Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị Bưu điện

Mở đầu Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở của, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt, sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng. Chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Trong nền kinh tế tập trung trước đây, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi như là một mục t

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị Bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung quan liêu phủ nhận nó trong các hoạt động cụ thể. Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng bắt đầu nhận thức được vấn đề chất lượng hàng hoá dịch vụ. Các nhà doanh nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên cứu những cơ chế mới về chất lượng cho thời kỳ tới. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu khách quan góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Với hơn 47 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội bước sang cơ chế thị trường với muôn vàn khó khăn thử thách đã bước đầu đứng vững và đang trên đà phát triển. Trong tình hình sản xuất kinh doanh phức tạp hiện nay, Nhà máy còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa và nước ngoài mà nguyên nhân cốt lõi là chất lượng và giá thành chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Như vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Vì những lý do trên, trong quá trình thực tập tại Nhà máy thiết bị bưu điện 61 Trần Phú Hà Nội, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Đình Chất em đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện”, làm chuyên đề tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp trong cơ chế thị trường. Phần II: Thực trạng về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội. Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Đình Chất đã tận tình hướng dẫn em và cháu xin cảm ơn các cô các chú công tác ở Nhà máy thiết bị bưu điện đã giúp đỡ cháu nhiều trong việc thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này. Phần thứ nhất Chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng công nghiệp trong cơ chế thị trường I. Khái niệm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường việc sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào thành công hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm hơn lúc nào hết được các doanh nghiệp quan tâm một cách nghiêm túc.Việc đưa chất lượng sản phẩm vào nghiên cứu như là một môn học chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển khoa học kinh tế ở nước ta. 1. Khái niệm chất lượng sản phẩm. Hiện nay, theo tài liệu các nước trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm. Mỗi quan niệm khác nhau đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm mục tiêu khác nhau. người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau. Chất lượng- theo quan điểm triết học – là một phần tồn tại cơ bản bên trong các sự vật hiện tượng. Theo Mác thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng của sản phẩm. Theo quan điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện thì chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó những điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật. Đây là một định nghĩa xuất phát từ quan điểm của các nhà sản xuất. Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm. Qua đó dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được nhờ đó xác định được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động biến đổi của nhu cầu trên thị trường, với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này cũng dễ hiểu bởi vì cũng giống như nước ta, các nước XHCN sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh về sản phẩm. Từ đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội đã dẫn đến cách hiểu chưa đầy đủ về chất lượng sản phẩm và đây cũng là một yếu tố kìm hãm nền kinh tế của các nước XHCN nói chung và nước ta nói riêng. Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì định nghĩa trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm về chất lượng sản phẩm phải được nhìn nhận năng động thực tiễn và hiệu quả hơn. Tức là khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là quan niệm chất lượng sản phảm theo hướng khách hàng. Có rất nhiều tác giả theo quan niệm này, với nhiều cách diễn đạt khác nhau: Crosby: Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định. Feigenbaum: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm. Juran: Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng. Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được những đòi hỏi của người tiêu dùng. Chất lượng được nhìn từ bên ngoài, theo quan điểm của khách hàng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Theo quan niệm này chất lượng sản phẩm không phải là cao nhất và tốt nhất mà là sự phù hợp với nhu cầu. Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên. tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: “ Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn ” (Theo ISO 8402:1994). Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước” (TCVN-5814-1994). Về thực chất, đây là những khái niệm có sự kết hợp của những quan niệm trước đây và những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy những quan niệm này được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãI hiện nay. Tuy nhiên quan niện chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ xung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế xã hội và công nghệ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm: Chất lượng thiết kế: Là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ. Chất lượng tiêu chuẩn: Là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế, địa phương hoặc ngành. Chất lượng thị trường: Là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu nhất định, mong đợi của người tiêu dùng. Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu mong đợi của một hoặc số tầng lớp người nhất định. Chất lượng phù hợp: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường, tâm lý người tiêu dùng. Chất lượng tối ưu: Là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của xã hội nhằm đạt được hiêụ quả kinh tế cao nhất. 2. Vai trò của chất lượng sản phẩm. Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp. Hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối của quy luật kinh tế, trong đó quy luật cạnh tranh chi phối một cách nghiệt ngã nhất, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu thị trường cả về mặt không gian, thời gian số lượng và chất lượng. Thế mạnh của nền kinh thị trường là hàng hoá tràn ngập phong phú cạnh tranh lẫn nhau gay gắt người tiêu dùng được tự do lựa chọn các sản phẩm theo nhu cầu, sở thích, khả năng mua của họ. Họ thực sự là đối tượng mà các nhà sản xuất kinh doanh sẵn sàng và tận tình phục vụ. Trong doanh nghiệp công nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất - chất lượng mà còn được tạo thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không lãng phí do không sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt. Nâng cao chất lượng chính là điều kiện để đạt được sự tiết kiệm đó nhờ tăng chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con đường ngắn nhất đem lại hiệu quả kinh tế. Chất lượng sản phẩm được nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận. Đây đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến độ sản xuất, tổ chức lao động, trong một doanh nghiệp nói riêng cũng như trên phạm vi quốc gia nói chung. Khi doanh nghiệp đã đạt được lợi nhuận thì có điều kiện để đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho họ làm cho họ tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp hết mình để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt giúp doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả hơn. Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất thì chất lượng sản phẩm tốt sẽ đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, tăng năng xuất lao động. Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để tăng cường nguồn thu nhập ngoại tệ cho Đất nước. 3. Đặc điểm và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. 3.1 Đặc điểm của chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể của từng thời kỳ. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm. Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm, ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm người ta đã đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng. Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế – kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh, không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Nhiều khi chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc, tính truyền thống, thị hiếu tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm biểu hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan và chủ quan hay còn gọi là hai loại chất lượng: Thứ nhất, chất lượng trong tuân thủ thiết kế, thể hiện ở mức độ chất lượng sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng loại bỏ, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính, bản chất khách quan của sản phẩm, do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh về chi phí. Thứ hai, chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi là chất lượng thiết kế. Nó phản ánh mức độ phù hợp của sản phẩm đối với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng, vì vậy nó tác động mạnh mẽ khả năng tiêu thụ sản phẩm. 3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. Khi nói tới chất lượng phải xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng mới khách quan và chính xác được. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm là những đặc tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng sản phẩm phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể, Đặc điểm này khẳng định những quan điểm sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm: * Chỉ tiêu nội dung: đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng chủ yếu mà sản phẩm phải thực hiện và quy định những việc sử dụng sản phẩm đó, trong đó chia thành: - Chỉ tiêu phân loại: Chỉ rõ sản phẩm được xếp vào một nhóm nhất định nào đó. - Chỉ tiêu chức năng: Đặc trưng cho hiệu quả sử dụng sản phẩm và tính tiên tiến của các giải pháp kỹ thuật đưa vào sản phẩm. - Chỉ tiêu kích thước; kết cấu, thành phần cấu tạo: Đặc trưng cho các giải pháp thiết kế cơ bản, sự thuận tiện, khả năng tổ hợp hoá. * Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất của sản phẩm luôn giữ được khả năng làm việc trong một khoảng thời gian nhất định. * Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu: vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người liên quan đến quá trình sản xuất và sinh hoạt. * Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hoà về kết cấu, sự hoàn thiện với sản xuất và độ ổn định của hàng hoá. Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi phí. * Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho mức độ sử dụng trong sản phẩm, các bộ phận được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác. * Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho sự thích ứng đối với việc vận chuyển, đặc trưng cho các công việc chuẩn bị và kết thúc liên quan đến vận chuyển, cụ thể là chi phí trung bình để vận chuyển một đơn vị sản phẩm. * Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn cho người sản xuất và sử dụng. * Chỉ tiêu về phát minh, sáng chế: Đặc trưng cho khả năng giữ bản quyền. * Chỉ tiêu tuổi thọ: Đặc trưng cho thời gian sử dụng của sản phẩm. * Chỉ tiêu về chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm. Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với mỗi sản phẩm khác nhau. Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm đồng loại trên thị trường. Hiện nay một sản phẩm được coi là có chất lượng cao ngoài các chỉ tiêu an toàn đối với người sử dụng và xã hội, môi trường ngày càng quan trọng, trở thành bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt những là sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đối với sức khoẻ và cuộc sống của con người. Ngoài ra, để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, giữa các doanh nghiệp đối với hầu hết các loại sản phẩm ta còn có các chỉ tiêu so sánh như sau: + Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất. + Dùng thước đo để tính, ta có công thức: Tỷ lệ sai hỏng = x 100 + Dùng thước đo giá trị để tính ta có công thức: Tỷ lệ sai hỏng = x 100 Trong quản lý chất lượng sản phẩm người ta chủ yếu tính độ lệch chuẩn và tỷ lệ so đạt chất lượng sản phẩm: Độ lệch chuẩn: Xi : giá trị số mẫu : giá trị trung bình n : số mẫu lấy ra Tỷ lệ sản phẩm = x 100 + Tỷ lệ đạt chất lượng nói chung được tính theo công thức Tỷ lệ đạt chất lượng = x 100 Để sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm Nhà nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp mà xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm . Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải đạt mức chất lượng đã đăng ký, đó là cơ sở kiểm tra, đánh giá, sản phẩm sản xuất. II. Những nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia thành hai nhóm chủ yếu: 1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp. * Lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ hiện đại tới đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến chất lượng, các hoạt động chất lượng sản phẩm và các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng các khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia. * Khả năng về công nghệ, máy móc, thiết bị của doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ nhất đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp không thể tách rời trình độ công nghệ trên Thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp cho phép sử dụng những thành tựu khoa học công nghệ của Thế giới, đồng thời khai thác tối đa nguồn công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý. * Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu là một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành nên sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng cao từ nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng bộ và chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra chất lượng hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên liệu thích ứng tạo trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, tạo hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người cung ứng đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng đầy đủ kịp thời, chính xác đúng nơi cần thiết. * Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Trình độ quản trị nói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, các chuyên gia quản trị chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế có tới 80 % những vấn đề về chất lượng là do quản trị gây ra. Vì vậy nói đến quản trị chất lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết đó là chất lượng của quản trị. Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và người lao động dù ở trình độ cao nhưng nếu không biết tổ chức quản lý hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất thì không thể tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao được. Thậm chí trình độ quản lý tồi còn làm giảm sút chất lượng sản phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị, nhận thức, hiểu biết về chất lượng và trình độ chất lượng của cán bộ quản trị, Khả năng xác định chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, thực hiện kế hoạch chất lượng. Chất lượng là vấn đề hết sức quan trọng do đó không thể phó mặc cho các nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp phải coi chất lượng là vấn đề thuộc trách nhiệm của toàn bộ doanh nghiệp. 2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. * Nhu cầu thị trường. Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng tạo lực hút, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm có thể được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại không cao ở thị trường khác. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng trong công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế – xã hội, xác định chính xác nhận thức của khách hàng, thói quen, truyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá, mục đích sử dụng và khả năng thanh toán... nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường. Thông thường khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm thì yêu cầu của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm cao. Nhưng khi đời sống xã hội tăng lên thì đòi hỏi về chất lượng sản phẩm sẽ tâng cao, ngoài tính năng sử dụng còn cả giá trị thẩm mỹ... Người ta chấp nhận mua với giá cao để có sản phẩm ưng ý. Chính vì vậy, các nhà sản xuất phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu thị trường. Lúc đó việc nâng cao chất lượng sản phẩm mới đi đúng hướng. * Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ. Trong thời đại ngày nay không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn liền với tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất, chủng loại, chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với tốc độ hết sức nhanh. Tiến bộ của khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy tạo khả năng to lớn đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Nhờ khả năng to lớn của tiến bộ khoa học công nghệ sáng chế những sản phẩm mới, tạo ra và đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn, thay thế nguyên vật liệu mới, tốt, rẻ hơn, hình thành phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản trị tiên tiến góp phần giảm chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm. * Cơ chế quản lý chính sách của Nhà nước. Khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của Nhà nước. Cơ chế quản lý vừa là môi trường vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Thông qua cơ chế và các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi kích thích: + Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng của các doanh nghiệp. + Hình thành môi trường thuận lợi cho huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại. + Sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng, xoá bỏ sức ỳ, tâm lý ỷ lại, không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật hoàn thiện chất lượng. * Điều kiện tự nhiên. + Khí hậu: Các doanh nghiệp cần quan tâm đến khí hậu, phân tích mức độ ảnh hưởng khí hậu từng mùa đến từng loại sản phẩm của mình. + Bức xạ mặt trời: ảnh hưởng của các tia hồng ngoại trong ánh sáng của mặt trời, những tia này có thể làm thay đổi về mùi vị màu sắc của sản phẩm. + Mưa, gió, bão: Làm cho sản phẩm bị ngấm nước, độ ẩm cao, quá trình ô xy hoá mạnh hơn dẫn đến biến đổi chất lượng sản phẩm. + Vi sinh vật, côn trùng: Chủ yếu tác động vào một số loại sản phẩm tạo ra quá trình lên men, phân huỷ làm cho sản phẩm nát rữa ố màu... * Nhân tố kinh tế xã hội. + Các yếu tố kinh tế: Sự tác động của các qui luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. + Mức thu nhập của người tiêu dùng cao thì đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao, nó đặc trưng cho những tiêu dùng ở khu vực đô thị và ngược lại. + Trình độ văn minh của người tiêu dùng cũng như thị hiếu của người tiêu dùng. Ngày nay người tiêu dùng ưa thích những sản phẩm có chất lượng cao, thuận tiện và dễ sử dụng. III. Các nội dung chủ yếu của quản trị chất lượng. 1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của quản trị chất lượng. 1.1. Khái niệm quản trị chất lượng. Cũng giống như khái niệm về chất lượng sản phẩm, hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản trị chất lượng. Tuy nhiên những định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng và phản ánh được bản chất của quản trị chất lượng. Khoa học quản trị chất lượng được phát triển và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, chưa có khái niệm về quản trị chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng: Là việc ứng dụng các phương thức, các thủ tục, các kiến thức đảm bảo để cho phép sản phẩm đang hoặc sẽ sản xuất phù hợp với các yêu cầu trong các hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất với sự tham gia của các chuyên gia. Toàn bộ hoạt động quản trị doanh nghiệp bó hẹp trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát sản phẩm trong quá trình sản xuất ở các phân xưởng. Sự phát triển của thị trường cùng với việc sản xuất ngày càng nhiều hàng hoá, tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tăng lên rất nhanh. Sau những năm 1950, cung bắt đầu lớn hơn cầu trên thị trường, các doanh nghiệp phải quan tâm tới chất lượng sản phẩm nhiều hơn, khái niệm quản trị chất lượng bắt đầu xuất hiện. Phạm vi và chức năng quản trị chất lượng được mở rộng hơn. Theo quan điểm phương tây cho rằng: Quản lý chất lượng là một hệ thống hoạt động có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong những tổ chức trên một đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm triển khai các thông số chất lượng, duy trì chất lượng đã đạt được và nâng cao mức chất lượng thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng. Theo quan điểm của người Nhật: Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất tạo điều kiện sản xuất kinh tế nhất những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất. Vào những năm của thập kỷ 70, sự cạnh tranh tăng lên đột ngột đã buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và thay đổi quan niệm về quản trị chất lượng. Để thoả mãn khách hàng các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất mà phải quan tâm đến chất lượng ngay cả sau khi đã bán sản phẩm ra thị trường. Quản trị chất lượng đã mở rộng tới tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến tiêu dùng trong toàn bộ đời sống của sản phẩm. Những thay đổi trong cách nhìn và phương pháp quản trị chất lượng trong hàng loạt các doanh nghiệp lớn trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, Nhật và các nước Châu Âu phát triển đã tạo ra một cuộc cách mạng về chất lượng sản phẩm trên thế giới. Người ta đã biết đến quản trị chất lượng theo phương pháp hiện đại dưới những cái tên quen thuộc phổ biến rộng rãi ở Nhật và phương tây như quản trị chất lượng đồng bộ (TQM). Theo quan điểm của phương tây: TQM là một hệ thống có hiệu quả thống nhất hoạt động của các bộ phận khác nhau, chịu trách nhiệm triển khai, duy trì mức chất lượng đạt được, nâng cao mức chất lượng để sử dụng và sản xuất sản phẩm ở mức kinh tế thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng với vai trò kiểm tra quan trọng của các chuyên gia. Theo quan điểm của Nhật: TQM là một hoạt động tập thể đòi hỏi sức lực của các nhóm công nhân, các cá nhân với sự tham gia của các hãng, các công ty và việc quản lý mang tính chất toàn diện. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò của các cá nhân, cho rằng các cá nhân có vai trò quyết định đến từng khâu của quản lý chất lượng sản phẩm. Đặc điểm lớn nhất của TQM l._.à một thay đổi triết lý trong quản trị kinh doanh. Chất lượng là số một chứ không phải là lợi nhuận nhất thời. Khẩu hiệu “chất lượng là số 1” có khía cạnh đạo đức của nó là đi cùng với tổ chức kinh doanh có trách nhiệm, đạo đức với xã hội. Tuy nhiên đây không phải là mục tiêu trực tiếp của TQM mà là cách tiếp cận quản lý dựa trên việc đặt chất lượng là số một. TQM là một phương pháp đảm bảo tính lợi nhuận bền vững trong thời gian dài hạn. Vì vậy TQM dành ưu tiên cho những đòi hỏi của khách hàng bằng đề xuất những sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn cùng với nó là việc giảm chi phí nhưng cố gắng giảm chi phí sau khi yêu cầu về chất lượng đã đạt. Ngoài ra còn có các phương pháp: quản trị chất lượng rộng rãi toàn Nhà máy (CWQM), quản trị chiến lược chất lượng (SQM). Đó là những phương pháp tiếp cận có hệ thống nhằm thiết lập và thực hiện những mục tiêu về chất lượng trong toàn Nhà máy. Quan niệm chung nhất, khá toàn diện và được chấp nhận rộng rãi hiện nay do tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đưa ra như sau: “quản trị chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản trị chung nhằm xác định chính sách chất lượng mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng ”. 1.2. Bản chất và đặc điểm của quản trị chất lượng. Có thể hiểu quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ và tìm con đường đạt tới mục tiêu một cách hiệu quả nhất. Mục tiêu của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp là đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp nhu cầu của khách hàng với chi phí tối ưu. Đó chính là sự kết hợp giữa nâng cao những đặc tính kinh tế – kỹ thuật hữu ích của sản phẩm đồng thời với giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm năng để mở rộng thị trường. Thực hiện tốt công tác quản trị chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp phản ứng với nhu cầu thị trường, mặt khác góp phần giảm chi phí trong hoạt độnh sản xuất kinh doanh. Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế - kỹ thuật biểu thị mức độ thoả mãn nhu cầu thị trường một hệ thống tổ chức điều khiển và hệ thống chính sách khuyến khích phát triển chất lượng. Chất lượng được duy trì, đánh giá thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê trong quản trị chất lượng. Thực chất quản trị chất lượng là một tập hợp các hoạt động của các chức năng quản trị như hoạch định, tổ chức, kiểm soát và điều chỉnh. Nói cách khác quản trị chất lượng chính là chất lượng của quản trị. Đó là việc hoạt động tổng hợp về kinh tế, kỹ thuật, xã hội và tổ chức. Chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố về kinh tế, xã hội công nghệ và tổ chức xem xét đầy đủ trong mối quan hệ thống nhất ràng buộc với nhau trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo. Trước đây, trong doanh nghiệp công nghiệp người ta thường coi công tác quản lý chất lượng sản phẩm là một chức năng riêng của phòng KCS, các cán bộ nhân viên của phòng này thường xuyên giám sát, thanh tra, kiểm tra, đo lường chất lượng sản phẩm. Từ đó phân loại chất lượng, gạt bỏ những sản phẩm không phù hợp với yêu cầu. Đó là một quan niệm gây lãng phí vì nó làm cho doanh nghiệp đầu tư thời gian và vật liệu vào những sản phẩm hoặc dịch vụ mà không phải bao giờ cũng đảm bảo được. Việc thanh tra sau khi sản xuất xong là một điều tốn kém, không đáng tin cậy và phi kinh tế. Quản trị chất lượng hiện đại cho rằng vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt ra và giải quyết trong phạm vi toàn bộ hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Quản trị chất lượng là một quá trình liên tục mang tính hệ thống thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. Nhiệm vụ của quản trị chất lượng là xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng trong doanh nghiệp. Trong đó: + Nhiệm vụ đầu tiên là xác định cho được các yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở từng giai đoạn nhất định. Tức là phải xác định được sự thống nhất giữa thoả mãn nhu cầu thị trường với những điều kiện môi trường kinh doanh cụ thể với chi phí tối ưu. + Nhiệm vụ thứ hai là duy trì chất lượng sản phẩm: bao gồm toàn bộ những biện pháp, phương pháp nhằm đảm bảo những tiêu chuẩn đã được quy định trong hệ thống (theo thiết kế, theo các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn của chính bản thân doanh nghiệp...) Nhiệm vụ thứ ba là cải tiến chất lượng: Nhiệm vụ này bao gồm quá trình tìm kiếm, phát hiện đưa ra tiêu chuẩn mới cao hơn hoặc đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của khách hàng trên cơ sở đánh giá liên tục cải tiến những quy định, tiêu chuẩn cũ, hoàn thiện lại tiêu chuẩn hoá tiếp, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không ngừng hoàn thiện. Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở mọi khâu, mọi cấp, mọi quá trình. Nó vừa có ý nghĩa chiến lược vừa mang tính tác nghiệp. ở cấp cao nhất của doanh nghiệp luôn thực hiện quản trị chiến lược chất lượng. Cấp phân xưởng và các bộ phận thực hiện quản trị tác nghiệp chất lượng và ở từng nơi làm việc cuả mỗi người lao động thực hiện quá trình tự quản trị chất lượng. Tất cả các bộ phận, các cấp đều có trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích trong quản trị chất lượng của doanh nghiệp. 2. Nội dung của công tác quản trị chất lượng. Quản trị chất lượng sản phẩm là một hoạt động sâu rộng bao trùm từ khâu đầu đến khâu cuối thông qua công tác kiểm tra. 2.1. Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế. Đây là phân hệ đầu tiên trong quản trị chất lượng. Những thông số kinh tế kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp tới chất lượng của mỗi sản phẩm. Để thực hiện mục tiêu đó những nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện như sau: - Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, các nhà quản trị marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuyển hoá những đặc điểm nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm sản phẩm. Thiết kế là quá trình nhằm đảm bảo thực hiện những đặc điểm của sản phẩm đã xác định để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Kết quả của thiết kế là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản đồ thiết kế và lợi ích của sản phẩm đó. - Đưa ra các phương án khác nhau về đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng các nhu cầu khách hàng. Đặc điểm của sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ hay cải tiến những đặc điểm cũ cho phù hợp với đòi hỏi mới hay từ nghiên cứu thiết kế ra những sản phẩm hoàn toàn mới. - Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn ra phương án tối ưu. - Quyết định những đặc điểm sản phẩm đã lựa chọn. Các đặc điểm của sản phẩm thiết kế phải đáp ứng các yêu cầu sau: + Đáp ứng nhu cầu của khách hàng. + Thích hợp với khả năng. + Đảm bảo tính cạnh tranh. + Tối thiểu hoá chi phí. - Phân tích về kinh tế: Là quá trình đánh giá mối quan hệ giữa lợi ích mà các đặc điểm của sản phẩm đưa ra với chi phí cần thiết để tạo ra chúng. Phân chia từng chức năng thành các đặc điểm cụ thể và ước tính chi phí cho từng đặc điểm đó, ở đây phương pháp đồ thị thường được áp dụng rộng rãi nhất. - Những chỉ tiêu cần kiểm tra là: + Trình độ chất lượng sản phẩm. + Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế thử. + Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử, chất lượng cho sản xuất hàng loạt. 2.2. Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng. Mục tiêu của quản trị trong khâu cung ứng nhằm đáp ứng đúng chủng loại, số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên liên tục với chi phí thấp nhất. Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng gồm các nội dung sau: - Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng vật tư, nguyên liệu. - Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ thường xuyên cập nhật. - Thoả mãn về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng. - Thoả thuận về phương pháp kiểm tra xác minh. - Xác định phương pháp giao nhận. - Xác định rõ ràng đầy đủ thống nhất các điều khoản trong giải quyết những trục trặc, khiếm khuyết. 2.3. Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất. Mục đích của quản trị chất lượng trong sản xuất là khai thác, huy động có hiệu quả các quá trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Để thực hiện mục tiêu trên, quản trị chất lượng trong đoạn này cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Cung ứng vật tư nguyên liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, địa điểm. - Kiểm tra vật tư nguyên liệu đưa vào sản xuất. - Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục thao tác thực hiện từng công việc. - Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm sau từng công đoạn, phát hiện sai sót, tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ. - Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh. - Kiểm tra hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra, đo lường chất lượng. - Kiểm tra thường xuyên kỹ thuật công nghệ, duy trì bảo dưỡng kịp thời. Những chỉ tiêu chất lượng cần xem xét đánh giá trong giai đoạn sản xuất bao gồm: - Thông số kỹ thuật của các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm và sản xuất hoàn chỉnh. - Các chỉ tiêu về tình hình thực hiện kỷ luật công nghệ, kỷ luật lao động trong các bộ phận cả hành chính và sản xuất. - Các chỉ tiêu về chất lượng quản trị của nhà quản trị. - Các chỉ tiêu về tổn thất, thiệt hại do sai lầm, vi phạm kỷ luật lao động, quy trình công nghệ. 2.4. Quản trị chất lượng trong và sau khi bán hàng. Mục tiêu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là nhằm đảm bảo thoả mãn khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất và với chi phí thấp nhất nhờ đó tăng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp. Ngoài mục tiêu trên, rất nhiều doanh nghiệp còn thu được lợi nhuận lớn từ hoạt động dịch vụ sau khi bán. Vì vậy, những năm gần đây công tác bảo đảm chất lượng trong giai đoạn này được các doanh nghiệp rất chú ý và mở rộng phạm vi, tính chất các hoạt động dịch vụ. Nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là: - Tạo danh mục sản phẩm hợp lý. - Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi, nhanh chóng. - Thuyết minh, hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều liện sử dụng, quy trình, quy phạm sử dụng sản phẩm. - Nghiên cứu đề xuất những phương án bao gói vận chuyển bảo quản bốc dỡ hợp lý nhằm tăng năng suất, hạ giá thành. - Tổ chức bảo hành. - Tổ chức dịch vụ kỹ thuật thích hợp sau khi bán hàng. IV. Những xu hướng áp dụng hệ thống chất lượng ISO 9000 trong doanh nghiệp công nghiệp hiện nay để nâng cao chất lượng sản phẩm. 1. Giới thiệu về hệ thống chất lượng ISO 9000. 1.1. ISO là gì. ISO ( International Organization for Standardization ) là một tổ chức quốc tế toàn cầu về tiêu chuẩn hoá. ISO thành lập năm 1947, đóng tại Geneve – Thụy Sĩ – là một tổ chức phi chính phủ và hiện có hơn 100 thành viên chính thức. Mỗi quốc gia thành viên có một tổ chức đại diện ở ISO. Đại diện của Việt Nam là tổng cục đo lường chất lượng tiêu chuẩn chất lượng đã trở thành thành viên chính thức của ISO năm 1977. Hoạt động của ISO liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó chủ yếu là sản phẩm công nghiệp và các vấn đề chung về khoa học kỹ thuật. Hoạt động kỹ thuật của ISO được tiến hành thông qua khoảng 2600 cơ quan và các tổ chức quốc tế chính phủ và phi chính phủ trong đó sử dụng hơn 20.000 chuyên gia trên toàn Thế giới. Với mục tiêu hỗ trợ cho việc trao đổi quốc tế các sản phẩm và dịch vụ, ISO chủ yếu tập trung vào xây dựng ban hành các tiêu chuẩn về sản phẩm và an toàn tạo thuận lợi cho trao đổi quốc tế hàng hoá và dịch vụ của các công ty, xí nghiệp. Tất cả các tiêu chuẩn ISO biên soạn đều là tiêu chuẩn tự nguyện, áp dụng trên nguyên tắc thoả thuận. Đến nay ISO đã công bố trên 9000 tiêu chuẩn quốc tế trong danh mục tiêu chuẩn hàng năm. 1.2. Bối cảnh phát triển của ISO 9000. Bộ tiêu chuẩn ISO được bắt đầu nghiên cứu xây dựng từ năm 1979 dựa trên cơ sở bộ tiêu chuẩn BS 5750 và 5179 của viện tiêu chuẩn Anh, là bộ tiêu chuẩn áp dụng cho các cơ quan vừa thiết kế, vừa sản xuất, các cơ quan chỉ sản xuất và các cơ quan chỉ làm dịch vụ. Sau nhiều năm nghiên cứu xây dựng và sửa đổi ISO 9000 được công bố vào năm 1987 bao gồm 5 tiêu chuẩn bao trùm từ hướng dẫn sử dụng và lựa chọn. Đây là phần quan trọng nhất của ISO 9000 . Năm 1990, Việt Nam đã chấp nhận bộ tiêu chuẩn ISO 9000 dưới hình thức ban hành bộ tiêu chuẩn quốc gia mã số TCVN 5200 – 90, 5201, 5202, 5203, 5204 – 90. Cho đến nay, qua nhiều lần soát xét lại đã được biên soạn bằng tiếng việt gồm 10 tiêu chuẩn và hiện đang khuyến khích áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước, bao gồm các tiêu chuẩn từ ISO 9001 đến 9004. Trong đó: ISO 9000 bao trùm trên các lĩnh vực Hợp đồng - Quan niệm - Khái niệm Triển khai/mua (cung ứng) Sản xuất Kiểm tra và thử nghiệm, vận chuyển, tồn trữ, bán hàng Lắp đặt Hỗ trợ (dịch vụ) sau khi bán Sản xuất ISO 9001 ISO 9002 ISO 9003 * Tiêu chuẩn ISO 9001: Tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng trong thiết kế, phát triển sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Xác định rõ các yêu cầu của hệ thống chất lượng đối với nhà cung cấp nhằm đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu quy định trong thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật. * Tiêu chuẩn ISO 9002: Tiêu chuẩn về hệ thống chất lượng – mô hình đảm bảo chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Xác định các yêu cầu của hệ thống chất lượng đối với các nhà cung cấp đảm bảo phù hợp với các yêu cầu quy định trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. * Tiêu chuẩn ISO 9003: Tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng trong khâu kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng. Xác định rõ các yêu cầu của hệ thống chất lượng và cung cấp mô hình đảm bảo chất lượng chứng tỏ khả năng của các nhà cung cấp trong việc phát hiện và kiểm soát bất kỳ sự không phù hợp của sản phẩm, được chỉ rõ trong khâu kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng. 2. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng ISO 9000 trong doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. 2.1. Thuận lợi. 2.1.1. Lợi ích bên trong doanh nghiệp. Nhờ mô hình quản lý theo các yêu cầu của ISO 9000, doanh nghiệp có thể thực hiện các yêu cầu về chất lượng sản phẩm một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp làm đúng ngay từ đầu, xác định đúng nhiệm vụ và chỉ ra cách thực hiện để đạt kết quả mong muốn mà các nhà điều hành không cần phải can thiệp thường xuyên vào các tác nghiệp kinh doanh. Nhà máy có thể chủ động trong việc đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu bằng cách yêu cầu người cung cấp thiết lập hệ thống làm việc theo ISO 9000. Đối với nhân viên của Nhà máy, đội ngũ nhân viên hiểu rõ hơn vai trò và nhiệm vụ của mình nhờ vào hệ thống tài liệu mà trong đó công việc được hướng dẫn rõ ràng và công khai. Ngoài ra, nhân viên mới có thể học được cách làm việc ngay lập tức bởi vì mọi chỉ dẫn chi tiết cho công việc đều được ghi thành văn bản. 2.1.2. Lợi ích đối với bên ngoài doanh nghiệp. Tìm kiếm thị trường dễ ràng hơn vì các nhà nhập khẩu nước ngoài (đặc biệt thị trường châu Âu, châu Mỹ) đòi hỏi nhà cung ứng phải áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000. Nhà máy sẽ chiếm được sự tin tưởng lớn hơn của khách hàng vì Nhà máy liên tục thoả mãn các nhu cầu của khách hàng, họ không có lý do gì phải tìm nguồn cung ứng khác. Điều đó có nghĩa là Nhà máy sẽ ít chịu sự tổn thất do mất khách hàng đem lại, đảm bảo sự phát triển lâu dài. 2.2. Khó khăn. Như đã nêu ở trên, ở Việt Nam mặc dù chúng ta đã có bộ tiêu chuẩn TCVN 5200 – 90 đến 5204 - 90 tương đương với bộ tiêu chuẩn ISO 9000, nhưng trên thực tế có rất ít doanh nghiệp áp dụng, thậm chí một số cán bộ còn không biết ISO là gì. Sở dĩ việc áp dụng, triển khai bộ tiêu chuẩn ISO còn gặp nhiều khó khăn là do: Kinh phí từ 15 – 30.000 $ đối với một đơn vị quốc doanh, xí nghiệp vừa và nhỏ chi ra để tư vấn, công nhận ISO 9000 thật sự không dễ có ngay một lúc. Đây là khó khăn lớn nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp. Thực tế trong thời gian qua cho thấy rằng môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay còn quá nhiều rủi ro, bất trắc. Các nhà sản xuất kinh doanh ở Việt Nam hiện nay đang phải đối đầu, cạnh tranh với các công ty nước ngoài, với hàng ngoại một cách gay gắt, không cân sức. Đã vậy, ngoài những mối lo toan về tiếp thị, vốn nguồn cung ứng, con người, công nghệ ... họ còn có mối lo lắng rất lớn về sự thay đổi thuế xuất, biểu thuế xuất nhập khẩu, chính sách cấm nhập các loại mặt hàng... Vì tất cả các chính sách đó nếu không phù hợp sẽ có thể làm khuynh gia bại sản bất kỳ một doanh nghiệp nào, ngành nào và bất kỳ lúc nào. Tình hình thiếu thông tin cũng gây không ít trở ngại cho các hoạt động của doanh nghiệp như thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ những yêu cầu, luật lệ bắt buộc trong các quan hệ thương mại quốc tế (thủ tục thanh toán, yêu cầu về giám định chất lượng, thời hạn, trách nhiệm...) Những thông số về các mặt hàng, số người cung ứng, sản xuất, nhu cầu trong và ngoài nước. Thêm nữa, những đơn vị khu vực này lâu nay làm ăn quen kiểu quản lý cũ; nhiều đơn vị sản xuất nhỏ còn ở trình độ sản xuất thủ công bán cơ giới, trình độ tay nghề công nhân chưa đồng đều. Bộ tiêu chuẩn chưa được dịch ra tiếng Việt đầy đủ, vẫn còn một số thuật ngữ chưa được biên dịch và hiểu một cách thống nhất khi áp dụng ISO 9000. Phần thứ hai Thực trạng về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện I. Giới thiệu tổng quan về Nhà máy thiết bị bưu điện. 1. Lịch sử hình thành và phát triển. Nhà máy thiết bị bưu điện là một doanh nghiệp nhà nước đơn vị thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. Năm 1954 ngay sau khi tiếp quản thủ đô nhà nước Tổng cục bưu điện đã thành lập nhà máy với tên gọi "Nhà máy thiết bị truyền thanh" trên mặt bằng diện tích trên 22.000 m2 với thiết bị ban đầu là "nhà máy dây thép" của Pháp chuyển sản xuất những sản phẩm phục vụ ngành bưu điện và dân dụng. Sản phẩm chủ yếu của nhà máy là: - Loa truyền thanh. - Điện từ thanh. - Nam châm và một số thiết bị thô sơ khác... Từ năm 1954 - 1956 nhà máy có nhiệm vụ là sản xuất phục vụ cho việc lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và quân đội về những thông tin liên lạc và ngành bưu điện, dân dụng với các sản phẩm là các thiết bị liên lạc phục vụ trực tiếp cho truyền thanh, liên lạc thông tin. Đến năm 1956 tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy vẫn không thay đổi nhưng để phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước tại từng thời điểm, để hoàn thành nhiệm vụ của nhà nước giao cho. Năm 1967 theo quyết định số 389/QĐ ngày 16/06/1967 của cơ quan chủ quản là Tổng cục bưu điện đã tách rời nhà máy thiết bị truyền thanh ra làm 04 nhà máy trực thuộc: Nhà máy 1,2,3,4. Đầu những năm 1970. Do yêu cầu phát triển kỹ thuật thông tin của Tổng cục bưu điện đã xác nhập nhà máy 1,2,3 thành một nhà máy hạch toán độc lập theo quyết định số 15 /7/QĐ. Ngày 26/03/1970 sản phẩm cung cấp lúc đầu được đa dạng hoá bao gồm: - Các loại thiết bị dùng về hữu tuyến và vô tuyến. - Thiết bị truyền thanh và thu thanh. - Một số sản phẩm chuyên dùng cho cơ sở sản xuất của ngành. Ngoài ra còn một số sản phẩm dân dụng khác. Tháng 12 năm 1986 do yêu cầu của Tổng cục bưu điện Nhà máy một lần nữa lại tách ra thành 02 Nhà máy sản xuất kinh doanh ở 02 khu vực. - Nhà máy thiết bị bưu điện 61 trần phú Ba Đình - Hà Nội. - Nhà máy vật liệu điện từ loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội. Và cho đến tháng 3 năm 1993 Tổng cục bưu điện một lần nữa lại sát nhập 02 Nhà máy trên thành Nhà máy thiết bị bưu điện. Theo quyết định số 202 của Tổng cục bưu điện Nhà máy tiến hành sản xuất kinh doanh ở cả hai khu vực. - Khu Vực 1: 61 trần phú Ba Đình - Hà Nội. - Khu Vực 2: 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội. Đến năm 1997 Nhà máy lại tiếp nhận khu kho đồi A02 Lim - Bắc Ninh. Từ khi được tiếp nhận đến nay nhà máy không ngừng phát huy mọi khả năng có thể, khu kho được cải tạo, tu sửa và đưa vào hoạt động, trở thành cơ sở sản xuất thứ 3 của Nhà máy. Ngoài trụ sở chính ở Hà Nội, Nhà máy đã có hai chi nhánh ở hai thành phố lớn là Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai thành phố mà lượng tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của Nhà máy. Ngoài ra hai chi nhánh này cũng giúp cho việc tiếp cận thị trường được dễ dàng và là tiền đề ban đầu để Nhà máy có thể mở rộng trong tương lai. Trải qua 47 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, Nhà máy thiết bị bưu điện đã tự khẳng định mình bằng những bước đi vững vàng tự tin và luôn giữ vững được uy tín trên thị trường. Nhà máy đã phát triển về cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ sản xuất và quản lý. Số công nhân viên chức của Nhà máy tăng lên hàng năm, hiện là 560 người, Nhà máy cũng có một đội ngũ công nhân lành nghề đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Sản phẩm của Nhà máy ngày càng đa dạng và phong phú, có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, cạnh tranh được với hàng nhập ngoại. 2. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy thiết bị bưu điện. Trong các năm 1990 – 1992, sản xuất kinh doanh của Nhà máy gặp nhiều khó khăn do bỡ ngỡ lúng túng trong cơ chế thị trường, thị trường ngoài nước thì chưa thể đáp ứng được, thị trường nội địa bị cạnh tranh khốc liệt đặc biệt là hàng Trung Quốc, Thái Lan. Giá cả vật tư thay đổi, không có dự trữ, việc nhập nguyên vật liệu vật tư rất khó khăn. Máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, sản phẩm làm ra chưa đạt yêu cầu. Tuy vậy với sự nỗ lực của ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy, trong những năm gần đây mọi người đều có việc làm ổn định, có thu nhập, đổi mới thiết bị, cải tiến sản phẩm, đóng góp nghĩa vụ với nhà nước. Kết quả sản xuất kinh doanh trong các năm vừa qua thể hiện trong bảng sau: Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh giai đoạn 1998 – 2000 Đơn vị tính: 1000đ TT Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1 Vốn kinh doanh 119.697.169.105 135.780.788.118 118.269.460.438 2 Tổng doanh thu 163.032.000.000 145.595.000.000 149.741.000.000 3 Thuế phải nộp 9.791.500.000 10.195.995.000 12.207.000.000 4 Lãi dòng 6.318.000.000 7.393.000.000 6.282.000.000 5 Tổng số lao động(người) 550 560 560 6 Thu nhập bình quân 1.248.000 1.455.000 1.294.000 Qua những chỉ tiêu trên ta thấy ngoài nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập của cán bộ công nhân viên được cải thiện một cách đáng kể góp phần khuyến khích công nhân viên trong Nhà máy làm việc hăng say vì mục tiêu chung của nhà máy, góp phần thúc đẩy làm cho nhà máy phát triển ngày càng lớn mạnh. Công tác tài chính kế toán cũng có những bước phát triển tốt, có nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đã tiến hành thanh lý để giải phóng hàng tồn kho ứ đọng không dùng đến. Chỉ định hội đồng giá mua bán vật tư nguyên liệu và sản phẩm của nhà máy bảo đảm đúng nguyên tắc tài chính. Có các biện pháp đáo nợ thu nợ khách hàng, kết hợp tốt với phòng kế hoạch vật tư để giải quyết vật tư đối trừ công nợ. Để công tác hạch toán nội bộ được đề cao, ban giám đốc Nhà máy đã cho các phòng ban hạch toán nội bộ để từng đơn vị biết được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, đồng thời có những biện pháp hạ chi phí sản xuất. Ngoài ra, hàng năm Nhà máy luôn thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước Bảng 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Chỉ tiêu Số còn phải nộp kỳ trước Số phải nộp kỳ này Số đã nộp trong kỳ Số còn phải nộp đến cuối kỳ này Thuế Thuế DT Thuế xuất - nhập khẩu. Thuế lợi tức Thu trên vốn Tiền thuê đất Các loại thuế khác Bảo hiểm, kinh phí công đoàn. BHXH BHYT KPCD 656.886.587 406.840.438 227.419.871 22.626.233 -29.522.579 8.065.653.149 2.506.151.274 2.218.438.451 2.553.719.548 134.316.840 562.177.000 850.000 256.358.688 38.453.808 126.866.177 6.256.640.548 2.482.684.536 2.112.070.107 877.419.872 131.439.033 652.177.000 850.000 204.450.636 38.453.808 56.254.000 2.465.899.188 430.307.221 106.368.344 1.903.719.583 25.504.040 92.997.650 22.385.473 70.612.177 Tổng cộng 2.558.896.838 Mặc dù vậy sản xuất kinh doanh của Nhà máy vẫn còn bộc lộ một số điểm yếu chung của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh Việt Nam nói chung, thể hiện là máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, mặt hàng chưa phong phú và chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập ngoại... Do đó công việc này đòi hỏi vào sự lãnh đạo của ban giám đốc và sự cố gắng hết mình của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy. II. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của Nhà máy thiết bị bưu điện. 1. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và đặc điểm của sản phẩm. Nhà máy có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các sản phẩm điện thoại loa truyền thanh, điện từ thanh, nam châm, sản phẩm bưu chính như kìm bưu chính, dấu bưu chính, phôi niêm phong ... Các loại để cung cấp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân trên thị trường đặc biệt là phục vụ ngành bưu chính viễn thông Việt Nam. Là sản phẩm có tính chất sử dụng nhiều lần, sản phẩm của Nhà máy đa dạng về mẫu mã chủng loại, chất lượng… luôn luôn đổi mới cho phù hợp với xu hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước. Bảng 3. Các sản phẩm do Nhà máy thiết bị bưu điện sản xuất. Ban hành kèm theo QĐ 624/TBG 01-1999-ĐTPT ngày 29/1/1999 của giám đốc Nhà máy thiết bị bưu điện. T T Tên sản phẩm. Giá bán (chưa có VAT) A Nhóm thiết bị bưu chính 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Dấu ngang BC. Dấu nhật ấn cán búa. Kìm liêm phong. Dấu nhật ấn tự động. Phôi liêm phong (kg). Dây niêm túi thư. Thùng thư nhỏ. Thùng thư K96. Đồng hồ tính cước. Ô chia thư. Ca bin kín. Giá kệ bưu chính. 31.000 194.000 172.000 345.000 118.000 800 164.000 345.000 490.000 1.180.000 2.550.000 982.000 B Nhóm sản phẩm điện chính. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 Vỏ hộp HD10-50 Vỏ hộp HP Vỏ hộp HDPR 30.2 Vỏ hộp HDPR 50.2 Vỏ tủ TS 100.2 Vỏ tủ TS 150.2 Vỏ tủ TS 500.2 Vỏ tủ TS 300.2 Vỏ tủ KP-B 600.2 Vỏ tủ KP-B 1200.2 Phiến FL 10.2 Phiến FL 15.2 Phiến FL 25.2 Phiến PS 10.2 Phiến Krone Connect Phiến Krone Disconnect Giá Inoc Knone Măng sông cáp PSI Giá MDF Hộp Scocket Connector 3na Thanh luồn cáp 1m Thanh luồn cáp 1m2 Thanh luồn cáp 1m5 Thanh luồn cáp 2m PA 509 PA 303 PA 305 Thiết bị kéo cáp Đai ốc Inox 100x0,4 (cuộn 50m) Đai ốc Inox 200x0,4 (cuộn 50m) Khoá định vị A104 Khoá định vị A204 Bộ kìm siết đai MERO (m2) 83.000 95.000 164.000 227.000 193.000 245.000 450.000 450.000 1.273.000 2.545.000 17.000 24.000 44.000 255.000 45.000 54.000 3.500 290.000 10.000.000 3.000 250 19.000 23.000 29.000 39.000 5.800 7.300 10.000 9.500.000 180.000 410.000 1.400 1.900 2.185.000 1.150.000 C Nhóm sản phẩm bảo an 1 2 3 4 5 6 7 Hộp bảo an điện tử DS 301 Thiết bị cắt lọc 1 pha 32A Thiết bị cắt lọc 3 pha 32A Thiết bị cắt lọc 3 pha 63A Thiết bị cắt lọc sét 1 pha 63A Cắt sét 3 pha 135 KA Cắt sét 1 pha 135 KA 32.000 5.200.000 25.500.000 27.300.000 6.200.000 13.700.000 4.400.000 D Nhóm sản phẩm điện thoại 1 2 3 4 5 6. 7 POSTEF V701 Điện thoại VN2020 Điện thoại VN2040 Điện thoại Casio 1020 Điện thoại Casio 1040 Điện thoại Panasonic 2365 Điện thoại Panasonic 2315 150.000 170.000 380.000 190.000 480.000 605.000 475.000 E Nhóm sản phẩm loa 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Loa nén 15w Loa nén 30w có biến áp Loa cài 5w Loa 130 Loa 160 Loa 200 Loa 250 Loa 300 Loa Treble Biến áp loa Nam châm perit 74.000 184.000 23.000 23.000 43.000 55.000 60.000 80.000 28.000 30.000 900 F Nhóm sản phẩm MDF, ODF, IDF 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Block MDF 104.2 Block MDF 128.2 Block ngang 128.2 Sun and Sea Block MDF 100.2 P600 Module bảo an P600 Băng bảo an Simen 5 điểm Băng bảo an Simen 3 điểm Dao gài Krone Phiến bảo an Krone IDF Module MXS UC 8-18 1.800.000 1.600.000 1.500.000 2.250.000 35.000 670.000 335.000 520.000 270.000 15.000 1.970.000 2. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả tiêu thụ. Nghiên cứu thị trường luôn là việc làm đầu tiên cần thiết đối với các doanh nghiệp. Nếu xét trên thị trường tiêu thụ máy điện thoại và các sản phẩm bưu chính của cả nước Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội đang nắm giữ khoảng 25% để tăng thị phần của Nhà máy trên thị trường nội địa mà muốn làm được điều này đòi hỏi phải mở rộng sản xuất cũng như nghiên cứu thị trường là những bưu điện các cấp. Nhà máy thiết bị bưu điện đã tổ chức các hoạt động Marketing, nghiên cứu khách hàng nghiên cứu thị trường rất chặt chẽ. Thị trường của Nhà máy khá rộng, khách hàng là hệ thống bưu điện các cấp trong cả nước nên phòng marketing đã liên hệ trực tiếp với bưu điện các tỉnh, các Thành phố và nắm rõ được nhu cầu tiêu dùng của từng đơn vị này. Trong giai đoạn đầu mới thành lập nhà máy sản xuất theo kế hoạch của nhà nước giao. Nguyên liệu (thị trường đầu vào) rất khó khăn hàng hoá khan hiếm. Do trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, (Do nền công nghiệp chưa phát triển) vì vậy mà sản phẩm tiêu thụ chậm. Bước sang giai đoạn 1986 đến nay do nền kinh tế chuyển dịch theo cơ chế thị trường, Nhà máy bị hụt hẫng về nhiều mặt trong đó có việc khó thiết lập được mối liên hệ với các nguồn nguyên liệu, chất lượng sản phẩm kém, thị trường đầu ra khó khăn do nhu cầu đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao. Hiện nay Nhà máy đang phải cạnh tranh khá gay gắt để tìm đầu ra cho sản phẩm của mình. Trong số các đối thủ cạnh tranh có đối thủ khá mạnh như thị trường của Nhật Bản, Thái Lan, đặc biệt là hàng nhập lậu của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam. Hiện nay ở trong nước cũng xuất hiện một số doanh nghiệp có sản phẩm cùng loại. Trong quá trình cạnh tranh này. Nhà máy phải dựa vào thế mạnh về uy tín và quy mô của mình để mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây là khoản đóng góp đáng kể duy trì hoạt động của Nhà máy. Tình hình thị trường tiêu thụ như vậy đò._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0029.doc
Tài liệu liên quan