cũng không còn thích hợp, bởi vì nước ta đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và đã giành được hoà bình rồi. Cái tên Mặt trận Tổ quốc thì thân thương, gần gũi và còn thích hợp nhất song hãy tạm để lại đó, thử đi tìm một tên khác xem có cái tên nào hay hơn không? Có người nói nên lấy tên Mặt trận mới là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam nhưng lâu nay ta thường coi là cái tên chung, không phải các tên cụ thể của Mặt trận nào: cũng như nói Đảng của giai cấp công nhân là một cái tên chung, còn Đảng Lao động hay Đảng Cộng sản mới là cái tên cụ thể. Có người nói nên lấy tên là Mặt trận Dân chủ, vì cả thế giới đều đang hướng về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa còn cao hơn cả dân chủ tư sản. Nhưng nếu vậy thì sao ta lại nói "Mặt trận Dân chủ" trống không để chẳng rõ là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa. Huống chi năm 1936-1939 đã có Mặt trận Dân chủ Đông dương với nội dung và mục tiêu của nó lúc đó thấp hơn nền dân chủ nhân dân sau này: mà dân chủ nhân dân lại thấp hơn chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chúng ta đã đi quan những giai đoạn thấp của cách mạng và chúng ta đang ở giai đoạn cao của cách mạng là giai đoạn Cách mạng xã hội chủ nghĩa Có người nói nên gọi hẳn là Mặt trận Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bởi vì Tổ quốc là nói về yêu nước, xã hội chủ nghĩa là nói về thực chất của cuộc Cách mạng, ngày nay chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội hoà làm một, yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội. Cái tên ấy và cách giải thích như vậy rất có ý nghĩa và sát với tình hình thực tế nước ta. Song có nhiều vị miền Nam trong Ban Trù bị đại hội nói rằng gọi là " Mặt trận Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" thì đúng nhưng cái tên hơi dài, chỉ nên gọi là " Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" vừa gọn mà cũng vừa đủ nghiã, bởi vì "Tổ quốc" là nói về yêu nước, " Việt Nam" là nói về xã hội chủ nghĩa, tức là "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Đó là Việt Nam xã hội chủ nghĩa chứ không thể Việt Nam nào khác được. Mọi người cho là chí lý. Song cũng có người nêu rằng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì hay thật, chỉ e kẻ địch có xuyên tạc gì không? Có ý kiến trình bày lại rằng: Thực ra Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập năm 1955, cái tên đó do Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đề xướng được mọi người tán đồng. Lúc ấy Đảng Lao động Việt Nam tức là Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ và Hồ Chủ tịch đã thấy rõ Đế quốc Mỹ đang âm mưu phá hoại Hiệp định Giơ ne vơ về Việt Nam, nhằm hất cẳng Pháp, chiếm lấy miền Nam ta, chia rẽ lâu dài nước ta. Vì vậy phải có một mặt trận đoàn kết được toàn dân đấu tranh cho quyền lợi thiêng liêng của Tổ quốc, hai tiếng " Tổ quốc" nhắc nhở mọi người đoàn kết phấn đấu cho một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đó là Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam. Song đế quốc Mỹ và tay sai cố tình phá hoại hiệp định Giơ ne vơ về Việt Nam, gây ra chiến tranh đặc biệt, rồi chiến tranh cục bộ và sau cùng chúng đưa chiến tranh lan rộng ra toàn quốc làm trở ngại cho sự hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy trong cao trào đồng khởi ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam mới ra đời và trong dịp tổng tấn công Tết Mậu thân năm 1968 có thêm Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam. đó là những tổ chức mặt trận phù hợp với điều kiện lịch sử từng lúc và làm cho Mặt trận Dân tộc thống nhất càng được mở rộng dưới nhiều hình thức. Nói như thế để chúng ta thấy rằng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ trong quá khứ cũng đã là của Tổ quốc Việt Nam chung của chúng ta. Còn về địch xuyên tạc ư? Cách mạng chân chính không hề sợ địch xuyên tạc, mà phải luôn luôn tấn công vào sự xuyên tạc của chúng. Lần thứ nhất trong lịch sử nước Mỹ, bọn xâm lược bị thất bại ở Việt Nam. Chúng rất đau buồn nhưng cũng rất ngoan cố. Khi rút khỏi Việt Nam chúng còn mang theo hơn 10 vạn người di tản và còn gài lại bọn tay sai phá hoại. Chúng ta đã chứng kiến việc bọn tay sai Mỹ lợi dụng cả nhà thơ Vinh Sơn ở giữa thành phố Sài gòn để làm nơi chứa vũ khí, nơi in bạc giả, nơi phát đi những tin đồn nhảm, nơi chứa chấp biết bao những sự xấu xa nhơ bẩn. Hiện nay bọn CIA Mỹ lại đang tung ra dư luận về cái gọi là "vi phạm nhân quyền" và cái gọi là " bảo vệ nhân quyền" để xuyên tạc sự thật, dựng lên những chuyện không có, hòng vu cáo Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và lừa dối nhân dân thế giới. Sự thật là bọn xâm lược Mỹ đã ném bom hàng loạt bằng máy bay B52, đã rải chất độc hoá học, đã dồn dân, đốt làng, phá lúa, đã tổ chức các trại giam kiểu chuồng bò, chuồng cọp..v.v..gây nên biết bao tàn phá, chết chóc, đau thương trên đất nước ta, thì đâu chúng còn được phép nói đến nhân quyền! Có một vài cây viết gọi là văn chương, có một vài cái miệng gọi là khẩu khí chính trị ở nước phương Tây nào đó đã phụ hoạ với luận điệu của CIA Mỹ. Thật đáng tiếc cho họ, tự họ đã làm giảm giá trị rất nhiều về những dòng chữ, những lời nói của họ lâu nay. Bởi vì họ vô tình hay cố ý đã đồng loã với CIA Mỹ. Chúng ta hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu bịa đặt, vu khống bất kỳ từ đâu đối với nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng ta. Chính sách của chúng ta là nhân đạo. Chúng ta chỉ muốn mọi người Việt Nam thương yêu nhau, đoàn kết với nhau, cùng nhau xây dựng đất nước phồn vinh. Chúng ta chỉ muốn sống hoà bình hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Xin trở lại cái tên " Mặt trận Tổ quốc Việt Nam". Có bạn miền Nam, bạn ấy ở trong vùng mới giải phóng đã nói rằng: Quốc hội thống nhất do toàn dân bầu ra đã quyết định thủ đô Hà nội, quốc kỳ lá cờ đỏ sao vàng, quyết định ấy được mọi người từ Bắc đến Nam hoan hô nhiệt liệt thì tại sao lại có ý kiến muốn tránh né cái tên " Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", tại sao lại sợ địch xuyên tạc! Đó là câu nói chí lý, chí tình, đáng ghi nhớ. Thật vậy, hai tiếng Tổ quốc vô cùng thiêng liêng. Người Việt Nam ta đều chung một Tổ quốc từ Cao Lạng đến Minh Hải, đều chung một mộ tổ Hùng vương ở Lâm Thao, Vĩnh Phú. Người Việt Nam ở nước ngoài dù xa xôi đến đâu cũng hướng về Tổ quốc thân yêu. Bất kỳ một người Việt Nam yêu nước nàocũng vui mừng trước sự kiện lịch sử mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tổ quốc Việt Nam độc lập và thống nhất. Ngày nay, ai cũng mong được góp phần xây dựng Tổ quốc mình đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như lời Bác Hồ đã nói, Hai tiếng Tổ quốc kêu gọi trái tim Việt Nam, thúc dục mọi khối óc Việt Nam, phải làm cho Tổ quốc giàu mạnh. Chính vì vậy, chúng tôi đề nghị các quý vị thông qua cái tên mặt trận mới là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam! 1.1.2 Lịch sử hình thành của mặt trận dân tộc thống nhất  Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất để cùng nhau chống kẻ thù chung vì độc lập tự do của Tổ quốc. Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18.11.1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam. Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo. Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.Quá trình hình thành như sau: a.MẶT TRẬN THỐNG NHẤT PHẢN ĐỂ ĐÔNG DƯƠNG HỘI PHẢN ĐẾ ĐỒNG MINH (18-11-1930)  Ngay từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc. Qua phong trào cách mạng phản đế, phản phong sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, các tổ chức chính trị với các hệ tư tưởng khác nhau nhưng gặp nhau ở mục tiêu giải phóng dân tộc lần lượt xuất hiện với sự tham gia của nhiều tầng lớp, nhiều dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định năng lực cách mạng của các giai tầng trong xã hội, khẳng định vị trí đặc biệt và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với việc định hướng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng chủ xướng. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế. Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. b.PHẢN ĐẾ LIÊN MINH (3-1935) Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông dương. Điều lệ của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh. Bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên. c.MẶT TRẬN THỐNG NHẤT NHÂN DÂN  PHẢN ĐẾ (10-1936) Chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế được phổ biến qua tài liệu chung quanh vấn đề chính sách mới ngày 30/10/1936 khắc phục những sai lầm trong nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện liên minh thời kỳ trước. Việc tập hợp lực lượng trong Mặt trận được công khai qua bức thư ngỏ của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp, kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương".   d.MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG DƯƠNG (6-1938) Sau khi Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền với bản chương trình hành động trong đó có nêu việc thành lập một Uỷ ban của nghị viện điều tra tình hình chính trị và kinh tế ở các thuộc địa, cùng với nhiều nước thuộc địa khác các nhà yêu nước Việt Nam kêu gọi "tiến tới một cuộc Đông dương Đại hội" sáng kiến đó được đảng Cộng sản Đông Dương ủng hộ bằng bức thư ngỏ tháng 8-1936 nêu 12 nguyện vọng cụ thể làm cơ sở cho Đông Dương Đại hội, lời kêu gọi đã dấy lên một phong trào sôi nổi trong nhân dân cả nước. Tháng 9-1937 một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng nhuư hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tháng 6/1938 Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương" chính trong thời kỳ này từ những phong trào Mặt trận đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức. f. MẶT TRẬN  THỐNG NHẤT DÂN TỘC PHẢN ĐẾ ĐÔNG DƯƠNG (11-1939) Tháng 9 năm 1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân chủ Đông dương bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới hình thức bí mật và công khai. g.VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI GỌI TẮT LÀ VIỆT MINH (19-5-1941) Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt nam Độc lập đồng minh gọi tắt là Việt minh ngày 19.5.1941 lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt minh và làm cờ tổ quốc "khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà". Mặt trận Việt minh thu hút được mọi giới đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú nông và một số địa chủ nhỏ có tinh thần yêu nước, đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong những năm 1941-1945, Mặt trận Việt minh là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng thành công. Từ sáng kiến triệu tập toàn quốc đại biểu đại hội, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt minh triệu tập họp ở Tân trào trong 2 ngày 16-17/8/1945 đã thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí minh làm Chủ tịch và ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập, đại biểu tổng bộ Việt minh Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước. h.HỘI LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM GỌI TẮT LÀ HỘI LIÊN VIỆT (29-5-1946) Năm 1946, giữa lúc nước Việt nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, một Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt nam gồm 27 người với đại biểu Việt minh là Hồ Chí Minh, được thành lập nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc. Việt minh và Liên Việt đã cùng nhau làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền Cách mạng non trẻ đối phó có hiệu lực với thù trong giặc ngoài.  i.MẶT TRẬN LIÊN VIỆT (3-3-1951) Năm 1951, trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đi vào giai đoạn quyết liệt, thực hiện khẩu hiệu " Tất cả cho tiền tuyến ", yêu cầu tập hợp các hình thức tổ chức Mặt trận để đoàn kết động viên toàn dân ta tập trung sức người sức của đẩy mạnh kháng chiến trở nên cấp bách. Với các chủ trương đường lối đúng đắn Đảng Lao động Việt Nam và sự ủng hộ tích cực của các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, các tổ chức chính trị, các nhân sĩ trí thức trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, hai tổ chức Mặt trận được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt. Mặt trận Liên Việt đã góp phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt nam. k. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM (10-9-1955) Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt nam, hất cẳng thực dân Pháp và phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ âm mưu chiếm đóng miền Nam chia cắt lâu dài nước ta. Cách mạng Việt nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh đó, ngày 10.9.1955, Mặt trận Tổ quốc Việt nam ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã phát huy tác dụng to lớn của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã động viên đồng bào và chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng đánh thắngchiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và hết lòng hết sức đáp ứng các yêu cầu của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã tích cực tham gia cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc thông suốt chính sách làm cho cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tiến hành thuận lợi, đạt kết quả. Mặt trận đã tích cực góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ra sức động viên nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế, thực hiện nếp sống mới, xây dựng con người mới. l. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM (20-12-1960) Trong cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (20-12-1960) nhằm đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Với đường lối đúng đắn ấy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa của mình các tầng lớp nhân dân, các tổ chức và mọi người Việt nam yêu nước, để cùng nhau chống Mỹ cứu nước. Mặt trận dân tộc giải phóng không ngừng củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên đồng bào và chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không ngừng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân miền Nam và uy tín của mặt trận đã được nâng cao trên trường quốc tế. m. LIÊN MINH CÁC LỰC LƯỢNG DÂN TỘC DÂN CHỦ VÀ HÒA BÌNH VIỆT NAM  (20-4-1968) Trong cao trào tiến công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân (1968) Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam ra đời (20-4-1968). Kết tụ từ các phong trào đấu tranh yêu nước của các giới sinh viên, học sinh, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương gia, nhân sĩ dân chủ tại các thành thị miền Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam bằng những công tác trong nước và ngoài nước đã góp sức động viên xúc tiến các phong trào ấy, tăng thêm sức mạnh cho khối đoàn kết toàn dân, chống Mỹ cứu nước. Phấn đấu cho một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng miền Bắc thực hiện thống nhất nước nhà, Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam đã luôn luôn hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau tạo nên một sức mạnh không gì lay chuyển nổi của khối đại đoàn kết dân tộc, và đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân đến thắng lợi hoàn toàn, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà. n.MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM (4-2-1977) Sau khi cả nước đã được độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn của một quốc gia đòi hỏi hợp nhất 3 tổ chức mặt trận. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp từ 31-1 đến 4-2-1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức Mặt trận ở hai miền Nam Bắc nước ta thành một tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống nhất ý chí của tất cả các tổ chức của các giai tầng trong xã hội, các cá nhân tiêu biểu của các dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, các vị lãnh đạo tiêu biểu cho ý chí đoàn kết của dân tộc, luôn phấn đấu xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc vững mạnh thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh vị lãnh tụ của toàn dân tộc: "Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". 1.2 Vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam trong hệ thống kinh tế chính trị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân..." điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta. "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..." Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình đó còn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội, các tôn giáo... Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội đang đặt ra cho công tác vận động quần chúng nói chung và công tác Mặt trận nói riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập hợp các lực lượng yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình và nhiều âm mưu chia rẽ khối đại đoà kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta. Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể thành viên càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 1.3 Nhiệm vụ của mặt trận. 1.3.1 Nguyên tắc làm việc của MT Mặt trận Dân tộc thống nhất được tổ chức trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng về địa vị và độc lập về tổ chức. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt trận được thực hiện theo các nguyên tắc: Hiệp thương dân chủ, Hợp tác bình đẳng, Đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau, Phối hợp và thống nhất hành động. Trong sinh hoạt Mặt trận, các thành viên tự do bày tỏ ý kiến của mình, cùng nhau bàn bạc, hiệp thương dân chủ đề đạt tới sự nhất trí, không mệnh lệnh, không áp đặt. Nếu có những ý kiến khác trên những vấn đề cụ thể thì cùng nhautrao đổi, thuyết phục, giúp đỡ nhau giải quyết. Trong hoạt động, các thành viên thoả thuận với nhau về chương trình hành động chung và có nghĩa vụ giúp đỡ nhau, phối hợp thống nhất hành động để thực hiện chương trình đã thoả thuận. Bốn nguyên tắc đó có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng nguyên tắc một và bốn là rất quan trọng. 1.3.2 Mối liên hệ giữa MT với các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị: a/ Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận có một đặc điểm đáng chú ý: Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi hành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm sinh hoạt đầy đủ thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Cấp uỷ Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành động chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuậnvà tích cực tham gia công tácMặt trận tại khu dân cưĐể lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi íh chính đáng của các tầng lớp nhân dân: Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận thông qua Đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ Đảng tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu những Đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng điều lệ. Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền. Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ Đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ truyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước là yếu tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự vững mạnh của chế độ. b/ Mối quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền: Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Quyền hạn của Mặt trận đã được Hiến pháp và pháp luật qui định Mặt trận hoạt động theo pháp luật và qui chế làm việc đã được thoả thuận giữa Mặt trận và chính quyền. Mặt trận tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước như: vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, bầu ra cơ quan dân cử, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ viên chức Nhà nước; tham gia xây dựng pháp luật và chính sách; đóng góp ý kiến với cơ quan Nhà nước các cấp, vận động nhân dân xây dựng các qui ước, qui chế trên địa bàn cư trú về các vấn dề liên quan đến đời sống nghĩa vụ và lợi ích của công dân phù hợp với pháp luật. Mặt trận tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân, đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, gây phiền hà cho dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của dân. Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước. Đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước. Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, Nhà nước các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước căn cứ qui chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội và xây dựng cuộc sống tự quản của dân. Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đánh của nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dânđẩy mạnh phong trào hành động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội. Một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trịcủa chính quyền nhân dân, sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nước phải như nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: " Thực hiện thành nền nếp việc đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết định chủ trương lớn" ngày một chặt chẽ và cụ thể hơn. 1.3.3 Các tổ chức thành viên của MTTQ Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt nam Tổng Liên đoàn lao động Việt nam. Hội Nông dân Việt nam Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam Hội Cựu chiến binh Việt nam Các Lực lượng vũ trang nhân dân Việt nam Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật Việt nam. Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt nam. Liên hiệp các tổ chức Hoà bình, đoàn kết, hữu nghị Việt nam. Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt nam Hội Luật gia Việt nam Hội Nhà báo Việt nam Hội Chữ thập đỏ Việt nam Hội Y học dân tộc cổ truyền Việt nam Tổng hội Y dược học Việt nam. Hội Lịch sử Việt nam Hội Làm vườn Việt nam Hội Sinh vật cảnh Việt nam Giáo hội phật giáo Việt nam Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt nam Hội thánh Tin lành Việt Nam Hội Người mù Việt nam Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi. Hội Kế hoạch hoá gia đình. Hội Khuyến học Việt Nam Hội Người cao tuổi Việt Nam. Hội Châm cứu. 30.Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 2.Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ. 2.1 Giới thiệu về tỉnh Phú ._.Thọ. Phú Thọ -vùng đất cuội nguồn dân tộc,nơi đây là trubng tâm của nhà nước Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nứơc.Cũng trên mảnh đất này đã hình thành truyền thống quí báu và không ngừng phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước .Trong đó truyền thống đoàn kết được kế thừa và phát huy trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Nhân dân Phú Thọ từ buổi đầu dựng nước đến ngày nay luôn sát cánh bên nhau lao động sản xuất và chiến đấu chống kẻ thù xâm lược để bảo vệ và xây dựng quê hương ngày càng giầu đẹp. Truyền thống đoàn kết ngày càng đựơc phát huy cao độ trong thời kì có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng.Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng ,Mặt trận với các hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, thực hiện các mục tiêu của Đảng. Phú Thọ là một tỉnh truing du-miền núi.Phía bắc giáp tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang ,phía nam giáp tỉnh Hòa Bình ,phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Hà Tây,phía tây giáp tỉnh Sơn La. Là một trong trong số ít các tỉnh trong cả nước về mặt địa hình vừa có tính chất miền núi, trung du,vừa có tính chất đồng bằng.Sự gặp gỡ của các dòng sông trên đất Phú Thọ đã tạo nên sự đa dạng về tự nhiên và xã hội.Có lẽ cũng chính đặc điểm này mà từ rất xa xưa ,Phú Thọ là vùng đất hội tụ của con người tiền sử.Khoảng 4000 năm trước, vào thời kì biển thoái , những cánh đồng mầu mỡ được hình thành , những thị tộc bộ lạc thời tiền sử với những kinh nghiệm đã đựơc tích luỹ trong xuốt thời kì đồ đá ,đã tiến xuống chiếm lĩnh vùng đồng bằng Phong Châu Phú Thọ.Chính công cuộc chinh phục vùng đất mầu mỡ này, người Việt cổ đã làm nên nền văn minh rực rỡ-văn minh sông Hồng với với các văn hóa khảo cổ Phùng Nguên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đông Sơn nổi tiếng ở khu vực Đông nam á. Với văn minh sông Hồng , một nhà nước sơ khai đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được xác lập,đó là nhà nước của các Vua Hùng. Những chứng tích dầy đặc thuộc các văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên,Đồng Đậu,Gò Mun,Đông Sơn trên vùng đất này thuộc các huyện Tam Nông, Lâm Thao và tp Việt Trì đã chứng tỏ rằng vùng hợp luư của các con sông , vùng đỉnh của tam giác đồng bằng sông Hồng là địa bàn tụ cư của tập hợp các thị tộc,bộ lạc Lạc Việt trong quá trình khai phá, chiếm lĩnh vùng đồng bằng mới được hình thành. Khu vực hạ huyện Lâm Thao, Tp Việt Trì là nơi đóng đô của nhà nước Văn Lang trong lịch sử Việt Nam. Hàng ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi các vua Hùng dựng nước Văn Lang cho đến nay, địa bàn tỉnh Phú Thọ đã chải qua biết bao đổi thay về địa giới hành chính. Thời Hùng Vương ,Phú Thọ nằm trong bộ Văn Lang ,là vùng đất trung tâm của Nhà nước Văn Lang.Thời Phục An Dương Vương ,Phú Thọ năm trong địa phần huyện Mê Linh. Dưới thời Bắc thuộc (từ năm 111 TCN đến thế kỉ thứ X) Phú Thọ thuộc địa giới các quận Mê Linh ,Tân Xương,Phong Châu. Đến thời kì phong kiến độc lập, các đơn vị hành chính mới được xác lập ,đó là các đạo , phủ , châu, huyện thay thế cho quận huyện thời Bắc thuộc. Phú Thọ lúc này thuộc lộ Tam Giang . Đầu triều Nguyễn , Phú Thọ thuộc địa phận hai tỉnh Hưng Hóa và Sơn Tây. Sau khi thực dân Pháp hoàn thành việc xâm lược Việt Nam thực hiện chính sách chia để trị ,đã tiến hành chia nhỏ các đơn vị hành chính Tỉnh Hưng Hóa sau khi cát đi 165 châu , 4 phủ và 2 huyện để thành lập một số tỉnh mới là Yên Bái,Lai Châu,Sơn La, thực dân Pháp cho cho nhập thêm 1 số huyện của tỉnh Sơn Tây vào với các huyện còn lại của tỉnh Hưng Hóa cũ để lập tỉnh Hưng Hóa mới gồm 5 huyện là Tam Nông,Thanh Thủy,Sơn Vi,Thanh Ba, Phù Ninh. Trong các năm 1893,1985 lại nhập thêm huyện Hạ Hòa , Thanh Sơn, Yên Lập,Đoan Hùng về Hưng Hóa . Ngày 5 tháng 5 năm 1903 , toàn quyền Đông Dương ký nghị quyết chuyển tỉnh lỵ Hưng Hóa về làng Phú Thọ , và đổi tên thành tỉnh Phú Thọ. Từ năm 1903 đến trước cách mạng tháng 8 nói chung không có sự thay đổi về địa lý. 2.2 Sự hình thành và vai trò của MTTQ tỉnh Phú Thọ trong thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm(1930-1975). Năm 1925 giới trí thức, học sinh , sinh viên thành lập một tổ chức yêu nước lấy tên là Đảng Tân Việt . Sau nhiều lần thay đổi tên gọi , năm 1928 , Tôn Quan Phiệt người phụ trách Kỳ bộ Đảng Tân Việt ở bắc kì về Hưng Hóa tiến tới thành lập Chi bộ Đảng ở đây. Sau một thời gian vận động chi bộ Tân Việt ở Hưng Hóa đã được thành lập với hơn 10 Đảng viên, phần lớn là trường Kiêm bị Hưng Hóa. Hoạt động của chi bộ mới chỉ dừng lại ở mức tuyên truyền thông qua việc truyền bá các bài thơ văn yêu nước và Đảng chương của Tân Việt. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam –đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam ra đời. Đây là một sự kiện chính trị trọng đại, đánh dấu bước ngoạt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Với việc phát động cao trào cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đảng ta đã khảng định được quyền lãnh đạo năng lực cách mạng của giai cấp công nhân và khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất.Tỉnh Phú Thọ, do ảnh hưởng nặng nề của phong trào Quốc dân đảng, lại thêm sự đàn áp dã man của thực dân Pháp, cho nên mặc dù ngay từ những ngày đầu một trong những tổ chức cộng sản đầu tiên đã có cơ sở, nhưng không nhân rộng và phát triển được. Thời kì Mặt trận dân chủ (1936-1939) do ảnh hưởng của phong trào công khai dân chủ trong nước , một số học sinh quê Phú Thọ học tại Hà Nội đã về tập hợp thanh niên , học sinh tuyên truyền .Do vậy báo chí công khai tiến bộ cảu Đảng ta và Mặt trận Dân chủ xuất bản được luư hành tại Phú Thọ. Từ những mầm mống đầu tiên ấy , các tổ chức công khai cũng được thành lập tại một số địa bàn trong tỉnh.Tháng 9-1939, chiến tranh thứ II bùng nổ,chính phủ Pháp thi hành chính sách phát xít, khủng bố trắng trợn Đảng cộng sản và các tổ chức dân chủ , thẳng tay bóc lột và đàn áp phong trào thuộc địa. Ỏ đông dương , ngày 26-9-1939,thực dân Pháp ra sắc lệnh giải tán các tổ chức quần chúng ,công khai đóng của các báo chí tiến bộ, thủ tiêu quyền tu do dân chủ tối thiểu mà nhân dân lao động đấu tranh giành lại được trong thời kì Mặt trận dân chủ.Trước tình hình ấy , tháng 11-1939, hội nghi lần thứ 6 Trung Ương Đảng nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương.Hội nghị đề ra chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.Tạm rút khẩu hiệu cách mang ruộng đất , chỉ chủ trương ‘’tịch kí ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc’’. Đầu tháng 8-1939 ,các đồng chí Nguyễn Văn Trạch,Đào Duy Kì và Trần Hải Kế là cán bộ của Xứ ủy Bắc Kỳ đã về làng Cát Trù (Cẩm Khê) nhiên cứu tình hình chuẩn bị đưa cán bộ Đảng đến hoạt động. Sau khi nghiên cứu thấy đây là vùng đất có truyền thống yêu nước chống Pháp từ thời Cần Vương , đồng chí Đào Duy Kỳ về đã về Hà Nội báo cáo xin chỉ thị của Xứ Ủy. Sau một thời gian,đuợc Xứ ủy chấp thuận,đồng chí Lương Chí Thuận, Trần Quý Kiên và Nguyễn Thành Kiên lên Cát Trù –Thạch Kê hoạt động. Các đồng chí đã tập hợp số thành viên được giác ngộ từ thời mặt trận Dan Chủ làm nòng cốt, từ đó mở rộng các đối tượng khác. Hai tháng sau,hơng 10 quần chúng được được giác ngộ đã được kết nạp vào dội thanh niên phụ nữ phản đế. Trên cơ sở đó , đồng chí Lương Khánh Thiện đã quyết định thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Phú Thọ -Chi bộ Cát Trù-Thạch Đê. Để mở rộng cơ sở ra các vùng trong tỉnh, đồng chí Lương Khánh Thiện và Trần Quý Kiên đến Thanh Ba liên lạc với đồng chí Quốc Thụy , tập hợp Đảng viên tại đây., thành lập chi bộ Thanh ba.Từ Thanh Ba các đông trí đến gây dựng tiếp cơ sở ở Phù Ninh.Tại thành phố Việt Trì , trong nhà máy bột giấy, từ năm 1939 đã có 3 Đảng viên hoạt động, đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn văn Giới được Xứ ủy điều về hoạt động , đầu năm 1940 , đồng chí Nguyễn Văn Giới được Xứ ủy điều về hoạt động tại nhà máy , đã tập hợp Đảng viên này , thành lập cho bộ nhà máy bột giấy Việt Trì. Như vậy đến cuối năm 1939,Phú Thọ đã có 4 Chi bộ hoạt động dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc kì , đó là Chi bộ:Cát Trù,Thanh Ba, Phù Ninh, Việt Trì.Cùng với sự ra đời của các chi bộ Đảng ,các hội phản đế cũng được thành lập với trên 60 hội viên. Mặc dù Đảng bộ Phú Thọ ra đời muộn , chưa có nhiều kinh nghiệm , lại hoạt động trong điều kiện kẻ thù hàng ngày săn lùng,khủng bố, nhưng được sự lãnh đạo , giúp đỡ của Xứ ủy Bắc kỳ , khu ủy Đ nên phong trào có những bước đi vững chắc ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Số lượng Đảng viên tuy chưa nhiều , nhưng phần lớn là những đồng chí trung kiên , tận tụy với nhiệm vụ , trung thành với lý tưởng , luôn bám xát, đi xâu cơ sở và được cơ sở tin yêu đùm bọc , nên đã phát huy được và là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng. Các tổ chức quần chúng như hội phản đế, các hội nghề nghiệp tuy hội viên chưa đông, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy được vai trò đoàn kết lôi kéo lực lượng. Đây là hình thức đầu tiên của tổ chức Mặt trận tại tỉnh Phú Thọ, nó chính là cơ sở để đến giai đoạn cách mạng tiếp theo, khi chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh của Đãng ra đời, tạo thành một lực lượng nòng cốt tiến tới thành lập Mặt trận Việt minh tại Phú Thọ. Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến , thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông nam á. Cũng như ở các địa phưưong khác, tại tỉnh Phú Thọ Mặt trận dân tộc thống nhất luôn giữ vai trò quan trọng trong xuyên xuốt thời gian kháng chiên chống giặc ngoại xâm.Từ kháng chiến chống thực dân Pháp đến khácg chiến chống Mỹ, Mặt trận dận tộc thống nhất luôn giữ vững mối đoàn kết toàn dân,ý chí kiên định.Là đầu tầu trong việc lôi kéo, đào tạo và tổ chức các Đảng viên cũng như quần chúng, với rất nhiều phong trào như “bình dân học vụ”, “hũ gạo cứu đói”, “cả nước vì miền nam”,… Với mỗi một thời kì MTTQ tỉnh Phú Thọ luôn hoàn thành tốt nhiêm vụ của Đảng giao phó,góp phần quan trọng trong việc tạo khối đoàn kết toàn dân, giũ vững định hướng chính trị, cùng toàn thể nhân dân di tới thắng lợi cuối cùng năm 1975, toàn nước thống nhất với các mốc rất quan trọng: -8/1945 Mặt trận Việt minh tỉnh Phú Thọ ra đời va vai trò của mặt trận trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. -9/1945-12/1946 Mặt trận Việt minh tỉnh Phú Thọ đoàn kết,động viên, nhân dân trong tỉnh tham gia củng cố chính quyền , khắc phục khó khăn sau cách mạng tháng Tám thành công. -1947-1950 Mặt trận Việt minh và hội Liên Việt Phú Thọ động viên đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong tỉnh vừa xây dựng hậu phương kháng chiến , vừa chống địch càn quét , bảo vệ quê hương. -1951-1954 Mặt trận Liên Việt Phú Thọ phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân toàn tỉnh hăng hái tham gia xây dựng hậu phương chi viện cho kháng chiến đến ngày toàn thắng. Trai qua 9 năm trường kì chống thực dân Pháp xâm lược,Quân và dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang.Ngày 20-7-1954 , Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương đã được kí kết công nhận độc lập chủ quyền thống nhất toàn vện lãnh thổ của Việt Nam. Song với bản chất xâm lược và hiếu chiến , Mỹ đã tìm mọi cách hất cảng Pháp nhảy vào nam Việt nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm,âm mưa biến miền nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng.Từ đây nhân dân miền Bắc nói chung, nhân dân Phú Thọ nói riêng phải đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội(CNXH) ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với vai trò và chức năng của mình , mặt trận Liên Việt tiếp tục động viên phát huy sắc mạnh của khối đậi đoàn kết toàn dân trong thời kì mới. Trước hết trong những năm đầu là tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân tạo điều kiện để các cơ quan , đơn vị tản cư trong kháng chiến chống Pháp về quê hương làm ăn,sinh sống.Kết quả là toàn tỉnh đã huy động trên 1,1 vạn dân công,khai thác vận chuyển 146 vạn tầu lá cọ,16 vạn cây tre,nứa để làm 1.525 ngôi nhà , cung cấp trên 1 vạn tấn lương thực, trên 3 vạn gánh củi. Cùng với nhiêm vụ trên,Mặt trận các cấp trong tỉnh xác định nhiệm vụ trọng tâm,cấp bách là tổ chức cứu đói , đấu tranh chống địch dụ dỗ,,cưỡng ép đồng bào di cư vào nam. Trong đấu tranh chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vào nam, tháng 12-1954 , ban thừocg vụ tỉnh ủy ra chit thị số 16cp/pt về” Tích cực chống âm mưu lừa phỉnh, cưỡng ép giáo dân di tản, di cư vào dân”. Thực hiên chỉ thị của Tỉnh ủy , Mặt trận Liên Việtvtỉnh đã cử cán bộ xuống từng địa bàn để tuyên truyền và quản lý địa bàn cho xát dân. Nhờ đó cuối năm 1955 tình trạng di cư của đồng bào cơ bản chấm dứt, phá tan được âm mưa của địch.Đối với nhiệm vụ sản xuất, cuối năm 1955 , toàn tỉnh có 2888 gia đình ,9.967 người bị đói.Mật trận đã phát động phong trào “tương thân tương ai” , “lá lành đùm lá rách”.và phong trào đẩy mạnh sản xuất cứu đói rộng rãi trong dân. Nhờ sự chỉ đạo sat sao của Tỉnh ủy,Ủy ban hành chính và sự động viên của Mặt trận, các đoàn thể đến cưối năm 1956 , toàn tỉnh đã tương chợ lẫn nhau được 59 tấn lương thực, gần 3 triệu đồng. Tiếp đó liên tục trong nhiều năm với sự chỉ đạo đúng đắn và kịp thời của Đảng và nhà nước, Mặt trận dân tộc thống nhất đã có nhiều phong trào giúp một phần to lớn vào cuộc kháng chiến vĩ đại chống đế quốc Mỹ. -1961-1965 Vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước 5 năm. -1966-1967 Động viên nhân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Đế quốc Mỹ. -1969-1970 Động viên nhân dân đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thức nhất của đế quốc Mỹ. -1970-1975 Động viên nhân dân đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần 2 và huy động sức người sức của cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Nhìn chung , thời kì 1968-1975 là thời kì chiến tranh ác liệt nhất ,những tác động của thiên tai cũng nặng nề và liên tiêps xaỷ ra. Nhưng công tác mặt trận tiếp tục được chú trọng hơn và đạy được những thành tích rất đáng tự hào.Trong chặng đường đầy gian khổ , hy sinh đó , Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ và các tổ chức thanh viên vẫn phát triển mạnh mẽ và rộng khắp,tiếp tục thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc.Hoạt động của đoàn thanh niên , Hội phụ nữ,Hội phụ lão,Hội mẹ chiến sĩ, đội Thanh niên xung phong…Đã phát huy vai trò, tác dụng trong việc tập hợp, động viên mọi người,mọi nhà ở khắp các địa phương trong tỉnh phát huy cao đọ truyền thống cách mạng đoàn kết xung quanh Đảng bộ,tương chợ giúp nhau trong cuộc sống , lao động sản xuất,chiến đấu và dốc sức chi viện cho cho tiền tuyến lớn miền Nam.Đó thực sụ là mộy trong những nhân tố đảm bảo sự vững vàng , ổn địng của tỉnh trong lửa đạn chiến tranh, trong chặng đường dài chống Mỹ, cứu nước. Đó là điều kiện rất quan trọng đảm bảo cho MTTQ tỉnh tiếp tục vai trò chính trị của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2.3 Tăng cường công tác mặt trận theo yêu cầu đổi mới , đoàn kết phấn đấu khác phục khó khăn, góp phần ổn định đời sống phát triển kinh tế xã hội sau chiến tranh(1975-1985). Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta . Đất nước thống nhất , cả nước đi lên XHCN , Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới : Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta đã tạo ra bầu không khí hết sức phấn khởi , động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái bắt tay vào việc khôi phục kinh tế , hàn gắn vết thương chiến tranh. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh tổng hợp vào công cuộc xây dựng kiến thiết nước nhà. Công tác vận động quần chúng đứng trước những yêu cầu và đòi hỏi mới có nhiều thuận lợi song cũng gặp nhiều khó khăn và thử thách. Đất nứớc ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm với những hậu quả nặng nề về con người và cờ sở vật chất không thể khắc phục được trong thời gian ngắn. Trong cuộc kháng chiến tất cả dồn sức ngườ sức của cho tiền tuyến với phương thức mệnh lệnh. Trong hòa bình cơc chế hành chính quan liêu bao cấp , kế hoạch hóa không còn phù hợp, đã ki,hãm năng lực sáng tạo nhiều phong trào mang nặng tính hình thức , hiệu quả xã hội kém. Trước tình hình chuyển giaid đoạn cách mạng việc củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và phong trào toàn dân hành động cách mạng đòi hỏi sự đổi mới về nội dung , hình thức hoạt động mới đáp ứng đựơc nhu cầu và nhiệm vụ trong thời kì mới. Tuy nhiên trong giai đoạn 1975-1980 bên cạnh những yếu tố thuận lợi nói chunh thì hoạt động của MTTQ và các đoàn thể tổ chức quần chúng gặp không ít khó khăn.Vì tình hình sản xuất trong tỉnh hoàn toàn hặp thiên tai,mất mùa liên tục , có thời gian cán bộ công nhân viên chỉ được hưởng 10 kg gạo .Đặc biệt cơn bão số 4 năm 1980 gây mưa lớn và úng lụt ở nhiều nơi trong tỉnh làm thiệt hại về sản xuất nông nghiệp và giao thông vận tải , cơ sở sản xuất , thiếu việc làm và không đủ nguyên liệu , sản xuất lương thực tăng chậm. Trong khi đó dân số tăng nhanh dẫn đến khó khăn về phân phối về lương thực.Nhiều địa phương dân không đủ ăn, thiếu đói , số hợp tác xã trung bình và yếu kém còn chiếm tỉ lểtên 50%,Việc “Dong công phóng điểm” ăn chia không công bằng phổ biến nhiều trong nhiều HTX nông nghiệp, vì vậy chưa tạo được nhiều động lực cho người lao động.Trước thực tế đó tư tưởng quần chúng diễn biến phức tạp , người dân lo lắng băn khoăn.MTTQ đã cùng với các đoàn thể quần chúng thành viên xác định nhiệm vụ lúc này là bám sát chủ trương của Đảng và của Tỉnh ủy Phú Thọ kịp thời có biện pháp giáo dục động viên quần chúng chia sẻ những khó khăn giúp nhau ổn định đời sống , giữ vứng sản xuất ,cần kiệm xây dựng XHCN, tăng cường an ninh quốc phòng , bảo vệ Tổ quốc. Tại đại hội đại biểu Công đoàn Vĩnh Phú lần II đã xác định rõ nhiệm vụ của đội ngũ công nhân viên tổ chức Công đoàn Vĩnh Phú là “ Tổ chức phong trào hành động cách mạng rộng lớn của công nhân viên chức , thi đua lao động tổ chức , thi đua lao động tổ chức,cần kiệm xây dựng CNXH,hoàn thành sản xuất hiệu quả đạt hiệu quả cao…”. Trong những năm 1976-1980 nhiều phong trào quy mô được mở rộng cae quy mô và chất lượng , nổi bật nhất là phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật , tiết hiệm cải tiến kỹ thuật , tiết kiệm hợp lý hóa sản xuất và thi đua phục vụ nông nghiệp. Trong năm 1978 chỉ riêng ở 7 ngành và 22 đơn vị cơ sở trực thuộc ngành đã có 394 công trình ,1353 sản phẩm,350 sáng kiến. Qua 3 năm(1978-1980) , toàn tỉnh đã có 34824 sáng kiến trong nước được công nhận là 13876 sáng kiến,chiếm tổng số 40% sáng kiến đăng kí, trong đó co hon 12000 sáng kiến được áp dụng. Những năm đầu thập kỉ 80 , tình hình kinh tế cả nước nói chung và tỉnh Vĩnh Phú nói riêng có những xa xút và đình trệ nghiêm trọng do chưa thoát khỏi cô chế quan liêu bao cấp. Đất nước đang trong tình hình vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất ,phục vụ đời sống ,nhân dân ngày càng khan hiếm , nhất là lương thực và hàng tiêu dùng… ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của cán bộ công nhân viên. Trong thời gian này các thế lực xấu, các thế lực phản động quốc tế chống phá ta về nhiều mặt , một số phần tử xấu , bất mãn trong nước ngấm ngầm đả kích chế độ , xuyên tạc đường lối , chính sách gây hoang mang, hoài nghi trong quần chúng. Về chật tự trị an:nạn trộm cắp, cướp giật,trộm cắp dây điện thoại , tệ mê tín dị đoan có xu hướng trỗi dậy , gây ra nhiều nhức nhối khiến cho nhân dân quần chúng bất bình. Trước tình hình đó , MTTQ tỉnh đã phối hợp với các đoàn thể , cùng với các lực lượng công an động viên nhân dân tích cực tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Các tầng lớp nhân dân đóng góp xây dựng phương án về chật tự xã hội ở địa bàn dân cư. Nhiều nơi mặt trận tham gia cùng Chính quyền xây dựng nội quy , quy chế để quần chúng thực hiện. Lồng luồn nội dung các phong trào chung, các chương trình hành động cụ thể trong phong trào thi đua của Mặt trận , đoàn thể như: chống tội phạm , chăm sóc các đối tượng chính sách , công tác động viên tuyển quân sự, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ… góp phần đưa các hoật động này thành nề nếp và nâng cao chất lựong. Mặt trận tỉnh cũng luôn chú trọng công tác vận động đồng bào tôn giáo , phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc và các yếu tố tích cực của đạo đức tôn giáo trong quá trình xây dựng cuộc sống mới. Quần chúng tín đồ các tôn giáo đã tích cực tham gia các cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình , thực hiện tiết kiệm , mua công trái xây dựng Tổ quốc , phấn khởi thực hiện các chính sách pháp luwtj và làm chọn nghĩa vụ với đất nứơc.Trong cuộc vận động mua trái phiếu năm 1983,đầu năm 1984 và phong trào mua sổ tiết kiệm bảo thọ, gửi tiền tiết kiệm , Mặt trận đóng vai trò nòng cốt , có những đóng góp quan trọng trong việc vận động thúc đẩy phong trào. Ban thường trực Ủy ban MTTQ tỉnh là thường trực theo và hướng dẫn công tác vận động mua công trái.Kết quả cuộc vận động mua công trái so với mức dự kiến còn chưa đạt yêu cầu. Tuy nhiên trong điều kiện thời gian gấp,đời sống nhân dân lao động còn gặp nhiều khó khăn đã thể hiện sự cố gắng , ý thức trách nhiệm , trước yêu cầu đóng góp xây dựng đất nước. Mặc dù vậy trong điều kiện đất nước vừa ra khỏi chiến tranh , cuộc đấu tranh cách mạng để thoát hẳn ra khỏi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp của Đảng và nhân dân ta mới chỉ bắt đầu, cộng thêm những khó khăn về đời sống vật chất chưa được cải thiện đáng kể … thì kết qủa của công tác Mặt trận ở giai đoạn này thật là đáng trân trọng, mở ra tư duy mới về vai trò vị trí của công tác mặt trận trong sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng và toàn dân ta. 2.4 Động viên toàn dân đoàn kết một lòng vượt qua khó khăn thử thách , thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng.(1986-1996). 2.4.1 Nghị quyết 8B xác lập vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam trong công cuộc đổi mới của Đảng(1986-1990) Vào những năm cuối của thập kỉ 80, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội V Đảng cộng sản Việt nam, nước ta đã giành được một số thành tựu nổi bật nhưng chưa toàn diện. Nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do chưa khắc phục được hết hậu quả của cuộc chiến tranh 30 năm với bè lũ đế quốc Mỹ và tay sai; chế độ quan liêu bao cấp nặng nề ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta tiến hành xây dựng XHCN trên một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp , phổ biến là là sản xuất nhỏ và dụa chủ yếu vào ngành nông nghiệp. Cùng lúc đó lại mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí , vi phạm quy luật khách quan : bố trí cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ chế quản lý kinh tế theo hướng tập chung bao cấp , nóng vội trong cải tạo XHCN, chỉ chú trọng công hữu hóa tư liệu sản xuất. Hậu quả là người lao động bị kìm hãm, sức lao động không phát triển được. Nền kinh tế quốc dân không có dự trữ, khủng hoảng trầm trọng,phải nhập khẩu gạo trong khi nạn thất nghiệp có nguy cơ lan rộng. Đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Có một số chủ trương sai lầm trong cải cách giá và cải cách tiền lương làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội và tư tưởng cán bộ công nhân viên.Công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ còn nhiều khuyết điểm dẫn đến việc nhận thức và hành động chưa đúng. Tình hình quốc tế còn nhiều diễn biến phức tạp: xuất hiện sự khủng hoảng cuă phe CNXH dẫn đến sự tan giã của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Hậu quả của cuộc chiến tranh biên giới Tây nam và Bắc còn nặng nề chưa khắc phục xong thì Mỹ và một số nước tư bản tiếp tục bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới. Thời kì này Vĩnh Phú cũng nằm chung trong tình trạng khó khăn của cả nước : Kinh tế chậm phát triển ; văn hóa- xã hội nẩy sinh những vấn đề phức tạp ; đời sống nhân dân gặp khó khăn,thiếu ổn định , đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi. Từ ngày 23 đến ngày 28/10/1986, Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú lần thứ VI đã quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kì 1986-1990. Về phương hướng, nhiệm vụ của Mặt trận và các đoàn thể trong nhiệm kì, Đại hội nêu rõ “ Mttq và các đoàn thể nhân dân cần tiếp tục đổi mới nội dung phương thức hoạt động cho phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế quản lý mới , phù hợp với tâm lý nguyện vọng, lợi ích của từng đối tượng quần chúng. Cần tập chung vào việc nâng cao nhận thức giác ngộ cho quần chúng lao động thâu suốt con đường đi lên CNXH, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới của Đảng. Các đoàn thể phải cùng với các cơ quan nhà nước tìm mọi cách duy trì và phát triển sản xuất và tạo thêm việc làm và thu nhập cho quần chúng. Trận lũ năm 1986 nhiều địa phương trong tỉnh bị thiệt hại nặng .Ủy ban MTTQ tỉnh và các đoàn thể đã tổ chức nhiều cuộc thăn hỏi động viên cho các gia đình gặp thiên tai ở các xã: Thọ Sơn,An Đạo… Năm 1987 trong từng ngành nghề lĩch vực: đoàn thể, MTTQ các cấp đã chủ động cùng với các thành viên của MT tổ chức nhiều phong trào thi đua sôi nổi. Trong năm 1988 nền kinh tế xã hội tỉnh nhà có nhiều bước tăng trửong so với năm 1987. Gia trị tổng sản lượng của ngành công nghiệp đạt 108,2%, tăng 21,6% so với cùng kì năm 1987; nộp ngân sách nhà nước 1 tỷ 3 triệu , tăng gần 3 lần so với năm 1987; riêng lượng xuất khẩu dạt tới 1 tỷ 944 triệu. Trong nông nghiệp, chỉ tính riêng vụ hè thu , toàn tỉnh reo trồng đạt gần 16 nghìn ha lúa và rau mầu. Vì vậy các hoạt động cua MTTQ và các đoàn thể có chiều sâu tôt hơn. Những năm này , phong trào quần chúng đấu tranh phòng chống tội phạm đã bắt đầu được Mặt trận TQ các cấp quan tâm phối hợp thực hiện. Cụ thể là đã phối hợp cùng các ngành tư pháp , công an thực hiện có hiệu quả kế hoạch 815 của UBND tỉnh về “phát động quần chúng đấu tranh phòng chống tội phạm, chống tiêu cực, giữ gìn trật tự an toàn xã hội”. Quần chúng trong tỉnh đã đã cung cấp 2327 tin tố giác tội phạm , trong đó có 665 tin có giá trị, làm rõ 142 vụ, thu hồi giá trị hàng trăm triệu đồng. Toàn tỉnh củng cố được 1019 tổ An ninh nhân dân và hoàn thiện 342 nội quy , 42 quy ước bảo vệ. Năm 1990 đánh dấu bước ngoạt quan trọng về vị trí vai trò của Mặt trận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam “ Dân giầu,nước mạnh,xã hội công bằng, văn minh” theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, trước biến cố chính trị ở các nước Đông Âu, năm 1990 là năm Mặt trận và các tổ chức thành viên đều xác định phải thường xuyên phản ánh với ĐẢNG về tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Nhân dịp kỉ niệm 60 năm thành lập MTTQ Việt Nam (18/11/1930-18/11/1990) MTTQ tỉnh đã đánh gia cao thành tích của các tầng lớp nhân dân đạt được sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và kế hợch 5 năm 1986-1990. Trên lĩch vực kinh tế Mặt trận đã vận động các tầng lớp nhân dân đã ra sức thi đua lao động sản xuất , thực hiện tiết kiệm, đổi mới cơ chế quản lý.Góp phần tháo gỡ khó khăn kinh tế , độnh viên nhân dân phát triển kinh tế gia đình. Trên các lĩch vực kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng,đã động viên sức mạnh của cộng đồng được xây nhiều ngôi nhà tình nghĩa, gửi tiết kiệm, xây dựng và phát triển quỹ Bảo thọ, hòa giải mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. 2.4.2 Phát huy kết quả 5 năm thực hiện đổi mới, tiếp tục động viên nhân dân trong tỉnh ổn địng đời sống,phát triển kinh tế - xã hội trong hoàn cảnh quốc tế mới(1991-1996). Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần hướng hoạt động đến cơ sở, địa bàn dân cư và đến từng hộ gia đình với mục đích làm cho dân giầu nước mạnh,công bằng xã hội văn minh.Tiếp tục củng cố và đổi mới hoạt động của MTTQ, thực hiện đoàn kết dân tộc , ngày càng mở rộng tập hợp lực lượng.Tăng cường vận động đến các tầng lớp nhân dân hiểu biết, sống và làm việc theo pháp luật. Thực hiện tốt cuộc bầu cử , thực hiện nghiêm túc kiến nghị bãi miễn đại biểu dân cử , thay đổi công chức , viên chức nhà nước không được dân tín nhiệm, hápt huy tác dụng của hệ thống nhân dân, thanh tra,phát hiện kiến nghị xử lý, thanh lý,buôn lậu. Vận động nhân dân cùng nhà nước thực hiện chính sách xã hội;cùng với ngành nội chúng tiếp tục thực hiện nghị quyết liên tịch về an ninh và càng ngày càng hiệu quả. Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở, chấn chỉnh công tác quản lý đoàn viên , hội viên kết hựp với phát triển tổc chức , với công tác chính trị tư tưởng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đòan viên, hội viên. Chú trọng giáo dục truyền thống,,giáo dục pháp luật,nâng cao kiến thức nhà quản lý Nhà nước, trình độ khoa học kỹ thuật, ngoại ngữ cho thế hệ trẻ.Giác ngộ cho quần chúng đối phó với những thách thức của thời đại. Toàn bộ phong trào quần chúng và hoạt động của các đoàn thể phải nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Vận động và tổ chức đoàn viên , hội viên thực hiện các phương án chuyển đổi cơ chế quản lý hợp tãcã nông nghiệp, thi đua san xuất giỏi, xóa đói giảm nghèo,thực hiện dân giầu nước mạnh, xã hội văn minh. Tiếp tực cụ thể hoá vai trò và trách nhiệm . nhiệm vụ và chức năng của đoàn thể quần chúng trong cơ chế thị trường, tham gia xử lý các mặt trái của nền kinh tếthị trường. phát triển các hoạt động từ thiện nhân đạo , chăm são các gia đình có công với nước, người già không nới nương tựa, trử mồ côi, những người gặp bất hạnh trong cuộc sống. Mở rộng các hình thức mới để tập hợp quần chúng như phát triển công đoàn ngoài quốc doanh , chi đoàn, chi hội doanh nghiệp. Khuyến khích các hoạt động không chuyên và sử dụng các cộng tác viên trong hoạt động quần chúng , tiếp tục tinh giảm bộ máy chuyên trách đoàn thể. Cải tiến việc tổ chức những ngày kỉ niệm theo hướng thiết thực và tiết kiệm. Năm 1991,nhân kỉ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27_7, MTTQ cùng Sở LĐTB&XH và UBND tỉnh phân phối hợp với UBND tỉnh và sở LĐTB&XH tỉnh Quản trị cải tạo và nâng cấp khu mộ liệt sĩ Vĩnh Phú tại nghĩa trang Trường Sơn với vốn đầu tư là 37 triệu đồng. Trong năm 1992 , hoạt động của các cơ quan thành viên mặt trận cũng được tăng cường trên 1 số lĩnh vực khác . Ngành y tế thực hiện tốt 3 trương trình trọng điểm : phòng chống sốt rét, tiêm chửng mở rộng và phòng chống bướu cổ -đần độn. 3/7 bệnh nhân tuyến tỉnh ,8/16 bệnh viện tuyến huyện được xếp loại tốt. Hội nông dân tỉnh đã tích cực thực hiện nhiệm vụ kinh tế -xã hội góp phần đổi mới bộ mặt của nông thôn, miền núi. Toàn tỉnh đã có 123.478 hộ gia đình có nhà ngói , đạ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20115.doc