Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam

Lời nói đầu Ngày nay để tồn tại và phát triển đất nước, sánh vai với các cường quốc trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam phải thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, tham gia ngày càng sâu sắc vào qúa trình hợp tác và phân công lao động quốc tế là một chủ trương đúng đắn của đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, giao lưu thương mại của Việt Nam và thế giới ngày càng phát triển. Để tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy quá trình giao lưu

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó hoạt động thanh toán quốc tế cũng phải được phát triển tương xứng. NHTM là một tổ chức tài chính trung gian có các chức năng chủ yếu là : nhận gửi, cho vay, và thanh toán. Hoạt động thanh toán quốc tế không thể tiến hành đạt hiệu quả cao nếu không có sự tham gia của các NHTM, hơn thế việc thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế có hiệu quả sẽ giúp NHTM nâng cao sức mạnh của mình. Do vậy, việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế là yêu cầu thường xuyên, bức thiết đối với mỗi NHTM. Hoạt động thanh toán quốc tế là hoạt động rất phức tạp ( các bên tham gia hoạt động khác nhau ở nhiều lĩnh như: chế độ chính trị, kinh tế, xã hội...) nên thường gặp phải nhiều khó khăn. Do đó, các bên liên quan luôn quan tâm đến việc tìm ra phương thức thanh toán có hiệu quả nhất. Với những ưu điểm vượt trội của mình phương thức tín dụng chứng từ ngày càng trở nên phổ biến trong hoạt thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, đây lại là phương thức thanh toán phức tạp nhất trong số các phương thức thanh toán quốc tế nên để hiểu và sử dụng tốt phương thức này là việc không đơn giản. Trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch I NHCTVN, được làm quen và tìm hiểu hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng, em thấy rằng nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ gặp phải không ít khó khăn từ nhiều phía, ảnh hưởng đến khả năng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Sở trong lĩnh vực này. Do đó, em đã chọn đề tài: ” Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN “ cho luận văn tốt nghiệp của mình. Trong luận văn này, em xin trình bày một số nghiên cứu của mình về thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN và một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Với mục đích như vậy, bố cục luận văn sẽ bao gồm những phần chính như sau: ChươngI : Một số vấn đề lí luận cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Chưong II : Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN. Chương III : Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS Cao Cự Bội, các cô chú, anh chị cán bộ Phòng kinh doanh đối ngoại thuộc Sở giao dịch I NHCTVN đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn của mình. ChươngI Một số vấn đề lí luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế 1.1.1 Khái niệm. Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc thực hiện chi trả bằng tiền liên quan đến mua bán hàng hoá dịch vụ và tư bản giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với các tổ chức hay cá nhân nước khác hay giữa một quốc gia với các tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan. TTQT bao gồm thanh toán mậu dịch, thanh toán phi mậu dịch, thanh toán nợ cũ. TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức của thanh toán mậu dịch, một hình thức thanh toán phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, trong hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam (NHCTVN), thanh toán quốc tế được hiểu là quá trình thực hiện các nghiệp vụ như: chuyển tiền, thanh toán L/C, nhờ thu và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác bằng ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCTVN, giữa NHCT với các tổ chức tài chính khác ở trong và ngoài nước thông qua mạng IBS (hệ thống nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của NHCTVN), mạng SWIFT (mạng tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu) hoặc các hệ thống khác. TTQT là khâu kết thúc của một giao dịch mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu thụ thông qua việc chi trả lẫn nhau trong trao đổi quốc tế. Vì vậy, có thể nói TTQT đã góp phần quan trọng tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá. TTQT đã giúp cho ngoại thương thực hiện tốt chức năng của mình là mở rộng lưu thông hàng hoá ra nước ngoài và đem ngoại tệ về cho đất nước. Đồng thời, việc thanh toán diễn ra tốt đẹp như vậy sẽ để lại thiện chí, uy tín, sự tin cậy giữa các bên, góp phần mở rộng và củng cố mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực ( kinh tế, chính trị, ngoại giao, khoa học kĩ thuật... ) giữa các nước. TTQT giúp cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tư bản... giưã các quốc gia ngày càng phát triển, từ đó tác động đáng kể vào sự phát triển sản xuất trong nước. TTQT là khâu kết thúc của một hợp đồng XNK, nó khép lại một chu trình mua bán hàng hoá, dịch vụ, việc thanh toán tốt sẽ giảm thiểu rủi ro, giúp cho việc thu hồi đầy đủ, đúng hạn tiền hàng để tiếp tục guồng máy sản xuất kinh doanh. TTQT giúp mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước tiếp cận được với thị trường thế giới, tiếp cận được với công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhận ra vị trí và những lợi thế của mình để tiếp tục duy trì và phát huy những lợi thế đó trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt với nhà sản xuất nước ngoài. TTQT không chỉ tạo thuận lợi trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, giúp hàng hoá Việt Nam xâm nhập vào thị trường quốc tế mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ngay tại thị trường trong nước, phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu của khách hàng trong nước. TTQT có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân (cả ở tầm vĩ mô và vi mô) nhưng nó lại là hoạt động rất phức tạp và chịu sự tác động của nhiều nhân tố : tỉ giá hối đoái, trình độ sản xuất, sự ổn định chính trị, xã hội, sự ổn định của các chính sách kinh tế vĩ mô, sự phát triển của hệ thống ngân hàng... Sự biến động của tỉ giá ảnh hưởng đến giá trị của các hợp đồng XNK, gây bất lợi cho người mua và người bán, đồng thời nó gây tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng nên phần nào đó nó sẽ làm xấu đi khả năng cung ứng ngoại tệ, phục vụ cho hoạt động XNK của ngân hàng. Như trên vừa trình bày, TTQT tác động vào sự phát triển sản xuất trong nước nhưng ngược lại chính trình độ của sản xuất trong nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt TTQT. Mỗi nước đều có lợi thế riêng, sự phân công lao động ngày càng sâu sắc trên thế giới giúp nhu cầu được trao đổi hàng hoá giữa các nưóc ngày càng phát triển. Tuy nhiên, nếu trình độ sản xuất quá lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng thấp sẽ làm ảnh hưởng đến việc trao đổi hàng hoá của nước đó với các nước khác trên thế giới. Sự ổn định chính trị xã hội và các chính sách kinh tế vĩ mô là điều kiện rất cần thiết, tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất trong nước từ đó ảnh hưởng đến hoạt động TTQT. Tuy nhiên nhiều lúc các chính sách kinh tế vĩ mô cũng gây ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động TTQT chẳng hạn như : chính sách quản lí ngoại hối hay các chính sách điều chỉnh XNK của Bộ thương mại... Ngoài ra, sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động TTQT bởi ngân hàng là trung gian tài chính với chức năng, bề dày kinh nghiệm và khả năng tài chính sẽ tạo nên sự tin tưởng và thuận lợi cho các bên tham gia trong hoạt động TTQT. 1.1.2 Vai trò của hoạt động TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ trong nước, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế đời và phát triển, trong đó TTQT là mảng hoạt động có vai trò quan trọng đối với mỗi ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng. Thứ nhất, TTQT là nghiệp vụ bổ sung, hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác của ngân hàng, chẳng hạn như khi phát triển hoạt động TTQT sẽ tăng cường được khả năng huy động và sử dụng vốn ngoại tệ của ngân hàng. Thứ hai, tiến hành hoạt động TTQT tốt sẽ giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó nâng cao được uy tín của mình. TTQT là một nghiệp vụ phức tạp, trong TTQT, ngân hàng không chỉ là trung gian tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa người mua và người bán thông qua quan hệ của mình với các ngân hàng khác mà các ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác tư vấn, giúp khách hàng lựa chọn phương thức, công cụ thanh toán hiệu quả nhất. Quá trình thanh toán diễn ra thuận lợi, người bán nhận đủ tiền, người mua nhận được hàng đúng số lượng, phẩm chất, thời gian sẽ chứng tỏ được khả năng của ngân hàng trong hoạt động của mình. Thứ ba, TTQT sẽ giúp ngân hàng mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng khác trên thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ ngân hàng, từ trang bị kĩ thuật đến đào tạo chuyên viên, góp phần đưa ngân hàng trở thành ngân hàng đa năng, hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Thứ tư, TTQT là dịch vụ trung gian, phí thu được từ hoạt động TTQT không phải là thu nhập chủ yếu nhưng cũng góp phần đáng kể vào tổng thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa, mức phí trong hoạt động TTQT cũng là công cụ để ngân hàng thực hiện chiến lược lôi cuốn khách hàng. Nói tóm lại, TTQT là mảng hoạt động rất quan trọng của ngân hàng, nó không chỉ tạo ra thu nhập mà còn là nhân tố giúp ngân hàng nâng cao uy tín, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng qui mô nghiệp vụ hoạt động cũng như tăng cường mối quan hệ của mình với các ngân hàng khác trên toàn thế giới. 1.1.3 Các phương tiện TTQT phổ biến. 1.1.3.1 Hối phiếu Khái niệm : Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người kí phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu. Đặc điểm của hối phiếu : Tính trừu tượng của hối phiếu : Trên hối phiếu không cần ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức nguyên nhân sinh ra việc lập hối phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và những nội dung có liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lí của hối phiếu cũng không bị ràng buộc do nguyên nhân sinh ra hối phiếu. Một khi được tách ra khỏi hợp đồng và nằm trong tay người thứ ba thì hối phiếu trở thành một trái vụ độc lập, chứ không phải là một trái vụ sinh ra từ hợp đồng. Hay nói một cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng. Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu : Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ hối phiếu. Người trả tiền không thể viện ra những lí do riêng của mình đối với người phát phiếu, người kí hậu mà từ chối trả tiền, trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo luật chi phối nó. Tính lưu thông của hối phiếu : Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn của nó. Sở dĩ có được đặc điểm này, bởi vì hối phiếu là lệnh đòi tiền của một người này đối với người khác, hối phiếu có một trị giá tiền nhất định, có một thời hạn nhất định, thời hạn này thường là ngắn hạn và được người trả tiền chấp nhận. Tóm lại, nhờ vào tính trừu tượng và tính bắt buộc nghĩa vụ trả tiền mà có được tình lưu thông. Nội dung của hối phiếu : Hối phiếu vì cần phải được lưu hành, nên nó phải có một hình thức nhất định để người ta có thể dễ dàng phân biệt hối phiếu với các phương tiện thanh toán khác. Hối phiếu thương mại là một văn bản xác nhận một trái vụ trả tiền có tính chất thương mại, cho nên hối phiếu phải có một nội dung nhất định phù hợp với luật lệ chi phối nó. Về mặt hình thức : Hối phiếu làm thành văn bản. Hối phiếu nói, điện tín, điện thoại.. đều không có giá trị pháp lí. Ngôn ngữ tạo lập hối phiếu là ngôn ngữ viết hoặc in sẵn, đánh máy bằng một thứ tiếng nhất định và thống nhất. Tiếng Anh là thứ tiếng thông dụng của ngôn ngữ tạo lập hối phiếu. Một hối phiếu sẽ không có giá trị pháp lí, nếu như nó được tạo lập bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Những hối phiếu viết bằng bút chì, bằng thứ mực dễ phai như mực đỏ đều trở thành vô giá trị. Hối phiếu có thể lập thành một hay nhiều bản, mỗi bản đều đánh số thứ tự, các bản đều có giá trị như nhau. Khi thanh toán, ngân hàng thường gửi hối phiếu cho người trả tiền làm hai lần kế tiếp nhau đề phòng sự thất lạc, bản nào đến trước thì sẽ được thanh toán, bản nào đến sau sẽ trở thành vô giá trị. Hối phiếu không có bản phụ. Về mặt nội dung : một hối phiếu phải bao gồm những nội dung bắt buộc sau: Tiêu đề của hối phiếu : chữ “Hối phiếu” là tiêu đề của một hối phiếu, không có tiêu đề này, hối phiếu sẽ trở thành vô giá trị. Địa điểm kí phát hối phiếu : thông thường địa chỉ của người lập phiếu là địa điểm kí phát phiếu. Khôngloại trừ, hối phiếu được kí phát ở đâu thì lấy địa điểm kí phát ở đó. Một hối phiếu không ghi rõ địa điểm kí phát, người ta cho phép lấy địa chỉ bên cạnh tên của người kí phát làm địa điểm kí phát hối phiếu. Ngày tháng kí phát : Ngày tháng kí phát hối phiếu có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định kì hạn trả tiền của hối phiếu có kì hạn nếu hối phiếu ghi rằng : “Sau x ngày kể từ ngày kí phát hối phiếu này”. Ngày kí phát hối phiếu cũng liên quan đến khả năng thanh toán của hối phiếu. Ví dụ, nếu ngày kí phát hối phiếu xảy ra sau ngày người có nghĩa vụ trả tiền hối phiếu mất khả năng thanh toán như bị phá sản, bị đưa ra toà, bị chết... thì khả năng thanh toán hối phiếu đó không còn nữa. Số tiền của hối phiếu là một số tiền nhất định. Một số tiền nhất định là số tiền được ghi một cách đơn giản và rõ ràng, người ta có thể nhìn qua để biết được số tiền phải trả là bao nhiêu, không cần phải qua nghiệp vụ tính toán nào, dù là đơn giản. Số tiền được ghi có thể là vừa bằng số, vừa bằng chữ hoặc là hoàn toàn bằng số hay là hoàn toàn bằng chữ. Số tiền cuả hối phiếu phải nhất trí với nhau trong cách ghi. Trường hợp có sự chênh lệch giữa số tiền bằng chữ và số tiền bằng số thì thường căn cứ vào số tiền ghi bằng chữ. Trường hợp có sự chênh lệch giữa số tiền toàn ghi bằng số hay toàn ghi bằng chữ thì căn cứ vào số tiền nhỏ hơn. Thời hạn trả tiền của hối phiếu có hai loại : thời hạn trả tiền ngay và thời hạn trả tiền sau. Cách ghi thời hạn trả tiền ngay thường là như sau : “Ngay sau khi nhìn thấy bản thứ... của hối phiếu này...” hoặc “Sau khi nhìn thấy bản thứ... của hối phiếu này...” Cách ghi thời hạn trả tiền về sau thường có ba cách sau : Nêú mốc thời gian tính từ ngày chấp nhận hối phiếu, thì ghi : “X ngày sau khi nhìn thấy bản thứ... của hối phiếu này..” Nếu mốc thời gian tính từ ngày kí phát hối phiếu, thì ghi : “X ngày kể từ ngày kí bản thứ... của hối phiếu này...” Nếu thời hạn là một ngày cụ thể nhất định, thì ghi : “Đến ngày... của bản thứ... của hối phiếu này...”. Trong ba cách ghi thời hạn trên, cách thứ nhất thường được sử dụng phổ biến hơn cả. Địa điểm trả tiền của hối phiếu là địa điểm được ghi rõ trên hối phiếu. Nếu hối phiếu không ghi rõ hoặc không ghi địa điểm trả tiền, người ta có thể lấy địa chỉ ghi bên cạnh tên của người trả tiền là địa điểm trả tiền. Người hưởng lợi quy định ở mặt trước của tờ hối phiếu trước tiên là người kí phát hối phiếu, hoặc có thể là người khác do người kí phát hối phiếu chỉ định. Người trả tiền hối phiếu được ghi ở mặt trước, góc trái cuối cùng của tờ hối phiếu, sau chữ “gửi” Người kí phát phiếu được ghi ở mặt trước, góc phải cuối cùng của tờ hối phiếu. Cần đặc biệt chú ý là, tất cả những người có liên quan được ghi trên tờ hối phiếu phải ghi rõ đầy đủ tên, địa chỉ mà họ đã dùng để đăng kí hoạt động kinh doanh. Ngoài những nội dung bắt buộc trên, hối phiếu còn có thể có những nội dung khác do hai bên thoả thuận, miễn là những nội dung này không làm sai lạc tính chất của hối phiếu do luật “Luật điều chỉnh về hối phiếu “ quy định. Quyền lợi và nghĩa vụ của những người có liên quan đến hối phiếu Người kí phát hối phiếu : trong ngoại thương, người kí phát hối phiếu là người xuất khẩu, người cung ứng các dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá. Người kí phát hối phiếu có trách nhiệm : Kí phát hối phiếu cho đúng luật. Kí tên vào góc bên phải, phía dưới ở mặt trước tờ hối phiếu. Khi hối phiếu đã được chuyển nhượng bị từ chối trả tiền, thì người kí phát hối phiếu có trách nhiệm hoàn trả tiền lại cho những người hưởng lợi của tờ hối phiếu đó. Quyền lợi của người kí phát hối phiếu được thể hiện trên hai mặt chủ yếu : Quyền hưởng lợi số tiền ghi trên hối phiếu. Quyền chuyển nhượng quyền hưởng lợi đó cho người khác. Người trả tiền hối phiếu ; Trong ngoại thương, người trả tiền hối phiếu thường là người nhập khẩu, là người sử các dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá. Khi dùng hối phiếu là phương tiện đòi tiền của phương thức tín dụng chứng từ, người trả tiền hối phiếu lại là ngân hàng mở L/C hay là ngân hàng xác nhận. Trách nhiệm trả tiền của ngân hàng đối với hối phiếu chỉ giới hạn trong thời hạn hiệu lực của L/C. Trách nhiệm của người trả tiền hối phiếu : Trả tiền hối phiếu theo đúng những điều quy định trong hối phiếu Nếu là hối phiếu có kì hạn, người trả tiền phải kí chấp nhận trả tiền hối phiếu khi nhìn thấy hối phiếu. Việc chấp nhận này là vô điều kiện, phù hợp với luật “Luật điều chỉnh về hối phiếu “. Quyền lợi của người trả tiền là có quyền từ chối trả tiền hối phiếu khi chưa kí chấp nhận. Việc từ chối trả tiền này phải phù hợp với luật “Luật điều chỉnh về hối phiếu “ quy định về vấn đề này. Người hưởng lợi hối phiếu : Người hưởng lợi hối phiếu là người có quyền nhận số tiền của hối phiếu. Người hưởng lợi hối phiếu có thể là bản thân người kí phát hối phiếu hoặc cũng có thể là người khác do người kí phát hối phiếu chỉ định hoặc do người hưởng lợi chuyển nhượng quyền hưởng lợi hối phiếu của mình cho người đó bằng thủ tục kí hậu. Người chuyển nhượng hối phiếu : là người đem quyền hưởng lợi hối phiếu của mình chuyển cho người khác bằng thủ tục kí hậu. Như vậy, người chuyển nhượng đầu tiên của hối phiếu là người kí phát hối phiếu. Người cầm phiếu : là người có quyền nhận tiền hối phiếu khi hối phiếu được trả tiền. Người cầm phiếu là người kí phát hối phiếu, nếu anh ta không chuyển nhượng hối phiếu cho ai cả. Đối với hối phiếu được chuyển nhượng, người cầm phiếu là người hưởng lợi cuối cùng của hối phiếu. Nếu hối phiếu không ghi tên người hưởng lợi ở mặt trước tờ hối phiếu (tức là hối phiếu vô danh) thì bất cứ người nào cầm hối phiếu cũng trở thành người hưởng lợi, nếu hối phiếu được chuyển nhượng ở mặt sau bằng cách kí hậu để trống thì người nào cầm phiếu cũng trở thành người hưởng lợi. Chấp nhận hối phiếu Hối phiếu sau khi được kí phát phải được xuất trình cho người trả tiền để người này kí chấp nhận trả tiền, nhất là đối với hối phiếu có kì hạn. Rõ ràng là, một hối phiếu đã được chấp nhận mới có sự tin cậy trong thanh toán. Thông thường hối phiếu được gửi tới người trả tiền để người này kí chấp nhận bất cứ lúc nào trước ngày hết hạn xuất trình hối phiếu. Thời hạn chấp nhận có thể được hiểu như hai trường hợp sau : thứ nhất, nếu hai bên không có sự thoả thuận nào khác thì ULB quy định thời hạn chấp nhận là 12 tháng kể từ ngày kí phát hối phiếu ; thứ hai, nếu hai bên quy định rõ ràng với nhau trong hợp đồng mua bán hoặc trong thư tín dụng thời hạn cụ thể phải xuất trình hối phiếu để chấp nhận, thì hối phiếu phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn đó. Ví dụ, thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là 45 ngày, hay là hết hạn 20 ngày kể từ sau ngày giao hàng thì thời chấp nhận hối phiếu chỉ trong vòng 20 ngày đó, nếu quá 20 ngày đó, tức là L/C hết hiệu lực, ngân hàng mở L/C sẽ từ chối thanh toán tờ hối phiếu gửi đến (nếu là trả tiền ngay) hoặc từ chối chấp nhận hối phiếu (nếu là trả tiền về sau). Sự chấp nhận được ghi vào mặt trước, góc dưới bên trái của tờ hối phiếu và được thực hiện bằng chữ chấp nhận (accept) viết kế bên chữ kí của người trả tiền.Ngoài ra, ULB còn cho phép người trả tiền dùng những chữ khác tương tự để thể hiện sự chấp nhận của mình như “xác nhận’, “đồng ý”, “đồng ý trả tiền”. Ngày tháng kí chấp nhận hối phiếu không phải là yêu cầu bắt buộc của công thức kí chấp nhận. Song trong thực tiễn sử dụng hối phiếu, người ta thấy có loại hối phiếu đòi hỏi kí chấp nhận có ghi ngày tháng, có loại không cần ghi ngày tháng. Đối với hối phiếu trả tiền ngay x ngày, người nhập khẩu muốn nhận bộ chứng từ thanh toán thì phải kí chấp nhận vào loại hối phiếu trả tiền ngay này. Trong trường hợp này việc ghi ngày tháng kí chấp nhận hối phiếu là không thật cần thiết Đối với hối phiếu có kì hạn mà việc quy định kì hạn trả tiền hối phiếu là rõ rệt, ví dụ hối phiếu ghi “X ngày kể từ ngày kí phát bản thứ... của hối phiếu này” hoặc ghi “Đến ngày... trả cho bản thứ... của hối phiếu này ...” thì ghi ngày tháng kí chấp nhận cũng không thật cần thiết. Song đối với hối phiếu có kì hạn được xác định trong tương lai “X ngày kể từ ngày nhìn thấy bản thứ... của hối phiếu này...” thì ngày tháng kí chấp nhận là ngày nhìn thấy hối phiếu, là mốc thời gian tính ra kì hạn của hối phiếu. Kí hậu hối phiếu Kí hậu là hình thức dùng để chuyển nhượng hối phiếu. Người hưởng lợi muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thì phải kí vào mặt sau của tờ hối phiếu rồi chuyển hối phiếu cho người đó. Hành vi kí hậu có những ý nghĩa pháp lí sau : Thừa nhận sự chuyển quyền lợi hối phiếu cho người khác được quy định trong mặt sau của tờ hối phiếu. Sự kí hậu này mang tính chất trừu tượng, có nghĩa là người kí hậu không cần nêu lí do của sự chuyển nhượng và cũng không cần phải thông baó cho người trả tiền biết về sự chuyển nhượng đó (như cách chuyển nhượng theo dân luật thông thường) mà người được chuyển nhượng nghiễm nhiên trở thành người hưởng quyền lợi hối phiếu đó. Xác định trách nhiệm của người kí hậu về việc trả tiền hối phiếu với những người cầm hối phiếu sau đó. Cần chú ý là, trong sự chuyển nhượng trái quyền trong dân luật, người chuyển nhượng chỉ đảm bảo sự tồn tại của trái quyền, tức là đảm bảo rằng con nợ quả thật có thiếu số tiền được chuyển nhượng, chứ không đảm bảo rằng con nợ sẽ thanh toán số nợ đó. Nhưng trong luật hối phiếu thì trái lại, người kí hậu không những đảm bảo người trả tiền hối phiếu có mắc nợ số tiền ghi trên hối phiếu mà còn đảm bảo rằng mình sẽ trả tiền hối phiếu đó cho những người chuyển nhượng, nếu người trả tiền từ chối thanh toán hối phiếu đó. Sở dĩ như vậy là vì người kí hậu đóng vai trò chủ động trong việc kí phát hối phiếu, kí tên vào hối phiếu, song hối phiếu có được người trả tiền chấp nhận hay không lại là vấn đề khác. Kí hậu thường được thực hiện theo 4 hình thức như sau : Kí hậu để trắng : là việc kí hậu không chỉ định người được hưởng quyền lợi hối phiếu do thủ tục kí hậu mang lại. Người kí hậu chỉ kí tên ở mặt sau của hối phiếu hoặc nếu có chi thì chỉ ghi chung chung như “trả cho...”.Với cách kí hậu này, người nào cầm hối phiếu sẽ trở thành người được hưởng lợi hối phiếu và việc chuyển nhượng kế tiếp của người cầm phiếu này không cần kí hậu nữa chỉ trao tay là đủ. Người cầm phiếu có thể chuyển hình thức kí hậu để trắng sang một hình thức khác. Kí hậu theo lệnh : là việc kí hậu chỉ định một cách suy đoán ra người hưởng lợi hối phiếu do thủ tục kí hậu mang lại. Người kí hậu chỉ ghi câu “trả theo lệnh ông X” và kí tên. Như vậy, người hưởng lợi hối phiếu trong trường hợp này chưa quy định rõ ràng, cần phải suy đoán ý chí của ông X. Nếu ông X ra lệnh trả cho một người khác thì người đó sẽ trở thành người hưởng hối phiếu, nếu ông X im lặng thì người hưởng lợi hối phiếu chính là ông X. Với cách kí hậu này, hối phiếu sẽ được chuyển nhượng kế tiếp nhau đến khi nào người hưởng lợi cuối cùng không kí hậu chuyển nhượng nữa nhưng phải trước khi hối phiếu hết hạn trả tiền. Vì vậy, kí hậu theo kệnh là loại kí hậu rất thông dụng trong thanh toán quốc tế. Kí hậu hạn chế : là việc kí hậu chỉ định rõ rệt người được hưởng lợi hối phiếu và chỉ người đó mà thôi. Với cách kí hậu này hối phiếu sẽ không được tiếp tục chuyển nhượng bằng thủ tục kí hậu được nữa. Kí hậu miễn truy đòi : là việc kí hậu mà người kí hậu ghi thêm câu “Miễn truy đòi người kí hậu” cùng với một trong ba loại kí hậu nêu trên. Một khi hối phiếu bị từ chối thanh toán thì người hưởng lợi hối phiếu không được truy đòi lại tiền của người kí hậu trực tiếp của mình. Kí hậu miễn truy đòi cũng là loại kí hậu được sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế. Bảo lãnh hối phiếu Bảo lãnh hối phiếu là sự cam kết của người thứ ba trả tiền cho người hưởng lợi khi hối phiếu đến kì trả tiền. Hình thức văn tự thông thường của sự bảo lãnh được ghi bằng chữ “Bảo lãnh” và ngưòi bảo lãnh kí tên. Trong luật ULB không qui định nơi kí bảo lãnh ở mặt trước hay ở mặt sau của tờ hối phiếu, để tránh nhầm lẫn với chữ kí chấp nhận của người trả tiền, chữ kí hậu của người chuyển nhượng, hình thức văn tự của bảo lãnh được ghi như nói ở trên. Ngoài hình thức bảo lãnh theo luật ULB qui định, một số nước dùng hình thức bảo lãnh bằng văn thư riêng biệt thường gọi là bảo lãnh mật. Sở dĩ có hình thức bảo lãnh này là do người trả tiền không muốn người thứ ba biết tình hình tài chính của mình đến mức cần phải bảo lãnh, nếu sự bảo lãnh được ghi ngay trên hối phiếu. Chỉ một số người cần thiết có liên quan mới được thông báo sự bảo lãnh đó và sự bảo lãnh này có lợi với họ. Cũng cần thấy rằng, thư tín dụng là một hình thức bảo lãnh riêng biệt đối với hối phiếu nằm trong bộ chứng từ thanh toán của phương thức tín dụng chứng từ. Hình thức bảo lãnh được ghi trên hối phiếu ở câu “Theo L/C số... mở ngày..” “Gửi ngân hàng mở L/C...”. Người xuất khẩu sau khi giao hàng lập một hối phiếu theo đúng yêu cầu của L/C và lập bộ chứng từ thanh toán đầy đủ và phù hợp với L/C xuất trình trong thời hạn hiệu lực của L/C, thì chắc chắn rằng hối phiếu đó sẽ được ngân hàng mở L/C trả tiền. Từ chối trả tiền hối phiếu - kháng nghị (Protest) Khi đến hạn trả tiền của hối phiếu mà người trả tiền từ chối thì người hưởng lợi phải chứng thực sự từ chối đó bằng một văn bản kháng nghị. Bản kháng nghị phải do người hưởng lợi lập ra trong thời hạn 2 ngày làm việc tiếp sau ngày hết hạn của hối phiếu. Sau khi lập song bản kháng nghị, trong vòng 4 ngày làm việc, người bị từ chối trả tiền phải báo cho người chuyển nhượng trực tiếp để đòi tiền hoặc có thể đòi tiền bất cứ người nào đã kí hậu chuyển nhượng hối phiếu hoặc đòi người kí phát hối phiếu. Nếu không có bản kháng nghị về việc bị từ chối trả tiền thì những người được chuyền nhượng được miễn trách nhiệm trả tiền hối phiếu, nhưng người kí phát và người chấp nhận vẫn phải chịu trách nhiệm này đối với người kháng nghị. Trên thực tế, người ta thường làm như sau: ví dụ A là người kí phát hối phiếu,B, C, D là người được chuyển nhượng tiếp theo. E là người được chuyển nhượng cuối cùng. Khi E bị từ chối trả tiền, E sẽ chuyển hối phiếu đòi tiền D kèm một bản tính tiền bao gồm số tiền của hối phiếu, chi phí làm thủ tục kháng nghị và các chi phí khác. D hoàn trả tiền cho E và truy đòi ngược lại C, và cứ như vậy cho tới A. Cuối cùng A trực tiếp đòi tiền ở người mắc nợ. Các loại hối phiếu Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiếu thành ba loại : Hối phiếu trả tiền ngay : người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cầm phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ. Hối phiếu trả tiền ngay sau một số ngày nhất định, thường là từ 5-7 ngày : người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này thì kí chấp nhận hối phiếu, sau đó thì từ 5-7 ngày thì trả tiền tờ hối phiếu đó. Hối phiếu có kì hạn: sau một thời giạn nhất định ghi trên hối phiếu, người trả tiền phải trả hoặc tính từ ngày kí phát hối phiếu hoặc tính từ ngày chấp nhận hối phiếu hoặc từ ngày qui định cụ thể. Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay không, có thể chia hối phiếu thành 2 loại : Hối phiếu trơn : loại hối phiếu này được gửi tới đòi tiền người trả tiền không kèm chứng từ thương mại. Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này dùng để thu tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, hao hồng... hoặc dùng để đòi tiền mua hàng của những thương nhân nhập khẩu tin cậy. Hối phiếu kèm chứng từ : loại hối phiếu này được gửi tới cho người nhập khẩu có kèm theo chứng từ thương mại. Hối phiếu kèm chứng từ có 2 loại. Loại hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay và loại hối phiếu kèm chứng từ có chấp nhận. Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu có thể chia hối phiếu thành 2 loại : Hối phiếu đích danh : là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi hối phiếu không kèm theo điều khoản theo lệnh. Hối phiếu đích danh không chuyển nhượng được bằng thủ tục kí hậu theo luật định. Hối phiếu theo lệnh : là loại hối phiếu ghi trả theo lệnh của người hưởng lợi hối phiếu. Hối phiếu theo lệnh chuyển nhượng bằng hình thức kí hậu theo luật định. Đây là loại hối phiếu được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Căn cứ vào người kí phát hối phiếu, hối phiếu được chia thành 2 loại : Hối phiếu thương mại, là loại hối phiếu do người xuất khẩu kí phát đòi tiền người nhập khẩu trong nghiệp vụ về thanh toán hàng hoá xuất khẩu hoặc cung ứng lao vụ lẫn cho nhau. Hối phiếu ngân hàng là loại hối phiếu do ngân hàng phát hành ra lệnh cho ngân hàng đại lí của mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng lợi chỉ định trên hối phiếu. 1.1.3.2 Séc Khái niệm chung Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hoặc bằng chuyển khoản. Nội dung của tờ séc, séc cần ghi đủ những điều sau đây: Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề SEC ghi trên tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi ngân hàng nhận được séc sẽ phải chấp nhận lệnh này vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không có tiền hoặc tờ séc không đủ tính chất pháp lí. Số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải vừa ghi bằng số vừa ghi bằng chữ khớp đúng nhau, có kí hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi địa điểm và ngày tháng lập séc, tên, địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản được trích trả, ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ của người hưởng số tiền trên séc, chữ kí của người phát hành séc. Nếu là tổ chức thì phải có chữ kí của chủ tài khoản, kế toán trưởng và dấu của tổ chức. Séc có tính thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn hiệu lực của séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó tuỳ thuộc vào ph._.ạm vi không gian mà séc lưu hành và luật pháp các nước qui định. Séc dùng để trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực của séc là 8 ngày làm việc kể từ ngày phát hành séc, nếu là séc lưu hành trong một nước, là 20 ngày làm việc nếu lưu thông ngoài nước trong cùng một châu lục, là 70 ngày làm việc nếu séc được trả ở một nước khác châu lục. Quá thời hạn trên nếu séc không quay trở lại ngân hàng thì séc sẽ mất hiệu lực. Đối với séc du lịch thì không qui định thời hạn hiệu lực. Những người liên quan đến séc Người phát séc để trả nợ gọi là người phát hành séc. Ngân hàng thanh toán là người trả tiền. Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc. Séc có thể chuyển nhượng cho nhiều người liên tiếp bằng phương pháp kí hậu trong thời hạn hiệu lực của séc. Kí hậu có 2 ý nghĩa : một là nó chứng nhận việc chuyển giao quyền hưởng séc cho một người khác ; hai là nó xác nhận trách nhiệm của người chuyển nhượng đối với tất cả những người cầm giữ tờ séc sau đó về việc trả tiền đối với tờ séc. Tuy nhiên người chuyển nhượng séc có thể thoái thác trách nhiệm này bằng cách ghi thêm một điều kiện về bảo lưu cùng với chữ kí hậu “không được truy đòi”. Việc kí hậu séc chỉ được thực hiện đối với séc theo lệnh. Sơ đồ lưu thông séc Lưu thông séc qua một ngân hàng (2) Ngân hàng Người mua Người bán (4) (3) (1) (5) Giao hàng Phát hành séc thanh toán Mang séc đến ngân hàng lĩnh tiền Báo Có cho người hưởng lợi séc Quyết toán séc giữa ngân hàng với người mua. Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên mua Người bán Người mua (4) (5) (5) (3) (6) (1) (2) Lưu thông séc qua 2 ngân hàng Giao hàng Phát hành séc thanh toán Nhờ ngân hàng thu hộ tiền ghi trên séc Thu Ngân hàng trả tiền cho người hưởng séc Quyết toán séc giữa ngân hàng với người mua Các loại séc Séc ghi tên là loại séc ghi rõ tên người hưởng lợi. Loại séc này không thể chuyển nhượng bằng thủ tục kí hậu, chỉ có người hưởng lợi được ghi trên séc mới được lĩnh tiền ngân hàng. Séc vô danh là loại séc không ghi ten người hưởng lợi, chỉ ghi câu “trả cho người cầm séc”. Bất cứ ai cầm séc này cũng có thể lĩnh tiền tờ séc ở ngân hàng. Vì vậy, không cần qua thủ tục kí hậu, séc vẫn có thể chuyển nhượng được bằng hình thức trao tay. Séc theo lệnh (Cheque to order) là loại séc ghi trả theo lệnh của người hưởng lợi ghi trên tờ séc đó. Trên tờ séc ghi “Yêu cầu trả theo lệnh của ông X”. Loại này có thể chuyển nhượng bằng thủ tục kí hậu như cách kí hậu của hối phiếu. Đứng ở góc độ khác, séc có thể chia ra các loại như sau: Séc gạch chéo (Crossed cheque) là loại séc trên mặt trước của nó có hai gạch chéo song song với nhau.Séc gạch chéo không thể dùng để rút tiền mặt, thường dùng để chuyển khoản qua ngân hàng. Séc gạch chéo do người hưởng lợi séc gạch chéo bằng hai cách : Séc gạch chéo thường(Cheque crossed generally) gạch chéo không tên tức là giữa hai gạch chéo song song không ghi tên ngân hàng lĩnh hộ tiền. Séc gạch chéo đặc biệt (Cheque crosed specially) gạch chéo có ghi tên, tức là giữa hai gạch chéo song song có ghi tên một ngân hàng nào đó. Trong cách ghi này, chỉ có ngân hàng đó mới được lĩnh hộ tiền mà thôi. Séc chuyển khoản (Cheque transferable) là loại séc mà người kí phát séc ra lệnh cho ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình để chuyển trả sang một tài khoản khác của một người khác trong hoặc ngoài ngân hàng. Séc chuyển khoản không thể chuyển nhượng được và không thể lĩnh tiền mặt. Séc du lịch (Tranverller’s cheque) là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất cứ một chi nhánh hay đại lí nào của ngân hàng. Người hưởng lợi là khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát hành séc. Trên séc du lịch phải có chữ kí của người hưởng lợi.Thời gian của séc du lịch có hiệu lực do ngân hàng phát séc và người hưởng lợi qui định, có thể là vô hạn và có thể là có hạn. Trên séc du lịch có ghi rõ khu vực các ngân hàng trả tiền, ngoài khu vực đó, sẽ không có giá trị lĩnh tiền. Séc xác nhận (Certified cheque) là loại séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền. Mục đích của việc xác nhận này là nhằm đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc, chống phát séc khống, ngân hàng xác nhận trên tờ séc với công thức như “Xác nhận số tiền... trả đến ngày... tại ngân hàng...” kí tên. Bắt đầu từ lúc xác nhận séc, ngân hàng sẽ lưu kí tiền gửi trên tài khoản của khách hàng số tiền ghi trên séc sang tài khoản séc xác nhận trong suốt thời hạn hiệu lực của tờ séc. 1.1.4 Điều kiện trong thanh toán quốc tế. Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà đôi bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được qui định lại thành những điều kiện gọi là điều kiện thanh toán quốc tế. Các điều kiện đó là : 1.1.4.1 Điều kiện về tiền tệ Điều kiện về tiền tệ là chỉ việc sử dụng các loại tiền nào để tính toán và thanh toán trong các hợp đồng và hiệp định kí kết giữa các nước, đồng thời qui định cách sử lí khi đồng tiền đó biến động. Phân loại tiền tệ trong thanh toán quốc tế Căn cứ vào phạm vi sử dụng, chia thành ba loại: Tiền tệ thế giới (World currency) là vàng. Hiện nay chưa có vật nào khác có thể thay thế vàng thực hiện chức năng tiền tệ thế giới. Tiền tệ quốc tế (International currency) là các đồng tiền hiệp định thuộc các khối kinh tế và tài chính quốc tế như SDR, ECU trước đây (hay EURO ngày nay)... Tiền tệ quốc gia (National money) là tiền tệ của từng nước như USD, GBP, FRF, DEM, JPY, VND,... Căn cứ vào sự chuyển đổi của tiền tệ, chia ra thành ba loại tiền sau đây: Tiền tự do chuyển đổi (Free convertible currency) là những đồng tiền quốc gia có thể chuyển đổi tự do ra các đồng tiền khác. Có hai loại tiền tệ tự do chuyển đổi : tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do chuyển đổi từng phần. Việc phân biệt hai loại tiền này phụ thuộc vào qui định như: chủ thể chuyển đổi, mức độ chuyển đổi, nguồn thu nhập tiền tệ từ đâu ra. Tiền tệ chuyển nhượng (Transferable currency) là tiền tệ được quyền chuyển nhượng từ người này sang người khác qua hệ thống tài khoản mở tại ngân hàng. Tiền tệ clearing (Clearing currency) là tièn tệ ghi trên tài khoản và không được chuyển dịch sang một tài khoản khác. Căn cứ vào hình thức tồn tại của tiền tệ, chia thành hai loại sau: Tiền mặt (Cash) là tiền giấy của từng quốc gia riêng biệt, tỷ trọng tiền mặt trong thanh toán quốc tế không đáng kể. Tiền tín dụng (Credit currency) là tiền tài khoản, tiền ghi sổ. Hình thức tồn tại của tiền tín dụng là các phương tiện thanh toán quốc tế như hối phiếu, séc,T/T, M/T,...Tiền tín dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong thanh toán quốc tế. Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền tệ trong thanh toán chia thành 2 loại: Tiền tệ tính toán (Account currency) là tiền tệ được dùng để tính giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng. Tiền tệ thanh toán (Payment currency) là tiền tệ được dùng để thanh toán nợ nần, thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương. Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương, trong hiệp định thương mại và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố sau: Sự so sánh lực lượng giữa hai bên mua và bán Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán ttrên thế giới Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới. Trong những năm gần đây, địa vị vủa yên Nhật, mác Đức, được nâng cao nhờ cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai của họ thường dư thừa, nhưng các đồng tiền này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế như bảng Anh, đôla Mĩ, vì tỷ trọng xuất nhập khẩu trong mậu dịch quốc tế của các nước này chưa lớn lắm so với Anh, Mĩ và khối lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế của thị trường ngoại hối các nước này không nhiều bằng thị trường London và New York. Trong thanh toán ngoại thương, có những mặt hàng phải thanh toán bằng một loại tiền tệ nhất định thường là những hàng nguyên liệu quan trọng đã bị một số ít nước khống chế từ lâu về sản xuất và tiêu thụ, các nước này đã biến việc dùng loại tiền tệ đó để thanh toán thành một tập quán quốc tế, ví dụ như mua bán cao su, thiếc, và một số kim loại mùa khác thường thanh toán bằng bảng Anh, dầu hoả bằng đôla Mĩ... Điều kiện đảm bảo hối đoái Khủng hoảng thu chi quốc tế của các nước làm cho tiền tệ thường xuyên biến động. Vì vậy, các khoản thu ngoại hối có thể bị tổn thất do ngoại hối đó sụt giá hoặc các khoản chi ngoại hối bị tổn thất do ngoại hối đó tăng giá. Để tránh khỏi những tổn thất đó, trong các hiệp định và các hợp đồng mua bán ngoại thương thường qui định các điều kiện bảo lưu nhằm bảo đảm giá trị thực tế của các khoản thu nhập bằng tiền khi tiền tệ lên xuống thất thường, được gọi là điều kiện bảo đảm hối đoái. Những điều kiện bảo đảm hối đoái thường dùng trong thanh toán quốc tế về ngoại thương như sau: Điều kiện bảo đảm vàng. Điều kiện bảo đảm ngoại hối. Điều kiện bảo đảm theo “rổ” tiền tệ. Điều kiện bảo đảm căn cứ vào sự biến động của giá cả. 1.1.4.2 Điều kiện địa điểm thanh toán Trong thanh toán ngoại thương, địa điểm thanh toán có thể ở nước người nhập khẩu, hoặc ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước thứ ba. Nhưng trong thực tế, việc việc xác định địa điểm thanh toán là sự so sánh lực lượng giữa hai bên quyết định, đồng thời, cũng còn thấy rằng dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán thường là ở nước ấy. 1.1.4.3 Điều kiện thời gian thanh toán Trong thanh toán quốc tế, điều kiện thời gian thanh toán trong các nghiệp vụ ngoại thương rất phức tạp, thường có ba cách qui định : Thời gian trả tiền trước : trả tiền trước là sau khi kí hợp đồng hoặc sau khi bên xuất khẩu chấp nhận đơn đặt hàng của bên nhập khẩu, nhưng trước khi giao hàng, thì bên nhập khẩu đã trả cho bên xuất khẩu toàn bộ hay một phần số tiền hàng. Trả tiền trước có thể là với mục đích của người nhập khẩu cấp tín dụng ngắn hạn cho người xuất khẩu. Song cũng có loại trả tiền trước với mục đích nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu. Thời gian trả ngay, được chia thành 5 loại: Người mua trả tiền cho người bán ngay sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng trên phương tiện vận chuyển tại nơi giao hàng chỉ định. Người mua trả tiền cho người bán ngay sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng trên phương tiện vận chuyển tại nơi giao hàng qui định. Sau khi hoàn thành giao hàng, người bán lập bộ chứng từ gửi hàng và chuyển đến người mua, người mua trả tiền ngay sau khi nhận bộ chứng từ. Loại trả tiền ngay này giống loại trả tiền ngay nêu trên, song chỉ khác là người mua trả tiền sau khi nhận bộ chứng từ trong vòng từ 5-7 ngày. Người mua trả tiền ngay cho người bán sau khi nhận xong hàng hoá tại nơi qui định hoặc tại cảng đến. Thời gian trả tiền sau, bao gồm 4 loại sau: Trả tiền sau x ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người bán đã hoàn thành giao hàng trên phương tiện vận taỉ tai nơi giao hàng qui định. Trả tiền sau x ngày kể từ ngày người bán đã hoàn thành giao hàng trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng. Trả tiền sau x ngày kể từ ngày nhận được chứng từ. Trả tiền sau x ngày kể từ ngày nhận được hàng hoá. 1.1.4.4 Điều kiện phương thức thanh toán Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các điều kiện thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán tức là chỉ người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán, người ta có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn. Các phương thức thanh toán quốc tế dùng trong ngoại thương gồm có: Phương thức chuyển tiền (Remittance) Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Trong thanh toán ngoại thương để chuyển tiền phải có: Hợp đồng mua bán ngoại thương. Bộ chứng từ gửi hàng của người xuất khẩu gửi đến. Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Uỷ nhiệm chi ngoại tệ và phí chuyển tiền. Phương thức ghi sổ (Open account) Người bán mở một tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kì (tháng, quý, năm) người mua trả tiền cho người bán. Đặc điểm của phương thức này: Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của các ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán. _ Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị quyết toán giữa hai bên. Chỉ có hai bên tham gia thanh toán. Dùng trong thanh toán phi mậu dịch như : Tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi cho vay và đầu tư. Phương thức nhờ thu (Conllection of payment) Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một lao vụ cho khách hàng uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu do người bán lập ra. Phân loại Nhờ thu phiếu trơn (clean collection) là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. Phương thức nhờ thu phiéu trơn không được áp dụng nhiều trong thanh toán về mậu dịch, vì nó không bảo đảm quyền lợi cho người bán, vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền hoặc chậm trễ trả tiền. Đối với người mua áp dụng phương thức này cũng là điều bất lợi, vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng hợp đồng hay không. Do đó phương thức thanh toán này chỉ dùng khi người mua và người bán hoàn toàn tin cậylẫn nhau. Nhờ thu kèm chứng từ (documentary collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng. Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ tương tự như nhờ thu phiếu trơn, chỉ khác ở chỗ, trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có việc nhờ ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối với người mua. Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn. Tuy vậy, nhờ thu kèm chứng từ còn một số mặt yếu sau: Người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Ngưòi mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể không trả tiền cũng được, khi tình hình thị trường bất lợi với họ. Việc trả tiền còn quá chậm chạp, từ lúc giao hàng đến lúc nhận tiền có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm. Trong phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu tiền hộ, còn không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua. 1.2. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (documentary credit) 1.2.1. Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định đề ra trong thư tín dụng. Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có: - Người xin mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác. - Ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu. - Người hưởng lợi thư tín dụng là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. - Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng ở nước người hưởng lợi. 1.2.2. Trình tự chung tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ (2) Ngân hàng mở L/C Ngân hàng thông báo L/C Người nhập khẩu Người xuất khẩu (5) (6) (8) (7) (1) (6) (5) (3) (4) (1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng; (2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu; (3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thống báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu; (4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng; (5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán; (6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho người nhập khẩu; (7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán; (8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền. 1.2.3. Thư tín dụng thương mại là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ 1.2.3.1. Khái niệm: Thư tín dụng thương mại (Letter of Credit - L/C) là một chứng thư (điện hoặc ấn chỉ), trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. 1.2.3.2.Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại a/ Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C - Số hiệu: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của số hiệu là để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng. Có thư tín dụng ghi ngay đầu dòng bên phải của nó câu: "Please quote credit No... on all correspondance" "Đề nghị ghi tín dụng số...trên các thư từ giao dịch". Số hiệu của thư tín dụng còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan. - Địa điểm mở L/C: là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó. - Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như đã qui định trong hợp đồng không. b/ Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ nói chung chia làm hai loại: một là, các thương nhân, hai là các ngân hàng. Các thương nhân chỉ bao gồm những người nhập khẩu, là người yêu cầu mở L/C; người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C. Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận,... - Ngân hàng mở L/C (Opening Bank hay Issuing Bank) là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và qui định trong hợp đồng, nếu chưa có sự qui định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng này như sau: + Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C và tìm cách thông báo L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất khẩu. Thông thường, việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải thông qua một ngân hàng đại lý của nó ở nước người xuất khẩu. Không loại trừ, ngân hàng này gửi thẳng bản gốc L/C cho người xuất khẩu (trường hợp này ít dùng). + Sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C của người xuất khẩu đối với L/C đã được mở nếu có sự đồng ý của họ. + Kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy các chứng từ đó phù hợp với những điều qui định trong L/C và không mâu thuẫn lẫn nhau thì trả tiền cho người xuất khẩu và đòi lại tiền người nhập khẩu, ngược lại thì từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra "bề ngoài" của chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không, chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ,... Mọi sự tranh chấp về tính chất "bên trong" của chứng từ là do người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết. + Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào đúng các bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt lội, động đất, hoả hoạn,... Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, Ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi đã có những qui định dự phòng. + Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C từ 0,125% đến 0,5% trị giá của L/C. - Ngân hàng thông báo (Advising Bank) thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu. Quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng thông báo như sau: + Khi nhận được điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C, ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được của người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. + Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã nhận được thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. Chính vì vậy, trong cuối bức thư xác báo L/C, bao giờ cũng có câu "Please note we assume no responsibility for any error and/ or omission in the transmision and/ or translation of the cable", tức là "Xin lưu ý, chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ một sự lỗi lầm hay thiếu sót trong chuyển và dịch bức điện này". + Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới ngân hàng mở L/C. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do sự chậm trễ và/ hoặc mất mát chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở L/C, miễn là chứng minh rằng mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua bưu điện. - Ngân hàng trả tiền (Negotiating Bank hoặc Paying Bank) là ngân hàng mở L/C và có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C uỷ nhiệm. Nếu địa điểm trả tiền qui định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền giống như ngân hàng mở L/C khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến. - Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank) là ngân hàng đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của nó. Ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu một ngân hàng khác xác nhận cho mình sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng mở L/C. Muốn xác nhận, ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí (confirming charges) rất cao và đôi khi còn phải đặt trước (cash cover) nữa; mức đặt tiền trước có thể đạt tới 100% trị giá của thư tín dụng (full cash cover). c/ Số tiền của thư tín dụng Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thống nhất với nhau. Không thể chấp nhận một thư tín dụng có số tiền bằng số và bằng chữ mâu thuẫn nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đô la nhưng trên thế giới có nhiều loại đô la khác nhau như: đô la Mỹ, đô la úc, đô la Hồng Kông,... Không nên ghi số tiền dưới dạng một số tuyệt đối như "Chúng tôi mở một thư tín dụng không thể huỷ bỏ cho Tổng công ty XNK Thủ công Mỹ nghệ ở 33 phố Ngô Quyền, Hà Nội, hưởng một số tiền là 33.327 phrăng Pháp...", vì ghi như thế, người xuất khẩu khó có thể giao hàng có giá trị đúng như L/C qui định, đặc biệt là đối với những mặt hàng rời (quặng, than, ngô,...). Một khi giá trị hàng giao đã không khớp với giá trị trên L/C, thì khó có thể được thanh toán, vì ngân hàng sẽ đưa ra lý do chứng từ không phù hợp với những điều kiện qui định trong thư tín dụng. Cách ghi số tiền tốt nhất là ghi một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được dù là hàng giao có tính chất là nguyên cái hay là rời. Theo bản "Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ 1993" qui định thì những từ "khoảng chừng" (about), "độ khoảng" (circa) hoặc những từ ngữ tương tự được dùng để chỉ mức độ số tiền của thư tín dụng hên hiểu là cho phép xê dịch hơn kém không được quá 10% của tổng số tiền đó. Ngoài ra, bản qui tắc còn qui định "trừ khi thư tín dụng qui định số lượng hàng giao không được hơn kém, còn thì sẽ được phép có một khoản dung sai trong phạm vi hơn kém 5%, miễn là tổng số tiền chi trả luôn luôn không được vượt quá số tiền của thư tín dụng. Không được áp dụng dung sai này khi thư tín dụng qui định số lượng tính bằng đơn vị bao, kiện đã được nói rõ hoặc tính bằng đơn vị chiếc". d/ Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng. - Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những điều qui định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở L/C (date of issue) đến ngày hết hiệu lực L/C (expiry date). Cần phải chú ý là, có nước qui định rằng nếu thời hạn hiệu lực L/C dưới 3 tháng, thì phí thông báo L/C chỉ phải chịu là 0,1%; còn trên 3 tháng đến 6 tháng thì là 0,2%. Vì vậy, không nên mở L/C có thời hạn trên 3 tháng. Vì vậy, cần phải xác định một thời hạn hiệu lực của L/C hợp lý, có nghĩa là nó vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu vừa không gây khó khăn cho việc xuất trình chứng từ của người xuất khẩu. Việc xác định này cần thoả mãn các nguyên tắc sau đây: + Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C. + Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, không được trùng với ngày giao hàng. Thời gian hợp lý này được tính tối thiểu bằng tổng số của ngày cần phải có để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng thông báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập. Nếu hàng xuất là mặt hàng phức tạp, phải điều động từ xa ra cảng và phải tái chế biến lại trước khi giao, nếu thời điểm giao hàng vào mùa ẩm ướt thì số ngày chuẩn bi hàng phải nhiều, ngược lại nếu hàng xuất là hàng sản phẩm công nghiệp thì không cần thiết đòi hỏi số ngày chuẩn bị qúa lớn. + Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý. Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ nơi giao hàng đến cơ quan của người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ, số ngày vận chuyển chứng từ đến ngân hàng mở L/C (hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ chứng từ tại ngân hàng thông báo và 7 ngày làm việc để ngân hàng thể hiện ý chí chấp nhận hay từ chối trả tiền. - Thời hạn trả tiền của L/C (date of payment) là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền sau. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào qui định của hợp đồng. Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được qui định ở yêu cầu ký phát hối phiếu. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C, nếu như trả tiền ngay hoặc có thể là nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C, nếu như trả tiền có ký hạn. Song, điều quan trọng là, những hối phiếu có kỳ hạn phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C. - Thời hạn giao hàng (date of delivery) cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán qui định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. e/ Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu,... cũng được ghi trong thư tín dụng. g/ Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá như điều kiện cơ sở giao hàng (FOB, CIF, CFR), nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận chuyển và cách giao hàng,... cũng được ghi vào thư tín dụng. h/ Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình là một nội dung then chốt của thư tín dụng, bởi vì bộ chứng từ qui định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều qui định của thư tín dụng, do vậy ngân hàng mở L/C phải dựa vào đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu bộ chứng từ phù hợp với những điều qui định trong thư tín dụng. Về chứng từ, ngân hàng mở L/C thường yêu cầu người xuất khẩu thoả mãn những điều sau đây: - Các loại chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình. Các loại chứng từ nhiều hay ít phụ thuộc vào yêu cầu của người nhập khẩu, mà các yêu cầu đó thường được thỏa thuận trong hợp đồng. - Số lượng chứng từ của mỗi loại. - Yêu cầu về việc ký phát từng loại chứng từ đó như thế nào. i/ Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C là nội dung cuối cùng của thư tín dụng và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C. Đây là sự cam kết thực sự (engagement); là sự cam kết có điều kiện (conditional engagement); là sự cam kết dự phòng (bảo lưu) tức là ngân hàng chỉ cam kết tôn trọng các hối phiếu xuất trình đúng hạn và phù hợp với điều kiện của L/C, còn việc xem xét b._. học nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, giảm chi phí lao động, tăng sức cạnh tranh, phục vụ tốt yêu cầu quản lí và quan trọng hơn cả là đảm bảo tính an toàn, bảo mật trong thông tin ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho công tác điều hành. 3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN. 3.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán Việc nâng cao năng lực của cán bộ không chỉ là nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ mà cần phải thực hiện đổi mới một cách triệt để về nhận thức của cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế về tác phong làm việc, phong cách giao tiếp phục vụ khách hàng. Người cán bộ ngân hàng không chỉ giỏi về nghiệp vụ mà còn phải là người nhiệt tình, niềm nở, giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, không gây phiền hà cho khách hàng, sẵn sàng hướng dẫn và giúp khách hàng làm thủ tục một cách nhanh gọn, tư vấn cho khách hàng thực hiện hoạt động của mình an toàn và hiệu quả nhất. Để thực hiện giải pháp này, Sở nên thực hiện: Tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn hạn để đào tạo chuyên sâu về chuyên môn thanh toán quốc tế, trang bị các kiến thức về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới, triển vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam, luật lệ, tập quán thương mại quốc tế và phổ biến các kĩ thuật thanh toán mới được áp dụng trên thế giới... Đặc biệt trong những lớp học này có thể mời các chuyên gia nước ngoài về thanh toán quốc tế gỉang dạy để các cán bộ và nhân viên ngân hàng trong các bộ phận liên quan đến thanh toán quốc tế có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ. Cử cán bộ tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về thanh toán quốc tế trong nước cũng như nước ngoài để tiếp cận với những kiến thức thanh toán quốc tế hiện đại Cử cán bộ đi du học nước ngoài chuyên về lĩnh vực thanh toán quốc tế, tìm hiểu những thông tin về thanh toán quốc tế mà trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay đang được sử dụng và trong tương lai gần sẽ áp dụng tại các nước công nghiệp phát triển. Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các thanh toán viên, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích họ nêu ra các sáng kiến mới, thường xuyên phân tích các nhược điểm, các vụ việc làm khách hàng phàn nàn, từ đó tìm ra cách khắc phục. 3.2.2.Thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng: Trước hết Sở nên đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: trên sóng phát thanh, truyền hình hay qua báo chí của trung ương cũng như các báo địa phương hay trên mạng internet bằng việc xây dựng các Website nhằm giới thiệu các sản phẩm của Sở như: các hình thức huy động vốn, các loại hình cho vay, các hình thức dịch vụ bằng ngoại tệ, các phương thức thanh toán trong nước cũng như quốc tế, cũng như qui trình thực hiện các sản phẩm này..., nhằm thu hút khách hàng. Ngoài việc đẩy mạnh tiếp thị quảng cáo thì việc đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh, lịch sự như trên vừa trình bày cũng là điều rất cần thiết. ấn tượng tốt đẹp khi tới ngân hàng được thể hiện qua phong cách, thái độ phục vụ văn minh, lịch sự của các cán bộ ngân hàng. Đồng thời đây cũng chính là nghệ thuật lôi kéo khách hàng và giữ khách hàng có hiệu quả nhất. Trên thực tế cho thấy sự quyết định lựa chọn của khách hàng trong giao dịch nhiều khi không phải do quảng cáo đem lại mà chính là do phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ tận tình, lịch thiệp của nhân viên ngân hàng. Sở cũng nên thực hiện chính sách chủ động tìm kiếm khách hàng, chẳng hạn như xây dựng bộ phận chuyên làm công tác tiếp thị, quảng cáo hoặc từng phòng nghiệp vụ có thể phân chia khu vực hoạt động của Sở thành các khu vực nhỏ hơn và khuyến khích các cán bộ của phòng tích cực tìm kiếm khách hàng trong khu vực mà mình phụ trách. Việc tìm kiếm khách hàng ở đây chính là việc chủ động tiếp xúc với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu cụ thể của họ, như: các nhu cầu về tăng vòng quay bán hàng, giảm chậm trễ trong các khâu thanh toán tiền hàng, giảm chi phí trong các giao dịch thanh toán, loại bỏ rủi ro trong khâu thu tiền và giao hàng v.v... Việc tiến hành các biện nhằm thu hút khách hàng sẽ không mang lại hiệu quả nếu như Sở không tiếp tục chăm sóc, củng cố mối quan hệ với khách hàng. Do đó, Sở cũng cần nắm bắt được các thông tin từ phía khách hàng như: tình hình tài chính, năng lực sản xuất, kinh doanh, sản phẩm và khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp v.v... Việc chủ động nắm bắt thông tin từ phía khách hàng sẽ tạo thuận lợi cho Sở trong việc phân loại khách hàng, từ đó xây dựng các chính sách khách hàng phù hợp với từng nhóm khách hàng, thực hiện lới lỏng các qui định trong qui trình nghiệp vụ mà vẫn đảm bảo an toàn trong thanh toán và tạo được sự thông thoáng, hấp dẫn khách hàng. Với những khách hàng mới, để tạo ấn tượng tốt đối với họ Sở có thể xem xét giảm phí giao dịch cho họ, hoặc các biện pháp khác như thăm hỏi, hay quà tặng là một ví dụ. Với những khách hàng truyền thống, những khách hàng có khối lượng giao dịch lớn, số lần giao dịch nhiều, hay những khách hàng tuy nhỏ nhưng có tình hình tài chính vững vàng Sở có thể xem sét giảm tỷ lệ kí quĩ mở L/C, rút ngắn thời gian thẩm định khả năng thanh toán của họ, dành sự ưu đãi về giá mua bán ngoại tệ phục vụ cho thanh toán quốc tế, ưu đãi về lãi suất tiền gửi áp dụng với các khoản kí quĩ có thời hạn dài hoặc thực hiện chính sách khuyến khích khác như: thưởng, v.v... Do chủ động nắm bắt thông tin từ phía khách hàng sẽ tạo thuận lợi hơn cho cả ngân hàng và khách hàng trong việc vay vốn để sản xuất hàng hoá xuất khẩu như có những ưu đãi về vốn vay và lãi suất vay, ưu đãi trong việc thế chấp tài sản, tiến hành trả tiền trước để doanh nghiệp có thể quay vòng vốn nhanh thông qua nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hay cung cấp những thông tin về thị trường, về các đối tác nước ngoài v.v..., cung cấp thông tin phục vụ cho doanh nghiệp nhập khẩu như những thông tin về đối thủ cạnh tranh, về chất lượng sản phẩm và khả năng tiêu thụ sản phẩm v.v... Sở cũng nên xây dựng ngân hàng dữ liệu lưu trữ các thông tin về khách hàng tạo thuận lợi trong việc tìm kiếm thông tin về khách hàng khi cần thiết được nhanh chóng, chính xác. Sở cũng tổ chức Hội nghị khách hàng, nếu không có điều kiện để mời tất cả các khách hàng thì nên tập trung vào các khách hàng truyền thống, các khách hàng có khối lượng giao dịch lớn, thường xuyên, để trao đổi tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nắm bắt được nhu cầu và nguyện vọng của họ. Hội nghị khách hàng cũng là một dịp để ngân hàng khuếch chương thanh thế, thu hút thêm khách hàng mới. 3.2.3. Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng đối với hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ: Như đã trình bày ở chương II, một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế, tồn tại trong việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ là sự thiếu hiểu biết của các doanh nghiệp về phương thức này. Vì vậy, trong thời gian tới Sở nên đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn khách hàng và việc tư vấn này phải được thể hiện bằng văn bản vì làm như vậy sẽ đảm bảo tính pháp lí trong giao dịch giữa các thanh toán viên của Sở với khách hàng, tăng cường độ tin cậy của khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn. *Đối với đơn vị nhập khẩu: Người nhập khẩu gây ra rủi ro cho ngân hàng mở khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để có thể đem lại lợi ích chính đáng cho nhà xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng, các cán bộ cần tư vấn cho những vấn đề như: -Tư vấn cho đơn vị nhập khẩu nên mở loại L/C nào: Đối với những khách hàng là đơn vị nhập khẩu máy móc thiết bị giá trị lớn mà phía đối tác nước ngoài yêu cầu có tiền đặt cọc, thanh toán viên có thể khuyên họ sử dụng L/C dự phòng vì đây là hình thức mà người nhập khẩu được đảm bảo sẽ nhận được sản phẩm cung ứng từ nhà xuất khẩu, đồng thời người nhập khẩu còn được bồi hoàn toàn bộ số tiền đặt cọc cũng như chi phí liên quan nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu. Đối với đơn vị nhập khẩu hàng hoá với khối lượng lớn, giao hàng nhiều lần nên tư vấn cho họ sử dụng L/C tuần hoàn. Đây là phương thức giúp cho khách hàng trách được tình trạng ứ đọng vốn và giảm được chi phí cũng như các thủ tục có liên quan. Đối với khách hàng nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công sau đó xuất khẩu sang nước cung cấp nguyên liệu, thanh toán viên có thể tư vấn cho họ sử dụng loại L/C đối ứng, hình thức đảm bảo nhất cho các đơn vị gia công. Loại L/C này đảm bảo đồng thời thanh toán cho người xuất khẩu giá trị nguyên liệu nhập khẩu cũng như sản phẩm hàng hoá được sản xuất từ chính nguyên liệu đó. Trong trường hợp này việc sử dụng L/C đối ứng đem lại ưu việt hơn hẳn sử dụng L/C không huỷ ngang bởi lẽ sau khi nhập và thanh toán giá trị nguyên liệu, các sản phẩm sản xuất ra không được phía đối tác đồng ý nhập lại và người gia công sẽ gặp phải rủi ro lớn do hàng hoá mang tính đặc thù khó có thể bán được v.v... -Tư vấn cho đơn vị trong việc đưa các điều khoản vào L/C. Không nên đưa quá nhiều điều khoản vào vì dễ dẫn đến sai sót. -Tư vấn cho đơn vị trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, khi sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình v.v... *Đối với các đơn vị xuất khẩu: Các đơn vị xuất khẩu thường gây rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh rủi ro đó ngân hàng có thể tư vấn cho những vấn đề như: Tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất. Hiện nay, loại L/C không huỷ ngang, có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất cho người bán. Tuy nhiên không nhất thiết trường hợp nào cũng phải mở L/C có xác nhận vì phí xác nhận cao và bên nhập khẩu phải kí quĩ tại ngân hàng mở, nếu có khó khăn đối với nhà nhập khẩu họ có thể không thực hiện hợp đồng thương mại. Cán bộ ngân hàng cần phải giúp cho đơn vị xuất khẩu tìm hiểu kĩ các điều khoản và điều kiện trong L/C, tránh những sai sót về chứng từ để có thể làm cho ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán. Các thanh toán viên nên tư vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là cách thức có lợi hơn cả vì tiền được thu nhanh hơn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn. Tư vấn cho đơn vị trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Tư vấn cho đơn vị các điều kiện bất lợi của L/C như thời hạn giao hàng muộn nhất, thời hạn hiệu lực của L/C...Khi thông báo cho doanh nghiệp xuất khẩu, Sở cũng đồng thời tư vấn cho doanh nghiệp tiến hàng kiểm tra chứng từ tín dụng để đơn vị có thể chấp nhận những điều khoản L/C có lợi nhất cho mình. Các cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót, xem xét kĩ những lí do từ chối mà ngân hàng mở đưa ra có hợp lí không. Tư vấn cho doanh nghiệp trong trường hợp giải quyết hàng hoá khi bị từ chối, hàng hoá đã chuyển ra nước ngoài, vì vậy doanh nghiệp phải có các biện pháp khẩn cấp để hạn chế tối đa thiệt hại. Trong trường đó, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp liên hệ với ngân hàng đại lí nước ngoài nhờ họ giữ hộ hàng hoá hoặc tìm cách tiêu thụ hộ. Ngoài ra, ngân hàng còn nên tư vấn cho doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp giữa họ với bên mua nước ngoài. 3.2.4. Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh: Hiểu biết đối thủ cạnh tranh là điều kiện quan trọng để hoạch định chính sách đối phó có hiệu quả, vì thế nên có các biện pháp phân tích đối thủ cạnh tranh, tránh việc thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách tự phát. Bằng việc thường xuyên theo dõi và nắm bắt các thông tin về đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thị trường khu vực và thị trường quốc tế để có thể biết được những ngân hàng, những tổ chức tài chính nào mới ra đời, từ đó nghiên cứu phân tích chính sách kinh doanh, thực trạng tình hình khả năng tài chính của họ, tìm ra ưu nhược điểm của họ, nhằm có nhận định hay đánh giá kịp thời về đối thủ cạnh tranh đó. Việc thường xuyên có những phân tích đối thủ cạnh tranh sẽ giúp ngân hàng biết được những sản phẩm, những chính sách ưu đãi để thu hút khách hàng của họ, học hỏi được kinh nghiệm cũng như cách thức tiến hành công việc của họ..., từ đó đề ra những chính sách, chiến lược phát triển, có kế hoạch hoạt động kinh doanh phù hợp. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với NHCTVN. 3.3.1.1.Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ. Việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cần theo hướng làm sao cho quy trình, thủ tục thực hiện quá trình thanh toán được đơn giản, nhanh gọn, chính xác, chặt chẽ và có tính hấp dẫn khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ làm công tác thanh toán, tăng khả năng cạnh tranh của các chi nhánh; đơn giản các khâu nghiệp vụ, chỉ tiến hành khi thật cần thiết, giảm tối đa các yêu cầu chứng từ, giấy tờ con dấu... đối với khách hàng, bởi càng nhiều giấy tờ việc kiểm tra càng mất thời gian. Đồng thời giảm được chi phí cho doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh được với các ngân hàng thương mại khác. Do vậy, NHCTVN nên qui định lại, cho phép bỏ thủ tục doanh nghiệp phải làm đơn xin mua ngoại tệ khi có hợp đồng ngoại cần thanh toán mà chỉ cần viết uỷ nhiệm chi là đủ. Việc chiết khấu chứng từ thực ra là một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng, giúp khách hàng nhanh chóng thu được tiền bán hàng, tránh đọng vốn trong khâu lưu thông. Và trong nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hàng xuất nên bao gồm cả chiết khấu truy đòi và chiết khâú miễn truy đòi. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay việc không thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hoặc thiếu hình thức chiết khấu miễn truy đòi có thể tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại khác kéo mất khách hàng. Và rủi ro với ngân hàng lúc này không chỉ là bộ chứng từ có được thanh toán hay không mà nguy hiểm hơn là đã để mất khách hàng. Để thực hiện tốt nghiệp vụ này, ngoài việc kiểm tra bộ chứng từ có hoàn hảo không, các chi nhánh cần phải chuẩn bị đầy đủ những thông tin về khách hàng như: hoạt động kinh doanh có tốt không, có khả năng hoàn trả tiền mà chi nhánh đã thanh toán khi ngân hàng mở hoặc ngân hàng xác nhận từ chối thanh toán,... Do vạy việc các chi nhánh tăng cường chính sách chăm sóc khách hàng như đã trình bày ở trên là ráat cần thiết. Bên cạnh đó, các chi nhánh cũng cần thiết lập hệ thống thông tin giữa các ngân hàng trong và ngoài hệ thống về tình hình tài chính, uy tín của doanh nghiệp, phát huy hiệu quả bộ máy thông tin giữa các ngân hàng đại lí để có những thông tin chính xác về ngân hàng mở L/C và nhà nhập khẩu. 3.3.1.2. Đổi mới công nghệ ngân hàng: Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống NHCTVN là một đòi hỏi bức thiết. Công nghệ thanh toán là yếu tố quan trọng đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao chất lượng thanh toán, giảm chi phí và góp phần vào việc xây dựng một hệ thống thanh toán tiên tiến, hội nập với cộng đồng ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, phát triển thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và thanh toán quốc tế nói chung không thể không gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới kiến nghị NHCTVN : Xây dựng các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng cho các ứng dụng và dịch vụ ngân hàng, trong đó có thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ, gồm: Phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu. Xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lí thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng chính xác. Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản trị điều hành: quản lí tài chính, quản lí rủi ro, quản lí quan hệ khách hàng, quản lí lợi nhuận, quản lí tài sản và nguồn vốn, quản lí nguồn nhân lực liên quan đến công tác thanh toán quốc tế. Chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán quốc tế. Các chương trình này phải tạo ra các mẫu điện phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và với thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước và các ngân hàng đại lí trên toàn thế giới. Đồng thời với việc chỉnh sửa, xây dựng các chương trình phần mềm là tăng cường đội ngũ làm công tác tin học nhằm thu hút các chuyên gia tin học giỏi về làm việc cho ngân hàng. Nhanh chóng triển khai dự án xây dựng ngân hàng điện tử, nối mạng giao dịch với các khách hàng, trước mắt là với các khách hàng lớn. 3.3.1.3. Tăng cường quan hệ đại lí quốc tế nhằm mở rộng mạng lưới thanh toán. Mở rộng quan hệ đại lí với các ngân hàng nước ngoài kể cả về số lượng và chất lượng cũng là một đòi hỏi rất quan trọng. Việc xây dựng mối quan hệ với nhiều ngân hàng sẽ giúp NHCTVN có thể tranh thủ được nguồn vốn, kĩ thuật và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài đồng thời đẩy nhanh tốc độ giao dịch. Xây dựng quan hệ đại lí phải với phương châm uy tín, hiệu quả, đảm bảo đôi bên cùng có lợi để duy trì mối quan hệ lâu dài, tránh tình trạng chỉ chạy theo số lượng mà không chú ý tới chất lượng, bởi có nhiều ngân hàng chưa thật sự có thiện chí trong việc hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, mà họ thiên về bảo vệ quyền lợi của ngân hàng nước họ nên có trường hợp họ cố tình bắt lỗi chứng từ, có thể những trường hợp như vậy chưa xảy ra với NHCTVN nhưng theo em đó là một quan điểm rất đúng. Hiện nay, NHCTVN có quan hệ với khoảng 600 ngân hàng ở hơn 50 nước trên thế giới, tuy nhiên ở nhiều thị trường giàu tiềm năng mạng lưới ngân hàng có quan hệ đại lí rất mỏng nên các giao dịch diễn ra khó khăn và thường phải thông qua ngân hàng trung gian nên tốn kém nhiều chi phí. Trong thời gian tới NHCTVN cần chú trọng mở rộng và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng, đặc biệt là ở nhũng thị trường xuất nhập khẩu quan trọng của Việt Nam như: thị trường Nhật Bản, EU, Liên bang Nga, Châu Mĩ bao gồm khối NAFTA ở Bắc Mĩ và khối MERCOSUR ơ Nam Mĩ, Trung Đông, Trung Quốc và thị trường ASEAN. 3.3.1.4. Có chính sách khuyến khích kịp thời. NHCTVN cần điều chỉnh các chính sách tiền lương, khen thưởng, trợ cấp hợp lí nhằm khuyến khích động viên những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác nhằm khích lệ cán bộ cống hiến vì sự phát triển lớn mạnh của ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị đối với Nhà nước: 3.3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng: Nhà nước đóng vai trò quản lí vĩ mô trong nền kinh tế, các chính sách kinh tế của nhà nước tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, có nhiều văn bản phải sửa đổi bổ sung nhiều lần, không có tính ổn định nên việc thực thi và áp dụng trong thực tế rất khó. Hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành từ năm 1990, song tới nay có nhiều điểm không phù hợp, có nhiều vấn đề mới nảy sinh chưa được qui định cụ thể. Chính vì vậy luật ngân hàng đã được ban hành năm 1998 phần nào giải quyết được những vấn đè trên. Nhưng Nhà nước cần phải ban hành những văn bản qui định về nghiệp vụ thanh toán quốc tế để các ngân hàng thương mại có cơ sở để thực hiện. Từ khi UCP 500 có hiệu lực tại Việt Nam, tất cả các ngân hàng thương mại của Việt Nam đều áp dụng vào giao dịch thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nhằm hoà nhập vào mạng lưới thanh toán quốc tế. Về lí thuyết, việc áp dụng UCP 500 ở nước ta là tuyệt đối, không chịu bất kì một sự điều chỉnh nào, nhưng những văn bản luật hoặc văn bản dưới luật qui định hướng dẫn việc thực hiện UCP 500 là điều rất cần thiết. Thực tế cho thấy tất cả các nước có hoạt động thanh toán quốc tế và đã áp dụng UCP 500 họ đều có những văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện UCP 500. Vì vậy đề nghị Nhà nước trong thời gian tới sớm xây dựng những văn bản pháp luật hướng dẫn để các ngân hàng có thể ổn định, phát triển, và nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời còn là cơ sở để giải quyết những tranh chấp xảy ra. Ngoài việc cần thiết xây dựng các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện UCP 500, Nhà nước cũng cần xây dựng các văn bản pháp luật phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế như: luật về séc, luật về hối phiếu,... hay như các văn bản luật để giải quyết các tranh chấp về thư tín dụng. Xét về bản chất thư tín dụng ra đời trên cơ sở hợp đồng thương mại nhưng khi lập song nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại. Khi có tranh chấp thương mại xảy ra, quan hệ giữa người mua và người bán được điều chỉnh bởi luật kinh tế nhưng còn tranh chấp thư tín dụng, thư tín dụng có phải là hợp đồng kinh tế hay không? Đây là vấn đề cần quan tâm khi xây dựng, bổ sung. 3.3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lí xuất nhập khẩu. Để đẩy mạnh xuất khẩu hoàn thiện nhập khẩu trong điều kiện mở cửa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, tạo điều kiện khách quan thuận cho việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức đầu tư chứng từ nói riêng, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lí hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng như: Hoàn thiện chức năng quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích và quản lí tốt hoạt động xuất nhập khẩu. Muốn vậy phải giảm dần số lượng mặt hàng theo danh mục quản lí chuyên ngành và phải thông báo rõ ràng mặt hàng nào thuộc bộ, ngành nào quản lí. Tăng đối tượng được hưởng và số tiền thưởng xuất khẩu để lôi cuốn các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động tích cực trong định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Thường xuyên tổ chức các cuộc tiếp xúc đối thoại trực tiếp giữa Chính phủ, các Bộ và các doanh nghiệp nhằm kịp thời giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước sớm xây dựng các chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh với nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng nhóm nước. Nhà nước cần có những thông tin kịp thời, chính xác về thị trường thế giới. Nếu thiếu thông tin gía cả, nhu cầu thị trường các doanh nghiệp sẽ không dự đoán chính xác xu hướng thị trường, kinh doanh có thể thua lỗ.... Sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp (trước hết là liên quan đến ngoại thương) theo hướng đầy đủ, đồng bộ, ổn định và nhất quán. Rà soát và xem xét lại các văn bản pháp luật, tránh chồng chéo. Kiện toàn bộ máy quản lí xuất nhập khẩu từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm đội ngũ quản lí nhà nước về xuất nhập khẩu, qui định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm cho từng loại cán bộ quản lí, có hình thức thưởng phạt thích đáng để góp phần xoá bỏ những tiêu cực trong hoạt động xuất nhập khẩu. Điều chỉnh cơ chế quản lí xuất nhập khẩu thông qua việc áp dụng đa dạng các công cụ và biện pháp trong ngoại thương theo hướng ngày càng lới lỏng, mềm dẻo và tạo điều kiện thúc đẩy kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. Song song với việc đa dạng hoá thị trường, sản phẩm, và đối tác, cần phải đa dạng hoá các công cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị nguyên, vật liệu... để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu cũng phải được coi trọng như: ưu tiên lãi suất theo cơ chế tỷ giá, trợ cấp trực tiếp, miễn thuế các chi phí đầu vào, giá cả các dịch vụ công cộng, cước phí vận tải, bảo hiểm, lãi suất ngân hàng, giá điện, nước, đội ngũ cán bộ, chuyên gia kĩ thuật phục vụ cho việc chuyển giao công nghệ. 3.3.2.3. Các kiến nghị khác Chính phủ hoặc các bộ ngành chủ quản cũng cần tăng cường đào tạo kiến thức về thanh toán quốc tế cho cán bộ của các đơn vị hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như tổ chức các lớp học tập trung hoặc phổ biến kiến thức thông qua các phương tiện khác như trên sóng đài truyền hình, trên mạng Internet. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các đơn vị sản xuất hợp tác với các viện nghiên cứu để có thể đưa các công trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hỗ trợ cán bộ kĩ thuật kịp thời cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại hoá dây truyền công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Kết luận Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới đang đặt ra những thách thức và cả những vận hội mới cho các quốc gia trong đó có Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế xã hội của mình. Do vậy con đường duy nhất để Việt Nam phát triển là phải tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với tư cách là trung gian tài chính bằng việc cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế ngày càng hoàn hảo sẽ góp phần đáng kể vào việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của nước ta đi đến thành công. Để đáp ứng được đòi hỏi đó của nền kinh tế, trong những năm qua các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I NHCTVN nói riêng đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm ngày càng hoàn thiện qui trình nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên trong những năm qua vẫn còn tồn tại những vướng mắc làm cản trở sự phát triển sự phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch I NHCTVN. Với chuyên đề “Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN” em đã tập trung phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở cùng với lí luận và phương hướng hoạt động của Sở và của NHCTVN trong những năm tới để từ đó đề ra những giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Trong quá trình nghiên cứu do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị tại phòng KDĐN Sở giao dịch I NHCTVN và các bạn nhằm bổ sung hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình. Tài liệu tham khảo Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế- Lê Văn Tề- Hồ Chí Minh- 1994. Nghiệp vụ hối đoái và thanh toán quốc tế – Lê Văn Tề – NXB: Thống kê - 1999. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ- Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân- NXB: Thống Kê- 2000. Thanh toán và tín dụng quốc tế- Hà Nội- Trường cán bộ cao cấp ngân hàng- 1993. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương- Đinh Xuân Trình- Trường Đại Học Ngoại Thương- 1998. Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế của NHCTVN. Các báo cáo hoạt động kinh doanh của phòng KDĐN và của Sở giao dịch I NHCTVN. Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, xuất bản năm 1993 của ICC. Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, Tạp chí Công nghiệp, Tạp chí Con số và Sự kiện các năm 1999, 2000, 2001. Mục lục Chương I: Một số vấn đề lí luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. 1.1.Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế 3 1.1.1.Khái niệm 3 1.1.2.Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng 5 1.1.3.Các phương tiện thanh toán quốc tế phổ biến 6 1.1.3.1.Hối phiếu 6 1.1.3.2.Séc 16 1.1.4.Điều kiện trong thanh toán quốc tế 19 1.1.4.1.Điều kiện về tiền tệ 19 1.1.4.2.Điều kiện địa điểm thanh toán 22 1.1.4.3.Điều kiện thời gian thanh toán 22 1.1.4.4.Điều kiện phương thức thanh toán 23 a)Phương thức chuyển tiền 23 b)Phương thức ghi sổ 24 c)Phương thức nhờ thu 24 d)Phương thức tín dụng chứng từ 24 1.2.Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 25 1.2.1.Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ 25 1.2.2.Trình tự chung tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ 26 1.2.3.Thư tín dụng thương mại là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ 27 1.2.3.1.Khái niệm 27 1.2.3.2.Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại 27 1.2.3.3.Phân loại thư tín dụng thương mại 34 chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN 2.1.Khái quát về Sở giao dịch I NHCTVN 38 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển 38 2.1.2.Cơ cấu tổ chức 39 2.1.3.Kết quả một số mặt hoạt động của Sở giao dịch I trong một vài năm qua 43 2.1.3.1.Huy động vốn 43 2.1.3.2.Đầu tư tín dụng 44 2.1.3.3.Hoạt động kinh doanh đối ngoại 45 2.1.3.4.Công tác kế toán – thông tin điện toán 45 2.1.3.5.Kết quả kinh doanh 46 2.2.Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN 46 2.2.1.Quá trình tiến hành nghiệp vụ 46 2.2.1.1.Quá trình thanh toán L/C nhập khẩu 46 2.2.1.2. Quá trình thanh toán L/C xuất khẩu 52 2.2.2.Đánh giá kết quả đạt được trong thanh toán L/C phục vụ cho xuất nhập khẩu hàng hoá 57 2.2.2.1.Nhận xét chung 57 2.2.2.2.Tác động của hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đối với Sở giao dịch I NHCTVN 61 2.2.3.Những tồn tại và nguyên nhân 63 - Nguyên nhân chủ quan 63 - Nguyên nhân khách quan 65 +Nguyên nhân từ phía khách hàng 65 +Nguyên nhân từ phía Chính Phủ 66 +Các nguyên nhân khác 67 Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch INHCTVN 3.1.Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của NHCTVN 69 3.2.Giải pháp 70 3.2.1.Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán 70 3.2.2.Thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng 71 3.2.3.Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng 73 3.2.4.Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh 75 3.3.Kiến nghị 76 3.3.1.Kiến nghị đối với NHCTVN 76 3.3.1.1.Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ 76 3.3.1.2.Đổi mới công nghệ ngân hàng 77 3.3.1.3.Tăng cường quan hệ đại lí quốc tế 78 3.3.1.4.Có chính sách khuyến khích kịp thời 78 3.3.2.Kiến nghị đối vớ Nhà Nước 79 3.3.2.1.Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng 79 3.3.2.2.Hoàn thiện cơ chế quản lí xuất nhập khẩu ..........................80 3.3.2.3.Kiến nghị khác 81 Kết luận Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0118.doc
Tài liệu liên quan