Một số giải pháp nhằm thu hút & sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn huyện

Lời mở đầu Trong những năm qua, cùng với sự đi lên của nền kinh tế đất nước, kinh tế của huyện Văn Bàn cũng đã có những chuyển biến rõ nét điều này thể hiện hiện rõ nhất trong tốc độ gia tăng GDP của huyện. Trong giai đoạn 1996 - 2000 tốc độ gia tăng GDP bình quân đạt 7.4% khiến cho chỉ tiêu GDP bình quân đầu trong giai đoạn đã tăng từ 1435 nghìn đồng lên 1700 nghìn đồng, đời sống nhân dân trong huyện đã có sự thay đổi đáng kể. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của Văn bàn

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thu hút & sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn huyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của huyện trong việc gia tăng đầu tư đã đem lại cho nền kinh tế huyện những kết quả đáng khích lệ. Song bên cạnh đó hoạt động đầu tư Văn bàn trong những năm qua vẫn tồn tại nhiều khó khăn, chẳng hạn như đầu tư toàn xã hội còn thấp hiệu quả đầu tư một số ngành chưa cao. Vì vậy, làm thế nào để thu hút thêm và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trên địa bàn trong những năm tới là một vấn đề cần được quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đề cập đến vấn đề này. Với lý do đó, bản luận văn này được hoàn thành với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề nêu trên. Song hoạt động đầu tư trên giác độ vĩ mô bao gồm rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu, chẳng hạn công tác kế hoạch hoá hoạt động đầu tư, thẩm định dự án đầu tư ... Nhưng trong khuôn khổ có hạn của một luận văn tốt nghiệp, cũng như những hạn chế trong việc thu thập các tài liệu có liên quan, nên luận văn này chỉ dừng lại mức độ khảo sát và đánh giá hoạt động đầu tư của huyện trên một số khía cạnh cụ thể sau: - Tổng đầu tư toàn xã hội trên địa bàn huyện. - Cơ cấu đầu tư theo nguồn. - Cơ cấu đầu tư theo ngành - Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ Về mặt thời gian, luận văn này chủ yếu đề cập đến hoạt động đầu tư của huyện trong giai đoạn 1996 – 2000, là giai đoạn có nhiều chuyển biến rõ nét và cập nhật nhất, các cứ liệu thuộc khoảng thời gian trước 1996 được dùng cho mục đích tham khảo so sánh. Với mục đích trước tiên của luận là khảo sát và đánh giá một số mặt của hoạt động đầu tư trên địa bàn huyện Văn bàn. Từ đó bản chuyên đề đưa ra “một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn huyện.” Với mục đích đó kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu và 3 chương sau: Chương I: Những vấn đề lý luận chung Chương II: Thực trạng đầu tư ở huyện vùng cao Văn bàn trong những năm qua (1996- 2000). Chương III: Kết luận và một số giải pháp. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với cô Nguyễn Thị Thu Hà, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn này. Qua đây, em cũng cảm ơn các cán bộ – Phòng quản lý dự án huyện Văn bàn tỉnh Lào cai , những người đã cung cấp tài liệu và những ý kiến quý báu cho bản luận văn này. Do những hạn chế về mặt nhận thức, cũng như về thời gian, bản luận văn này chắc không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô chỉ bảo để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Hà nội, Tháng 5 - 2001. Nguyễn Thị Nga A Chương 1 Những vấn đề lí luận chung I. Lí luận chung về đầu tư. 1. Khái niệm và phân loại đầi tư. Khái niệm. Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với sự “bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra sự hy sinh cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động của cải vật chất, trí tuệ...) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tất cả những hoạt động (như mua bán chứng khoán, mua hàng dự trữ, gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần của các cổ đông, chi phí đào tạo giáo viên, chi đào tạo sinh viên, chi tiền xây dựng nhà cửa ...) nhằm thu được lợi ích nào đó (về tài chính, cơ sở vật chất, trí tuệ ...) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị bỏ tiền ra thì các hoạt động này đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là lợi ích của nền kinh tế. Các hoạt động (mua cổ phiếu, gửi tiền tiết kiệm, mua hàng dự trữ ...) không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất trí tuệ ...) cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sở hữu, quyển sử dụng (cổ phiếu, tiền, hàng hoá...) từ người này sang người khác. Giá trị tăng thêm của người này là sự mất đi của người khác, còn tổng giá trị tài sản của toàn xã hội không thay đổi. Các hoạt bỏ tiền ra xây dựng kho chứa hàng, xây cầu cống, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại, gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua phân phối lại, chuyển giao tài sản gữa các tổ chức, cá nhân không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Phân loại hoạt động đầu tư. Trong công tác quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng: a. Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: Bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư cho các đối tượng tài sản vật chất như nhà cửa, máy móc thiết bị ...), cho các đối tượng tài chính (đầu tư tài chính như mua cổ phiếu ...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tụê như đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học, y tế ...). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư vật chất là điều kiện tiên quyết cơ bản làm tăng tiềm lực cho nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ các tầng lớp dân cư cho đầu tư vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao. b. Theo cơ cấu tái sản suất: Có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư theo chiều rộng vốn kê đọng lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chièu sâu thì khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều sâu. c. Theo phân cấp quản lý điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 phân thành 3 nhóm A,B,C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do thủ tướng chính phủ quyết định, nhóm B và C do bộ trưởng thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định đầu tư. d. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể phân chia thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng...Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hộ lẫn nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đấn lượt mình lại tạo điều kiện cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật và các hoạt đầu tư khác. e. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, thì đầu tư bao gồm đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành. Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định, còn đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lơu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cở sở hiện có, duy trì sự hoạt động của các cở vật chất kỹ thuật không thuộc doanh nghiệp. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng, không có đầu tư vận hành thì các kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành cũng không để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài hạn, đặc điểm kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi vốn lớn và thời gian thu hồi vốn lâu ( nếu có thể thu hồi ). Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ truật không quá phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thu hồi vốn nhanh sau khi đua các kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động. f. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội, có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu vốn ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do thời gian ngắn, tính bất định không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5, 10 ,20 hoặc lâu hơn) vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, độ mạo hiểm cao vì tính kỹ thuật của hoạt đầu tư phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai, không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được nhu cầu, giá cả đầu vào đầu ra, cơ chế chính sách, thiên tai...loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, xem xét các biện pháp xử lý, khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vố và có lãi khi các kết quả đầu tư đã hoạt động hết đời của mình. Trong thực tế người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên trên giác độ xã hội đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị gia tăng do hoạt động đầu tư đem lại thực chất là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua cơ chế chính sách của mình làm sao để hướng các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà cả lĩnh vực sản xuất theo các định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước. g. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư, có thể chia thành đầu tư ngắn hạn (đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn ( đầu tư sản xuất , đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng CSHT...). h. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. - Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý, thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc Chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc hoàn lại với lãi suất thấp cho các Chính phủ nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, tổ chức mua các chứng chỉ có giá như trái phiếu, cổ phiếu để hưởng lợi tức (gọi là đầu tư tài chính). -Đầu tư trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân thành hai loại: đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổ phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, đầu tư không làm tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sữ hữu các cổ phần của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển là loại đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (về cả chất và lượng). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích của nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ dó tạo nên một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, có nghĩa người có tiền không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại nà cả lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển. i. Theo nguồn vốn bao gồm: Vốn đầu tư trong nước ( tích luỹ từ ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). Vốn huy động từ nước ngoài ( vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp). Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn vcà vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế –xã hội của từng ngành, từng địa phương và của toàn bộ nền kinh tế. k. Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh và vùng kinh tế của đất nước). Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế –xã hội của địa phương. Ngoài ra, trong thực tế để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sữ hữu, theo quy mô và theo các tiêu thức khác nữa. Vai trò của đầu tư phát triển. Tất cả các lý thuyết từ trước tới nay, từ cổ điển đến hiện đại đều coi đầu tư là nhân tố quan trọng đề phát triển kinh tế là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư được xem xét trên hai góc độ nền kinh tế. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế: Đầu tư phát triển vừa trác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu. Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu toàn bộ nền kinh tế, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới thì đầu tư chiếm 24 – 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên Thế giới. Công thức tính tổng cầu của nền kinh tế mở: AD =C + I + G + ( Ex –Im ). Trong đó: AD: Tổng cầu I: Chi tiêu của doanh nghiệp C: Chi tiêu của hộ gia đình G: Chi tiêu của Chính phủ Ex –Im: Xuất khẩu ròng P (mức giá) Q (Sản lượng) P1 P2 Q1 Q2 AS AD2 AD1 Như vậy đầu tư của các doanh nghiệp và một phần chi tiêu của Chính phủ ( đầu tư Chính phủ) là một bộ phận trong tổng cầu nền kinh tế. Tuy nhiên sự tác động của đầu tư đến tổng cầu là trong ngắn hạn, trong thời gian thực hiện đầu tư , trong khi tổng cung chưa kịp thay đổi (các kết quả của đầu tư chưa phát huy tác dụng ). Hình 1. Đồ thị tổng cung - cầu Khi tổng cầu tăng thì giá và sản lượng cân bằng tăng lên, tuy nhiên việc tăng này chỉ trong ngắn hạn. Về tổng cung: P (mức giá) Q (Sản lượng) P1 P2 Q1 Q2 AD AS2 AS1 Khi các kết quả của đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng, các năng lực mới tăng thêm đi vào hoạt động thì tổng cung tăng, đặc biệt là tổng cung dài hạn. Hình 2. Đồ thị tổng cung –cầu Như vậy về dài hạn khi đầu tư tăng thì tổng cung tăng, sản lượng cân bằng tăng và giá giảm. Về dài hạn, giá sẽ ổn định, sản lượng cân bằng tăng khi tăng đầu tư . Việc tăng giảm đầu tư có ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Khi tăng đầu tư, sản lượng cân bằng tăng, tỷ lệ thất nghiệo giảm do có công ăn việc làm được tạo ra. Tuy nhiên khi tăng đầu tư cũng làm mức giá tăng, tốc độ lạm phát tăng ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế. Khi giảm đầu tư thì sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhưng giá ổn định. Như vậy, việc tăng giảm đầu tư đều có mặt lợi hại nhất định, do đó tuỳ thuộc vào điều kiện của nền kinh tế mà có những chính sách kinh tế thích hợp để điều tiết nền kinh tế thông qua tác động đến đầu tư. b. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Qua phân tích các nhà kinh tế học đã rút ra rằng giữa đầu tư và tăng trưởng có mối quan hệ tỷ lệ. Muốn giữ cho tăng trưởng ổn định ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư so với GDP phải đạt từ 15 –25% tuỳ vào hệ số ICOR của mỗi nước . Δ I Hệ số ICOR = Δ GDP Trong đó: Δ I: Mức tăng của vốn đầu tư Δ GDP: Mức tăng của GDP Hệ số ICOR phản ánh cứ tăng thêm một đồng vốn đầu tư thì sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng trong GDP. Nó phản ánh hiệu quả tăng thêm của vốn đầu tư. Trong công thức trên nếu ICOR không đổi, thì GDP tăng khi I tăng. Do đó đầu tư chính là chìa khoá cho sự tăng trưởng, là nhân tố làm tăng GDP. Như ta đã biết, hàm sản xuất là hàm của các biến số như lao động, vốn, công nghệ đất đai... mỗi sự thay đổi của các yếu tố này đều dẫn đến sự thay đổi trong GDP. ở các nước phát triển thì hệ số ICOR rất cao do họ thừa vốn, sử dụng công nghệ hiện đại, tay nghề lao động cao. Nhưng ở các nước kém và đang phát triển thì hệ số ICOR lại thấp do thiếu vốn, sử dụng công nghệ lạc hậu và nhiều lao động chân tay. Vì vậy nhu cầu đầu tư ở các nước phát triển là cao. Hệ số ICOR phụ thuộc vào trình độ quản lý đầu tư , trình độ phát triển kinh tế … do đó thay đổi hệ số ICOR không phải là dễ dàng. Kinh nghiệm của các nước trên Thế giới thì ICOR ở ngành mũi nhọn sử dụng nhiều công nghệ tiên tiến, lao động có chất xám thì đem lại hiệu quả cao. Còn trong nông nghiệp thì do hạn chế về đất đai, khả năng tăng trưởng của động thực vật và khả năng lao động nên hệ số có nhiều hạn chế so với các ngành khác. c. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mục tiêu cuối cùng của đầu tư là tạo ra hiệu quả cao, tăng trưởng kinh tế lớn do đó đầu tư phải tập trung vào những ngành có lợi suất đầu tư lớn. Kinh nghiệm của các nước trên Thế giới là muốn tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình 8- 10% thì cần đầu tư vào khu công nghiệp và dịch vụ. Đây là ngành có tốc độ tăng trưởng cao, nhờ sử dụng những tiềm năng về trí tuệ và công nghệ. Các nước phát triển trên Thế giới có tỷ trọng hai ngành này trong GDP rất cao, đối với các ngành này thì tốc độ tăng trưởng từ 15 –20% là không khó. Sở dĩ có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao như vậy vì hai ngành này có sử dụng một khối lượng vốn lớn, có thể nói là gần như không hạn chế, chính nhờ có khối lượng vốn đầu tư lớn nên có thể có được lao động có chất xám cao thông qua đào tạo, đồng thời cũng có công nghệ hiện đại thông qua nghiên cứu , chuyển giao..Các yếu tố này sẽ giúp cho sự phát triển được nhanh chóng. Đồng thời kết quả tạo ra ở những ngành này có xu hướng chứa nhiều chất xám, bí quyết công nghệ nên có giá trị lớn trong tiêu thụ, trao đổi. Trong khi đó ngành nông nghiệp, ngành truyền thống ở các nước kém và đang phát triển lại sử dụng nhiều lao động, công nghệ lạc hậu... nên tốc độ tăng trưởng chỉ có thể đạt ở mức 5 –6%. Do đó khi đầu tư phải chú trọng đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp lý thì mới tạo ra một kết quả như mong nuốn. d. Đầu tư tác động đến cơ cấu lãnh thổ. Đầu tư có thể giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa những vùng lãnh thổ, đặc biệt là giải quyết về cơ sở vật chất kỹ thuật, đời sống văn hoá xã hội của người dân. Việc đầu tư giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng thường được thực hiện bằng vốn đầu tư của nhà nước, thông qua các định hướng chính sách chung... nhằm đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, phát triển và khai thác tối đa những lợi thê so sánh, những tiềm năng sẵn có để đưa những vùng có tiềm năng phát triển tăng trưởng nhanh hơn và làm bàn đạp cho các vùng khác cùng phát triển. Do đó muốn tăng trưởng phải đầu tư vào những ngành mũi nhọn, với một cơ cấu lãnh thổ hợp lý, kết hợp với các chính sách hiệu quả về kinh tế nói chung và về đầu tư nói riêng thì sẽ tạo ra được một tốc đọ tăng trưởng như mong muốn. e. Đầu tư tăng cường khả năng công nghệ của đất nước. Công nghệ có thể được thông qua hai con đường chính là: Thứ nhất là tự bỏ chi phí để tự nghiên cứu, phát hiện ra công nghệ bằng khả năng của chính mình sau đó áp dụng vào các hoạt động kinh tế để thu hồi vốn đã bỏ ra nghiên cứu công nghệ và có lãi. Nhưng đề nghiên cứu ra công nghệ cần nhiều vốn đầu tư , lao động chất xám cao, máy móc hiện đại đồng thời thời gian đầu tư kéo dài và độ mạo hiểm cao khi nghiên cứu thất bại. Nên việc nghiên cứu thường do các nước phát triển mới có đầu tư thực hiện. Thứ hai là mua công nghệ trên thị trường Thế giới và nó sẽ nhanh chóng giúp cho có được công nghệ như mong muốn , nhưng công nghệ này thường không hiện đại, phải cạnh tranh và cũng khong đắt lắm. Đây là hình thức thích hợp với các nước đi sau, tuy nhiên phương pháop này cũng có những rủi ro nhất định. Khi mua phải công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường... Dù theo con đường nào đi nữa thì chỉ có đầu tư mới tăng cường khả năng công nghệ một cách thích hợp và hiệu quả. Tổ chức quản lý hoạt động đầu tư. Quản lý hoạt động đầu tư chính là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra ) bằng một hệ thống các biện pháp kinh tế – xã hội và tổ chức kỹ thuật , cùng các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui luật khách quan nói chung và các qui luật đặc thù của đầu tư nói riêng. Trong điều kiện hiện nay của Việt nam, nhà nước có vai trò quan trọng trong công tác quản lý hoạt động đầu tư , vì khối lượng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vẫn đang chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Song vai trò đó phải được thể hiện dựa trên các nguyên tắc, áp dụng các công cụ và nội dung quản lý cụ thể để đạt được mục tiêu đã đề ra trong công tác quản lý hoạt động đầu tư . 3.1. Các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư . - Quản lý đầu tư phải lấy mục tiêu chiến lược phát triển – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng thời kỳ làm mục đích, lấy mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. - Quản lý hoạt động đầu tư của nhà nước phải tôn trọng qui luật khách quan, dựa trên luận cứ khoa học, kết hợp tốt giữa điều kiện thực tế của Việt nam với các nước khác trên thế giới trong việc lập chiến lược đầu tư. - Quản lý đầu tư phải đảm bảo kết hợp tốt các mặt kinh tế, kỹ thuật chính trị xã hội và quốc phòng, kết hợp tốt mục tiêu phát triển kinh tế với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, kết hợp tốt lợi ích của nhà nước, các doanh nghiệp và người lao động, thể hiện ở các chiến lược kế hoạch cũng như các chính sách quản lý đầu tư do nhà nước đề ra. - Quản lý đầu tư phải phù hợp với kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải đảm bảo tạo ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận về giá cả, chất lượng, và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. - Quản lý đầu tư phải lấy tiêu chuẩn hiệu quả, chất lượng tiết kiệm làm nền tảng, phải sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn đầu tư, khai thác tốt mọi tiềm năng phát triển của đất nước. - Quản lý đầu tư của nhà nước phải kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và lãnh thổ. - Phải thực hiện quản lý thống nhất của nà nước về luật pháp, cơ chế chính sách, tiêu chuẩn kinh tế – kỹ thuật đối với toàn bộ quá trình đầu tư và xây dựng từ khâu qui hoạch huy động vốn sử dụng vốn, lập các phương án đầu tư về mặt công nghệ, kỹ thuật và xây lắp công trình, đưa công trình vào sử dụng khai thác vận hành công trình. - Trong quản lý đầu tư phải phân biệt rõ chức năng quản lý của nhà nước với quản lý kinh doanh, qui định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư , các tổ chức tư vấn, các doanh nghiệp xây dựng, cung ứng vật tư thiết bị ... trong quá trình đầu tư nhằm đảm bảo quá trình cho quá trình đầu tư được thông suốt tiết kiệm và hiệu quả. - Quản lý đầu tư phải đảm bảo thực hiện đúng các trình tự đầu tư và xây dựng. 3.2. Các công cụ quản lý hoạt động đầu tư. Trong quá trình quản lý hoạt động đầu tư nhà nước sử dụng các công cụ sau; - Chiến lược định hướng và các kế hoạch đầu tư. - Qui hoạch phát triển kinh tế, xã hội tổng thể và qui hoạch đầu tư xây dựng tổng thể theo các địa phương và vùng lãnh thổ. - Hệ thống tổ chức quản lý bộ máy đầu tư từ trung ương đến các cơ sở đặc biệt là các tổ chức đầu tư và phát triển, tổ chức kế hoạch, ngân hàng tài chính, tổ chức quản lý xây lắp. - Hệ thống pháp luật và qui định có liên quan đến đầu tư, như luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật xây dựng, luật đất đai, luật môi trường, luật công ty luật thuế, điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. - Hệ thống chính sách có liên quan đến đầu tư như chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách giá cả,chính sách huy động các nguồn vốn, các chính sách ưu đãi trong đầu tư. - Hệ thống tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật có liên quan đến đầu tư và xây dựng. - Thông tin, dự báo hướng dẫn thị trường và các hoạt động đầu tư. - Các biện pháp của nhà nước để tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trong khuôn khổ pháp luật. 3.3. Mục tiêu của quản lý đầu tư. Trên giác độ quản lý vĩ mô, quản lý hoạt động đầu tư cần phải đạt một số mục tiêu chung nhất như sau. - Đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của quốc gia.Đối với nước ta, đó là chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế , nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. - Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn trong và ngoài nước, tận dụng và khai thác tốt nhất các tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai lao động và các tiềm năng khai thác, bảo vệ môi trường sinh thái, chống mọi hành vi tham ô lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai thác các kết quả đầu tư. - Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư ,xây dựng công trình theo quy hoạch kiê ns trúc và thiết kế kỹ thuật được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ quan, áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến ,đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý. 3.4. Nội dung của quản lý hoạt động đầu tư. + Quản lý hoạt động đầu tư trên giác độ vĩ mô, được thống nhất thực hiện thông qua các nội dung sau: - Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư. - Xây dựng chiến lược, quy hoạch đầu tư theo từng ngành, từng địa phương nằm trong chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất nước, từ đó xác định danh mục các dự án có ưu tiên. - Ban hành các định mức kinh tế kỹ thuật các chuẩn mực đầu tư. - Thực hiện các biện pháp nhằm huy động vốn đầu tư trong dân và thu hút vốn đầu tư nước ngoài (như giới thiệu, tuyên truyền tổ chức hỗ trợ, hội thảo, triển lãm...), cải thiện môi trường đầu tư. - Kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của chủ đầu tư, xử lý những vi phạm pháp luật, quy định của nhà nước, của giấy phép đầu tư, các cam kết của chủ đầu tư ... - Điều chỉnh xử lý các vấn đề cụ thể, phát sinh trong quá trình phát huy tác dụng của kết quả đầu tư (như chuyển nhượng, bổ sung mục tiêu hoạt động, giải thể...). Phân tích đánh giá kết quả hoạt động đầu tư, kịp thời bổ sung điều chỉnh những bất hợp lý,trong cơ chế, chính sách. - Đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ chuyên môn, chuyên sâu, cho từnglĩnh vực của hoạt động đầu tư. + Đối với các bộ, ngành địa phương nội dung quản lý đầu tư bao gồm: - Xây dựng chiến lược quy hoach đầu tư của bộ ngành , địa phương. - Xây dựng danh mục đầu tư cho bộ, ngành và địa phương. - Xây dựng kế hoach huy động vốn đầu tư. - Hướng dẫn các nhà đầu tư Việt Nam lập bản mô tả dự án đầu tư ,lập dự án tiền khả thi, lựa chọn đối tác nước ngoài, đàm pgán ký kết hợp đồng liên doanh, liên kết trong đầu tư nước ngoài. - Trực tiếp kiểm tra giám sát quá trình hoạt động của dự án đầu tư thuộc ngành, địa phương theo các chức năng nhiệm vụ được phân cấp quản lý. Hỗ trợ và trực tiếp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình đầu tư nhưcấp đất, tuyển dụng lao động, xây dựng công trình v.v. - Kiến nghị với cấp trên điều chỉnh, sửa đổi bổ sung các bất hợp lý trong các chính sách, quy định dưới luật. 4. Kế hoạch hoá hoạt động đầu tư. Kế hoạch hoá đầu tư vừa là nội duing vừa là một công việc cụ thể để quản lý hoạt động đầu tư. + Công tác kế hoạch hoá đầu tư phải dựa trên các nguyên tắc sau: - Kế hoạch đầu tư của nhà nước phải xuất phát từ yêu cầu của đường lối phát triển kinh tế xã hội của đất nước,và nhu cầuthị trường trong và ngoài nước. - Kế hoạch đầu tư của nhà nước phải tôn trọng các quy luật khách quan đảm bảo tính khoa học và tính thực hiện của các phương án. - Kế hoạch đầu tư của nhà nước có phần chỉ mang tính chất định hướng( nhất là đối với các doanh nghiệp ) và có phần quản lý và chỉ đạo trực tiếp thông qua các cơ quan chức năng của nhà nước ( như phần xây dựng các cơ sở hạ tângf do nguồn vốn nhà nước cấp các công trình trọng điểm và lớn của nhà nước ). - Kế hoạch đầu tư của nhà nước phải đảm bảo kết hợp tốt các mặt kinh tế, chính trị xã hội kết hợp tốt giữa phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. - Tuy nhiên trong kế hoạch đầu tư phải phản ánh mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế , nhưng trước hết là các dự án đầu tư thuộc cơ sở nhà nước . + Nội dung của kế hoạch hoá hoạt động đầu tư. - Nếu đầu tư cho công tác điều tra khảo sát và lập quy hoạch ngành ,lãnh thổ. Quy hoạch xây dựng đô thị nông thôn thì kế hoạch hoá hoạt động đầu tư bao gồm vốn đầu tư để thực hiện việc điều tra, khảo sát thiết kế, lập dự án tiền khả thi, khả thi, thẩm định dự án và quyết định đầu tư . Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án bao gồm vốn chi cho việc khảo sát, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, lập bảng dự toán xây dựng khu phụ trợ, xây dựng nhà ở tạm cho công nhân xây dựng nếu có yêu cầu và được cấp có thẩm quyền cho phép và có chi phí khác cho công tác chuẩn bị thực hiện các dự án khác có liên quan. Kế hoạch thực hiện dự án bao gồm: vốn đầu tư để mua sắm thiết bị, thi công xây lắp công trình và các chi phí khác có liên quan đến việc đưa dự án vào khai thác sử dụng. + Trình tự lập kế hoạch đầu tư Lập kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước có thể theo các trình tự sau: - Xác định về nhu cầu chủng loại và khối lượng sản phẩm dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng của kỳ kế hoạch mà nhà nước phải đảm nhiệm ( nhất là công trình cơ sở hạ tầng). - Xác định khả năng đáp ứng các công trình của các công suất sản xuất và năng lực dịch vụ hiện có ở đầu kỳ kế hoạch. - Xác định công suất sản xuất và năng lực dịch vụ đào thải trong kỳ kế hoạch . - Xác định nhu cầu về công suất sản xuất và năng lực dịch vụ mới cần tăng thêm trong kỳ kế hoạch. - Lập kế hoạch đầu tư để đáp ứng số công suất và năng lực dịch vụ cần tăng thêm cho kỳ kế hoạch thông qua dự án đầu tư. Việc lập kế hoạch theo dự án đầu tư lại tiến hành theo các giai đoạn đầu tư như sau: - Kế hoạch cho điều tra, khảo sát. - Kế hoạch cho việc chuẩn bị đầu tư. - Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án. - Kế hoạch thực hiện dự án. Nếu theo cấp lập kế hoạch thì việc lập kế hoạch thường theo trình tự sau: Căn cứ vào nhiệm vụ chung và tình hình thực tế nhà nước đưa ra các chỉ tiêu kế hoạch cho thời kỳ dự kiến. Các tổ chức của nhà nước có chức năng thực hiện tiến hành nghiên cứu và góp ý kiến với nhà nước. Nhà nước xét duyệt chỉ tiêu kế hoạch chính thức truyền đạt nhiệm vụ cho các cấp thực hiện. Mặc dù dự án đã được lập và có điều kiện để thực hiện, song để dự án được ghi vào kế hoạch đầu tư càn phải có các điều kiện sau: phải nằm trong quy hoạch ngành và lãnh thổ; phải có quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền( m._.pí được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án); phải có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán hay thiết kế kỹ thuật và dự toán cho các giai đoạn đầu tư đối với công trình lớn ( mới được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện của dự án); Phải có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán cho các giai đoạn đầu tư đối với các công trình lớn ( mới được ghi vào hoạch kế thực hiện dự án). 5. Kết quả và hiệu quả của hoạt động của đầu tư. 5.1. Kết quả của đầu tư. Kết quả của đầu tư được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã thực hiện, các tài sản cố định được huy động và năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm. + Khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm: các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư , xây dựng nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của các thiết kế dự toán và được ghi trong dự toán đầu tư được duyệt. + Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm. Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng , mua sắm , đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất , phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động và sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định ghi trong dự án đầu tư . 5.2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư. a. Khái niệm và sự cần thiết. Hiệu quả theo nghĩa chung nhất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Ký hiệu. K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau. C: là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. E: là hiệu quả Ta có công thức hiệu quả chung là; E =K – C (1) Hiệu quả tuyệt đối E = K / C (2) Hiệu quả tương đối. Các khái niệm hiệu quả. Hiệu quả tổng hợp: là kết quủa chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó, hiệu quả tổng hợp còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội . Hiệu quả trực tiếp: Là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ 1 dự án, 1 doanh nghiệp. Hiệu quả gián tiếp: Là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho đối tượng khác. Hiệu quả tài chính: hay còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh quan hệ lợi ính kinh tế mà doanh nghiệp đạt được và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả kinh tế quốc dân: còn gọi hiệu quả kinh tế xã hội., hiệu quả tổng hợp được xét trên toàn bộ nền kinh tế , là sự chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với những đóng góp mà nền xã hội phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Việc đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư là cần thiết, vì không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời cao đều có ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế . Đây là điều kiện giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư , các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư. b. .Mục tiêu và tiêu chuẩn đánh giá. - Mục tiêu Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng kế hoach phát triển kinh tế –xã hội của mình, tuy mức độ và cách can thiệp của nhà nước vào quá trình lập và thực hiện kế hoạch có khác nhau. ở một số nước nhà nước chỉ xây dựng kế hoach định hướng.ở một số nước khác nhà nước trực tiếp ấn định các chỉ tiêu kế hoạch. Dù là trong kế hoạch định hướng hay là kế hoạch mệnh lệnh, khi xem xét mặt lợi ích kinh tế –xã hội do đầu tư đem lại đều phải xác định vị trí của đầu tư trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội . Nói cách khác phải xem xét việc thực hiện đầu tư sẽ đóng góp gì cho việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân ( có sản xuất loại sản phẩm thuộc ưu tiên của kế hoạch hay không?). Tiếp đến là xem xét mức độ đóng góp của hoạt động đầu tư vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế –xã hội của đất nước thông qua một hệ thống các chỉ tiêu định lượng như mức đóng góp hoạt động đầu tư vào nguồn ngân sách, mức tiết kiệm ngoại tệ cho nền kinh tế, số lao động có việc làm do thực hiện đầu tư. - Các tiêu chuẩn đánh giá . Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa hoá phúc lợi. Mục tiêu này thường được thể hiện trong các chủ trương chính sách với và kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội của mỗi nước. Kế hoạch dài hạn đề ra phương hướng chỉ đạo mục tiêu phải đạt được trong 10 năm trở lên. Các kế hoạch trung hạn nêu lên những bước đi tương đối cụ thể trong thời hạn từ 3 –10 năm. Các kế hoach hay chương trình ngắn hạn 2-3 năm nhằm điều chỉnh kịp thời các sai lệch cũng như bổ sung các khiếm khuyết phát hiện trong thực hiện kế hoạch . ở các nước đang phát triển các mục tiêu chủ yếu được đề cập trong kế hoach dài hạn là: Nâng cao mức sống dân cư được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức tăng sản phẩm quốc dân, mức gia tăng tích luỹ vốn, tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế . Phân phối lại thu nhập thể hiện thông qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển , nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư. Gia tăng số lao động có việc làm, đây là một trong những mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế –xã hội của các nước thừa lao động thiếu việc làm. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.những nước đang phát triển thường không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy manh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân của nước này. Các mục tiêu kế hoạch kinh tế quốc dân khác là: Tận dụng khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện. Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy các ngành nghề khác cùng phát triển.phát triển kinh tế xã hội ở địa phương nghèo, các vùng xa xôi dan cư thưa thớt, nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế . II. Khái quát về huyện vùng cao Văn Bàn- Lào Cai. Văn Bàn là một huyện vùng núi cao của tỉnh Lào Cai, với tổng diện tích tự nhiên là 143. 927 ha. Mật độ dân cư trung bình là 44 người. Trước mắt Văn Bàn còn là một trong những huyện nghèo của tỉnh Lào Cai nên kinh tế còn kém phát triển. Song với những nguồn lực sẵn có Văn Bàn hứa hẹn nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội. 1.Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu. Văn Bàn cách tỉnh lỵ Lào Cai 85 Km về phía Tây Nam, là một vùng thuộc Tây Bắc của đất nước. Phía bắc giáp huyện Sa Pa và Bảo Thắng, phía tây giáp huyện Than Uyên, phía nam và Đông Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía đông giáp huyện Bảo Yên. Nằm ngay sát khu công nghiệp Tằng Loỏng là một khu công nghiệp lớn thuộc trung ương trên địa bàn tỉnh và nằm không cách xa cửa khẩu quốc tế Lào Cai, là điều kiện thuận lợi cho kinh tế Văn Bàn đi lên. Đặc biệt là quan hệ phát triển thương mại với Trung Quốc mở ra thị trường lớn có nhu cầu về nhiều mặt nhất là hàng nông lâm sản. Mặt khác cũng khá thuận lợi về giao thông đường sắt, đường thuỷ nối với các tỉnh và với thành phố Hà Nội, Hải Phòng. Địa hình Văn Bàn chủ yếu là đồi, núi cao, tổng thể như một lòng chảo lớn gồm nhiều lòng chảo nhỏ, địa hình cao dần từ Tây sang Đông, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc trung bình 250 giữa huyện là những bồn địa, thung lũng hẹp đồi núi không theo hướng nhất định mà ở dạng vành đai núi thành bức tường ngăn cách giữa các xã của huyện. Độ cao tuyệt đối cao nhất 2.913 m và thấp nhất là 85m so với mực nước biển. Văn Bàn nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa nóng lạnh rõ rệt. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9 và mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm 22,90C, cao nhất lên đến 390C, thấp nhất là 30C ở một số đỉnh núi cao hơn 15.000 m nhiệt độ xuống tới 00C. Văn Bàn thuộc vùng mưa ít, trung bình 1.500 mm, mưa tập trung vào tháng 7, 8 chiếm 70% lượng mưa cả năm,các tháng mùa khô lượng mưa chỉ chiếm 5- 10 tổng lượng mưa cả năm. Độ ẩm bình quân 86%, thấp nhất 41%, cao nhất 91%. Lượng bốc hơi hàng năm 680,7 mm. Mùa hè Văn Bàn xuất hiện gió Tây Nam ( gió Lào), có từ tháng 3- 9, mỗi đợt xuất hiện 3-7 ngày, tốc độ gió 2-3 m/s. Mùa đông có sương muối từ tháng 11-3 năm sau. Nhìn chung địa bàn là đồi núi tương đối cao khí hậu nhiệt đới thích hợp cho nhiều loại cây trồng nhưng cũng ảnh hưởng không ít tới mùa màng và đời sống dân cư. 2. Tài nguyên đất và rừng. Tổng diện tích đất tự nhiên của Văn Bàn là 143.927 ha (gồm 23 xã, thị trấn) chiếm 17,8% diện tích toàn tỉnh. Trong đó: Đất nông nghiệp: 9260 ha. Đất lâm nghiệp: 77623Ha. Đất chưa sử dụng: 55960 ha, còn lại là đất chuyên dùng và ở. Đất Văn Bàn vào loại tốt, đất mùn ở trên núi cao chiếm tới 45% tổng diện tính tự nhiên thích hợp cho các cây lâm nghiệp và dược liệu... Ngoài ra còn có số lượng khá lớn diện tích đất phù sa không được bồi thường xuyên, và đất lúa nước khá màu mỡ phân phối dọc suối và các thung lũng hẹp. Nhưng phần lớn đất chưa được sử dụng một cách hiệu quả, đất có khả năng canh tác, khai hoang, hay sử dụng một vụ vẫn còn. Do đó, tương lai cần đầu tư nâng cao hệ số sử dụng đất, sử dụng đất có khả năng nông lâm nghiệp để phát triển kinh tế xã hội là cần thiết. Do thuận lợi khí hậu cho các hệ động, thực vật phát triển nên tài nghuyên rừng Văn Bàn rất phong phú. Với tổng diện tích rừng 72623 ha, Văn Bàn có trữ lượng gần 7 triệu m3 gỗ. Văn Bàn là huyện có độ che phủ của rừng lớn nhất của tỉnh Lào Cai( và của tỉnh Hoàng Liên Sơn trước đây). Trong rừng có nhiều thực vật có giá trị kinh tế cao: song , mây, tre ,nứa…, các loại gỗ như: Đinh, lim, sến, lát, pơ mu... Văn Bàn là huyện có nhiều cây pơ mu nhất của tỉnh Lào Cai. Với tổng diện tích 3982 ha và trữ lượng 173236 m3 gỗ chiếm 2,5% trữ lượng chung của rừng. Bên cạnh đó động vật rừng cũng rất phong phú, có cả một số loài quý hiếm đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam như chồn vàng, cày vằn bắc, cày gấm, báo hoa mai, sóc bay... 3.Tài nguyên khoáng sản. Trên địa bàn huyện có nhiều loại khoáng sản như Apatít, penpat, sắt đá trang trí, nước khoáng thiên nhiên, vàng sa khoáng, than...Các mỏ có trữ lượng khá lớn như mỏ penspat ở làng Giàng trữ lượng 10 triệu tấn , mỏ sắt ở khe lếch 114 tấn hàm lượng 57- 58 %mỏ apatít ở Tam Đỉnh trữ lượng không cao nhưng chất lượng tốt. Nhìn chung các mỏ này đều ở dạng lộ thiên dễ khai thác. Trong tương lai đây sẽ là những cơ sở công nghiệp khai khoáng vào loại lớn của tỉnh Lào Cai. Trước đây đẫ khai thác mỏ sắt khe Lếch nhưng chỉ với quy mô nhỏ, do công ty khai khoáng Lào Cai thực hiện và xuất khẩu dạng quặng thô chưa qua chế biến hiện nay đã ngừng khai thác. 4.Tài nguyên con người. Dân số toàn huyện Văn Bàn 66570 người, mật độ trung bình 44 người/ km2, nhưng phân bố không dều, có nơi chỉ có 4 người/ km2 chủ yếu là các dân tộc ít người. Trong tổng số 11 dân tộc anh em thì dân tộc Tày chiếm đến 44% tổng dân số huyện, dân tộc Kinh 18%, dân tộc Dao 11%, Hmông 8,3%, Dáy 3,2%, và các dân tộc khác 9,7%. Dân số Văn Bàn thuộc dân số trẻ số người trong độ tuổi lao động lên tới 28 nghìn người chiếm 42,06% tổng dân số. Tỷ lệ thất nghiệp tương đối thấp 1,8 % song lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp 94,7%, thủ công buôn bán chỉ chiếm 0,7%, cán bộ công nhân chiếm 4,6%. Lực lượng lao động của huyện khá dồi dào nhưng công việc không ổn định theo thời vụ, đây sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong thời gian tới của huyện. Tuy nhiên dân số Văn Bàn cũng còn là một vấn đề lớn đáng quan tâm, với tốc độ gia tăng tự nhiên còn cao 3,2% năm 2000, thêm vào đó trình độ văn hoá của đồng bào vào loại thấp, ở các xã vùng cao ( 15/23 xã) tỷ lệ mù chữ 35%, riêng Nậm Chày và Nậm Tha con số này lên tới 45%.Đây là một khó khăn lớn cho Văn bàn không chỉ trong công tác phát triển văn hoấ – xã hội mà còn trong quá trình xây dựng kinh tế. III. Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư đối với huyện vùng cao Văn Bàn. Đầu tư là chìa khoá của mọi sự phát triển, đối với nền kinh tế đầu tư là nhân tố quyết định đến sư tăng trưởng và phát triểncủa kinh tế, vai trò này càng dặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Văn Bàn. Là huyện vùng cao, Văn Bàn cách biệt với các vùng khác bởi rừng núi, giao lưu kinh tế văn hoá gặp rất nhiều khó khăn bởi giao thông đi lại vất vả, nền kinh tế Văn Bàn còn chậm phát triển. Đây là một yếu tố làm cho nền kinh tế Văn Bàn ngày càng tụt hậu so với cả nước. Văn Bàn có nguồn tài nguyên tương đối phong phú đặc biệt là rừng, là một thuận lợi lớn cho sự phát triển kinh tế của huyện, song việc khai thác vận chuyển bừa bãi làm cho nguồn tài nguyên này ngày càng cạn dần, phần thu từ khai thác không bù đắp tương xứng cho việc tái đầu tư. Do đó cần có sự đầu tư quản lý và khai thác có hiệu quả nhất. Do điều kiện địa hình toàn là đồi, núi do dó phát triển kinh tế của Văn Bàn chủ yếu dựa vào nông lâm nghiệp. Song hiện nay các sản phẩm này chủ yếu tiêu thụ trong huyện và xuất ra ngoài dưới dạng thô chưa qua sơ chế. Như vậy cần đầu tư và công nghiệp chế biến nông lâm sản vừa để tạo việc làm đồng thời cũng nâng cao giá trị hàng hoá trước khi xuất ra bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng rất yếu kém và đều đã xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là hệ thống giao thông đường bộ, nhu cầu mở mới và tu sửa là rất lớn. Hiện nay việc đi lại của người dân vùng cao chủ yếu vẫn bằng con đường mòn, làm tốn nhiều thời gian và công sức cho việc đi lại và vận chuyển hàng hoấ. Huyện có nhiều sông suối với nhiều ghềnh thác trong khi đó khả năng cung cấp điện của huyện còn rất hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản suất, nhất là vào mùa khô. Hệ thống trường học và bệnh viện còn thiếu nhiều thêm vào đó các cơ sở này đều đã xuống cấp. Chính từ những khó khăn này dẫn đến sự cần thiết phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng với một khối lượng vốn đầu tư lớn. Vấn đề đầu tư thực sự là yếu tố hàng đầu giúp Văn bàn khắc phục những khó khăn trên. Đây là những tiền đề quan trọng làm bàn đạp cho sự phát triển kinh tế giúp Văn bàn ngày càng rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với cả nước. Chương II Thực trạng hoạt động đầu tư ở huyện vùng cao Văn Bàn- Lào Cai thời kỳ 1996 - 2000 I. Thực trạng kinh tế –xã hội. Văn Bàn là một huyện vùng núi cao, dân cư thưa thớt, đời sống kinh tế văn hoá còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Nhân tố quan trọng tác động sự phát triển của các vấn đề này là đầu tư. Nhưng để xem xét hoạt động đầu tư trong thời gian qua, trước hết chúng ta nghiên cứu thực trạng các ngành kinh tế xã hội để xét xem hoạt động đầu tư đã tương xứng cới tiềm năng của huyện hay chưa. Thực trạng các ngành kinh tế. 1.1 Ngành nông nghiệp Trong những năm trước đây cũng như thời gian qua nông nghiệp là ngành kinh tế chính của huyện với tổng số lao động trong ngành nông nghiệp là 26526 người chiếm 94,7 %. Tổng sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 19386 tấn năm 1996, đến năm 1998 đạt 20556 tấn và đến năm 2000 đạt 22363 tấn, thời kỳ 96- 2000 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 3,6%. Hàng năm ngành nông nghiệp đóng góp hơn 50% trong tổng giá trị GDP của huyện. Với tổng diện tích đất canh tác gần 8000 ha/ năm , thì đến 70% diện tích là trồng cây lương thực. Năng suất lúa bình quân đạt 30 tạ/ ha, riêng cây lúa nước đạt từ 35-40 tạ/ ha. Cây lúa nương năng suất thấp chỉ đạt 16 tạ/ha có năm chỉ đạt 11 tạ /ha nhưng lại chiếm tới 16% tổng diện tích đất trồng lúa. Trồng lúa nương đi kèm theo đó là nạn phá rừng, tuy nhiên so với năm 1996 thì diện tích lúa nương đã giảm từ 699 xuống còn 620 ha năm 2000. Chăn nuôi ngày càng phát triển đàn gia súc tăng bình quân 8% năm, như đàn trâu bò tăng từ 12500 năm 96 lên 18000 con trong năm 2000 tăng 8,8%. Các cây ăn quả và cây công nghiệp ngày càng mở rộng, đặc biệt là cây thảo quả và quế, thảo quả có chất lượng tốt và đem lại giá trị kinh tế cao nên được phát triển mạnh, năm 1996 chỉ có 98 ha thì đến năm 2000 lên tới 355 ha. Tuy nhiên phần lớn các loại cây trên đều do cá nhân tự trồng và quản lý, không có quy hoạch phát triển và thu mua theo chương trình. Là ngành chính song nông nghiệp Văn Bàn mới chỉ đáp ứng nhu cầu lương thực trong huyện năng suất còn bấp bênh không ổn định. 1.2. Lâm nghiệp. Văn Bàn có tổng diện tích 115900 ha đất có khả năng lâm nghiệp, song huyện mới sử dụng 77623 ha đạt 67%. Là ngành có nhiều triển vọng phát triển nhất, nhưng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp mới chỉ chiếm 15,32% tổng GDP của huyện, ngành lâm nghiệp Văn Bàn hàng năm trồng mới hàng trăm ha rừng, nâng diện tích đất rừng trồng tập trung từ 2300 ha năm 96 lên 2500 ha năm 97 và năm 2000 lên tới 29820 ha. Và tỷ lệ che phủ rừng cao năm 97 là 53 % đến năm 98 là 53,4% và đến năm 2000 đạt 55 ,6%. Cùng với việc trồng rừng, hàng năm cũng tiến hành giao đất đến các hộ dân, trong ba năm từ 97-99 tổng giao được 13400 ha rừng và cũng khai thác hàng nghìn m3 gỗ tròn các loại. Năm 96 là 4800 m3 , năm 97 là 4690 m3 , năm 98 là 4900 m 3 còn đến năm 98 chỉ khai thác 3000 m 3 do thực hiện chương trình đóng cửa rừng của chính phủ, năm 99 chỉ còn 900 m 3. Ngoài ra còn khai thác các lâm sản khác như song, mây, tre, nứa với khối lượng không nhỏ, như mây năm 1997 khai thác 3 triệu mét và năm 1998 là 5 triệu mét. Đây là ngành đóng góp lớn trong thu ngân sách huyện trong 5 năm qua (96-2000) là 9,2 tỷ. Ngành lâm nghiệp Văn Bàn còn nhiều bất cập, tệ phá rừng khai thác, vận chuyển gỗ trái phép xảy ra thường xuyên. Như năm 96 các vụ vi phạm luật lên tới 165 vụ, đến năm 2000 số vụ xảy ra cũng không nhỏ 120 vụ. 1.3. Công nghệp- tiểu thủ công nghiệp Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Văn Bàn chưa thực sự phát triển, tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế còn rất nhỏ, điển hình nhất trong những năm vừa qua là năm 1998 chiếm 19,2 % so với tổng giá trị sản phẩm là 20 tỷ, năm 2000 cũng chỉ đạt 20,3 tỷ. Trong cơ cấu công nghiệp chủ yếu chế biến nông lâm sản chiếm 51%, khai thác khoảng sản là 38%, còn sản xuất vật liệu xây dựng chỉ đạt 8% và tiểu thủ công nghiệp là 3%. Cơ sở vật chất của ngành còn rất hạn hẹp, toàn huyện mới chỉ có hai phân xưởng xẻ với công suất 15000 m3/năm, một xưởng bóc ván ép công suất 800 m3 năm, một phân xưởng thảm hạch công suất 1800 m2 / năm. Nhìn chung cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu chế biến của khối lượng lâm sản khai thác hàng năm, phần lớn là bán ra khỏi huyện dưới dạng sản phẩm thô chưa qua chế biến. Các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng hoàn toàn do tư nhân đảm nhận đáp ứng cơ bản nhu cầu tại chổ, các cơ sở sản xuất công cụ không có, hầu hết phải nhập từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu xây dựng ngày càng cao của nhân dân trong huyện. Công nghiệp chế biến nông sản và khai khoáng chưa có gì. Còn tiểu thủ công nghiệp cũng vậy chỉ có một số ngành nghề truyền thống của các dân tộc như dệt vải, đan lát... phục vụ cho nhu cầu của mỗi gia đình. 1.4. Các ngành dịch vụ. - Thương mại dịch vụ của Văn Bàn còn rất kém, chủ yếu do tư thương đảm nhận và ép giá. Tổng giá trị ngành thương mại dịch vụ tăng từ 5,613 triệu đồng năm 1995 lên đến 12,970 triệu đồng năm 2000 và giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 12,1%, tốc độ tăng trưởng là khá song chủ yếu là mạng lưới thương nghiệp quốc doanh được cũng cố và phát triển đáp ứng các mặt hàng chủ yếu như vở, muối và vật tư sản xuất cho các đồng bào vùng cao. Cơ sở vật chất phục vụ ngành thương mại còn rất thiếu thốn, hiện chỉ có 3 chợ thường xuyên, chưa có quy hoạch cụ thể, xây dựng còn tạm bợ chủ yếu là cột tre, mái cọ. Tỷ trọng thương nghiệp trong cơ cấu kinh tế rất nhỏ như năm 96 chỉ có 6,4%. - Tài chính ngân hàng. Do kinh tế chưa phát triển nên thu ngân sách chỉ đáp ứng một phần nhỏ của chi ngân sách. Trong các năm 1995 đến 98 tổng thu ngân sách là 39 950 triệu đồng đáp ứng tổng chi là 35.180 triệu đồng là do khai thác nhiều lâm sản nên thu thuế tài nguyên , thuế lợi tức nhiều... như năm 1997 riêng lâm trường nộp ngân sách là 11,5/13,46 triệu đồng chiếm 85,4%. Còn từ năm 1998 đến nay thực hiện chủ trương đóng cửa rừng của Chính phủ nên tổng thu ngân sách giảm năm 1999 thu là 4,56 tỷ nhưng chi là 18,85 tỷ đáp ứng 24,2% và năm 2000 chỉ đáp ứng 16,37% phần thiếu nhà nước bù. Hệ thống ngân hàng và phát triển nông thôn tuy đã được mở rộng thêm các cơ sở giao dịch, song còn nhiều khó khăn trong việc huy động vốn tại chỗ, các hộ ở vùng cao đều thiếu vốn sản xuất , số hộ vay mới chỉ đạt 45,5% trong tổng số hộ có nhu cầu vay vốn Hoạt động của ngân hàng cũng còn nhiều hạn chế, dư nợ qúa lớn, đặc biệt là dư nợ quá hạn đến cuối năm 1998 là 3,5 tỷ đồng chiếm 25% tổng dư nợ. Thực trạng cơ sở hạ tầng kinh tế. 2.1. Hạ tầng giao thông vận tải. Văn Bàn huyện miền núi chỉ có giao thông đường bộ .Hệ thống đường đã và đang hình thành theo xu thế ngày hoàn chỉnh. Phát triển theo từng giai đoạn trên cơ sở kế hoạch, nhu cầu và khả năng đầu tư. Mật độ bình quân cả quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, và nội thị là 1,73 km dài/1 km2 diện tích. Trong đó: Quốc lộ 70km /196 km = 35,72%. Tỉnh lộ 65km /196km = 33,16%. Đường huyện và nội thị 61km /196 km = 31,12%. Theo đánh giá chung thì giao thông Văn Bàn chưa phát triển.Mặc dù có đường quốc lộ đi qua 11/23 xã trong huyện, song cả 196 km đường trên chỉ có 2 km được rải nhựa bán thâm nhập tại trung tâm. Huyện có 8 km đường từ khe Lếch đến huyện được rải cấp phối, đá dăm lu lèn, mặt đường bị xói mòn, mưa lũ sạt lở nhiều. Hầu hết các tuyến đường còn lại là đường lèn đất, một số được sữa chữa rải đá cấp phối song do địa hình nhiều sông ngòi, đồi núi nên đường xuống cấp nhanh. Cả quốc lộ phải đi qua nhiều ngòi suối trong toàn hệ thống dường chỉ có 3 cầu dầm thép kiểu dã chiến, 4 ngầm tràn bằng rọ thép xếp đá, có 1 câù cứng bê tông xây dựng năm 1999, còn lại là cầu khỉ do dân tự làm, đây là một khó khăn lớn cho việc đi lại trong vùng. So với tổng số cầu là 47 thì đây là một con số rất nhỏ cần được xây dựng đảm bảo an toàn cho xe qua lại . Đường Văn Bàn được đánh giá là chưa vào cấp, chất lượng đường còn kém, sự phân bố và cơ cấu tuyến đường chưa đều, hiện nay còn 2 xã (Nâm Chày, Dầm Thăng ) chưa có đường ô tô đến trung tâm xã ( Nậm Mã, Nậm Xây, Nâm Tha) ô tô không đến được vào mùa mưa. Ngoài ra huyện còn có khoảng 259 km đường lên thôn bản song chỉ có 15% đi lại được bằng ô tô, 40% đi lại bằng xe máy còn lại là tuyến đường người, ngựa, mặt đường hẹp, ghồ ghề cống tạm và do phong tục tập quán nhân dân thường dùng xe quyện gia súc kéo nên mặt đường chóng bị bào mòn hư hỏng, các tuyến đường này kết hợp với hệ thống thuỷ lợi nên mùa mưa dễ làm đứt lở từng đoạn.. 2.2 Về thuỷ thuỷ lợi, thuỷ điện. -Các công trình thuỷ lợi Văn Bàn khá nhiều, song các công trình đặc biệt là các công trình tiểu thủ nông thường không được bảo dưỡng, do đó hầu hết các công trình đã xuống cấp sử dụng kém hiệu quả. Năm 1998 toàn huyện có 28 công trình đầu mối kiên cố và 173 trạm thuỷ lợi nhỏ nhưng chỉ phục vụ tươí tiêu được 1826 ha/ 2253ha đáp ứng81,05% nhu cầu. Toàn huyện có 27 công trình cấp nước tự chảy, 1 giếng và 4 bể chứa công cộng nhưng không có thiết bị lọc nên chất lượng nước không đảm bảo. Theo số liệu điều tra năm 1999 thì Văn Bàn có khoảng 15000 người vùng cao thiếu nước nghiêm trong và hơn 8600 người dùng nước không đảm bảo vệ sinh, tỷ lệ dân số được cấp nước ăn chỉ dạt 18,9% chủ yếu ở khu vực thị trấn. - Về thuỷ điện, thời gian qua huyện đã xây dựng được 3 công trình với công suất 45 kw, song đến nay chỉ có một công trình hoạt động dược. Huyện có khoảng 2000 máy thuỷ điện nhỏ phục vụ 1/3 tổng số hộ toàn huyện. Tiềm năng thuỷ điện của vùng còn lớn ( khoảng 300 kw) nhưng chất lượng thấp phụ thuộc vào nguồn nước và theo mùa.Hiện nay mới chỉ có 68 % trong tổng dân số huyện có điện sinh hoạt trong đó có 30 % là dùng điện lưới quốc phần còn lại là dùng điện phát bằng các máy nhỏ. toàn huyện mới chỉ có 6/23 xã có điện lưới đến nơi. 2.3. Thông tin bưu điện. Toàn huyện có 4 trạm phát lại sóng truyền hình đảm bảo 23/23 xã thị trấn được xem, song do điều kiện đồi núi dân cư thưa thớt nên mới chỉ có 60% dân số được xem truyền hình và 70% dân số được nghe thông tin qua sóng phát thanh, truyền thanh. Thực trạng cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội. 3.1. Về giáo dục. Về căn bản cơ sở vật chất của ngành giáo dục được xây dựng khá đầy đủ, đáp ứng nhu cầu dạy và học, nhưng ở các xã vùng sâu, vùng xa còn khó khăn. Năm 1996 trong tổng số 490 lớp học thì có 301 lớp làm bằng vật liệu tạm ( cột gỗ, tre, mái cọ) còn lại là nhà cấp 4, đến năm 2000 thì số nhà tạm chỉ còn 284 song nhà cấp 4 trở lên chỉ có 207 lớp, và 137 lớp cắm bản. Đây mới chỉ đáp ứng một phần của nhu cầu cho 10. 680 học sinh ( năm 1996) đến trường và năm 2000 là 17. 500 học sinh. Nhiều thôn bản vẫn chưa có lớp học, xa trung tâm giao thông đi lại khó khăn, đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. 3.2. Về y tế Công tác y tế huyện còn nhiều khó khăn, không chỉ thiếu về cán bộ y tế, mà còn thiếu cả các trang bị vật chất kỹ thuật. Như năm 1996 chỉ có 17/23 xã có trạm y tế, đây là một khó khăn lớn cho công tác khám chữa bệnh,vì có xẫ có diện tích rộng lên đến 18000 ha như Nậm Xây, phải đi bộ 30 km để khám chữa bệnh , còn các xã có trạm y tế chủ yếu là nhà cấp 4 và còn phần lớn là nhà cột tre, vách nứa. Số giường bệnh trên người dân cũng còn hạn chế trung bình 421 người/ 1 giường bệnh. Đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu nhiều, các trạm y tế xã chưa có bác sỹ ( chỉ có 1 bác sỹ ở xã trong năm 2000. Và trong năm 2000 bình quân người dân trên y bác sỹ chỉ là 2560 người/ 1 y bác sỹ. Trong tổng số 329 cán bộ y tế thì có 26 người là y bác sỹ còn lại được đào tạo tại trung tâm y tế huyện và chỉ là cấp chứng chỉ. Về cơ bản hiện nay huyện còn thiếu 60 cán bộ y tế thôn bản còn bác sỹ chủ yếu là đa khoa, năm 2000 cũng chỉ có 2 bác sỹ chuyên khoa. II. Tình hình đầu tư trên địa bàn huyện vùng cao Văn bàn - Lào Cai. Trong những năm qua cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước theo nền kinh tế thị trường mở cửa ra bên ngoài, thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm phát huy nội lực trong nước, đưa đất nước đi lên. Văn bàn cũng đạt được nhiều thành tựu nhất định về kinh tế xã hội, nâng cao mức sống dân cư... Trong các thành tựu trên thì vấn đề đáng quan tâm hơn cả đó là tình hình đầu tư trên địa bàn huyện thơì kỳ 1996 –2000. Trong thời gian qua đầu tư của huyện đã có nhiều thay đổi tích cực trong quy mô vốn đầu tư cũng như kết quả và hiệu quả mà đầu tư đem lại. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là vốn cấp phát, để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xây dựng các công trình trọng điểm.... ổn định và nâng cao mức sống dân cư. Bên cạnh những thành tựu đó Văn bàn còn bộc lộ nhiều hạn chế trong lĩnh vực đầu tư như vốn đầu tư ngoài ngân sách quá nhỏ, đầu tư mất cân đối, quản lý và sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, vốn đầu tư còn chậm phát huy hiệu quả... Để nhận xét xác thực hơn về đầu tư của huyện ta phải dựa trên đặc thù kinh tế xã hội của huyện, Văn bàn là một huyện nghèo, kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc và đây là đầu tư trên địa bàn huyện nên vốn đầu tư được xem xét dưới góc độ do cơ quan về kế hoạch và đầu tư của huyện quản lý. Cụ thể hoạt động đầu tư của huyện được xem xét thông qua các khía cạnh sau. 1. Qui trình phân phân bổ vốn đầu tư của huyện. Vốn đầu tư toàn xã hội Văn Bàn bao gồm vốn của nhà nước và vốn của dân cư .Vốn đầu tư của dân do dân trực tiếp đầu tư và quản lý. Còn đối với nguồn vốn đầu tư của nhà nước, bao gồm vốn ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương, vốn vay các ngân hàng thương mại…sau khi được Tỉnh phê duyệt và đưa vào kế hoạchchuẩn bị thực hiện đầu tư, vốn này được tập chung lại do UBND huyện quản lý mà trực tiếp là phòng tài chính huyện. Để vốn đến khâu cuối cùng là thanh quyết toán cho các công ty, đơn vị nhận thực hiện dự án, hay hộ nông dân được cấp vốn đầu tư thì vốn đầu tư được phân bổ theo qui trình sau đây. Sơ đồ phân bổ vốn đầu tư của Văn Bàn –Xem trang bên Sơ đồ phân bổ vốn đầu tư của Văn Bàn Các công ty hay đơn vị nhận thực hiện dự án. Các công ty, đơn vị nhận thực hiện dự án Các công ty, đơn vị nhận thực hiện dự án, hay hộ nông dân được nhận vốn đầu tư . Ban quản lý dự án Vốn đầu tư của nhà nước Ban định canh, định cư Như vậy vốn đầu tư của Văn Bàn được cấp cho ban quản lý dự án và ban định canh định cư, hai ban này có thể trực tiếp đứng ra tổ chức thi công xây dựng hoặc lựa chọn nhà thầu để thực hiện công việc đó. Còn lại là do UBND huyện trực tiếp cấp cho các đơn vị thực hiện, đây là các công trình do UBND trực tiếp tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu, có sự tham gia của phòng quản lý dự án. Quy mô và nhịp độ vốn đầu tư. Quy mô và nhịp độ vốn đầu tư được đánh giá thông qua chỉ tiêu tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm vốn trong nước và vốn nước ngoài: - Vốn trong nước được huy động từ các nguồn sau: Thứ nhất: Vốn đầu tư từ ngân sách tập trung. Nguồn này có được do các khoản đầu tư từ ngân sách Trung ương qua địa phương hoặc Trung ương qua ngành trên địa bàn. Thứ hai: Vốn huy động từ địa phương. Bao gồm các nguồn do Quốc hội để lại theo Luật ngân sách ( thuế khai thác tài nguyên, cấp quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa...). Ngoài ra còn có vốn huy động từ các doanh nghiệp và dân cư. Thứ ba: Vốn tín dụng từ Trung ương, địa phương và vốn vay các ngân hàng thương mại. -Vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn này có được từ hai hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức. Tuy nhiên khi tính chỉ tiêu này nếu cộng tất cả các khoản nói trên lại thì phần vốn hỗ trợ phát triển chính thức sẽ bị tính trùng, lý do là nguồn này đã được tính trong nguồn ngân sách tập trung. Như vậy vốn đầu tư toàn xã hội là chỉ tiêu tổng hợp nhất về mức vốn đầu tư, tại Văn bàn vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm được thể hiện trong bảng (xem trang sau) Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng vốn đầu tư Tốc độ tăng vốn đầu tư liên hoàn Tốc độ tăng vốn đầu tư định gốc Tỷ đồng % % 9,9 11,15 12,6 12,6 14,42 29._.m diện tích lúa nương xuống còn 400ha vào năm 2010 - Đối với lâm nghiệp: Đẩy mạnh việc phát triển rừng bằng các biện pháp trồng rừng, khoanh nuôi súc tiến tái sinh và xây dựng các mô hình vườn rừng nhằm tăng nhanh độ che phủ của rừng. Phấn đấu đến năm 2010 có 16.000 ha rừng trồng, 9.200 ha rừng khoanh nuôi và xây dựng mô hình vườn rừng với diện tích là 4.500 ha. Bảo vệ và trồng rừng phòng hộ đầu nguồn theo sinh thái đa tầng, phát huy khả năng bảo vệ tối đa của tán rừng. Trong giai đoạn hiện nay đến 2010, tổng diện tích rừng được bảo vệ là 82.000 ha trong đó rừng phòng hộ là 42.100 ha và 39.900 là rừng sản xuất. Sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên rừng, đất rừng kinh doanh cây đặc sản, dược liệu, trên cơ sở đầu tư áp dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh nghề rừng, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị phục vụ nhu cấu trong vùng và xuất khẩu. Với tổng diện tích 3.000 ha bình quân hàng năm có thể khai thác 10.000m2 gỗ tròn, với 188 ha quế bình quân khai thác được 300 tấn/ năm. Tuy nhiên bên cạnh việc khai thác cân đối với khối lượng trồng, theo tỷ lệ phần trăm nhất định tuỳ vào từng loaị cây như: rừng vầu, nứa, cường độ chặt không quá 30% các loại gỗ không qua 26% và cương độ khai thác bé hơn hoặc bằng 10% trữ lượng chung rừng. Bên cạnh đó cũng đầu tư chiều sâu cho các phân xưởng chế biến nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá, đồ gỗ đặc biệt cao cấp, hàng Mỹ nghệ và bóc ván ép. - Đối với thuỷ sản: Văn Bàn chỉ phát triển nuôi thả cá ở các hộ gia đình, huyện có phương hướng, chính sách đầu tư hỗ trợ con giống tạo nguồn dự trữ thực phẩm tại chỗ cho vùng và hộ gia đình nông dân. b. Định hướng phát triển ngành công nghiệp Trong giai đoạn vừa qua công nghiệp Văn Bàn chưa có gì, giai đoạn này xe tạp trung vào những lĩnh vực có lợi thế về nguồn nguyên liệu phát triển nhanh đồng thời không có hại đến môi trường, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp để dần chuyển cơ cấu kinh tế huyện theo hướng chung của đất nước: Phát triển công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản. Với tiềm năng khoáng sản khá lơn, giai đoạn tới sẽ tập trung khai thác quy mô lớn phục vụ công nghiệp luyện kim và công nghiệp gốm sứ mỹ nghệ. Phấn đấu đến năm 2010 đạt 2,5 triệu tấn tinh quặng sắt và 2.000 tấn penspat. Với năng lượng Văn Bàn chủ yếu dựa vào nguồn lưới điện quốc gia và thuỷ điện nhỏ. Phấn đấu giai đoạn tới xây dựng thêm 3 đương dây 0,4 km đến 3 xã Tân An, Dương Quỳ và Minh Lương với tổng chiều dài 45 km. Ngoài ra tập trung phát triển thuỷ điện nhỏ các vùng sâu, vùng xa mà lưới điện chưa đến được đặc biệt là các xã Nậm Chầy, Nậm Xây, Nạm Xé. Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản vừa là để tăng thu cho ngan sách, đồng thời giải quyết nhu cầu tiêu về sản phẩm ngày càng tăng của nông dân. Với nguồn nguyên liệu khoảng 10.000 m gỗ tròn và 9.000 tấn hoa quả tươi trong năm 2010, như vậy thời kỳ tới Văn Bàn cần thiết xây dựng tại trung tâm huyện xí nghiệp chế biến nông lâm sản. Trong công nghiệp, cần khuyến khích phát triển ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng như các ngành nghề truyền thống mây che đan, dệt thổ cẩm...và sản xuất vật liệu xây dựng: gạch , ngói, vôi… phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong giai đoạn tới. c. Định hướng phát triển ngành xây dựng Trong giai đoạn này sẽ đầu tư để điều chỉnh quy hoạch lại thị trấn Khánh yên là trung tâm của huyện. Nâng cấp cải tạo lại hệ thống giao thông đường giao thông , cấp nước sinh hoạt, trụ sở làm việc của các cơ quan huyện và các công trình phúc lơịi công cộng. Quy hoạch xây dựng 5 thị tứ là các cụm kinh tế của huyện các trung tâm này thời kỳ 1996-2000 cũng được đầu tư để xây dựng nhưng mới chỉ là quy hoạch thiết kế sơ bộ, giai đoạn này cần được bổ sụng để hoàn chỉnh với quy mô dân số từ 4.000- 10.000 dân. d. Định hướng phát triển cơ sỏ hạ tầng và các ngành dịch vụ Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên nguồn vốn để phát triển. Sẽ cải tạo, nâng cấp, xây dựng lại và xây dựng với tất cả các tuyến đường từ huyện xuống xã và lên xã theo tiêu chuẩn đường cấp VI miền núi, và các đường từ xã xuống thôn và xã liên thôn đạt tiêu chuẩn đường nông thôn loại A. Phấn đâu đến năm 2010 mật đường ôtô đạt 1,7 km/1.000 ha diện tích tự nhiên và xe máy, xe công nông có thể tới tất cả bản thôn của xã. Đảm bảo phát triển giao thông gắn với phát triển kinh tế, phục vụ tích cực cho việc phát triển kinh tế nhằm xoá đói giảm nghèo tích cực nâng cao mức sống vật chất cho dân, đồng thời nâng cao mức sống tinh thần, văn hoá cho đồng bào các dân tộc. Đối vơi các công trình thuỷ lợi, tích cực ứng dụng mọi tiến bộ khoa học kỹ thuật vào mọi lĩnh vực của ngành theo hướng thuỷ lợi hoá mở rộng diện tích tưới tiêu chủ động băng công trình ở các vùng lúa thâm canh. Từng bươc kiên cố, nâng cấp, cải tạo các công trình hiện có, tận dụng các nguồn nước về mùa triệt để duy trì năng lực thiết kế của công trình, tăng hệ số sử dụng đất tăng năng suất và sản lượng công nghiệp. Đồng thời cũng tiếp tục xây dựng mới các công trình thuỷ lợi nơi có điều kiện để khai thác tiềm năng đất nông nghiệp phục vụ định canh, định cư và chương trình chuyển dịch cơ cấu sản nông lâm nghiệp của huyện. Việc phát triển thuỷ lợi không chỉ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu của 24.000 diện tích đất trồng lúa màu, mà còn phục vụ đất cấp nước sinh hoạt cho 90.100 người dân và phát triển thuỷ điện nhỏ trong các vùng trong huyện. Đối với cơ sở hạ tầng của ngành thông tin bưu điện sẽ đầu tư sâu cho các trang thiết bị, nâng cao chất lượng phát triển của các chương trình phục vụ nhu cầu phát triển giao lưu văn hoá giữa các huyện với các huyện trong tỉnh và bên ngoài. Từ nay đến năm 2001 sẽ xây dựng thêm 3 bưu cục và 3 trạm truyền thanh. Hiện nay chỉ có 3 trạm thu phát sóng truyền hình và hai bưu cục. Các dịch vụ được quan tâm phát triển, khuyến khích các thành phàn kinh tế tham gia kinh doanh, đồng thời phát triển dịch vụ thương nghiệp ở các cụm kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong kinh doanh giai đoạn này. Đồng thời cũng dầu tư cải tạo, nâng cấp và mở rộng các chợ nông thôn với các cụm kinh tế, phát triển để giảm cự ly đi lại của nhân dân, phấn đấu xây dựng 3-4 xã thành lập 1 chợ. e. Định hướng phát triển các ngành văn hoá xã hội - Với giáo dục Tiếp tục đổi mới giáo dục, tiếp tục đầu tư mới, củng cố hệ thống trường lớp, đầu tư tiếp vào những xã chưa được đầu tư mới với phương châm nhà mới nhân dân cùng làm. Xây dựng hệ thống giáo dục đa dạng bao gồm các trường mầm non, phổ thông cơ sở, trung học và dạy nghề, đồng thời phát triển thêm các trường lớp chính quy và không chính quy để thu hút học sinh nhiều hơn, mở thêm trường nội trú ở các trung tâm để con em các xã vùng cao về học. Bên cạnh đó cũng thực hiện đào tạo đội ngũ giáo viên có trình độ thấp ở vùng cao, đào tạo mới đội gũ giáo viên bằng nhiêu hình thức nhằm đáp ứng nhu cầu giáo viên trong giai đoạn tới. Văn Bàn phấn đấu phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2003, đến năm 2010 huy động 95% trẻ em trong độ tuổi đến trường, 50-60% trẻ em vào học mãu giáo, xoá mù chữ cho 50% số người mù chữ. -Với công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc vùng cao, thực hiện có kết quả các chương trình y tế cộng đồng, đặc biệt chú trọng các công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số xuống còn 1,9% vào năm 2010. Tăng cường đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị đồng bộ để nâng cao hiệu qủa khám chữa bệnh, và phát huy kinh nghiệm sẵn có khác vốn y học dân tộc, tìm tòi nguồn thuốc men tại chỗ phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho đồng bào. - Định hướng phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm. Mặc dù dân số ít nhưng việc định hướng phát triển và sử dụng nguồn lao động cũng cần có sự quan tâm đúng mực, định hướng trong thời gian tới như sau: Chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp dịch vụ phù hợp với nhu cầu phát triển của từng nghành kinh tế. Thu hút lao động vào những nơi có điều kiện phát triển như thị trấn Khánh yên, dọc quốc lộ 279, và cac khu được qui định để khai thác mỏ. Giải quyết tốt việc di dân tự do ở các xã vùng cao, nhanh chóng ổn định lực lượng lao động tại đây, tạo thêm việc làm bằng cách phát triển sản xuất,đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp. Củng cố kinh tế quốc doanh, phát triển nhiều doanh nghiệp , đa dạng hoá các thành phần kinh tế để thu hút nhiều lao động vào làm việc. Đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Chú trọng công tác định canh đinh cư nhằm ổn định sản suất tạo việc làm ổn định. Tiếp tục triển khai các dự án thuộc chương trình 135, chương trình xoá đói giảm nghèo nhằm trhu hút lao động nông nhàn. Tổ chức công tác khuyến nông , khuyến lâm để nâng cao trình độ lao động, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển mô hình vườn rừng, mô hình lâm nghiệp xã hội, phát triển nghề rừng, phát triển cây đặc sản cây ăn quả để thu hút các hộ nông dân vào sản xuất. f. Công tác định canh định cư. Đây được coi là một chương trình kinh tế xã hội độc lập, công tác này cần được thực hiện một cách đồng bộ, có sự phối hợp giữa các nghành các cấp. Định canh định cư nhằm tạo việc làm, ổn định đời sống cho đồng bào còn đang du canh du cư . Định hướng công tác này trong thời gian tới như sau: -Đầu tư phát triển sơ sở hạ tầng. Nâng cấp mở rộng hệ thống giao thông liên xã, liên bản vơi tiêu chuẩn đường cấp VI miền níu và loại A nông thôn để đến 2005 xe ô tô có thể đêns trung tâm tất cả các xã. Xây dựng nâng cấp đầu tư trang thiết bị cho các trạm xã ở tất cả các xã vùng cao, củng cố phát triển mạng lưới y tế thôn bản ở các xã này. Nâng cấp xây dựng cac trường tiểu học vùng cao, đảm bảo tất cả các bản vùng cao đếu co lớp học. Năng cấp xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt ch đồng bào các xã vùng cao -Phát triển sản xuất. Cung cấp đủ lương thực và nước sinh hoạt đảm bảo điều kiện cho người dân thực hiện nhiệm vụ trồng rừng,khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng. Kết hợp phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu tạo điều kiện cho người dân phát triển hàng hoá. Thực hiện giao đất khoán rừng đến từng hộ gia đình, đảm bảo qui trình canh tác nông lâm kết hợp. Phát triển hệ thống ruông bậc thang, tăng cường các biện pháp thuỷ lợi, sử dụng giống mới để tăng năng suất lúa, thực hiện giảm diện tích lúa nương ( phấn đấu đến năm 2010 chỉ còn 400 ha so với hiện nay là 620 ha), tăng cường thâm canh mở rộng diện tích cây ăn quả, cây dược liệu. Thâm canh chăn nuôi gia súc, gia cầm bằng cách tạo đàn giống, đưa một số giống mới vàochăn nuôi như: bò, dê… Phát triển tiểu thủ công nghiệp và các nghành nghề truyền thống, tạo thêm việc làm ổn định đời sống. Chú trọng phát triển các nghành y tế, văn hoá thông tin thương mại vùng cao, nâng cao mức hưởng thụ các dịch vụ xã hội nhằm nâng cao dân trí ở các xã vùng cao. 2. Nhu cầu vốn đầu tư từ nay đến năm 2010. Trên đây là mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội của Văn Bàn từ nay đến năm 2010 với định hướng cụ thể đó trong giai đoạn tới Văn Bàn cần huy động một lượng vốn là 166 tỷ đồng để thực hiện. (Đơn vị : tỷ đồng) Hạng mục đầu tư 2001-2010 Tổng cộng 1. Phát triển nông nghiệp 2. Phát triển lâm nghiệp 3. Phát triển công nghiệp 4. Ngành xây dựng 5. Cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ 6. Văn hoá xã hội 166 8,5 83 40 6 27 1,5 Bảng 18: Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư 2001-2010 (Nguồn: UBNN tỉnh Lào Cai. định hướng phát triển kinh tế xã hội huyện Văn Bàn 2001-2010) Ngành lâm nghiệp chiếm 50% tổng số vốn dầu tư để phát triển cụ thể được đầu tư cho các hạng mục sau Đơn vị: tỷ đồng Hạng mục đầu tư 2001-2010 1. Bảo vệ rừng 2. KN-phục hồi rừng 3. Xúc tiến tái sinh 4. Trồng rừng chăm sóc 5. Trồng cây đặc sản 6. Xây dựng vườn rừng 7. Trồng cây phân tán 42 2 6,14 30 6,8 2,06 Bảng 19: tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư trong ngành lâm nghiệp III. một số giải pháp nhằm huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tại huyện Văn Bàn-Lào Cai. Đầu tư và phát triển kinh tế đã và đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm. Nhưng qua các năm hoạt động đầu tư phát triển kinh tế là tạo được một số thành tích nhất định như taọ ra năng lực, cơ sở vật chất mới, kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực (tuy còn chậm), nền kinh tế đã có sự thay đổi về chất...Song những thành tích đó còn kém so với các vùng kinh tế khác của cả nước, chưa đủ sức để đối đầu với những khó khăn, thách thức của quá trình cạnh tranh để hội nhập kinh tế trong thế kỷ mới này. Vì vậy để quy mô vốn đầu tư tăng nhanh, hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế được nâng cao, góp phần trực tiếp và gián tiếp khắc phục khó khăn, thách thức, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sas: Giải pháp huy động vốn đầu tư . 1.1 Tăng cường khả năng huy động vốn. Ngoài những chính sách về luật pháp và thủ tục hành chính mà chính phủ cũng như sở kế hoạch và đâù tư tỉnh Lào Cai đã thực hiện nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, những chính sách khuyến khích về thuế, phí...Thì đứng trên giác độ quản lý và thẩm quyền của huyện, cần có thêm những biện pháp sau: Thứ nhất: Đối với nguốn vốn huy động từ nội bộ nền kinh tế. Với dự kiến huy động 67,06 tỷ đồng từ nội bộ nền kinh tế huyện, mặc dù dự kiến chỉ đáp ứng 40,4% tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001- 2010, nhưng đây thực là một nhiệm vụ nặng nề trong điều kiện nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn hiện nay của huyện. Vậy nên cần tập trung mọi khả năng có thể huy động vốn, huy động tiền nhàn rỗi trong dân tài sản và tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư vào phát triển sản xuất và kinh doanh. Có những chính sách phù hợp để tạo vốn, Văn Bàn có tài nguyên rừng rất lớn, như vậy có thể cho khai thác lợi dụng một cách hợp lý để tạo vốn. Các nguồn vốn được huy động trước tiên tập trung xây dựng các công trình trọng điểm đặc biệt là kết câú hạ tầng, giao thông điện nước,... Từ đó các nguồn vốn khác mới có điều kiện để phát huy. Mở rộng và tận thu ngân sách. Hàng năm Văn Bàn suất ra ngoài khoảng 10 tấn các sản phẩm của rừng như: măng, trám, các loại nấm…. Xong hầu như khối lượng sản phẩm này không đóng thuế. Bên cạnh đó không có sự can thiệp của chính quyền đại phương, do đó tư thương bên ngoài tự do ép giá, đẩy người dân luôn trong thế bị động, vừa gây thiệt hại cho ngưòi dân và không có thu cho ngân sách. Bên cạnh đó còn phải kể đến một lượng lớn gỗ vận chuyển trái phép ra khỏi huyện,...gây thất thu lớn cho ngân sách. Như vậy huyện, tỉnh nên có quy định cụ thể trong việc khai thác các loại sản phẩm đó, tăng cương kiểm tra chặt chẽ việc mua bán vận chuyển các loại hàng hoá này. Thứ hai: Đối với nguồn vốn huy động từ bên ngoài phần thiếu hụt trong tổng vốn đầu tư được huy động từ bên ngoài. Nguồn vốn này hêt sức quan trọng vì nguồn tích luỹ đầu tư trong huyện còn rất hạn chế. Mặt khác thu hút đầu tư từ bên ngoài còn tạo điều kiện đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và mở rộng thị trường. Trong thời gian qua mặc dù nguồn vốn này chiếm tỷ lệ khá lớn song nguồn huy động còn rất ít, đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài cần tạo môi trường thuận lợi, mở rộng liên doanh hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, việc liên doanh chủ yếu theo hướng phát triển khai khoáng và chế biến khoáng sản, trồng và chế biến nông lâm sản phát huy lợi thế của huyện. Xây dựng các dự án đầu tư thích hợp trong phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông, điện nước, y tế...) cho các xã vùng cao cụm kinh tế trọng điểm để thu hút nguồn vốn từ ngân sách hoặc nguồn vốn từ viện trợ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Xây dựng các dự án bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng thực nghiệm để kêu gọi nguồn vốn ngân sách. Hiện nay trên địa bàn huyện ngoài vốn đầu tư thực hiện chương trình 135, còn có nguồn vốn đầu tư của các chương trình dự án khác như: chương trình chung tâm cụm xã, chương trình định canh định cư, chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, y tế....đầu tư để trồng rừng , xây dựng các tuyến đường giao thông, các công trình thuỷ lợi các trường học...Do đó để khắc phục tình trạng đầu tư trùng lắp có thể xảy ra, nâng cao hiệu quả và sử dụng nguồn vốn đầu tư cần phải có các kế hoạch lồng gép các chương trình dự án trên địa bàn, lấy dự án trọng tâm làm trung tâm để xác định quy mô, khối lượng, thời điểm đầu tư các công trình cụ thể. 1.2 Khuyến khích đầu tư theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong điều kiện còn hạn chế về nguồn vốn đàu tư, phương châm này đã được Văn Bàn đặc biệt quan tâm chú trọng phát triển trong thời gian qua, tuy nhiên mức độ đạt được còn rất khiêm tốn, trong thời gian tới để thực hiện tốt được phương châm đó cần thực hiện các giải pháp sau - Trong lĩnh vực giáo dục y tế: Trong khi nguồn vốn đầu tư của quốc gia còn hạn chế chưa đủ để bù đắp các chi phí để xây dựng trường và mua sắm đồ dùng dậy học , thì nhà nước có thể huy động vốn từ các thành phần kinh tế tự nhiên ,các cơ quan, tổ chức kinh tế trong huỵện. Thành lập quỹ để tu sửa xây dựng trường lợp từ các gia đình phụ huynh học sinh. - Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng: Tình trạng hạ tầng giao thông điện nước, y tế, giáo dục ở Văn Bàn còn rất yếu kém, nhu cầu xây dựng còn rất lớn, trong khi nguồn vốn còn rất hạn chế chỉ đáp ứng được 1/6 nhu cầu. Do đó vốn đầu tư để mua nguyên vật liệu xây dựng, còn huy động thêm ngày công của nhân dân trong huyện tham gia thi công xây dựng có thể áp dụng và huy động được trong tất cả các công trình. Trong xây dựng trường học Văn Bàn còn sử dụng nhiều nguyên liệu tại chỗ như gỗ , nứa, cọ...có thể huy động đóng góp từ dân. Ngoài ra một số công trình giao thông có thể cho tư nhân cùng đầu tư và sau đó có thể cho thu phí để hồi vốn. Từ kinh nghiệm xây dựng cơ sở hạ tầng trong mấy năm qua đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, do vậy trong những năm tới cần phát huy nguồn này. Để làm tốt công việc này việc đầu tiên đó là cần tuyên truyền giải thích cho dân hiểu các lợi ichs do phát triển cơ sở hạ tầng ( đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tâng giao thông vận tải ) mang laị. Có thể thực hiện công tác này thông qua các tổ chưc đoàn thể trên địa bàn huyện như: Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên huyện. Ngoài ra phòng giao thông công nghiệp huyện cần có ngân sách dành cho việc khen thưởng đối với các bản xã làm tốt công tác xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương mình, đồng thời cần có cán bộ thường xuyên xuống các địa phương để động viên khuyến khích phong trào. Giải pháp sử dụng vốn đầu tư. 2.1. Tổ chức thực hiện thi công đấu thầu, nhằm tiết kiệm vốn, bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư. Để thực hiện các công trình hoặc các dự án đầu tư, có rất nhiều công việc cần giải quyết. Các công việc có thể do chủ đầu tư tự giải quyết hoặc có thể giao cho các dơn vị khác đảm nhiệm thông qua các hợp đồng kinh tế. Trường hợp chủ đầu tư tự làm các công việc của dự án thì bản than chủ đầu tư tự quản lý để đảm bảo chất lượng công trình, tiến độ chi phí...tuy nhiên các công việc của dự án có những yêu cầu phức tạp mà chủ đầu tư không có khả năng tự thực hiện tất cả. Trong khi đó có những đơn vị có năng lực thực hiện chuyên sâu về lĩnh vực đó. Chủ đầu tư có thể chọn được các đơn vị thoả mãn tối đa các yêu cầu của mình thông qua đấu thầu. Như vậy thông qua hoạt động đấu thầu chủ đầu tư lựa chọn các đơn vị đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, công nghệ, thực hiện dự án, công trình với chất lượng cao nhất và chi phí tài chính thấp nhất. Như vậy đã làm tăng hiệu quả của đầu tư tiết kiệm vốn cho chủ đầu tư cũng như cho tổng vốn của đất nước. Đối với Văn Bàn hầu hết các công trình đầu tư đều có mức vốn nhỏ (Văn bàn được phân cấp quản lý, thẩm định cáp giấy phép các cho dự án dưới mức vốn đầu tư dưới 500 triệu. Nhưng theo quy định thì các dự án lớn hơn 500 triệu mới phải thực hiện đấu thầu, những dự án từ 500 triệu đến 1 tỷ thông thường được đầu thầu theo hình thức chỉ định thầu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả đầu tư cũng như tiết kiệm cần được đấu thầu rộng rãi chỉ áp dụng hình thức chỉ định thầu trong trường hợp là các lĩnh vực ngành nghề, địa phương có liên quan đến mặt an ninh xã hội, quốc phòng.. Để bổ sung cho các hình thức lựa chọn nhà thầu hiện nay là chỉ định thầu, thì nên áp dụng thêm hình thức đấu thầu đối với các dự án có thể để lựa chọn nhà thầu phù hợp nhất. Các dự án đầu tư ở Văn bàn không cao thường từ 200 đến 500 nghìn là chủ yếu ( do UBND huyện Văn Bàn làm chủ đầu tư ) lựa chọn nhà nhà thầu, đồng thời năng cao chất lượng công trình tiết kiệm vốn đầu tư.Ngoài ra và quan trọng hơn là để tạo cơ hội cho công ty trong huyện có thể tham gia thực hiện dự án tạo việc làm và thu nhập cho người lao động trong huyện. Sau khi các công hoàn thành, chủ đầu tư ( hay UBND huyện ) có thể xem xét để cho công ty tiếp tục thực hiện các dự án khác nếu phù hợp, vừa để đỡ mất thời gian đồng thời cũng tiết kiệm chi phí và công sức cho cả hai bên. Với bên nhận thầu đó là việc đi lại vận chuyển máy móc tương đối phức tạp vì giao thông Văn Bàn tương đối xa và khó đi. Đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế hiện nay của Văn Bàn là Nông- lâm-công nghiệp –dịch vụ. Với cơ cấu của các ngành trong GDP: nông lâm nghiệp chiếm71,6%; công nghiệp 17,3%, dịch vụ 11,1%. Tuy nhiên trong thời gian tới cần giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng lâm nghiệp , tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến. Để có những biện pháp đó cần có những giải pháp sau: Thư nhất: đối với ngành nông nghiệp Trong những năm tới định hướng phát triển nông nghiệp giảm để đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý do đó nên đầu tư theo chiều sâu làm tăng tính hiệu quả sử dụng đất. Thâm canh gối vụ tăng năng suất đẩy mạnh thâm canh hai vụ. Bố trí hợp thời vụ, đảm bảo tăng vụ nhưng không ảnh hưởng đến năng suất đầu tư xây dựng trại giống lúa, trại giống cây ăn quả, ứng dụng các thành tựu về cây trồng vật nuôi có năng suất cao vào sản xuất. Đồng thời hoàn chỉnh việc giao đất cho các hộ gia đình để khai thác tiềm năng và tăng hệ số sử dụng đất của vùng. Thứ hai: đối với ngành lâm nghiệp Gắn hoàn thiện giao đất, giao rừng với phương hướng sản xuất lấy khoanh nuôi bảo vệ và tái sinh rừng làm mục tiêu chủ yếu. Giữ vững diện tích rừng được tán che phủ rừng hiện nay là 55,6 % và lên 67,8% năm 2010, kết hợp trồng rừng với khai thác tài nguyên rừng theo quy hoạch một cách hợp lý và có hiệu quả. Thực hiện lâm nghiệp vào xã hội theo hướng mạnh vào kinh tế vườn rừng, tập trung và trồng các cây đặc sản có ưu thế như Thảo quả, quế, gỗ quý và các loại cây ăn quả khác...Tiếp tục tổ chức khai thác lâm sản tại chỗ, dưa vào chế biến để mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, xác định rõ phải lấy lâm nghiệp làm thế mạnh để xuất khẩu, tăng thu nhập đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của đời sống nhân dân trong huyện. Tăng cường lực lượng bảo vệ rừng, đồnh thơì có chính sách khuyến khích thoả đáng cho các cá nhân tập thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ rừng. Kiểm tra giám sát việc thực hiện qui trình qui phạm về bảo vệ rừng (đặc biệt là khai thác rừng) chuyển nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp cho phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trung ương và tỉnh có qui định cụ thể về việc sử dụng lợi nhuận từ khai thác rừng để đầu tư cho phục hồi lại rừng nên để cho huyện chủ động giải quyết dưới sự kiểm tra giám sát của Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thứ ba: với ngành công nghiệp-xây dựng Với công nghiệp tập trung vốn đầu tư để xây dựng các cơ sở chế biến nông lâm sản để tăng giá trị hàng hoá của sản phẩm, đồng thời đầu tư chiều sâu cho xưởng chế biến gỗ hiện có của huyện, do việc khai thác gỗ được hạn chế, nên phân xưởng gỗ hiện nay cần tập trung đầu tư công nghệ và lắp đặt dây truyền sản xuất bột giấy với công suất 500-700 tấn/năm tại khu vự thị trấn tương xứng với tiềm năng nguồn nguyên liệu tre, vầu, nứa… tại chỗ của huyện, vừa giải quyết được việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Với xây dựng , ưu tiên đầu tư cho các công trình trọng điểm dân hoàn thiện liên tục, xong phải xác định đúng trọng điểm khâu quan trọng và đặc điểm của giao thông đường bộ là một hệ thống liên tục, có tác động tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau. Đầu tư tuyến nào hoàn chỉnh tuyến đó, tránh đầu tư nhỏ giọt thi công kéo dài chủ động bố trí đầu tư theo mùa, vào những thời điểm thích hợp như tổ chức thi công vào mùa khô và huy động lao động vào thời điểm nông nhàn. Dự kiến kế hoạch đầu tư phòng ngừa, chặn trước ở những nơi, những khâu xung yếu dễ xảy ra sự cố trong mùa mưa lũ đảm bảo giao thông luôn được thông suốt. 2.3 Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực và kinh nghiệm trong quản lý kinh tế . Chúng ta thường nói đến hiệu quả kinh tế, đến sự dịch chuyển kinh tế chậm chạp, đến cơ chế quản lý chưa ngang tầm với công cuộc đổi mới, đến tình trạng vi phạm kỉ cương phép nước, buôn lậu... Nhưng tất cả đều có nguyên nhân sâu xa là thiếu hụt trong nhân tố con người. Việc sử dụng những các bộ không đúng chức năng nghành nghề, cán bộ còn yếu về chuyên môn ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công việc. Chuyển đổi từ đền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường tạo ra không ít khó khăn trong đó có việc đào tạo cán bộ, quản lý kinh tế theo cơ chế mới có trình độ chuyên môn đảm nhận công việc được giao. Cụ thể thiếu những chuyên gia am hiểu cơ chế thị trường có khả năng cơ chế hoá đường lối của Đảng, những nhà quản lý giỏi, những người có tài , có đức. Những thiếu hụt trong nhân tố con người là trở ngại lơn nhất. Để bù đáp những thiếu hụt này không thể làm trong ngày một ngày hai. Xây dựng một công trình, nhà máy có thể hoàn thành trong một vài năm thậm chí vài tháng, nhưng việc đào tạo một nhà làm việc, quản lý sao cho có hiệu quả thì phải mát hàng chục năm. Những trở ngại trên là thách thức đối với sự phát triển kinh tế đất nước nói chung, đặc biệt khó khăn đối với Văn Bàn nói riêng. Để công cuộc đầu tư trên địa bàn huyện đạt hiệu quả cao hơn, chúng ta cần đào tạo đội ngũ các bộ có đủ trình độ, kiến thức phẩm chất đạo đức tốt đồng thời phải đảm nhiệm những công việc phù hợp với chuyên môn của mình. Tuy nhiên việc đào tạo những cán bộ giỏi có kinh nghiệm quản lý tốt trở nên vô nghĩa nếu không có chính sách hợp lí trong sử dụng nguồn lao động này. Nói như vậy vì rằng Văn Bàn là một huyện miền núi cao, đội ngũ cán bộ nói chung còn thiếu rất nhiều chưa kể đến cán bộ có chuyên môn. Hàng năm Văn Bàn có gửi cán bộ đi đào tạo chuyên môn tại các trường đại học và cao đẳng nhưng còn rất nhiều hạn chế, vì như vậy Văn Bàn còn thiếu cán bộ có chuyên môn đảm đương công việc hàng ngày. Văn Bàn được ưu tiên rất nhiều trong khi thi vào trường, do đó mỗi năm học sinh Văn Bàn đi học tại các trường cao đẳng, đại học, song phần lớn là học trung cấp và chuyên tu, tại chức sau đó con số thực tế quay trở lại rất ít, cũng phải thừa nhận thêm rằng tỷ lệ thi đỗ vào đại học cao đẳng còn rất thấp có năm chỉ có 20% đỗ cao đẳng còn đại học là không có. Như vậy là cũng do chất lượng giaó dục của huyện, cũng như điều kiện dạy học ở đây. Nhưng điều kiện quan trọng nhất hiện nay là phải có chính sách đãi ngộ cho thoả đáng với đội ngũ có trình độ có năng lực. Cần phải cải cách tiền lương đối với lao động tại những vùng sâu này để sau khi học tập rèn luyện những ngưòi ra đi từ nơi đây lại có động lực quay trở lại xây dựng quê mình. Ngoài ra Văn Bàn cần đầu tư chiều sâu cho công tác dân số kế hoach hoá gia đình để giảm tỷ lệ tăng dân số vì tốc độ tăng dân số của Văn Bàn rất cao năm 2000 vẫn đang ở mức 2,4 % năm, tăng cường cho công tác truyền thông dân số công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, đây là những nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Văn Bàn, cũng như hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tăng cường công tác đào tạo theo nhiều hình thức để nâng cao tỷ lệ lao động kỹ thuật cho huyện, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Phổ cập trình độ và tiêu chuẩn lao động, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế quản lý doanh nghiệp thích hợp vơi mức độ phát triển kinh tế xã hộivà đường lối công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Mở trường dạy nghề tại thị trấn, mở thêm các trung tâm hướng nghiệp cho người lao động ở các cum kinh tế lớn. Kết luận “Đầu tư phát triển” là hoạt động vừa mới lạivừa quen thục với chúng ta trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.Cái cũ của đầu tư phát triển thể hiện ở chỗ chúng ta đã nghiên cứu, tiến hành các công cuộc đầu tư phát triển, cái mới cảu nó chính là yêu cầu đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu úng dụng những giải pháp mới, chính sách mới nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư của huyện. Thu hút và sử dụng như thế nào đối với vốn đầu tư là một vấn đề phức tạp, đánh giá nó không chỉ phụ thuộc vào phạm vi xem xét mà còn phụ thuộc vào cấp độ quản lý. Được sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà cùng các cô chu ở phòng Kế hoạch và Đầu tư của huyện Văn Bàn trong bài viết của mình, tôi đã đánh giá tình hình hoạt động đầu tư của huyện trong thời gian qua, qua đó nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trong thời gian tới. Tuy nhiên, do trình độ bản thân còn hạn chế nên bài viết của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong ý kiến đóng góp của thầy cô giáo, các cô chú ở phòng Kế hoạch và đầu tư huyện Văn Bàn để tôi có thể rút ra những kiến thức bổ ích cho quá trình học tập và công tác sau này. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Nguyễn Thị Thu Hà, cũng như các thầy cô trong Bộ môn kinh tế đầu tư và các cô chú ở phòng Kế hoạch và đầu tư huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư. PTS Nguyễn Ngọc Mai, Nxb GD, H 1998 2. UBND huyện Văn Bàn, Kế hoạch nhà n]ớc các năm 1996,1997, 1998, 1999, 2000. UBND huyện Văn Bàn, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và đầu tư xây huyện Văn Bàn các năm 1996-2000 UBND huyện Văn Bàn, Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình 327; Báo cáo thực hiện chương trình 135 năm 1999-2000. Phòng công nghiệp Văn Bàn, tổng kết thực hiện giao thông nông thôn 1996-2000 UBND Tỉnh Lầo cai, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1996 – 2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0084.doc
Tài liệu liên quan