Một số giải pháp nhằm phát triển & củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước Việt Nam - Singapore

Lời mở đầu Mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Singapore đã phát triển nhanh chóng đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực trong hơn 3 thập kỷ qua, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 01/08/1973. Đặc biệt sự hợp tác thương mại giữa hai nước đã có bước phát triển lớn, mang lại lợi ích cho cả hai dân tộc. Hiện nay Singapore đã trở thành một trong những bạn hàng lớn nhất của ta và là nước có vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Singapore là một nước trong khu vực Đông Nam á, rất gần t

doc130 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm phát triển & củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước Việt Nam - Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a về mặt địa lý, cùng là thành viên của ASEAN và có nhiều mặt giống nước ta về văn hoá, lịch sử; đặc biệt là cơ cấu kinh tế của hai nước có thể bổ sung cho nhau khi tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Hai nước có chung một xuất phát điểm nhưng Singapore là nước phát triển trước Việt Nam về kinh tế. Năm 1959, Singapore cũng có nền kinh tế yếu kém thiếu vốn như tình trạng của Việt Nam hiện nay, và Singapore đã trở thành nước công nghiệp mới phát triển có công nghệ tiên tiến, có tiềm năng về tài chính, có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và kinh doanh. Với chính sách kinh tế đối ngoại theo hướng toàn cầu hoá, đa dạng hoá, đa phương hoá và hợp tác khu vực, rất tương đồng với chính sách ngoại giao rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hoá của Việt Nam; chính vì thế quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước không ngừng phát triển tốt đẹp. Singapore là một đối tác lớn của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, do vậy việc nghiên cứu mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước có ý nghĩa lớn về thực tiễn. Qua nghiên cứu có thể thấy diễn biến phát triển mối quan hệ Việt Nam - Singapore, thông qua đó chúng ta có thể thu được nhiều kinh nghiệm phát triển kinh tế của nước bạn. Phạm vi nghiên cứu của Khoá luận này là quan hệ kinh tế thương mại (cụ thể tập trung vào lĩnh vực xuất nhập khẩu và đầu tư) giữa hai nước Việt Nam - Singapore từ 1995 đến nay; trên cơ sở những đánh giá về mối quan hệ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển và củng cố quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong tương lai. Dựa trên phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê so sánh tài liệu và phân tích, ngoài mục lục, mục lục bảng biểu, tài liệu tham khảo và phụ lục; Khóa luận được bố cục như sau: Lời mở đầu Chương 1: Khái quát về đất nước và kinh tế Singapore Chương 2: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Singapore giai đoạn 1995 - 2001 Chương 3: Triển vọng và các giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Singapore Kết luận Khoá luận này mới là bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót trong việc triển khai đề tài. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Thu Thuỷ đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Em rất mong nhận được những góp ý của các thầy cô và các bạn để Khoá luận được hoàn thiện hơn. Hà nội ngày 22/11/2002 Chương 1 Khái quát về đất nước và kinh tế Singapore I. Vài nét về điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội của Singapore 1. Điều kiện địa lý, tự nhiên 1.1. Vị trí địa lý Gồm một đảo chính và 60 đảo nhỏ, Singapore là một đất nước có khí hậu nhiệt đới. Đảo chính là đảo Singapore có chiều dài khoảng 42 km và chiều rộng 23 km với diện tích khoảng 556 km2 trong tổng diện tích 647,5 km2 của cả quần đảo Singapore. Những hòn đảo còn lại đều nhỏ, đảo rộng nhất là đảo Pulauteking với diện tích 24,4km2; Pulanubin 10,2 km2 và đảo Sentosa 3,5 km2. Nằm giữa 1o09' đến 1o9' độ vĩ bắc và 103o36' đến 104o25' độ kinh đông; cách xích đạo về phía Bắc khoảng 137 km; eo biển Johor ngăn cách Singapore với bán đảo Malaysia và eo biển Singapore là biên giới với quần đảo Indonesia1. 1 Singapore Yearbook 2001 - Singapore có một vị trí địa lý lý tưởng: nằm trên trục đường vận tải biển từ á sang Âu, Đông sang Tây, là đầu cầu, cửa ngõ ra vào của Châu á. Singapore còn là tâm điểm nối các Châu lục á - Âu - Phi - úc và Bắc, Nam Mỹ (phía Tây Thái Bình Dương). Cùng với vị trí tự nhiên lý tưởng này cộng với thế mạnh của con người tạo ra, Singapore đã trở thành nơi hấp dẫn nhất khu vực. Tính đến năm 1998, đã có trên 10.500 công ty nước ngoài đầu tư, liên doanh tại đây (năm 1998 vốn đầu tư vào Singapore đạt trên 8 tỷ USD); hơn 5.000 công ty thương mại, tài chính đa quốc gia có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại đây; trên 150 cơ quan đầu não, trụ sở của các tổ chức quốc tế đặt văn phòng tại đây. Singapore là một trong những trung tâm lọc dầu lớn nhất thế giới với sự có mặt của hầu hết các hãng dầu khổng lồ BP, ESSO, Sheell, Caltex, Mobil... với công suất lọc dầu trên 1 triệu thùng/ ngày. Sự có mặt của những tập đoàn kinh tế khổng lồ đã mang lại nguồn lợi to lớn cho Singapore từ khoản thu thuế, dịch vụ và giải quyết việc làm và phúc lợi cho người dân Báo cáo thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương - Bộ Thương mại 3 Singapore Yearbook 2001 - . Địa hình của Singapore là bình nguyên xen kẽ các gò, đống, đồi thấp và đầm lầy. Gần 2/3 diện tích đảo không cao quá 15m so với mực nước biển. Đỉnh cao nhất của Singapore là Bukitpanjang cũng chỉ cao 177m. Phần phía Đông của đảo là một cao nguyên thấp đã bị bào mòn nhiều nên trở thành như đồng bằng, thỉnh thoảng có vài thung lũng nhỏ. Với địa hình gần như bằng phẳng như vậy, Singapore không có điều kiện để phát triển thuỷ điện và do đó phải dựa vào nguồn dầu nhập khẩu. 1.2. Khí hậu Singapore nằm trong vùng khí hậu xích đạo nên nhiệt độ và độ ẩm không khí khá cao. Nhiệt độ trung bình hằng ngày là 26,7 độ C; nhiệt độ cao nhất vào buổi chiều là 30,8 độ C và nhiệt độ thấp nhất lúc hoàng hôn là 23,9 độ C. Tháng 12 và tháng giêng thường là tháng mát nhất. Tháng 5 là tháng nóng nhất trong năm. Lượng mưa hàng năm là 2.344ml; mưa quanh năm nhưng thường mưa to vào tháng 11 đến tháng giêng, tháng 7 là tháng mưa ít nhất. Độ ẩm không khí bình quân trong năm cao, khoảng 84,3% . 2. Môi trường văn hoá xã hội 2.1. Đặc điểm dân cư Singapore là một quốc gia trẻ, đa dân tộc, đa sắc thái văn hoá, được hình thành chủ yếu trên nền tảng dân nhập cư từ Trung Quốc, Malaysia, ấn Độ và Châu Âu. Những ngày đầu tiên của Singapore năm 1819, khi Stamford Raffles (người Anh) phát hiện ra thì Singapore chỉ có khoảng 150 người dân sống rải rác dọc bờ sông. Tính đến tháng 6/2001, dân số đã là 3.319.000 (bao gồm cư dân và những người cư trú lâu dài). Trong đó cộng đồng người Hoa chiếm 76,7%; người Malaysia chiếm 13,9% và người ấn Độ chiếm 7,9%; còn lại 1,5% là người Châu Âu, người A rập và các tộc người khác. Cơ cấu dân cư của Singapore đã có biến đổi đáng kể do ảnh hưởng của những biến cố trong lịch sử phát triển. Năm 1824 với số dân 10.683; người Malaysia chiếm 60%; người Trung Hoa chiếm 31%. Sự thống trị của người Anh đối với Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông đã tạo điều kiện cho người nhập cư Trung Quốc làm thay đổi cơ cấu dân cư của nước này Singapore Yearbook 2001 - . Tỷ lệ nam nữ trong cơ cấu dân cư của Singapore hiện nay xấp xỉ bằng nhau và ngày càng có xu hướng cân bằng. Năm 1995 tỷ lệ nam/ nữ là 1,013 đến năm 1999 con số này là 1,006 (theo Uỷ ban Thống kê của Singapore), cùng với sự phát triển của dân số (trung bình khoảng 1,9%/năm thời kì 1995-2000) mật độ dân số của Singapore hiện nay là 5.900người/km2. Tuổi thọ của người dân Singapore ở mức cao trên thế giới; năm 1999 tuổi thọ của nam công dân Singapore là 75,6 năm và 79,6 năm đối với nữ Tài liệu đã dẫn . 2.2. Đặc điểm ngôn ngữ và tôn giáo Ngôn ngữ chính của Singapore là tiếng Malaysia, tiếng Trung Quốc phổ thông, tiếng Anh và tiếng Tamil. Tiếng Malaysia là ngôn ngữ quốc gia và tiếng Anh là tiếng sử dụng trong công sở. Tiếng Anh đóng vai trò như một ngôn ngữ làm việc, giúp ngăn chặn những xung đột nảy sinh giữa các sắc tộc với nhau và đã đem lại cho Singapore ưu thế cạnh tranh, vì đó là ngôn ngữ giao dịch, đàm phán và là ngôn ngữ của khoa học, kỹ thuật quốc tế. Đại bộ phận dân chúng Singapore ngày nay thông thạo cả hai thứ tiếng: tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ. Với một nền giáo dục khá hoàn chỉnh, Singapore có tỷ lệ dân biết đọc biết viết tính từ 10 tuổi trở lên cũng đạt tới 92%. Singapore là quốc gia đa tôn giáo, chủ yếu là đạo Phật, Khổng chiếm 53,8% trong khối người Hoa; đạo Thiên chúa 12,9%; đạo Islam 14,9% và đạo Hindu 3,3%. ở Singapore, không một tôn giáo nào được coi là quốc giáo6 Tài liệu đã dẫn . 3. Hệ thống chính trị, pháp luật Sau khi được thực dân Anh trao trả quyền tự trị cho Singapore (năm 1959) tháng 9 năm 1963, Singapore gia nhập Liên bang Malaysia. Có nhiều bất đồng cơ bản về chính sách đã nảy sinh giữa Singapore và chính quyền liên bang. Ngày 9/8/1965, Singapore đã tách ra thành một quốc gia độc lập. Singapore là nước cộng hoà với hệ thống chế độ đại nghị của Chính phủ. Tổ chức của nhà nước - cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp, và cơ quan tư pháp do hiến pháp quy định. Đứng đầu nhà nước là Tổng thống; bộ máy chính phủ gồm Nội các, đứng đầu Nội các là Thủ tướng. Thủ tướng và các thành viên Nội các được chỉ định bởi Tổng thống và do các thành viên của Quốc hội cử. Nội các chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Quốc hội (Nghị viện) Singapore với nhiệm kỳ 5 năm được bầu ra từ 2 loại đơn vị bầu cử: đơn vị loại thành viên và đơn vị loại đại diện (GRCs: Group Representation Constituencies). Những ứng cử viên thuộc các đơn vị bầu cử loại đại diện (GRCs) là người gốc Malay, gốc ấn Độ hoặc nhóm các dân tộc thiểu số khác nhằm đảm bảo nghị viện phản ánh được tính chất đa chủng tộc của xã hội Singapore. Cuộc bầu cử lần thứ 9 tổ chức vào 02/01/1997 đã bầu ra 83 thành viên trong đó 81 thành viên là người của Đảng Nhân dân Hành động PAP (People's Action Party); 1 thành viên của Đảng Nhân dân Singapore (Singapore People's Party) và người còn lại của Đảng Công nhân (Workers' Party). Từ năm 1992, hiến pháp Singapore mới bổ sung yêu cầu về chức vụ tổng thống. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kì 6 năm, tổng thống có quyền cao hơn cả thủ tướng, chẳng hạn tổ chức các cuộc điều tra tham nhũng đối với chính thủ tướng và các bộ trưởng... Cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên được tổ chức vào 28/08/1993. Ông Ong Teng Cheong đã được bầu. Ngày 18/8/1999, ông S.R Nathan đã thắng cử trong lần bầu cử tổng thống thứ 2 của cộng hoà Singapore; cùng điều hành đất nước với chính phủ của thủ tướng Goh Chok Tong và đảng cầm quyền PAP Singapore Yearbook 2001 - . Đảng nhân dân hành động PAP cầm quyền từ trên 30 năm nay và vẫn tiếp tục giữ vị trí thống trị. Lãnh tụ trước đây của PAP là ông Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Singapore từ năm 1959 - 1990; và hiện nay chủ tịch đảng là ông Goh Chok Tong thủ tướng đương nhiệm của Singapore. Cùng tồn tại với PAP còn có khoảng 20 đảng phái khác như Đảng công nhân, Đảng dân chủ, Đảng cộng sản, song thế lực của các đảng phái đối lập rất yếu, không có khả năng thách thức đảng PAP cầm quyền. Hệ thống luật pháp ổn định, chặt chẽ, nghiêm ngặt được xếp vào loại tốt và hoàn chỉnh nhất khu vực châu á; bảo đảm cho mọi hoạt động kinh tế xã hội được duy trì, ổn định và được điều chỉnh trong khuôn khổ luật pháp, tạo sự hấp dẫn, yên tâm cho các nhà kinh doanh, đầu tư trong và ngoài nước. Xây dựng một chính phủ trong sạch là mục tiêu mà nhà nước Singapore đã theo đuổi và thực hiện khá thành công. CPIB - Ban điều tra hành vi tham nhũng là cơ quan trọng yếu giúp chính phủ Singapore trong việc làm sạch bộ máy nhà nước. Niên giám Cạnh tranh Thế giới năm 1997 của Viện Phát triển Quản lý sắp xếp theo thứ hạng cho các quốc gia ít tham nhũng nhất trên toàn thế giới, cho điểm 10 đối với quốc gia nào không có nạn tham nhũng và Singapore được xếp vào hàng ngũ các quốc gia ít tham nhũng nhất trong khu vực châu á với điểm số 9,18 trước Hồng Kông, Nhật Bản và Đài Loan. Transparency International (đặt tại Berlin) xếp Singapore đứng thứ 7 trên thế giới năm 1998 cho thành tích "vắng mặt tham nhũng". Hệ thống luật pháp được đánh giá nhất thế giới căn cứ vào tiêu chuẩn hệ thống pháp luật hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế, là một sự khẳng định cho những cố gắng không ngừng về hoàn thiện pháp luật của chính phủ Singapore Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, Lịch sử Singapore 1965 - 2000, Nhà xuất bản trẻ, T6/2001 . II. Nền kinh tế Singapore trong những năm qua 1. Thành tựu trong phát triển kinh tế của Singapore Singapore là một mẫu mực cho quá trình phát triển nhờ tạo dựng một nền công nghiệp quốc gia trên cơ sở đầu tư của các tổ chức đa quốc gia. Sau hơn ba thập kỉ thực hiện những chính sách quản lý kinh tế Singapore đã đạt được nhiều thành tựu kì diệu gây không ít ngạc nhiên đối với thế giới. Từ một nền kinh tế mà thu nhập chủ yếu dựa vào buôn bán chuyển khẩu, chỉ trong một thời gian ngắn, quốc gia nhỏ bé này đã vươn lên thành một nước có nền công nghiệp chế biến - chế tạo hiện đại cùng với một hệ thống dịch vụ thương mại tài chính và du lịch hấp dẫn, có sức cạnh tranh vào bậc nhất trên thế giới. Sự thành công về kinh tế đã mở đường cho Singapore bước vào danh sách các nước thành viên của NIEs châu á vào đầu thập niên 80 và là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Nam á được OECD xếp vào hàng ngũ các nước phát triển (năm 1996). Singapore vẫn đang làm việc cật lực, hoạch định và ứng biến nhằm củng cố địa vị là một quốc gia có khả năng liên kết mậu dịch, đầu tư với các nước công nghiệp hàng đầu, và là một trung tâm phân phối hàng hoá, dịch vụ, thông tin thành công trong khu vực và trên thế giới. 1.1. Singapore - trung tâm lọc dầu Cuối thập niên 70, ngành công nghiệp dầu đã phát triển thành công công nghiệp hoá dầu. Từ chỗ chỉ là kho chứa, trạm buôn bán và trung chuyển xăng dầu, vào thập niên 90, với tổng năng suất tinh chế 1,2 triệu thùng mỗi ngày, Singapore đã trở thành trung tâm tinh chế dầu đứng thứ 3 trên thế giới sau Houston và Rotterdam, trung tâm thương mại dầu đứng thứ 3 trên thế giới sau New York và London, và là thị trường nhiên liệu xăng dầu lớn một về số lượng trên thế giới. Từ năm 1993, tại hòn đảo bé này có tới 18 nhà máy lọc dầu với sự có mặt của hầu hết các hãng dầu khổng lồ BP, ESO, Shell, Caltex, Mobil, British Petroleum... với công suất lọc dầu trên một triệu thùng một ngày. Trong thập kỉ 70, ngành công nghiệp lọc dầu Singapore rất phát đạt nhưng từ giữa những năm 80 hoạt động của ngành này có giảm sút. Từ chỗ chiếm 20% - 25% tổng giá trị xuất khẩu giảm xuống còn tương ứng là 15% - 16% vào năm 1989. Nguyên nhân là do tính thiếu ổn định của thị trường xăng dầu thế giới và do các nước láng giềng như Malaysia và Indonesia cũng xây dựng cơ sở để cạnh tranh. Tuy nhiên từ năm 1993 trở lại đây, ngành lọc dầu của Singapore đang dần dần lấy lại phong độ và đang có chiều hướng phát triển tốt. Bảng 1.1: Ngoại thương Singapore T6/02 T7/02 T8/02 T6/02 T7/02 T8/02 Đơn vị: triệu S$ Tăng giảm so với cùng kỳ năm trước (%) Tổng thương mại 36.746 38.347 37.254 2,2 9,9 6,6 Xuất khẩu 18.503 19.774 19.307 0,2 13,2 9,2 Xuất khẩu nội địa 9.483 10.667 10.381 -1,0 14,5 9,4 Dầu 1.718 1.998 1.778 -3,2 5,3 -10,6 Sp khác 7.745 8.669 8.603 -0,6 16,8 14,7 Tái XK 9.040 9.107 8.926 1,6 11,8 9,0 Dầu 262 266 192 274,3 421,6 82,9 Sp khác 8.778 8.841 8.734 -0,6 9,2 8,1 Nhập khẩu 18.243 18.573 17.947 4,2 6,6 3,9 Dầu 2.569 2.472 2.342 8,4 -4,8 -9,7 Sp khác 15.674 16.146 15.605 3,5 8,6 6,3 * Nguồn: 1.2. Singapore - trung tâm chế tạo và lắp ráp các đồ điện tử Chính sách đổi mới công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành kĩ thuật cao được thi hành vào cuối những năm 70 đã làm bùng nổ công nghệ điện tử - bán dẫn và vi mạch điện tử tại Singapore, biến nơi đây trở thành trung tâm sản xuất và lắp ráp các mặt hàng như ti vi, máy vi tính lớn nhất Đông Nam á. Những ưu thế trong chính sách đầu tư đã giúp Singapore thu hút được các công ty hàng đầu thế giới như: Sony, Sharp, Philips, Hewlett-packard, Compaq, Texas Instruments, Motorola, Aiwa và Siemens,... vào các lĩnh vực mũi nhọn với công nghệ tiên tiến. Theo thống kê hàng điện tử chiếm tới 50% giá trị của khu vực chế tạo, đóng góp tới 22% sản phẩm quốc nội GDP của Singapore Tạp chí Kinh tế Châu á Thái bình dương số1 (31) T2/2002 . Kim ngạch xuất khẩu điện tử của Singapore chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ thập kỷ 90, sản lượng công nghiệp điện tử của Singapore là 5,2% tỷ trọng của cả thế giới và tỷ trọng đó hầu như không thay đổi trong những năm gần đây Korea Focus số 7/8/2000 . Hiện nay trước xu hướng phát triển kinh tế tri thức của nền kinh tế thế giới, với những lợi thế về khoa hoc kĩ thuật, Singapore đã tỏ ra rất năng động trong việc chú trọng đầu tư phát triển các ngành công nghệ cao. Singapore đã chuyển dần cơ cấu từ các dây chuyền chế tạo đòi hỏi tay nghề thấp sang các quá trình sản xuất tiên tiến gồm cả R&D (nghiên cứu phát triển) và chế tạo trọn gói hàng điện tử. Vừa qua công ty máy tính khổng lồ Hewlett-Packark của Mỹ, một trong những nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên của Singapore (từ năm 1968), đã khai trương một nhà máy sản xuất lát bán dẫn trị giá 100 triệu USD. Đây là nhà sản xuất lát bán dẫn thứ hai của Hewlett-Packark tại Singapore, sẽ sản xuất lát bán dẫn silicon được sử dụng trong ngành phun mực của máy in vi tính. Nhà máy này sẽ mang lại 2 tỷ S$ (1,1 tỷ USD) cho Singapore vào năm 2004. Tháng 4/2000, nhà máy sản xuất Lycra, một loại nguyên liệu hoá học tổng hợp cao cấp dùng trong nhiều ngành chế tạo của tập đoàn Dupont (Mỹ) đã được khai trương tại Singapore Tạp chí Kinh tế Châu á Thái bình dương số 2 (37) T2/2002 . 1.3. Singapore - trung tâm dịch vụ thương mại thế giới Với vị trí cực kỳ xung yếu trên tuyến đường biển từ đông sang tây, Singapore ngay từ thời còn thuộc quyền cai trị của thực dân Anh đã sớm được xem là trạm trung chuyển hàng hoá lớn nhất khu vực. Phát huy ưu thế đó, chính phủ Singapore đã biến dịch vụ buôn bán chuyển khẩu ở nơi đây trở thành trung tâm dịch vụ thương mại quốc tế. Khi mới giành độc lập dân tộc, nền kinh tế do lịch sử để lại có cơ cấu thiên về các hoạt động kinh tế buôn bán chuyển khẩu và dịch vụ tái xuất khẩu. Đây là hoạt động đem lại phần lớn nguồn thu nhập cho quốc gia. Cùng với sự hình thành và phát triển một loạt các ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao, một tỷ lệ lớn trong xuất khẩu trực tiếp đã dần thay thế cho mậu dịch quá cảnh. Năm 1960, hàng tái xuất chiếm 90% giá trị kim ngạch xuất khẩu còn hàng xuất khẩu trực tiếp chiếm 10%. Đến năm 1991, hàng tái xuất giảm nhiều trong khi đó hàng xuất khẩu trực tiếp lại tăng nhanh, năm 1998 hàng tái xuất chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp (xuất khẩu nội địa) của Singapore ra thị trường thế giới tháng 07/2000: 10.667 triệu S$ và tháng 08/2002: 10.381 triệu S$ Báo cáo tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương, Bộ Thương mại . Mang đặc điểm là một nền kinh tế "hướng ngoại", đây là đầu cầu trung chuyển lớn hàng hoá trong khu vực và sang các nước khác trên thế giới, nó không bị hạn chế và không gò bó về cơ cấu xuất khẩu của thị trường nội địa với sự tham gia của nhiều công ty đa quốc gia có năng lực tài chính hùng mạnh; Singapore là một thị trường lớn, mặt hàng đa dạng từ hàng công nghiệp kĩ thuật cao đến nguyên liệu nông, lâm, khoáng sản thô, thủ công mỹ nghệ... đều có thể kinh doanh cho nhiều mục đích khác nhau như chế biến tại chỗ, tái xuất, chuyển khẩu. Tuy nhiên, Singapore tập trung xuất nhập khẩu vào một số hàng có thế mạnh như cơ khí, điện tử, tin học, hoá chất, thực phẩm chế biến. Năm 1998, kim ngạch các mặt hàng này chiếm tới 73% kim ngạch xuất khẩu, đạt 134,4 tỷ S$. Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này cũng chiếm 62% kim ngạch nhập khẩu, đạt 122,6 tỷ S$. Một khối lượng lớn các sản phẩm từ Malaysia, Indonesia và các nước trong khu vực (chủ yếu là: gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hải sản, thủ công mỹ nghệ) vận chuyển quá cảnh qua các kho cảng của Singapore trước khi gửi đi các thị trường Âu, Mỹ hay Trung Quốc. Thêm vào đó là một số hàng công nghiệp từ Châu Âu, vải lụa từ ấn Độ, Trung Quốc được Singapore nhập vào rồi lại xuất khẩu đi khắp Châu á Tài liệu đã dẫn . Với những hoạt động xuất khẩu như "chiếc bàn quay" giữa phương Tây và phương Đông, đặc biệt với các bạn hàng lớn như Mỹ, Nhật, EU, Malaysia, Đài loan... Singapore liên tục được xếp trong 10 nước đứng đầu thế giới về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong những năm gần đây. 1.4. Singapore - trung tâm dịch vụ hàng hải, cảng biển quốc tế Nằm ở cuối cực Nam của eo biển Malacca nên Singapore đã trở thành điểm án ngữ chiến lược trên con đường buôn bán bằng đường bằng đường biển giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; giữa Đông Nam á hải đảo và Đông Nam á lục địa. Tận dụng lợi thế này, cơ quan cảng Singapore (PSA) thành lập năm 1964 đã biến đổi cảng Singapore thành một trong những cảng tốt nhất thế giới. Từ chỗ chỉ có vài ba cảng nhỏ với đội tầu biển vài chục chiếc, đến năm 1998, đội tầu buôn của Singapore đã lên đến 3.412 chiếc, tổng trọng tải là 22.025 triệu tấn (GT); trong đó gần 5 triệu tấn là chuyên dùng chở dầu. Cảng Singapore là một trong ba cảng lớn nhất thế giới về năng lực thông qua và lớn thứ ba thế giới về bốc rót dầu, với 26 cầu cảng container bốc xếp được 50 triệu TEU vào năm 2000. Ngoài ra cảng Singapore còn cung cấp hàng loạt dịch vụ hàng hải như: hoa tiêu, tầu kéo, cung ứng nhiên liệu, kiểm tra miễn phí ga và nước, lưu kho, cung cấp vật dụng cần thiết cho tầu. Toàn bộ hệ thống cảng biển của Singapore hiện nay đã được tự động hoá trong bốc dỡ hàng hoá cũng với một hệ thống đưa hàng bằng điện toán điều khiển từ xa. Điều này giúp cảng có thể tiếp nhận 800 tầu vào bốc xếp cùng lúc; mỗi năm tiếp nhận được 140.922 lượt tầu. Riêng năm 1998, bốc xếp được 858 triệu tấn. Cảng Singapore còn là một trong những trung tâm chế tạo và sửa chữa tầu hàng năm tiếp nhận khoảng 2.500 đến 3.000 chiếc tầu đến sửa chữa Tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương, Bộ Thương mại . Singapore đã xây dựng cảng container đầu tiên ở Đông Nam á, và trong nhiều năm qua đã cố gắng biến Terminal Tanjong Pagon thành một trong những Terminal hữu hiệu nhất thế giới. Chương trình mở rộng cảng container Pasin Paijang có tổng vốn đầu tư là 7 tỷ USD, hoàn thành vào năm 2002 sẽ càng nâng cao vai trò và chức năng của cảng Singapore thành hải cảng trung tâm trung chuyển của khu vực. Với diện tích kho có mái che 500.000 m2 và 1,5 triệu m2 bãi container, kho ngoài trời; cảng thu hút 400 hãng tầu hoạt động, nối với 700 cảng biển khắp nơi trên thế giới. Mười một năm liên tục cảng Singapore được Hiệp hội Hàng hải Quốc tế xếp là cảng tốt nhất khu vực Châu á Tổng quan thị trường Singapore - Vụ Châu á Thái bình dương - Bộ Thương mại . 1.5. Singapore - trung tâm dịch vụ hàng không quốc tế Một trong những thành tựu nổi bật của kinh tế Singapore là sự phát triển hoàn hảo của hệ thống dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện viễn thông, du lịch...) trong đó ngành dịch vụ vận chuyển hàng không là ngành được phát triển một cách toàn diện với quy mô lớn, công nghệ hiện đại và đang có sức cạnh tranh bậc nhất trên thế giới. Chính sách "Bầu trời mở" do cục hàng không dân dụng Singapore (Civil Aviation Authority Singapore - CAAS) thi hành một cách tích cực trong hơn hai thập kỉ qua đã biến hòn đảo này trở thành đầu mối vận chuyển và dịch vụ hàng không quốc tế; đồng thời làm cho ngành hàng không dân dụng nước này trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, làm ăn có hiệu quả và có sức cạnh tranh tốt nhất trên thế giới. Với một diện tích nhỏ hẹp khoảng 647,5 km2, Singapore có tới 4 sân bay lớn nhỏ trong đó có Changi Air Port là niềm tự hào của người dân Singapore. Sân bay Changi khi mở cửa vào tháng 7 năm 1981 là sân bay lớn nhất châu á; nó đã giúp Singapore trở thành sân bay trung tâm của khu vực. Từ Changi Airport có 65 hãng hàng không hoạt động trên 151 tuyến bay nối với 51 quốc gia/ khu vực; thực hiện gần 90.000 chuyến bay mỗi năm (số liệu đến năm 1998) Tài liệu đã dẫn . Ngoài Changi Airport, phi trường Seletar cũng khá nổi tiếng với các dịch vụ thuê phi cơ và các hoạt động hàng không tổng quát. Một trong những thành tích nổi bật của ngành hàng không Singapore là sự vươn lên của hãng hàng không Singapore SIA (Singapore Air Lines). Được thành lập vào ngày 01/10/1972 với khẩu hiệu hành động "Khách hàng trước tiên, chất lượng trước tiên", SIA đã trở thành một trong những tập đoàn hàng không có chất lượng phục vụ tốt nhất và có lãi nhiều nhất trên thế giới. Tháng 5/1989, SIA là hãng hàng không đầu tiên trên thế giới có các chuyến bay thương mại bằng máy bay Boeing 747 bay thẳng từ Singapore đến London mà không phải dừng lại ở bất cứ nơi nào thuộc châu á hoặc châu Âu. Đến năm 1996, SIA đã có một trong những phi đội Boeing và Airbus lớn nhất và hiện đại nhất châu á, đã bay đến hầu hết các lục địa. Do phong cách phục vụ lịch thiệp, chu đáo, chính xác, an toàn và giá vé rẻ nên tháng 2/1994 SIA đã được nhận "Giải thưởng 20 năm phục vụ hoàn hảo" của Tạp chí Hàng không Thế giới trao tặng TS. Nguyễn Thị Hiền, Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN, NXB chính trị quốc gia, 2002 . Để gia tăng sức cạnh tranh của mình trong một môi trường quốc tế đầy sôi động, những năm gần đây tập đoàn SIA đã đẩy mạnh tốc độ hợp tác và liên kết đầu tư với những hãng hàng không và ngành hàng không của nhiều nước trên thế giới. Singapore đã ký hiệp định hàng không với 90 quốc gia và khu vực trên thế giới. ở Việt Nam, SIA có mặt từ nhiều năm nay. Tháng 1/1995, SIA khai trương chuyến bay hàng ngày đến TP Hồ Chí Minh, sau đó 3 năm SIA mỗi tuần có 2 chuyến bay đến Hà nội. Từ năm 1992, SIA đã giúp Việt Nam đào tạo cán bộ quản lý cho Hãng hàng không Việt Nam. Từ tháng 8 năm 1994, SIA đã đầu tư liên doanh với Hãng hàng không Việt Nam về xây dựng trạm dịch vụ vận chuyển hàng hoá tại sân bay Tân Sơn Nhất Tài liệu đã dẫn . 1.6. Singapore - trung tâm dịch vụ viễn thông Ngành dịch vụ viễn thông của Singapore trong khoảng một thập kỷ trở lại đây phát triển một cách rầm rộ kể cả về các hình thức dịch vụ cũng như các tốc độ kỹ thuật. Hiện nay dịch vụ viễn thông tại nước này có giá cước rẻ vào bậc nhất thế giới. Singapore là nước đầu tiên ở Đông Nam á có trạm vệ tinh hàng hải mặt đất, có thể liên lạc với tổ chức vệ tinh hàng hải Quốc tế Immarsast. Ngành thông tin viễn thông cung cấp dịch vụ trên 14.000 đường truyền quốc tế; đường cáp viễn thông ngầm qua biển tới khắp thế giới với trình độ kỹ thuật cao. Trong nỗ lực duy trì vị thế của một trong mười nước hàng đầu thế giới về công nghệ thông tin và trở thành quốc gia số 1 ở châu á về cơ sở hạ tầng và kinh doanh điện tử, Singapore còn phấn đấu trở thành "Một trung tâm thương mại điện tử toàn cầu đáng tin cậy". Đầu năm 2000, Singapore đã thông báo những sáng kiến về Inforcomm 21 trong đó chú trọng đến thị trường viễn thông tạo điều kiện để mọi người dân Singapore được sử dụng mạng Internet. Chính phủ đã khuyến khích và giúp đỡ các doanh nghiệp, người dân đẩy mạnh kết nối sử dụng Internet vào kinh doanh; và đã chi 30 triệu đô la Singapore cho mục đích này Tạp chí Kinh tế Châu á Thái bình dương, số 1(30) T2/2001 . Chính nhờ có hệ thống dịch vụ viễn thông hiện đại và giá cước rẻ nên nhiều công ty thế giới đã chọn Singapore làm trụ sở của họ để thiết lập các đầu mối thông tin và dữ liệu cho hoạt động kinh doanh ở khu vực châu á Thái Bình Dương. Singapore dự tính đến năm 2020 trở thành một đất nước hoàn toàn vi tính hoá với một kế hoạch đầy tham vọng thông minh hóa xã hội. Từ năm 1989, Singapore đã xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống điện tử Tradenet để làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá. Thực chất đây là một mạng máy tính nối liền giữa các cơ quan quản lý thủ tục nhà nước về xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp và được nối mạng với một số nước khác, cho phép các công ty hoàn tất toàn bộ thủ tục xin giấy phép xuất nhập khẩu qua mạng trong vòng 30 phút. Nhờ vậy, một container đi qua cổng cảng của Singapore chỉ tốn vẻn vẹn 45 giây. Mỗi năm mạng Tradenet này tiết kiệm cho Singapore khoảng 1 tỷ S$ chi phí thủ tục hành chính và những lợi ích không thể đo lường khác liên quan đến cung cấp thông tin thương mại giữa các đối tác tham gia trong mạng này. Hiện nay các nước công nghiệp tiên tiến đang tích cực thực hiện "xa lộ thông tin", vì hầu hết đều cho rằng nước nào giành được vị trí hàng đầu trong cuộc cạnh tranh này thì nước đó sẽ trở thành "siêu cường quốc". Singapore cũng nhận thức rõ tầm quan trọng trên nên đã đưa ra kế hoạch lớn "Điện toán hóa toàn đảo". Hệ thống này cho phép Singapore chẳng những thu và truyền đi những thông tin tri thức mới nhất của thế giới mà còn có khả năng tự mở rộng và tự xử lý các tư liệu, sau đó căn cứ vào các yêu cầu khác nhau của khách hàng để truyền đi các tư liệu này tới từng địa chỉ khác nhau Những vấn đề kinh tế thế giới số 3 (77)/ 2002. . 1.7. Singapore - trung tâm tài chính ngân hàng Dịch vụ tài chính - ngân hàng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn mà chính phủ Singapore rất chú trọng đầu tư phát triển. Chỉ trong vòng 15 năm sau khi giành được độc lập, Singapore đã nổi lên như một trung tâm tài chính quốc tế số một Đông Nam á, tập trung nhiều chi nhánh ngân hàng quốc tế lớn cũng như tập trung được khối lượng lớn giao dịch tiền tệ quan trọng và một mạng lưới kinh doanh tài chính, dịch vụ điện tử và bảo hiểm hoàn chỉnh và hiện đại bậc nhất thế giới. Năm 1968 Singapore thành lập thị trường ngoại hối. Sang năm 1969 Singapore có thị trường vàng bạc và đến năm 1971 thị trường chứng khoán ra đời. Vào những năm 90 Singapore đã trở thành một trong những trung tâm tài chính tầm cỡ thế giới với thị trường ngoại hối đứng hàng thứ 4 sau London, New York và chỉ đứng sau Tokyo một chút; thị trường vàng bạc đứng thứ 3 khu vực châu á Thái Bình Dương sau Tokyo và Hongkong; thị trường chứng khoán xếp hạng sau Tokyo và ngang ngửa với Hongkong. Năm 1998, Sở giao dịch Tiền tệ Quốc tế Singapore SIMEX được Thời báo Tài chính Quốc tế (International Financing Review) tại London trao giải thưởng sở hối đoái quốc tế trong năm 1998. Đây là sở hối đoái châu á duy nhất từng đoạt danh hiệu này và cũng là lần thứ 4 SIMEX đoạt giải thưởng này Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, Lịch sử Singapore 1965 - 2000, NXB trẻ T6/2001 . Ngân hàng DBS Bank mà chính phủ có cổ phần trong đó được xếp vào 100 ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngoài ra còn có 3 ngân hàng lớn là Overseas - Chinese Banking Corporation (Tập đoàn Ngân hàng Hoa kiều); United Overseas Bank (Ngân hàng Liên hiệp Nước ngoài) và Overseas Union Bank (Ngân hàng Liên hợp Hải ngoại) là những ngân hàng nội địa lớn do Singapore quản lý. Trong lĩnh vực quản lý tài chính, đường lối thận trọng đã giúp Singapore khắc phục được khủng hoảng tài chính Đông á 1997-1998; tuy nhiên trước tình hình mới của kinh tế thế giới, ngành ngân hàng Singapore cần phải cải cách và tự do hoá hơn nữa. Ngày 7/12/2001 Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) đã cấp giấy phép chính thức cho hai tậ._.p đoàn ngân hàng nước ngoài là Ngân hàng Hongkong và Thượng hải, Ngân hàng May Bank của Malaysia được hoạt động ở Singapore từ 01/01/2002. Đây là ví dụ nằm trong chương trình tự do hoá ngành tài chính được áp dụng từ năm 1999. Những bổ sung mới này đã nâng số lượng các ngân hàng đạt tiêu chuẩn ở Singapore lên tới 6 ngân hàng. Tiếp đó là các ngân hàng của Mỹ, Hà Lan, Anh và Pháp cũng lần lượt được cấp giấy phép. Tháng 10/2001 Singapore đã ký hiệp ước kinh tế Nhật Bản - Singapore mở ra một mối quan hệ đối tác trong kỷ nguyên mới nhằm giám sát những trung tâm chứng khoán và nguồn vốn phát sinh từ chứng khoán - Phó Thủ tướng Lý Hiển Long trong bài phát biểu trước các chủ ngân hàng đầu tư ở Singapore cho biết. Sang năm 2002, Singapore sẽ thực hiện chính sách cấp phép hoạt động cho các Website, về tài chính trên mạng Internet, cung cấp dịch vụ tư vấn về đầu tư và kinh doanh chứng khoán nhằm ngăn chặn các nhà quản lý không đáng tin cậy lừa gạt các nhà đầu tư. Những quy định mới này sẽ được đưa vào luật tư vấn tài chính và luật chứng khoán của Singapore trong năm 2002. Tất cả những chính sách trên thể hiện nỗ lực của chính phủ Singapore nhằm duy trì và phát triển một trung tâm tài chính ngân hàng quốc tế lớn của thế giới Tạp chí Kinh tế Châu á Thái bình dương, số 2 (37) T2/2002 . 2. Những thành công, hạn chế và nguyên nhân Singapore hiện nay vừa là thành tựu, vừa là nạn nhân của hiện tượng đã sản sinh ra mình, đó là toàn cầu hoá. Singapore là nước có diện tích nhỏ nhất và dân số gần ít nhất trong các nước ASEAN nhưng có thể nói là nước thu được nhiều lợi ích nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trong thời gian không dài (khoảng 30 năm) nhưng đời sống kinh tế quốc gia được cải thiện rõ nét và địa vị của quốc gia trong cộng đồng quốc tế cũng thay đổi rất căn bản. Từ một nước có trình độ kinh tế thấp kém, thu nhập quốc gia chủ yếu dựa vào hoạt động dịch vụ chuyển khẩu, tiềm năng nông nghiệp không có, phải nhập mọi sản phẩm thiết yếu (kể cả nước uống); Singapore đã trở thành nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất trong khu vực và được xếp vào nhóm nước có thu nhập quốc dân bình quân đầu người hàng đầu thế giới. Chính phủ điều hành đất nước rất có hiệu quả. Singapore đã được các tổ chức quốc tế, các cơ quan nghiên cứu đánh giá trong năm 1998 như sau: Tổng quan thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái bình dương , Bộ Thương mại 1. Nền kinh tế tự do hoá NHất thế giới (trên cơ sở 10 tiêu thức: chính sách thương mại, thuế, vai trò điều hành của chính phủ, chính sách tiền tệ, luân chuyển vốn và FDI, tiền lương và kiểm soát giá cả, sở hữu công nghiệp, các quy định và thị trường chợ đen - Heritage Foundation & The Wall Street Journal xếp hạng) 2. Sức cạnh tranh của nền kinh tế Nhất thế giới (căn cứ vào các chỉ số: tính cởi mở, điều hành của chính phủ, nền tài chính, hạ tầng cơ sở, lực lượng lao động và luật pháp - World Economic Forum - WEF) 3. Hệ thống luật pháp Nhất thế giới (căn cứ xếp loại: hệ thống pháp luật hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế - International Institute For Management Development - IMD) 4. Môi trường kinh doanh Nhất khu vực châu á (căn cứ các chỉ số: ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư nước ngoài, cơ hội kinh doanh, chính sách của chính phủ đối với doanh nghiệp tư nhân và sự cạnh tranh, chính sách ngoại hối và thương mại, hệ thống thuế, tài chính, thi trường lao động và hạ tầng cơ sở - Economic Intelligence Unit - EIU) 5. Chuẩn hoá chế độ quản lý doanh nghiệp Nhất châu á (tiêu chuẩn xếp hạng: chất lượng quản lý tại các doanh nghiệp - Price Waterhouse) 6. Hồi vốn FDI thứ Nhì khu vực châu á thái bình dương (các chỉ số: vốn cổ phần, thu nhập từ tái đầu tư, vay vốn liên công ty - UNCTAD) 7. Hệ thống bảo vệ pháp luật (toà án, cảnh sát) Nhất 11 nước châu á + Hoa kỳ (các chỉ số xếp hạng: giải quyết các vụ án nhanh, an ninh công cộng và mức tội phạm thấp - Political and Economic Risk Consultancy - PERC) 8. Tình trạng tham nhũng ít Nhất châu á (các chỉ số xếp hạng: hệ thống luật pháp, trình độ chuyên môn của các cơ quan bảo vệ luật pháp - PERC) 9. Khu công nghiệp kỹ thuật cao Trong số 10 quốc gia hàng đầu thế giới (các chỉ số xếp loại: số lượng các viện, cơ quan nghiên cứu khoa học, tài năng công nghệ cao, vốn đầu tư, hạ tầng cơ sở - Newsweek) 10. Chất lượng mức sống Thứ 4 trong 40 thành phố lớn châu á (các chỉ số: 24 chỉ số gồm giáo dục, vận tải công cộng, nhà ở, điều kiện vệ sinh, chăm sóc sức khoẻ - Newsweek) Bảng 1.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore Năm 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 Tốc độ (%) 8,3 6,7 5,8 9,9 7,0 6,8 6,6 7,3 0,4 6,9 10,3 -2,0 3,7 6,5 * Nguồn: 90-95: Bộ Kế hoạch Đầu tư 96-98: ASIA WEEK.1/1999 99-2003: ASIAN Development Outlook 2002, ADB, 4/2002 Có được thành công trên là nhờ vào những định hướng, chính sách phát triển kinh tế hết sức hợp lý của chính phủ Singapore. Ngay khi mới giành được độc lập, Singapore đã nhận thức được đầy đủ những khó khăn về tình trạng đất chật, người đông, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm và hiểu rằng nếu không dựa vào bên ngoài, không "mở cửa" kinh tế thực hiện hội nhập, khó có thể đưa đất nước thoát nhanh ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Chính sách thu hút đầu tư khôn ngoan, đi trước nhiều nước đã có tác dụng thu hút một lượng vốn đầu tư rất lớn đổ vào nền kinh tế Singapore trong thời gian ngắn. Đây là yếu tố quyết định làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của nền kinh tế, hình thành cơ cấu dịch vụ - công nghiệp hiện đại, tạo ra những lợi thế so sánh mới, biến Singapore thành quốc gia dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực về kỹ thuật và công nghệ trong vùng. Là một nước nhỏ nằm ở vị trí xung yếu, muốn phát triển nhanh, vấn đề cốt lõi là phải giữ được sự ổn định về chính trị, duy trì được độc lập trong quan hệ với bên ngoài. Hơn nữa, trong tình hình khu vực phức tạp, có hạn chế được sự can thiệp quá sâu của các siêu cường quốc mới có thể ổn định nền an ninh quốc gia và an toàn xã hội để phát triển. Quyết định tham gia ASEAN là nhằm mục đích này. Không những thế, hội nhập kinh tế của Singapore đã kết hợp cả quan hệ kinh tế đa phương lẫn quan hệ kinh tế song phương. Singapore là thành viên của tổ chức khu vực đồng thời là thành viên của các tổ chức quốc tế như: WTO, IMF...; ngoài ra còn có quan hệ ngoại giao với hơn 150 quốc gia và tham gia ký kết Hiệp định đảm bảo đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với nhiều nước/ lãnh thổ. Những chủ trương, chính sách hội nhập được triển khai trong thực tế đã làm cho tính quốc tế của nền kinh tế Singapore được tăng cường trong thời gian ngắn. Những lợi ích kinh tế có được từ tính quốc tế cao đã giúp Singapore có được một môi trường cạnh tranh sôi động trong phát triển kinh tế, khai thác được một cách tối đa những lợi thế bên ngoài. Thành công của quá trình hội nhập kinh tế bên ngoài không tách rời những đường lối chiến lược đúng đắn của chính phủ và đảng cầm quyền. Từ hoạt động ngoại giao mở đường cho đến việc ký kết những hiệp định và cả việc hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật, điều tiết các quan hệ kinh tế bên trong, bên ngoài đều đảm bảo thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ. Cũng phải nói thêm rằng, với những chủ trương, quyết sách đúng đắn và táo bạo, chính phủ và đảng cầm quyền ở Singapore đã có công lao rất lớn trong việc biến Singapore từ một nước mà ở điểm xuất phát còn thấp kém hơn một số nước khác trong khu vực đã bứt phá và vượt lên trước để trở thành trung tâm xuất nhập khẩu, trung tâm công nghệ kỹ thuật cao, trung tâm tài chính và là nhà đầu tư lớn nhất trong khu vực. Bên cạnh những lợi ích, những thành tựu rất lớn thì quá trình hội nhập kinh tế của Singapore cũng còn có những hạn chế nhất định. Nền kinh tế Singapore nói chung, lĩnh vực công nghiệp nói riêng còn bị nước ngoài chi phối trên nhiều phương diện, đặc biệt về nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật và về thị trường tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên liệu. Đầu những năm 90 tư bản nước ngoài kiểm soát ít nhất là 75% tổng số vốn đầu tư vào ngành công nghệ chế biến - chế tạo, đóng góp khoảng 65% tổng giá trị công nghiệp và 85% giá trị hàng xuất khẩu trực tiếp, cung cấp việc làm cho khoảng 60% lực lượng lao động công nghiệp Singapore. Vốn đầu tư nước ngoài chiếm ưu thế hơn hẳn người địa phương kể cả ở các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động cũng như ở các ngành sử dụng nhiều vốn. Trong 5 ngành công nghiệp then chốt có đóng góp nhiều nhất vào tổng thu nhập nội địa thì phần sở hữu của nước ngoài trong ngành điện tử - bán dẫn chiếm tỷ lệ là 87%, trong ngành lọc dầu: 84%, ngành chế tạo máy: 55%, ngành luyện thép: 43%, ngành sản xuất các thiết bị vận tải: 22% Kinh tế các nước Đông Nam á - PTS Đào Duy Huân, NXB Giáo dục 1999 . Singspore còn phụ thuộc sâu sắc vào thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của quốc tế, trước hết là thị trường các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đặc biệt là Mỹ và Nhật bản. Từ những năm 80 trở lại đây, Mỹ là bạn hàng buôn bán số một của Singapore. Bình quân hàng năm thị trường Mỹ tiêu thụ từ 18% đến 21% hàng xuất khẩu của Singapore và chiếm từ 14% đến 17% hàng nhập khẩu của nước này. Nhật bản là bạn hàng lớn thứ hai nhưng là nước cung cấp nhiều nhất hàng nhập khẩu cho Singapore. Malaysia là bạn hàng truyền thống đứng vị trí thứ ba trong buôn bán xuất nhập khẩu của Singapore; trong những năm gần đây kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm giữa hai nước chiếm tới 14% tổng giá trị ngoại thương của Singapore. Tài liệu đã dẫn Sự phụ thuộc vào nước ngoài về nguồn vốn đầu tư và về thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhất là lại chỉ tập trung ở một số nước, thể hiện qua sự lên xuống về kinh tế của Singapore hoàn toàn trùng lặp với sự lên xuống của kinh tế thế giới và các nước công nghiệp phát triển, cũng như phụ thuộc vào việc duy trì của hệ thống mậu dịch tự do trên thế giới. Kinh tế Singapore phụ thuộc nhiều vào các công ty đa quốc gia (MNCs), những cam kết của các công ty này trong việc quyết định đặt trụ sở hoạt động lâu dài tại đây hầu như mang một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Singapore. Trong khi đó, Singapore còn thiếu các nhà công nghệ, các nhà quản lý giỏi tầm cỡ thế giới; các công ty nội địa còn yếu kém cả về nguồn vốn, kỹ thuật và quản lý, chưa đủ sức cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia. Ngoài ra, là một quốc gia nhỏ bé, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, dân số Singapore lại theo chiều hướng già đi, đã làm Singapore thiếu nguồn nhân lực trầm trọng. Hàng năm Singapore phải nhập khẩu một lượng lao động lớn biến Singapore trở thành một trong những nước phụ thuộc vào nguồn lao động nhập cư cao nhất châu á. Việc nhập khẩu lao động đã có tác động xấu đến kết cấu xã hội nên Singapore đã cấm các doanh nghiệp tuyển nhận thêm lao động nước ngoài. Tình hình này càng làm tăng thêm nạn thiếu lao động ở Singapore, giá công lao động ở Singapore tăng lên vào hàng cao trên thế giới (đứng thứ hai châu á sau Nhật bản) The Economist 07/03/1998 . Thêm vào đó, diện tích đất đai cho nhu cầu mở rộng các hoạt động kinh tế của Singapore ngày càng khan hiếm, khiến cho chi phí kinh doanh tăng cao. Những khó khăn này đã làm hạ thấp tính cạnh tranh của Singapore trên thị trường thương mại và đầu tư quốc tế. Singapore và các nước trong vùng cùng có chung cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, trong khi đó các nước khác trong khu vực có giá công lao động rẻ hơn; điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm của Singapore cao hơn, ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu. Singapore cũng như các nước trong vùng đều đang thi hành chính sách kinh tế hướng ngoại nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để hỗ trợ nền kinh tế trong nước phát triển. Các nước láng giềng đang cạnh tranh gay gắt về vấn đề này thông qua hàng loạt các ưu đãi về chính sách đầu tư. Singapore có nhiều hạn chế về nguồn tài nguyên cũng như lực lượng lao động, kém hơn về lợi thế so sánh với các quốc gia trong khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt), có nguồn lao động rẻ, dồi dào. Những yếu tố trên đây đã tạo ra những thách thức mới đối với sự phát triển lâu dài và liên tục của Singapore, đòi hỏi chính phủ phải có những biện pháp và chính sách phù hợp để đáp ứng. III. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của Singapore đối với Việt Nam Là hai nước cùng nằm trong khu vực Đông Nam á, Việt Nam và Singapore có những quan hệ truyền thống từ lâu đời. Tuy nhiên, do tác động của những nhân tố lịch sử, chính trị bên trong và bên ngoài khu vực; quan hệ giữa hai nước trải qua những bước thăng trầm đầy biến động. Sau khi ''chiến tranh lạnh" kết thúc, đặc biệt là sau Hiệp định Paris về Campuchia được ký tháng 10/1991, quan hệ Việt Nam - Singapore bước sang một thời kỳ phát triển mới. Năm 1995, Singapore đã khẳng định sự ủng hộ hoàn toàn đối với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự kiện này càng thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Singapore trên cơ sở hợp tác đa phương và song phương trong ASEAN. Singapore đã nhanh chóng trở thành đối tác hàng đầu về thương mại và đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Có được sự phát triển này trước hết là do những cố gắng nỗ lực từ hai phía Việt Nam và Singapore. Đối với Việt Nam, Việt Nam nhìn thấy ở Singapore một nước nhỏ trong khu vực có xuất phát điểm tương đồng, đã vươn lên thành một nước có nền kinh tế phát triển ở khu vực và trên thế giới. Là một nước đi sau trong quá trình cải cách kinh tế, những kinh nghiệm của Singapore trong phát triển kinh tế là nguồn tư liệu quý báu cho Việt Nam tham khảo và phát huy. 1. So sánh Có thể nói ngoài một số điểm tương đồng về tự nhiên (cùng nằm trong một khu vực địa lý), về xuất phát điểm của nền kinh tế (cùng đi lên từ những nền kinh tế thuộc địa bị thực dân đô hộ), Việt Nam và Singapore có những khác biệt rõ nét trong chính sách phát triển kinh tế. Giành được độc lập từ năm 1959, sớm hơn rất nhiều so với Việt Nam (1975), đến năm 1965 Singapore đã thực sự ổn định được tình hình đất nước để bắt tay vào xây dựng kinh tế. Là một đất nước đa sắc thái văn hoá, ngay từ đầu chính phủ Singapore đã hết sức chủ động mở của hội nhập với thế giới theo định hướng nền kinh tế gắn chặt với thị trường thế giới. Một định hướng hết sức thực tế, năng động và có phần thực dụng; lấy yếu tố thị trường bên ngoài làm nền tảng cho sự phát triển bền vững bên trong một cách chủ động. Trong khi đó Việt Nam sau chiến tranh đã tự đóng cửa nỗ lực hàn gắn vết thương sau chiến tranh với một quan điểm "tự lực cánh sinh". Chính điều kiện thiếu thốn về tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế với diện tích quốc gia nhỏ bé, bù lại là một vị trí lý tưởng cũng là yếu tố quyết định đường lối của Singapore: phát triển liên minh kinh tế, liên kết với các bạn hàng lớn chiến lược đồng thời mở rộng hết thảy các mối quan hệ. Kinh tế Singapore phụ thuộc nhiều vào các công ty đa quốc gia (MNC); vai trò của nhà nước chủ yếu là điều tiết các quan hệ kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho tư bản nước ngoài và trong nước phát triển. Trong khi đó, Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ mới bắt đầu làm quen với nền kinh tế thị trường, thái độ đối với sự phát triển khu vực tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước còn thiếu nhất quán trong hoạch định và thực thi chiến lược dài hạn cũng như trung và ngắn hạn; khuynh hướng của nền kinh tế còn lệ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ, kém hiệu quả, có tính độc quyền trong khi thiếu một cơ chế cạnh tranh khuyến khích sự phát triển của khu vực tư. Hơn nữa, quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam và Singapore diễn ra trong hai giai đoạn khác hẳn nhau của nền kinh tế thế giới với những khó khăn và thuận lợi riêng. Do đó, việc hoạch định chiến lược phát triển và những bước đi cụ thể cũng không thể là một sự sao chép. Tuy vậy, Singapore là một hình mẫu lý tưởng về phát triển kinh tế cho những quốc gia ở thế giới thứ ba như Việt Nam; với mục tiêu tạo dựng một môi trường thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước của Việt Nam, những kinh nghiệm của Singapore vẫn là những bài học đáng giá của người đi trước. 2. Bài học kinh nghiệm 2.1. Sớm "mở cửa" nền kinh tế, chủ động thực hiện hội nhập Sau khi giành độc lập, do ý thức được một cách rõ ràng tình trạng đất chật người đông, tài nguyên thiên nhiên - tiềm năng vật chất để phát triển kinh tế nghèo nàn nên Singapore đã thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu để đi lên và phát triển. Báo cáo của Uỷ ban Kinh tế Singapore trong những năm 1980 đã xác định nền kinh tế Singapore gắn liền với ngoại thương, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Xuất phát từ một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, Singapore cần một lượng vốn rất lớn để đổi mới cơ cấu và hiện đại hoá nền kinh tế. Vì vậy, ngay từ đầu họ đã rất chú trọng đến nguồn vốn bên ngoài, cụ thể là nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Singapore cho phép các nhà đầu tư quốc tế đầu tư qua rất nhiều hình thức trong đó hình thức liên doanh được chú ý nhiều hơn để tạo nền tảng cho nền công nghiệp quốc gia. Về đối tác đầu tư, Singapore chủ trương không phân biệt để tận dụng khả năng về vốn từ nhiều nguồn khác nhau; trong đó quan tâm nhiều hơn đến các đối tác có "công nghệ nguồn" (công nghệ cao) là Mỹ, Nhật bản... Vấn đề hướng đầu tư cũng được xác định rõ trong các thời kỳ: ban đầu do cơ sở kinh tế ở điểm xuất phát thấp, Singapore chủ trương thu hút FDI vào phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nhanh tạo ra sản phẩm xuất khẩu như dệt may, lắp ráp thiết bị điện...; cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghiệp điện tử và các ngành kỹ thuật cao, hướng thu hút đầu tư tập trung vào những ngành như sản xuất hàng điện tử, máy vi tính, lọc dầu... Nhà nước có chính sách ưu tiên cho những ngành nghề, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế với những chính sách ưu đãi hợp lý. Trong những năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới kinh tế, Việt Nam đã chọn chiến lược nghiêng nhiều hơn về phía mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Mô hình công nghiệp hoá cổ điển tuy tạo ra các nước công nghiệp phát triển nhất ngày nay, nhưng phải kéo dài hàng trăm năm nên đã không còn được nêu ra làm bài học nữa. Trong khi đó công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã không chỉ duy trì được tính bền vững của quá trình công nghiệp hoá mà còn được coi như sự "thần kỳ" với những thành tích tăng trưởng kinh tế và biến đổi xã hội hết sức ngoạn mục. Điển hình trong số các nền kinh tế như thế là Singapore và bài học về sự phát triển kinh tế của họ rất có ích cho Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế này. 2.2. Chính sách cơ cấu kinh tế hợp lý Khi mới giành độc lập, nền kinh tế do lịch sử để lại có cơ cấu thiên về các hoạt động kinh tế buôn bán chuyển khẩu và dịch vụ tái xuất khẩu. Đây là hoạt động đem lại phần lớn nguồn thu cho quốc gia. Với những định hướng chủ động trong chính sách đầu tư, Singapore đã hoạch định một chiến lược cơ cấu ngành nhằm một mặt khai thác những ngành truyền thống để tạo việc làm và vốn tích luỹ, mặt khác hướng tới một cơ cấu có những ngành sử dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới, mang lại thu nhập cao và có khả năng đẩy nhanh tốc độ phát triển của toàn nền kinh tế. Việc thực hiện chính sách cơ cấu như vậy trong khoảng 20 năm đã đưa đến kết quả khả quan: một tỷ lệ cao trong xuất khẩu trực tiếp đã dần thay thế cho mậu dịch quá cảnh, sự chủ động trong hoạt động kinh tế tăng cao. Việt Nam có thể tìm hiểu bài học kinh nghiệm này cho việc đầu tư phát triển những làng nghề truyền thống của mình nhằm cải thiện hoạt động sản xuất công nghiệp ở khu vực nông thôn; từng bước giải quyết việc làm, nâng cao tỷ trọng đóng góp của khu vực nông thôn trong nền kinh tế cho hợp lý với tiềm năng của khu vực này. 2.3. Chính sách thị trường và thương mại Xuất phát từ truyền thống là trung tâm buôn bán chuyển khẩu quốc tế và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chính sách thị trường là một bộ phận đáng chú ý của chính sách kinh tế của Singapore. Chủ trương chung là giữ vững thị trường và tận dụng mọi cơ hội để mở rộng thị trường; và để làm được điều đó cần kết hợp sự trợ giúp, nâng đỡ của chính phủ với nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Singapore. Trong chiến lược thị trường, Singapore đặc biệt chú ý việc đa dạng hoá thị trường cùng với phát triển những thị trường quan trọng có ưu thế về địa lý, dung lượng như ASEAN, Mỹ, EU... Do điều kiện tự nhiên, Singapore phải nhập khẩu hầu hết các nguyên nhiên liệu phục vụ cho đời sống và sản xuất (kể cả nước ngọt phải nhập từ Malaysia); chính phủ luôn chủ trương tự do hoá thương mại, mở cửa thị trường. Điều này thể hiện ở chính sách bạn hàng của Singapore là mở rộng hết thảy các mối quan hệ. Singapore có quan hệ ngoại giao với 152 quốc gia, tổ chức quốc tế, có chân trong các tổ chức quốc tế lớn UN, APEC, ASEAN, WTO, NAM... và đã ký Hiệp định Đảm bảo đầu tư với 22 nước và Tránh đánh Thuế hai lần với 38 nước/ khu vực/ lãnh thổ. Như vậy Singapore đã có được thị trường xuất khẩu và nhập khẩu rộng lớn đa dạng cho phát triển kinh tế. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và trước ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế, Việt Nam cũng đang nỗ lực tìm kiếm thị trường và liên kết kinh tế. Singapore đã ủng hộ Việt Nam trong việc Việt Nam gia nhập ASEAN; và Việt Nam có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Singapore trong quá trình vận động gia nhập WTO - tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. 2.4. Chính sách khoa học công nghệ Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, nhằm hiện đại hoá đất nước và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp ở cả thị trường nội địa lẫn thị trường quốc tế, ngay từ đầu khoa học công nghệ đã được chính phủ Singapore rất quan tâm. Chính sách khoa học công nghệ của Singapore tập trung chú ý đến việc xây dựng năng lực kỹ thuật - công nghệ để có thể dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật cao. Theo đuổi chính sách đó Singapore đã có những biện pháp khuyến khích khá táo bạo, có thể kể như: - Các khuyến khích liên quan đến thuế: việc nhập khẩu bằng phát minh, sáng chế, bản quyền, các máy móc thiết bị và nguyên liệu được miễn thuế nhập khẩu; giảm hai lần thuế cho những phụ phí R & D của các công ty xuyên quốc gia có lập cơ sở nghiên cứu và phát triển của họ ở Singapore. - Nhà nước có sự hỗ trợ về nhiều mặt cho các doanh nghiệp, các công ty trong việc nghiên cứu, triển khai và ứng dụng công nghệ, kỹ thuật mới. Chẳng hạn để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thông tin tương đối chuẩn xác trên thị trường công nghệ quốc tế (đây là thị trường luôn thiếu hụt thông tin), chính phủ Singapore đã thiết lập một hệ thống các cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ tại các nước phát triển. Các cơ quan đại diện trực tiếp bắt mối, sàng lọc các nhà đầu tư và làm dịch vụ cho các dự án kinh doanh quốc tế của Singapore tại nước ngoài. Ngoài ra, nhà nước còn lập các điểm chuyên ngành xúc tiến mua sắm thiết bị, máy móc phục vụ cho việc đổi mới kỹ thuật của các ngành mũi nhọn trong nền kinh tế. - Thành lập các công viên khoa học, các trung tâm nghiên cứu để huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp hiện đại hoá kỹ thuật, công nghệ của nền kinh tế một cách hiệu quả. Giống mô hình ở nhiều nước phát triển, từ đây các chương trình nghiên cứu, triển khai đã được thực hiện bởi sự kết hợp nỗ lực của nhà nước, của các công ty (trong nước và quốc tế) và của các viện nghiên cứu cũng như các trường đại học ở Singapore. Đặc biệt các trung tâm này đã thu hút nhiều công ty lớn quốc tế mở mang hoạt động nghiên cứu và triển khai. Chẳng hạn IBM đã đầu tư 30 triệu USD trong vòng 5 năm để thành lập một trung tâm thiết kế "chip" điện tử ở Singapore. Công ty Hwelett-Packard tăng gấp đôi chi phí nghiên cứu và phát triển trong năm 2000. Công ty Sunmicrosystem có kế hoạch trợ giúp chính phủ thực thi kế hoạch biến Singapore thành trung tâm thương mại điện tử khu vực. Ngoài ra Singapore còn ký thỏa thuận với một số trung tâm đào tạo quản lý của Pháp của Mỹ để mở mang các chi nhánh đào tạo ở Singapore Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, Lịch sử Singapore 1965-2000, NXB Trẻ T6/2001 . - Có sự định hướng của chính phủ nhằm tập trung nguồn lực vào những ngành nghề mũi nhọn và có triển vọng trong tương lai như kỹ thuật sinh học, dược phẩm, thiết bị y tế và thiết bị thông tin liên lạc hiện đại... Việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện như kết cấu vật chất hạ tầng, có chiến lược khai thác tiềm năng khoa học và công nghệ của các công ty đa quốc gia... cũng là những yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện chuyển giao công nghệ hiện đại nhất vào Singapore. Thực tế cho thấy việc thực hiện chính sách khoa học công nghệ của Singapore trong thời gian qua đã đem lại những lợi ích kinh tế rất to lớn, giúp nền kinh tế Singapore đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và hiện đại. 2.5. Chính sách đào tạo nhân lực Singapore có đội ngũ lao động tay nghề cao, hiểu biết kinh doanh, thương mại biết và sử dụng thông thạo song ngữ (tiếng Anh và tiếng Hoa, Malay, Tamil) nhưng phải kể đến trình độ tay nghề, năng suất và kỷ luật lao động cao, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của các ngành sản xuất kinh doanh. Singapore được xếp hạng là nước có nguồn lao động tốt nhất thế giới năm 1997 do BERI xếp hạng. Có được điều đó là do chính phủ sớm nhận thức được tầm quan trọng của một lực lượng lao động có trình độ đối với việc phát triển kinh tế. Với một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên như Singapore thì nhân tài là một yếu tố rất quan trọng. Chính phủ Singapore hợp tác với các công ty xuyên quốc gia bỏ vốn lập chương trình hỗn hợp đào tạo cán bộ và nhân viên chuyên môn, hoặc gửi người ra nước ngoài học kỹ thuật hiện đại. Cùng với việc đầu tư mạnh mẽ vào nền giáo dục Singapore cũng rất chú ý đến việc thu hút nhân tài từ bên ngoài để bù đắp cho lực lượng lao động nhỏ bé của mình (Singapore chỉ có hơn 3 triệu dân). Vào năm 1980, Singapore thành lập hai uỷ ban, một có nhiệm vụ giúp nhưng nhà doanh nghiệp, giáo sư, nghệ sĩ và những công nhân có tay nghề cao từ nước ngoài đến làm đúng nghề và một kết hợp họ thành xã hội. Một đội ngũ nhân viên đã gặp các sinh viên châu á có triển vọng ở các trường đại học để thu hút họ về làm việc ở Singapore. Việc tìm kiếm nhân tài trên toàn cầu có hệ thống này đã thu hút được vài trăm sinh viên tốt nghiệp đại học mỗi năm. Singapore còn đưa ra vài trăm học bổng cho các sinh viên giỏi đến từ Trung Quốc, ấn Độ và các nước khác trong khu vực; những người này khi trở về vẫn có thể hữu ích cho các công ty của Singapore ở nước ngoài. Viện Sinh học Tế bào (TMCB) đã thu hút được 200 nhà khoa học quốc tế đến nghiên cứu và làm việc trong đó hơn 100 người có bằng tiến sĩ và 60 kỹ thuật viên giúp việc được chính phủ và tư nhân tài trợ Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, lịch sử Singapore 1965-2000, NXB trẻ T6/2001 . Ngoài ra, lực lượng lao động ở Singapore được quản lý chặt chẽ có kỷ luật bởi NTUC (Đại hội Nghiệp đoàn toàn quốc) và điều này cho phép giữa chính phủ và người lao động có một mối quan hệ gần gũi và chặt chẽ. Sự phối hợp giữa ba lực lượng: giới chủ, chính phủ và công đoàn là lợi thế cạnh tranh độc đáo của Singapore trong hơn ba thập kỷ qua. 2.6. Chính sách cạnh tranh Nhất quán trong phát triển kinh tế thị trường "mở" và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, Singapore cũng chủ trương thực hiện một chính sách cạnh tranh theo cách thức riêng của mình. Phối hợp cùng các chính sách khác, chính phủ Singapore đã có những biện pháp nhằm tạo một môi trường cạnh tranh sôi động, tạo động lực phát triển kinh tế bên ngoài và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc hạn chế phạm vi lĩnh vực đầu tư của các công ty quốc tế ở Singapore hầu như không tồn tại; hơn thế nữa trong một ngành Singapore còn tạo điều kiện cho công ty nước ngoài không phải ở một nước mà cho các công ty của các nước khác nhau bỏ vốn đầu tư. Với một môi trường cạnh tranh sôi động như vậy, các công ty quốc tế buộc phải đưa vào Singapore những kỹ thuật hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến. Nhờ đó mà các sản phẩm được tạo ra ở Singapore không chỉ có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa mà còn có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vào năm 1999 theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, Singapore được xếp thứ 1 trước cả Mỹ, Hongkong, Đài loan về sức cạnh tranh. Môi trường cạnh tranh sôi động, tuy nhiên chính phủ cũng có những trợ giúp nhất định để nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty, doanh nghiệp nội địa, nhằm chủ động hơn trong phát triển kinh tế. Một ví dụ điển hình là của lĩnh vực kinh doanh hàng hải. Chính phủ Singapore luôn theo đuổi chính sách "cạnh tranh để ngỏ" để tự do kinh doanh hàng hải, nhưng lĩnh vực cảng biển và dịch vụ hàng hải thì lại giành độc quyển hoàn toàn về Singapore. Năm 1985, Singapore thành lập Hiệp hội hàng hải quốc gia, chủ yếu để sát nhập 5 hội: chủ tầu quốc gia, chủ tầu tư nhân, hội hàng hải, hội tầu kéo và sà lan, hội địa lý và môi giới thành những nhóm mang cờ Singapore hoạt động ngoại thương và nội địa TS Nguyễn Thị Hiền, Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN, NXB Chính trị Quốc gia, 2002 . Chương 2 Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Singapore giai đoạn 1995-2001 I. Vị trí của nền kinh tế Singapore 1. Vị trí của kinh tế Singapore trong kinh tế thế giới và ASEAN Ba thập kỉ vừa qua, Singapore đã nổi lên như một vùng kinh tế năng động và là một mẫu mực cho quá trình phát triển kinh tế. Từ một nền kinh tế bị tàn phá vào giữa thập kỷ 60, chính phủ Singapore đã nỗ lực biến Singapore trở thành "một quốc gia độc lập có khả năng liên kết mậu dịch và đầu tư với các nước công nghiệp hàng đầu và là một trung tâm phân phối hàng hoá, dịch vụ và thông tin thành công trong khu vực" Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng, lịch sử Singapore 1965-2000, NXB trẻ T6/2001 . Kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại và dịch vụ, theo báo cáo của WTO, năm 1997, Singapore là nước có kim ngạch thương mại đứng thứ 13 trên thế giới. Theo thống kê của TDB - Singapore Trade Development Board - Cục Phát triển Thương mại Singapore, kim ngạch ngoại thương của Singapore gấp 3 lần GDP và bằng 4/5 kim ngạch thương mại của Trung Quốc. Năm 2001, vị trí này có giảm xuống song Singapore vẫn nằm trong tốp đầu của thế giới về kim ngạch ngoại thương. Bảng 2.1: Thương mại hàng hoá thế giới năm 2001: Các nước xuất, nhập khẩu chính (đơn vị: tỷ USD và %) Thứ hạng Nước xuất khẩu Giá trị kim ngạch Tỷ tr._.hác. Thêm nữa, tác dụng thúc đẩy xuất khẩu của Quỹ hỗ trợ phát triển và hỗ trợ xuất khẩu còn rất hạn chế. Quỹ hỗ trợ phát triển chỉ tập trung cung cấp tín dụng cho một số ngành, còn các hình thức bảo lãnh và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chưa triển khai được. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có quy mô quá nhỏ bé, nguồn thu ít, theo thống kê mức vốn của quỹ hỗ trợ xuất khẩu chỉ đáp ứng khoảng 26% nhu cầu. Chính sách tác dụng hỗ trợ xuất khẩu còn tồn tại một số vấn đề, chủ yếu là nợ quá hạn quá cao, cơ chế cho vay ưu đãi dẫn đến tình trạng sử dụng vốn cho vay không hiệu quả, không cần cũng vay. Về cơ bản, hầu hết các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu truyền thống đều đã được đem ra sử dụng, tuy nhiên hình thức sử dụng còn quá manh mún, quy mô nhỏ hẹp nên chưa phát huy hết tác dụng. Vì vậy trong thời gian tới, cần tập trung mở rộng giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu và sử dụng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách hiện hành, đồng thời cắt giảm hỗ trợ đầu ra, tăng cường tự lực cho đầu vào, cụ thể là: Chính sách đầu tư thúc đẩy xuất khẩu phải có những giải pháp đồng bộ mới có thể phát huy hết tác dụng. Chúng ta không nên chỉ chú trọng vào đầu tư cho sản xuất mà cần phải đầu tư đồng bộ vào toàn bộ dây truyền từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Bên cạnh việc tổ chức sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lớn, cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải am hiểu thị trường, có nhiều bạn hàng. Qua kênh cấp vốn đầu tư và tín dụng đầu tư, nhà nước nên dành nguồn vốn thích đáng đầu tư vào những ngành xuất khẩu mũi nhọn theo đúng hướng phát triển của nước nhập khẩu. Hiện nay kinh tế Singapore đã đạt trình độ công nghiệp hoá cao, Singapore tập trung nhập khẩu vào một nhóm sản phẩm công nghiệp là chính để gia công phục vụ cho hoạt động tái xuất khẩu. Do đó phải chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ để tạo ra những sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao hơn. Chính sách thuế cần phải tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế gián thu nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá thành của hàng xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam so với các nước khác, tiến tới loại trừ toàn bộ thuế gián thu đối với hàng xuất khẩu. Để khuyến khích xuất khẩu đặc biệt là các sản phẩm chế biến, nhà nước phải giảm tối đa các mặt hàng xuất khẩu chịu thuế, chỉ áp dụng thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thô, chưa qua chế biến. Về hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, mục tiêu đặt ra là phải tạo ra một hệ thống chính sách đồng bộ về phương diện tín dụng đối với toàn bộ các hoạt động sản xuất, chế biến gia công, kinh doanh hàng xuất khẩu. Cần phải xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong tín dụng và ưu đãi xuất khẩu, chỉ phân biệt theo ngành hàng và thị trường xuất khẩu của Nhà nước trong từng thời kỳ. Cần sớm triển khai hình thức cho thuê tài chính nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. 1.3. Một số biện pháp thị trường và xúc tiến thương mại 1.3.1. Đẩy mạnh sự ra đời của các sàn giao dịch hàng hoá Trong thời gian chờ đợi để có đủ các điều kiện thành lập thị trường hàng hoá giao sau, có thể xem xét hình thành ngay một số sàn giao dịch hàng hoá để giúp nông dân và doanh nghiệp có được sự đảm bảo chắc chắn hơn về giá cả và cơ hội tiêu thụ hàng hoá trong tương lai gần. Thuỷ sản và hạt điều đã đi đầu trong lĩnh vực này thông qua việc thành lập Trung tâm Giao dịch thuỷ sản Cần Giờ và mạng giao dịch hạt điều. Các ngành hàng khác, đặc biệt là gạo, chè và cà phê có thể tham khảo kinh nghiệm của các sàn giao dịch này để thiết lập sàn giao dịch riêng mình, góp phần giảm thiểu rủi ro của thị trường hàng hoá giao ngay. 1.3.2. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại Hệ thống xúc tiến thương mại được các nước ASEAN đặc biệt coi trọng phát triển. ở Singapore, Cục Phát triển Thương mại thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về xúc tiến thương mại. Ngoài ra, các Hiệp hội ngành nghề, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Hoa, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Malaysia, Phòng Thương mại và Công nghiệp người ấn Độ... đều tiến hành công việc xúc tiến thương mại. Các Cơ quan Xúc tiến Thương mại bán thông tin cho các doanh nghiệp với giá rẻ, chỉ bằng 30 - 50% chi phí (Singapore cho rằng cần bán thông tin vì phải mất tiền mua thì doanh nghiệp mới quý trọng thông tin, nhưng phải bán "lỗ" vì doanh nghiệp - nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ rất cần thông tin để điều chỉnh và phát triển sản xuất). Hiện nay, tại Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thương mại đã hình thành theo một hệ thống hoàn chỉnh gồm: Cục Xúc tiến Thương mại, các Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Phòng Xúc tiến Thương mại thuộc các Sở Thương mại tỉnh thành phố, các trung tâm thông tin kinh tế cấp bộ ngành; các tổ chức phi chính phủ như VCCI, các hiệp hội ngành nghề, các câu lạc bộ doanh nghiệp... Tuy thế, hệ thống xúc tiến thương mại vẫn còn manh mún, thiếu sự nối kết thành hệ thống nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Đội ngũ cán bộ chuyên trách phần lớn chưa được đào tạo kỹ lưỡng. Cơ sở hạ tầng cần được hiện đại hoá và xây dựng thêm. Phần lớn các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc quá mức vào người mua nước ngoài vào Việt Nam để hướng dẫn họ phát triển xuất khẩu. Như vậy sẽ có những hạn chế trong kiểm soát lợi nhuận, hiểu biết về nhu cầu xuất khẩu và cả cơ hội tăng giá trị gia tăng. Muốn phát triển thương mại hiệu quả, không thể phụ thuộc vào các biện pháp can thiệp tình huống và tạm thời của các tổ chức hỗ trợ thương mại (phần lớn là hỗ trợ bán hàng ra nước ngoài). Cần phải có những cố gắng chiến lược toàn diện hơn, có tổ chức và được điều phối nhịp nhàng để tập trung nguồn lực của các nhà xuất khẩu và các tổ chức hỗ trợ thương mại vào một mục tiêu chung. Phát triển thương mại phải được tổ chức xoay quanh các kế hoạch phát triển xuất khẩu của ngành phù hợp với các thị trường dự định xâm nhập. Để công tác xúc tiến thương mại hiệu quả hơn, mạng lưới phát triển thương mại Việt Nam cần phải có tính cạnh tranh và hợp tác. Mạng lưới này phải là người phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu chứ không phải chủ nhân của họ. Sự hữu ích và hiệu quả của mạng lưới này được đánh giá bằng mức độ mà nó có thể đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Một tiêu chí để đánh giá sự hữu ích và hiệu quả của mạng lưới phát triển thương mại là căn cứ vào mức độ hợp tác giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại nòng cốt và vệ tinh để có thể cung cấp nhiều hơn các dịch vụ hỗ trợ mà các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thương mại, chính phủ Việt Nam vẫn đang nỗ lực hỗ trợ cho hoạt động này; cụ thể ngày 12/11/2002 Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng trong báo cáo trình bày trước Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước 2002 dự kiến ngân sách nhà nước 2003 và tổng quyết toán ngân sách 2001 đã thông báo chính phủ sẽ đầu tư để xây dựng 3 trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài, đồng thời tăng mức hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến thương mại. 2. Chính sách thu hút đầu tư Vai trò của FDI với nền kinh tế đang phát triển của chúng ta rất quan trọng. Mặc dù hiện nay FDI mới chỉ chiếm 3 - 4% GDP của Việt Nam, nhưng xét trên tổng số vốn đầu tư vào nền kinh tế nước ta hiện nay, FDI đã đóng góp tới 25%, tức l/4 giá trị đầu tư; trong đó tính tới ngày 31/12/2001 Singapore đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 244 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư hơn 6,8 tỷ USD. Vốn FDI không chỉ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước mà các doanh nghiệp FDI còn chiếm tới 23% tổng kim ngạch xuất khẩu, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thành công dựa trên mức tăng thị phần xuất khẩu. Thời gian qua, chính phủ đã có những biện pháp tăng cường cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. Tiếp theo việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 cùng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn; năm 2001 chính phủ đã ban hành Nghị quyết về đầu tư nước ngoài 5 năm từ 2001 - 2005, đề ra hệ thống các giải pháp mang tính định hướng để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành đã và đang xây dựng triển khai nhiều đề án quan trọng như: đề án cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn FDI, đề án phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài, đề án sửa đổi Nghị định 36 NĐ - CP; chuẩn bị danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005; tiến hành rà soát phân loại các dự án đầu tư nước ngoài để có hỗ trợ cần thiết, rà soát các văn bản pháp quy, các giấy phép đầu tư để kiến nghị bãi bỏ các quy định không hợp lý. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới năm 2002 của UNCTAD, Việt Nam được xếp thứ 20/140 nền kinh tế có mức thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài so với GDP tốt nhất thế giới, tăng khá nhiều so với xếp hạng 53/120 nước cách đây 10 năm và cao hơn Thái Lan, Phần Lan... Tỷ trọng thực hiện FDI/GDP của Việt Nam cao hơn nhiều mức trung bình của thế giới. Tuy vậy, chỉ số thu hút FDI của Việt Nam hiện nay vẫn rất khiêm tốn, xếp thứ 71/140 nước (so với 10 năm trước đây là 115/140 nước). Các chỉ số tiềm năng được đánh giá dựa trên các yếu tố như: tốc độ tăng trưởng GDP, GDP/người, tỷ trọng hàng xuất khẩu trong GDP, tỷ lệ máy điện thoại... của Việt Nam đều thấp hơn các nước trong khu vực. Đây có thể là một trong những nguyên nhân khiến nguồn vốn FDI vào Việt Nam mặc dù tăng nhưng vẫn đang chảy một cách khá dè dặt. Để thu hút đầu tư hơn nữa, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, cố gắng tạo ra môi trường kinh doanh đáp ứng các tiêu chuẩn sau: 2.1. Sự ổn định về kinh tế, chính trị xã hội Đây là điều kiện tiên quyết, những bất ổn về kinh tế - chính trị làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, tìm đến những nơi đầu tư mới an toàn hấp dẫn hơn. Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự ổn định phát triển kinh tế và trật tự chính trị - xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước, sự hoàn chỉnh hữu hiệu và tính có thể dự báo được của hệ thống pháp luật đầu tư theo xu hướng ngày càng tiếp cận tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế; mà hệ thống pháp luật của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho các nhà đầu tư, môi trường cạnh tranh lành mạnh, việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng thuận lợi. Nội dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ, tiên tiến, nhưng cởi mở và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút FDI càng cao. Singapore là một trong những nước có môi trường chính trị ổn định và hệ thống luật pháp hoàn thiện, việc tìm một thị trường có tính ổn định là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư Singapore. 2.2. Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng như các sản phẩm; tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với mức lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được đảm bảo hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống. Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước và vào những nơi mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hoá" sản phẩm và công nghệ cao hơn. Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn nước ngoài. Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước chính phủ đã lập ra các Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài để hỗ trợ cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất là FDI tư nhân chảy vào, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng. Như vậy, một khi các rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào nhiều và ổn định. Ngược lại tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số tổng hợp của các yếu tố như: rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù có những ưu đãi tài chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn các nhà đầu tư Singapore vốn năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới. 2.3. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và một địa phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống thông tin liên lạc viễn thông hiện đại; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, quảng cáo, kỹ thuật...) phát triển rộng khắp và có chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài tiện nghi và sự thoải mái dễ chịu như ở nhà họ, và giúp họ giảm được chi phí sản xuất về giao thông vận tải, trong khi không hề bị cản trở trong việc duy trì và phát triển các quan hệ làm ăn bình thường với các đối tác của họ trong cả nước, cũng như khắp toàn cầu. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến các luồng FDI đổ vào Việt Nam; nếu giải quyết được ổn thoả những vướng mắc của lĩnh vực này, cụ thể là việc giải phóng mặt bằng cho các dự án thì các nhà đầu tư sẽ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn nữa. Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà đó còn là cơ hội để chúng ta có thể và có khả năng thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông qua thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai). 2.4. Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học, công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là một trong những điều kiện hàng đầu để một nước trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba cùng với sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ. ở Việt Nam lao động giản đơn dư thừa quá nhiều, trong khi đó lại thiếu các chuyên viên có trình độ kỹ thuật, quản lý cao. Do cung không đủ cầu nên tiền lương trả rất cao làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Trong khi đó, Singapore nổi tiếng là nước có lực lượng lao động quy củ vào bậc nhất thế giới. Những bất cập của lao động Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến quyết định bỏ vốn đầu tư của những nhà đầu tư Singapore. Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế. 2.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Đây cũng chính là điểm yếu làm giảm lợi thế cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của quốc gia. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách với những thủ tục hành chính, những quy định pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán được thực hiện bởi những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật. Để có thể xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn thoả mãn các tiêu chí trên, trước hết chính phủ Việt Nam cần coi thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2000 - 2010 là ưu tiên đặc biệt. Muốn vậy cần tạo ra sự hấp dẫn đặc biệt về cạnh tranh với các nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia...vốn là những thị trường đầu tư truyền thống của Singapore nhằm thu hút lượng vốn FDI trước khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế khi hội nhập đầy đủ với thế giới. Các chính sách ưu đãi đầu tư phải được cụ thể hoá. Các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả các dự án đầu tư mở rộng, chính sách một giá, miễn giảm tiền thuê đất... cần được sửa đổi nhanh chóng linh hoạt. Không nên quy định thời gian tồn tại của dự án. Không vì sự vi phạm của một vài doanh nghiệp hay một vài nhà đầu tư mà thắt chặt thêm các quy định luật lệ làm khó khăn hơn cho số đông các doanh nghiệp và nhà đầu tư khác. Mặt khác cần xây dựng quy hoạch tổng thể đầu tư ở Việt Nam. Nên chăng chính phủ nên lập bản đồ quy hoạch về đầu tư, kể cả đầu tư trong và ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu; chỉ hạn chế về số lượng, quy mô dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn cung cầu trên thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và thiệt hại cho nhà đầu tư. Chính việc quản lý không tốt trong quy hoạch cụ thể đầu tư ở Việt Nam đã dẫn đến hậu quả các nhà đầu tư Singapore đầu tư quá nhiều vào bất động sản, xây dựng khách sạn và văn phòng, gây nên khủng hoảng thừa trong các lĩnh vực này. Chính phủ Việt Nam cần dành sự quan tâm hơn nữa đến các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam vì theo kinh nghiệm các nhà đầu tư mới trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam đều tham khảo ý kiến nhận xét của lãnh đạo các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Họ coi đánh giá, nhận xét này là khách quan và là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đi đến quyết định cuối cùng. Vì vậy, chính phủ cần quan tâm giải quyết những vướng mắc, khó khăn và cùng các doanh nghiệp này tháo gỡ ngay các rào cản. Chính phủ cần xem xét cẩn trọng lộ trình hội nhập AFTA và các cam kết khi Việt Nam tham gia khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và WTO; khi đó các hàng rào đối với đầu tư được loại bỏ, các ngành công nghiệp được mở cửa cho các nhà đầu tư. Do Việt Nam đi sau các nước trong khu vực hàng chục năm vì vậy cần bảo vệ sản xuất trong nước kể cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong những nỗ lực thu hút đầu tư nói chung và đầu tư của Singapore nói riêng, tháng 2/2001, với chủ đề “Tiến tới thành công: Việt Nam - Điểm đến của các nhà đầu tư”, phái đoàn vận động đầu tư do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã đến Singapore, nơi có nhiều công ty đa quốc gia đặt văn phòng khu vực. Cùng với những cố gắng của chính phủ Việt Nam và thiện chí của Singapore trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, hy vọng trong tương lai, quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Singapore sẽ ngày càng phát triển. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu về thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore, chúng ta đã thấy được sự phát triển nhanh chóng của mối quan hệ này cũng như những nỗ lực của hai nước để có được những kết quả đáng khích lệ đó. Với sự hợp tác chặt chẽ không chỉ trong lĩnh vực thương mại và đầu tư mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, Singapore trở thành một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Trong những năm qua Singapore liên tục là bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam, về lâu dài Singapore vẫn là một trong những thị trường quan trọng của ta. Các nhà đầu tư Singapore có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, khu vực đầu tư của Singapore tại Việt Nam đứng thứ nhất về tổng vốn đầu tư trong các quốc gia lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, hàng năm Singapore còn dành cho Việt Nam những hỗ trợ trong một số lĩnh vực như đào tạo nhân lực, bảo vệ môi trường... Cũng qua việc nghiên cứu đề tài có thể khẳng định rõ ràng việc phát triển kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore là cần thiết, là nhu cầu của cả hai bên. Trong bối cảnh mới của kinh tế khu vực và thế giới, bên cạnh những cơ hội thuận lợi còn tồn tại không ít khó khăn, cản trở tác động đến sự hợp tác phát triển giữa hai quốc gia. Khoá luận đã phần nào đề cập đến những vấn đề này và đưa ra một số giải pháp cần thiết để có thể khai thác tiềm năng kinh tế trên mối quan hệ hợp tác giữa ta và nước bạn. Trong khuôn khổ của Khoá luận, một số vấn đề còn chưa có điều kiện nghiên cứu sâu. Nếu có dịp trở lại với đề tài, em sẽ phát triển đề tài này ở mức cao hơn và có tính thực tiễn hơn, đặc biệt là về vấn đề hợp tác đầu tư với Singapore khi mà thời hạn triển khai của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đang đến gần và việc Việt Nam đang nỗ lực vận động gia nhập WTO. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn, nên khoá luận sẽ còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của thầy, cô và các bạn để Khoá luận hoàn thiện hơn nữa. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã quan tâm giúp đỡ. Mục lục Phụ lục tài liệu tham khảo Mục lục bảng, biểu Bảng 1.1: Ngoại thương Singapore 9 Bảng 1.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore 19 Bảng 2.1: Thương mại hàng hoá thế giới năm 2001: các nước xuất, nhập khẩu chính 32 Bảng 2.2: Thương mại dịch vụ thế giới năm 2001: Các nước xuất, nhập khẩu chính 33 Bảng 2.3: Xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN 34 Bảng 2.4: Nhập khẩu hàng hoá của các nước ASEAN 35 Bảng 2.5: Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN 6 tháng 2002 37 Bảng 2.6: Ba nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN tại Việt Nam 38 Bảng 2.7: Kim ngạch buôn bán của Việt Nam với Singapore. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với thế giới 39 Bảng 2.8: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore 40 Bảng 2.9: Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Singapore 46 Bảng 2.10: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore 47 Bảng 2.11: Nhóm mặt hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam từ Singapore 50 Bảng 2.12: Xuất nhập khẩu của Singapore sang Việt Nam giai đoạn 1995 -2001 57 Bảng 2.13: FDI tại Việt Nam theo đối tác nước ngoài 1988 - 2001 59 Biểu đồ 2.1: Đầu tư của Singapore tại Việt Nam theo hình thức đầu tư 63 Biểu đồ 2.2: Vốn và dự án đầu tư của Singapore tại Việt Nam phân theo ngành 65 Bảng 2.14: Một số dự án của Singapore hoạt động có hiệu quả 67 Biểu đồ 2.3: Đầu tư của Singapore phân theo địa phương 68 Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia và khu vực 1999 -2003 78 Tài liệu tham khảo 1. Trang Web 1.1. 1.2. 1.3. 1.4. 1.5. 1.6. 1.7. 1.8. 1.9. 1.10. 2. Tạp chí 2.1. Thảo Vy, "Singapore: Thị trường tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam", Thị trường Chủ nhật, số 237 + 244, 01/09/2002 2.2. Bắc Hải, "Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 17/04/2002 2.3. Hiểu Long, "Thủ tục cấp C/O sang ASEAN còn phức tạp", Đầu tư, ngày 19/09/2002 2.4. Anh Thi, "Hiệu quả xúc tiến thương mại. Củng cố lại hệ thống hiện tại của Việt Nam", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 5/11/2001 2.5. Quý Hào, "Cơ chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu mới ", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 28/9/2001 2.6. Th.S Phạm Thị Thanh Bình, "Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam thập kỷ 90", Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2 (37), 4/2002 2.7. Ngô Thị Trinh, "Suy giảm kinh tế của các nước Đông á", Tạp chí kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2(37), 4/2002 2.8. Nguyễn Thị Hiền, "Singapore - Quốc gia đầu tàu trong hội nhập kinh tế khu vực ở Đông Nam á", Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2 (31), 4/2001 2.9. Trung Đức, "Đầu tư của các nước ASEAN có vị trí quan trọng tại Việt Nam", Đầu tư, ngày 5/8/2002 2.10. Tuấn Khánh, "Tạo sự hấp dẫn mới cho nhiều nhà đầu tư", Đầu tư, ngày 5/8/2002 2.11. Nguyễn Minh Phong, "Kinh nghiệm Nhật Bản và các nước ASEAN trong hội nhập kinh tế quốc tế", Những vấn đề Kinh tế thế giới, số 3(77), 2002 2.12. Ngô Thị Trinh, "Các nền kinh tế mới công nghiệp hoá", Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 1(30), 2/2001 2.13. Thông Tin, "Việt Nam: xếp hạng theo đánh giá chính sách và thể chế quốc gia", Nghiên cứu kinh tế, số 281, 10/2001 2.14. Thanh Phương, "Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN", Tạp chí Thương mại, số 24 (2002) 2.15. Thông tin chuyên đề các lĩnh vực doanh nghiệp thương mại, "Quy định thương mại hải quan và các tiêu chuẩn của Singapore", Tạp chí Ngoại thương, số 21, ngày 31/8/2002 2.16. Trung Đức, "Đầu tư của Singapore sẽ có vị thế mới", Chuyên đề báo Đầu tư, ngày 5/8/2002 2.17. Kinh tế tổng hợp, "Tình hình kinh tế xã hội 5 tháng đầu năm và giải pháp để thực hiện kế hoạch năm 2002", Thông tin Kinh tế - xã hội, số 2 năm 2002 2.18. Thương mại - dịch vụ - thị trường, "Về tình hình xuất khẩu trong những tháng đầu năm 2002", Thông tin Kinh tế - xã hội, số 2 năm 2002 2.19. Thương mại - dịch vụ - thị trường, "Về một số chính sách, biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong những tháng cuối năm 2002, Thông tin Kinh tế - xã hội, số 1 năm 2002 2.20. Doanh nghiệp, "Singapore với vấn đề cải cách doanh nghiệp", Thông tin Kinh tế - xã hội, số 1 năm 2001 3. Các báo cáo của các Bộ, ban, ngành 3.1. Tổng quan thị trường Singapore, Vụ châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại, năm 2000 3.2. Báo cáo của Thương vụ Việt Nam tại Singapore, số 79, ngày 2/12/1998 3.3. Tóm tắt quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore (về việc chuyến thăm Việt Nam của Phó Thủ tướng Lý Hiển Long), Vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại, tháng 11/1999 3.4. Báo cáo thị trường 6 tháng đầu năm 2002, Thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại 3.5. Báo cáo thị trường để xây dựng kế hoạch thương mại năm 2000 - 2010, Thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại 3.6. Báo cáo về quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Singapore, Vụ Quản lý Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 11/9/2002 3.7. Báo cáo về tình hình FDI vào Việt Nam của các nước ASEAN, Vụ Quản lý Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 21/5/2002 3.8. Cumulative Report for Imports, Singapore Trade Development Board, 2001 3.9. Cumulative Report for Exports to Vietnam, Singapore Trade Development Board, 2001 3.10. Annual Report for External Trades (All Trade Types), Country Vietnam Soc Rep Of, Singapore Trade Development Board, 1995 - 2001 4. Giáo trình, sách 4.1. Bùi Xuân Lưu, Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999 4.2. Vũ Chí Lộc, Đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997 4.3. TS. Nguyễn Thị Hiền, Hội nhập Kinh tế khu vực của một số nước ASEAN, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002 4.4. PTS. Đào Duy Huân, Kinh tế các nước Đông Nam á, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997 4.5. Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng. Lịch sử Singapore 1965-2000, Nhà xuất bản Trẻ, 2001 5. Các văn bản Luật 5.1. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (12/11/1996), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 5.2. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (30/6/2000), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 5.3. Chỉ thị số 31/2001/CT/TTg về việc đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2002 5.4. Quyết định số 63/2002/QĐ-BTC công bố mức thưởng theo kim ngạch xuất khẩu 5.5. Quyết định số 133/QĐ-TTg về việc quy định quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0015.doc
Tài liệu liên quan