Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Công ty may Thăng Long

lời nói đầu Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu kết hợp song song với chiến lược thay thế nhập khẩu. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản và và lần này trong đại hội IX đã khẳng định tiếp “Đẩy mạnh sản xuất, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại”. Đối với Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng vai

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Nó là một phương tiện hữu hiệu cho phát triển kinh tế, tăng thu ngoại tệ, phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, cải tiến công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là yếu tố không thể thiếu nhằm triển khai thực hiện chương trình CNH- HĐH đất nước. Nhận thức rõ vấn đề này, đảng và nhà nước ta đã xây dưng các chiến lược phát triển dài hạn, các chương trình, kế hoạch thực hiện cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu phát triển. Đây cũng là nhiệm vụ mà đảng và nhà nước giao cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có công ty may Thăng Long. Trong điều kiện đất nước ta đang đổi mới hiện nay, ngành may mặc được coi là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu, chiến lược, nhiệm vụ của ngành là góp phần thực hiện thắng lợi đường lối của đảng, góp phần thắng lợi sự nghiêp CNH-HĐN đất nước đảm bảo nhu cầu may mặc toàn xã hội, không ngừng tăng cường xuất khẩu và giải quyết việc làm cho người lao động. Công ty may Thăng Long là một công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1958 cùng với sự đổi mới về kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, công ty đã nhanh chóng thích nghi với thị trường, ổn định sản xuất và không ngừng phát triển sản xuất và kinh doanh của công ty. Hàng may mặc xuất khẩu là mặt hàng chính của công ty từ trước tới nay. Vì vậy để tiếp cận với thị trường nước ngoài đòi hỏi ngày càng cao như hiện nay đã đặt ra cho công ty may mặc Thăng Long những cơ hội và thử thách. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc, duy trì và mở rộng nhiều thị trường nước ngoài là một vấn đề mang tính chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của công ty hiện nay. Vì vậy, qua thời gian thực tập ở công ty may Thăng Long, em đã nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của công ty và chọn đề tài : “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở công ty may Thăng Long” làm Luận văn tốt nghiệp của mình . Luận văn tốt nghiệp bao gồm các phần sau: Chương I : Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Phân tích hoạt động xuất khẩu hàng may mặc tại công ty Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở công ty Mặc dù đã có cố gắng nhiều song do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tế nên bài viết không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được những ý kiến của các thầy cô. Qua đây em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của giáo viên: Nguyễn Thị Ngọc Huyền và các cô chú trong phòng kế hoạch của công ty may Thăng Long đã hướng dẫn trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài viết này. Chương I Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ngành may mặc . I. Hoạt động xuất khẩu hàng may mặc 1.Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu 1.1 Khái niệm Xuất khẩu là hoạt động nhằm tiêu thụ một phần tổng sản phẩm xã hội ra nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu là quả trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Sự trao đổi mua bán hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của quốc gia. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức ở cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế xã hội thúc đẩy hoạt động xản xuất hàng hoá trong nước phát triển góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Các mối quan hệ này xuất hiện có sự phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất. 1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu : Hoạt động xuất khẩu (HĐXK) thể hiện nhu cầu về hàng hoá của quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể. Và nó chỉ ra những lĩnh vực, sản phẩm có thể chuyên môn hoá được, những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quốc tế. Vì thế nó đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm thực hiện những mục tiêu phát triển đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại. Cụ thể : *Đối với doanh nghiệp (DN) Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nghĩa là mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng nhất vì sản phảm sản xuất ra có tiêu thụ được thì mới thu được vốn, có lợi nhuận để tái sản xuất ,…mở rộng sản xuất, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Xuất khẩu sẽ mạng lại cho doanh nghiệp nhiều thuận lợi, nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài, tăng tài sản vô hình của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Đồng thời tạo thêm vốn để mở rộng lịnh vực kinh doanh, đào tạo cán bộ, đổi mới công nghệ, khai thác các tiềm lực hiện có, tạo ra được việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Cũng thông qua đó, doanh nghiệp có cơ hội tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm về hình thức trong kinh doanh, về trình độ quản lý, giúp tiếp xúc với những công nghệ mới, hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực mới thích nghi với điều kiện kinh doanh mới nhằm cho ra đời những sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng, phong phú. * Đối với nền kinh tế: Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế. Nó là một bộ phận cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta. Với một nền kinh tế chậm phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh việc đẩy mạnh xuất khẩu để tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược lâu dài. Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó, chúng ta phải nhận thức được ý nghĩa của hàng hoá xuất khẩu, nó được thể hiện : - Xuất khẩu tạo được nguồn vốn, ngoại tệ lớn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ phát triển kinh tế, phục vụ quá trính CNH- HĐN đất nước. - Thông qua việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh chúng ta có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng lợi thế các nguồn lực trao đổi thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Đây là yếu tố then chốt trong chương trình CNH- HĐH đất nước đồng thời phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hay xuất khẩu có tính cạnh tranh ngày càng cao hơn. -Thông qua hoạt động xuất khẩu, tính cạnh tranh cũng được nâng cao chính nhờ sự cạnh tranh này mà chất lượng hàng hoá không ngừng được nâng cao lên tạo điều kiện tăng năng lực sản xuất, thể hiện nội lực kinh tế của đất nước không những thế xuất khẩu phát triển sẽ phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người mọi đơn vị sản xuất kinh doanh xuất khẩu và các tổ chức xã hội. -Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người lao động. -Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.Thông qua hoạt động xuất khẩu môi trường kinh tế được mở rộng tính cạng tranh ngày càng cao đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải có sự đổi mới để thích nghi, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hoạt động xuất khẩu góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất khẩu của nhà nước và của từng điạ phương phù hợp với yêu cầu chính đáng của doang nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Mặt khác, hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt ngành sản xuất phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu phát triển như ngành bảo hiểm, hành hải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính quốc tế đầu tư ,… xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời việc nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo vốn, đưa kỹ thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước. 2.Các hình thức của hoạt động xuất khẩu. 2.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc đặt mua của doanh sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm này với danh nghĩa là hàng của mình. Để tiến hành một thương vụ xuất khẩu trực tiếp cần theo các bước sau: +Tiến hành ký kết hợp đồng nội địa trước, đây là hình thức ký kết với các đơn vị kinh doanh hàng hoá trong nước. Sau đó mua hàng và trả tiền cho các đơn vị sản xuất trong nước. +Ký hợp đồng ngoại (loại hợp đồng ký kết với các đối tác nước ngoài có nhu cầu mua sản phẩm của doanh nghiệp), tiến hành giao hàng và thanh toán tiền. Với hình thức xuất khẩu trực tiếp này có ưu điểm là đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng, do không mất khoản chi phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp. Nếu hàng thoã mãn yêu cầu của đối tác giao dịch. Nhưng nhược điểm của nó là không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng theo được, bởi nó đòi hỏi lượng vốn tương đối lớn và có quan hệ tốt với bạn hàng. 2.2.Xuất khẩu uỷ thác. Đây là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp ngoại thương với vai trò trung gian xuất thay cho các đơn vị sản xuất băng các thủ tục cần thiết để xuất hàng và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu. Các bước tiến hành xuất khẩu uỷ thác : + Ký kết hợp đồng nhận uỷ thác cho cho đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu trong nước. + Ký kết hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền . + Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất. Ưu điểm của hình thức này là hạn chế được rủi ro, trách nhiệm ít, bởi người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, không đòi hỏi vốn lớn. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được cho doanh nghiệp ngoại thương không cao. Còn đối với doanh nghiệp sản xuất khi thực hiện phương thức xuất khẩu này, họ sẽ mất một khoản phí uỷ thác và không được tiếp cận với khách hàng nước ngoài, tìm hiểu thị trường xuất khẩu. 2..3. Xuất khẩu gia công uỷ thác. Khi tiến hành xuất khẩu theo hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải đứng ra với vai trò nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phần về cho đơn vị sản xuất, xí nghiệp gia công. Sau đó, khi sản phẩm được hoàn thành nhận lại và xuất cho bên đối tác. Các bước tiến hành: + Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị sản xuất trong nước. + Ký kết hợp đồng gia công với nước ngoài và nguyên vật liệu + Xuất khẩu lại thành phần cho bên nước ngoài. + Thanh toán chi phí gia công cho đơn vị sản xuất ( bên nước ngoài thanh toán tất cả và doanh nghiệp thanh toán cho đơn vị sản xuất ). Để kinh doanh xuất khẩu ttheo hình thức này, doanh nghiệp không cần bỏ nhiều vốn kinh doanh nhưng hiệu quả tương đối cao, ít rủi ro thị trường tiêu thụ chắc chắn.Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức phức tạp bởi nó đòi hỏi phải tìm được đối tác nước ngoài có nhu cầu. Vì thế, doanh nghiệp phải có uy tín lớn trên thị trường và năng động trong kinh doanh. 2.4 Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó có một bên biên nhận gia công nguyên vật liệu hay bán thành phần của bên đặt gia công nhằm thu lợi nhuận ( phí gia công ) Hiện nay, hình thức gia công quốc tế được vận dụng khá phổ biến nhưng thị trường của nó chỉ là thị trường một chiều, và bên đặt gia công thường là các nước phát triển, còn bên nhận gia công thường là các nước chậm phát triển . Đó là sự khác nhau về lợi thế so sánh của mỗi quốc gia . Đối với bên đặt gia công, họ tìm kiếm một nguồn lao động với giá rẻ hơn giá trong nước nhằm giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận, còn bên nhận gia công có nguồn lao động dồi dào mong muốn có việc làm tạo thu nhập, cải thiện đời sống và qua đó tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. 2.5 Xuất khẩu theo nghị định thư. Hình thức xuất khẩu hàng hoá này được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ và hàng hoá ở đây thường là hàng trả nợ. Xuất khẩu theo hình thức này sẽ hạn chế được rủi ro trong thanh toán (do nhà nước trả) tiết kiệm chi phí nghiên cứu thị trường, gia cả hàng hoá dễ chấp nhận. Nhưng xuất khẩu theo hình thức này đem lại lợi nhuận không cao. Hiện nay, hình thức này không được áp dụng phổ biến bởi không đem lại nhiều lợi ích cho cả hai bên, hàng hoá không đều, phức tạp, chất lượng không cao ... 2.6. Xuất khẩu tại chỗ. Là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu được bán ngay tại nước xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương không phải ra nước ngoài để đàm phán, ký kết hợp đồng mà người mua tự tìm đến doanh nghiệp để mua hàng. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng không phải làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá hay thuê phương tiện vận chuyển. Đây là hình thức xuất khẩu đặc trưng, khác biệt so với hình thức xuất khẩu khác và ngày càng được vận dụng theo nhiều xu hướng phát triển trên thế giới. 2.7. Tái xuất khẩu. Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu những hàng hoá nhập khẩu nhưng qua chế biến ở nước tái xuất khẩu ra nước ngoài Giao dịch trong hình thái tái xuất khẩu bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu. Với mục đích thu về lượng ngoại tệ lớn hơn so với số vốn ban đầu bỏ ra. Giao dịch này được tiến hành dưới ba nước:nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu. Hình thức tái xuất khẩu có thể tiền hành theo hai cách. + Hàng hoá đi từ nước tái xuất khẩu đến nước tái xuất khẩu và đi từ nước tái xuất khẩu sang nước xuất khẩu. Ngược lại, dòng tiền lại được chuyển từ nước nhập khẩu sang nước tái xuất khẩu rồi sang nước xuất khẩu (nước tái xuất khẩu trả tiền nước xuất khẩu rồi thu tiền nước nhập) + Hàng hoá đi thẳng từ nước xuất sang nước nhập. Nước tái xuất chỉ có vai trò trên giấy tờ như một nước trung gian. Hoạt động tái xuất khẩu chỉ diễn ra khi mà các nước bị hạn hẹp về quan hệ thương mại quốc tế do bị cấm vận hoặc trừng phạt kinh tế hoặc thị trường mới chưa có kinh nghiệm cần có người trung gian. 2.8. Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu là hình thức giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp với hoạt động nhập khẩu và người bán cũng đồng thời là người mua. Lượng hàng hoá trao đổi ở đây có giá trị tương đương với nhau .Do đó việc xuất khẩu hàng hoá này không phải là để thu ngoại tệ về mà nhằm thu về lượng hàng hoá có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Các loại hình buôn bán đối lưu. + Hình thức hàng đổi hàng: là hình thức giao dịch mà hai bên trực tiếp trao đổi hàng hoá dịch vụ có giá trị tương đương, không dùng tiền là phương tiện trung gian. + Hình thức trao đổi bù trừ: là hình thức xuất khẩu liên kết với nhập khẩu ngay trong hợp đồng, có thể trừ trước hay bù song song. + Nghiệp vụ đối lưu: là hình thức một bên giao thiết bị cho bên kia rồi mua lại thành phẩm hay bán thành phẩm. Hình thức buôn bán đối lưu có ưu điểm là có thể thực hiện được khi các bên thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, thiếu ngoại tệ. Hơn nữa, nó tránh được những rủi ro do biến động thị trường ngoại hối gây ra. Nhưng để thực hiện phương thức giao dịch này đòi hỏi phải tiến hành theo các yêu cầu sau: + Hai bên phải cùng tham gia vào cân bằng về mặt hàng hoá + Cùng cân bằng về giá cả + Cùng thoả thuận điều kiện giao hàng Các yêu cầu trên được thực hiện đầy đủ sẽ tạo cho cả hai bên cùng thoả mãn với số lượng hàng mà mình nhận được. Do vậy, quan hệ giữa hai quốc gia sẽ ngày càng tốt đẹp và bền vững. Tóm lại, với các hình thức xuất khẩu được trình bày ở trên, việc áp dụng vào hình thức nào là tuỳ thuộc vào bản thân từng doanh nghiệp và bên đối tác tham gia thoả hiệp. Mà mỗi hình thức dều có những mặt tích cực và mặt hạn chế, cho nên khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần nghiên cứu đánh giá xem xét nên xuất khẩu theo hình thức nào để thu về nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. 3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là một quy trình kinh doanh bao gồm nhiều bước nối tiếp nhau . Mỗi bước có một có một số đặc điểm riêng biệt và được tiến hành theo các cách thức nhất định. 3.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường nước ngoài. Nghiên cứu thị trường nhằm nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu hết các quy luật vận động của thị trường để kịp thời đưa ra các quyết định. Vì thế nó có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển và nâng cao hiệu suất các quan hệ kinh tế đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Vì thế khi nghiên cứu về thị trường nước ngoài, ngoài các yếu tố chính trị, luật pháp, cơ sở hạ tầng phong tục tập quán ,… doanh nghiệp còn phải biểt xuất khẩu mặt hàng nào, dung lượng thị trường hàng hoá là bao nhiêu, đối tác kinh doanh là ai, phương thức giao dịch như thế nào, sự biến động hàng hoá trên thị trường ra sao, cần có chiến lược kinh doanh gì để đạt được mục tiêu đề ra. -Tổ chức thu thập thông tin Công việc đầu tiên của người nghiên cứu thị trường là thu thập thông tin có liên quan đến thị trường về mặt hàng cần quan tâm. Có thể thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau. Trước hết là các thông tin từ các tổ chức quốc tế như trung tâm thương mại và phát triển của Liên hợp quốc, Hội đồng kinh tế và Châu á Thái Bình Dương, cơ quan thống kê và các tổ chức khác. Nguồn tin qua trọng thứ hai là nguồn tin từ các bản tin, các thời báo án phẩm … Một nguồn tin quan trọng nữa là nguồn tin từ các thương nhân có quan hệ làm ăn buôn bán. Bộ phận tư vấn thị trường của trung tâm thương mại quốc tế đã hợp tác với cơ quan thống kê của liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác đưa ra số liệu thống kê và mậu dịch quốc tế. Dịch vụ thống kê mới của trung tâm thương mại quốc tế ưu tiên phục vụ cho các nước đang phát triển, đặc biệt là thông tin về thị trường hàng hoá mà các nước này quan tâm. Một loại thông tin không thể thiếu được là thông tin thu thập từ thị trường , thông tin này gắn với phương pháp nghiên cứu tại thị trường. Thông tin thu thập tại hiện trường chủ yếu được thu thập được theo trực quan của nhân viên khảo sát thị trường, thông tin này cũng có thể thu thập theo kiểu phỏng vấn theo câu hỏi …Loại thông tin này đang ở dạng thô cho nên cần xử lý và lựa chọn thông tin cần thiết và dáng tin cậy. -Phân tích thông tin + Phân tích thông tin về môi trường Môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì vậy khi phân tích cần phải thu thập và thông tin về môi trường một cách kịp thời và chính xác. + Phân tích thông tin về giá cả hàng hoá Giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới biến động rất phức tạp và chịu chi phối bởi các nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng đoạn, nhân tố cạnh tranh. Nhân tố lạm phát. + Phân tích thông tin về nhu cầu tiêu dùng. Nhu cầu của thị trường là tiêu thụ được, chú ý đặc biệt trong marketinh , thương mại quốc tế, bởi vì công việc kinh doanh được bắt nguồn từ nhu cầu thị trường. * Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Trước hết cần xác định các tiêu chuẩn mà các thị trường đáp ứng - Các tiêu chuẩn chung: + Chính trị pháp luật + Địa lý: khoảng cách khí hậu, sự phân bố + Kinh tế : Thu nhập tốc độ tăng trưởng + Tiêu chuẩn kinh tế Các tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ . + Bảo hộ mậu dịch: thuế quan, hạn ngạch giấy phép + Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sức mua của đồng tiền Các tiêu chuẩn thương mại + Sản xuất nội địa + Xuất khẩu Các tiêu chuẩn trên phải được đánh giá, cân nhắc điều chỉnh theo mức độ quan trọng. Thì thường sau khi đánh giá họ sẽ chiếm các thị trường, sau đó chọn thị trường tốt nhất. 3.2. Xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất khẩu. Kế hoạch kinh doanh xuất khẩu phải được xây dựng cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến việc xuất khẩu. * Xây dựng kế hoạch tạo nguồn hàng: Nguồn hàng xây dựng được tạo bằng cách: Đối với doanh nghiệp sản xuất thì tạo nguồn hàng là việc tổ chức hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp sản xuất cần phải trang bị máy móc, nhà xưởng nhiên liệu để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu. Kế hoạch tổ chức sản xuất phải lập chi tiết, hoạch toán chi phí cụ thể cho từng đối tượng. Vấn đề công nhân cũng là một vấn đề quan trọng, số lượng công nhân, trình độ, chi phí. Đặc biệt trình độ và chi phí cho công nhân nhân tố này ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và giá thành sản xuất. * Lập kế hoạch xuất khẩu ở bước nghiên cứu doanh nghiệp đã chon thị trường xuất khẩu. doanh nghiệp lập kế hoạch xuất khẩu sang thị trường bao gồm: hàng hoá, khối lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá, phương thức sản xuất. Sau khi xác định sơ bộ các yếu tố trên doang nghiệp cần phải lập kế hoạch dao dịch ký kết hợp đồng. Lập danh mục các khách hàng Lập danh mục các hàng hoá Dự kiến số lượng bán cho từng khách hàng Thời gian giao dịch 3.3. Tổ chức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng * Chuẩn bị cho giao dịch. Để công tác chuẩn bị dao dịch diễn ra tốt đẹp doanh nghiệp phải biết đầy đủ các thông tinvề hàng hoá, thị trường tiêu thụ, khách hàng v.v.. Việc lựa chọn khách hàng để giao dịch căn cứ vào các điều kiện sau: Tình hình kinh doanh của khách hàng Khả năng về vồn, cơ sở vật chất của khách hàng Quan điểm kinh doanh của khách hàng Uy tín, danh tiếng quan hệ làm ăn của khách hàng Thái độ của khách hàng * Giao dịch đàm phán ký kết. Trước khi ký kết mua bán với nhau, người xuất khẩu và người nhập khẩu phải trải qua quá trình giao dịch thương lượng các công việc bao gồm : Chào hàng: là đề nghị của người xuất khẩu hoặc người xuất khẩu gửi cho người bên kia biểu thị muốn mua bán một số hàng nhất định và điều kiện, giá cả thời gian, địa điểm nhất định. Hoàn giá: khi nhận được thư chào hàng nếu không chấp nhận điều kiện trong thư mà đưa ra đề nghị mới thì đề nghị này được gọi là hoàn giá. Chấp nhận: là đồng ý hoàn toàn bộ tất cả các diều kiện trong thư chào hàng. Xác nhận: hai bên mua bán thống nhất với nhau về các điều kiện đã giao dịch. Họ đồng ý với nhau và đồng ý thành lập văn bản xác nhận ( thường lập thành hai bản ) Ngày nay tồn tại hai loại giao dịch: Giao dịch trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận bàn bạc trực tiếp. Giao dịch gián tiếp: là giao dịch thông qua các tổ chức trung gian. Tuỳ theo trường hợp cụ thể mà các doanh nghịêp chọn phương thức giao dịch thích hợp. Trong thực tế hiện nay, giao dịch trực tiếp được áp dụng rộng rãi bởi giảm được chi phí trung gian, dễ dàng thống nhất, có điều kiện tiếp xúc với thị trường, khách hàng, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá * Ký kết hợp đồng Việc giao dịch đàm phán có kết quả tốt thì coi như đã hoàn thành công việc ký kết hợp đồng. Ký kết hợp đồng có thể ký kết trực tiếp hay thông qua tài liệu Khi ký kết cần chú ý đến vấn đề địa điểm thời gian và tuỳ từng trường hợp mà chon hình thức ký kết. 3.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu thì doanh nghiệp phải thực hiện các công việc khác nhau. Tuỳ theo điều khoản hợp đồng mà doanh nghiệp phải làm một số công việc nào đó. Thông thường các doanh nghiệp cần thực hiện các công việc được mô tả theo sơ đồ. Xin giấy phép xuất khẩu nếu cần Sơ đồ : Quy trình xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá Kiểm tra L/C Ký hợp đồng Thuế tàu (nếu cần) Kiểm tra hàng hoá Làm thủ tục hải quan Mua bảo hiểm (nếu cần) Giải quyết tranh chấp (nếu có ) Thanh toán Giao hàng l lên tàu 3.5 Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Việc đánh giá hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là một việc cần thiết. Bởi vì nó cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả của một hợp đồng xuất khẩu và của công việc kinh doanh. Qua việc đánh giá doanh nghiệp sẽ thấy được hạn chế của hoạt động để lần sau khắc phục đồng thời phát huy những ưu điểm, những mặt mạnh của doanh nghiệp. Để đánh giá hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hay không chúng ta phải so sánh những kết quả đạt được với những tiêu chuẩn thông qua hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả. Kết quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp có thể chia thành hai loại: Các kết quả định hướng Các kết quả định tính Từ đó có các chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng và chỉ tiêu phản ánh kết quả định tính * Các chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng . Lợi nhuận: là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp kết quả từng hợp đồng xuất khẩu, là chỉ tiêu phản ánh cuối cùng và quan trọng nhất . Lợi nhuận là số tiền có được sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đó và tổng doanh thu có được của hợp đồng Công thức tính lợi nhuận P = TR - TC trong đó : P : là lợi nhuận IR: là tổng doanh thu TC: là tổng chi phí - Tổng suất lợi nhuận : cho biết hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả đến độ nào. Công thức tính : P’ = Trong đó: P’ là tỷ suất lợi nhuận Chỉ tiêu P’nói lên rằng: tỷ lệ % lãi so với tổng chi phí của doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng, hay khả năng sinh lời của một đồng chi phí. Chỉ tiêu này có thể so sánh với tỷ suất lãi của ngân hàng hay so với một tiêu chuẩn nào đó. Chỉ tiêu chỉ suất ngoại tệ xuất khẩu là tỷ lệ giữa tổng chi phí tính bằng ngoại tệ trên doanh thu tính bằng ngoại tệ. Chỉ tiêu này đem so sánh với tỷ giá hối đoái của ngân hàng, nếu chỉ tiêu trên bé hơn tỷ giá thì thực hiện đường lối có hiệu quả và ngược lại. Tỷ suất ngoại xuất khẩu = *Chỉ tiêu phản ánh kết quả định tính. Hợp đồng xuất khẩu cũng như hợp đồng kinh doanh khác của doanh nghiệp, nó không chỉ nhằm vào mục tiêu lợi nhuận mà còn nhiều mục tiêu khác như: mở rộng thị trường, định vị sẩn phẩm, cạnh tranh. Có nhiều doanh nghiệp chịu lỗ để đạt được mục tiêu về cạnh tranh, mở rộng thị trường, khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường, kết quả này có được sau một thời gian nỗ lực không ngừng của doanh nghiệp trong việc thúc đẩy các hợp đồng xuất khẩu của mình. Kết quả này biểu hiện ở thị trường xuất khẩu hiện có của doanh nghiệp, khả năng mở rộng sang các thị trường khác, mối quan hệ với khách hàng được mở rộng đến đâu, khả năng khai thác thực hiện các thị trường. Hiện nay vấn đề thị trường và khách hàng là vấn đề hết sức khó khăn nó trở thành mục tiêu không kém phần quan trọng. Khả năng mở rộng thị trường, quan hệ buôn bán với khách hàng như thế nào? Đặc biệt là quan hệ với khách hàng người nước ngoài. sau mỗi hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải xem xét lại quan hệ làm ăn có được phát triển hay không, mức độ hài lòng của khách hàng. Uy tín của doanh nghiệp: doanh nghiệp cần phải xem xét uy tín của mình trên thương trường: sản phẩm của mình có được ưa thích, được nhiều người hay biết không ? Cần giữ uy tín trong quan hệ làm ăn buôn bán không vi phạm hợp đồng. II. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu . 1. Các yếu tố vi mô. Các yếu tố thuộc doanh nghiệp là một trong các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng bao gồm: 1.1 Sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng nhanh, sức cạnh tranh phụ thuộc năng lực tài chính của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, giá cả, biện pháp marketing, dịch vụ đi làm. + Năng lực tài chính của doanh nghiệp: thể hiện ở vốn kinh doanh của doanh nghiệp, lượng tiền mặt, ngoại tệ, cơ cấu vốn .. những nhân tố này doanh nghiệp có thể tác động để tạo thế cân bằng và phát triển. Vốn là một nhân tố quan trọng là một biến trong hàm xuất khẩu cobb- donglas doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định nào đó thì mới có thể phát triển sản xuất. Doanh nghiệp cũng phải có một cơ cấu vốn hợp lý nhằm phục vụ tốt cho hoạt động xuất khẩu. Nếu như cơ cấu vốn không hợp lý vốn quá nhiều mà không có lao động hoặc ngược lại lao động nhiều mà không có vốn thì doanh nghiệp sẽ không phát triển được hoặc phát triển mất cân đối. Vốn là một nhân tố quan trọng trong hàm sản xuất và nó quyết định tốc độ tăng sản lượng của doanh nghiệp. +Chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu những đặc trưng của nó thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. + Giá sản phẩm: giá cả ảnh hưởng đến khối lượng tiêu dùng sản phẩm , giá rẻ thì khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ nhanh hơn, khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới sẽ cao hơn, sẽ xuất khẩu nhiều hơn. + Biện pháp marketing: biện pháp này nâng cao thế lực của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh, marketing giúp các doanh nghiệp quảng cáo các sản phẩm của mình cho nhiều người biết, biện pháp marketing giúp cho doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình quảng cáo, xúc tiến bán hàng giới thiệu cho người tiêu dùng biết chất lượng, giá cả của sản phẩm mình. + Các dịch vụ đi kèm: Doanh nghiệp muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì dịch vụ bán hàng phải phát triển khi khi khách hàng mua sản phẩm của công ty thì công ty nên có khuyến mại, có đội ngũ tiếp thụ năng động ... 1.2 Trình độ quản lý của doanh nghiệp. * Ban lãnh đạo doanh nghiệp :là bộ phận đầu não của doanh nghiệp là nơi xây dựng những chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp đề ra mục tiêu đồng thời giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một chiến lược doanh nghiệp đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của thị trường và của doanh nghiệp và chỉ đạo điều hành giỏi của các cán bộ doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. * Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể, đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được nhanh chóng và chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh đối phó được với những biến đổi của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất hiệu quả nhất. * Đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh xuất khẩu: Đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường. Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi có sự nghiên cứu tỷ mỷ về thị trường hàng hoá, dịch vụ, về các đối tác các đối thủ cạnh tranh, về phương thức g._.iao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng ... Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu thị trường quốc tế có khả năng phân tích và dự báo những xu hướng vận động của thị trường, khả năng giao dịch đàm phán,… Đồng thời thông thạo các thủ tục xuất nhập khẩu, các công việc tiến hành cũng trở nên rất cần thiết. 1.3. Yếu tố khác Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc, chịu ảnh hưởng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có. Yếu tố này, phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm các nguồn vật chất dùng cho sản xuất, các nguồn tài nguyên, nhiên liệu, các nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và năng lực của nó phục vụ cho tương lai. Đây là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp có thể dữ vững phát triển sản xuất đồng thời là nền tảng cho công việc mở rộng sản xuất, nâng cao kỹ năng sản xuất của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. 2. Các yếu tố vĩ mô. 2.1. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ, của một quốc gia tính bằng tiền của một nước khác, đó là quan hệ so sánh của hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x chỉ số thực Chỉ số giá trong nước Tỷ giá hối đoái = thực tế Tỷ số hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng do nhân hàng nhà nước công bố hàng ngày. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau: như chênh lệch lạm phát, tình trạng cán cân thanh toán yếu tố tâm lý. Khi giá đồng nội tệ tăng (lên giá) so với ngoại tệ thì gây khó khăn cho xuất khẩu, song lại tạo điều kiện cho nhập khẩu. Ngược lại khi đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ sẽ có lợi cho xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái giảm sẽ tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư. Vì vậy việc quy định tỷ giá hối đoái sao cho hợp lý là vấn đề quan tâm của nhà nước. 2.2 Các yếu tố pháp luật. Mỗi quốc gia đều có những bộ luật riêng và đặc điểm tính chất của hệ thống pháp luật của mỗi nước phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Các yếu tố pháp luật chi phối mạnh mẽ đến mọi hoạt động của nên kinh tế và xã hội đang phát triển trong nước đó. Nó quy định phạm vi nội dung và mức độ hoạt động của tất cả các doanh nghiệp không chỉ trong một quốc gia mà cả trên thị trường quốc tế. Vì vậy doanh nghiệp xuất khẩu phải hiểu rõ môi trường pháp luật của quốc gia mình và các quốc gia mà doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá sang hoặc dự định xuất khẩu sang. Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ các mặt sau: + Các quy định về thuế, chủng loại, khối lượng, quy cách + Quy định về hợp đồng, giao dịch bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ. + Các quy định về quy chế sử dụng lao động, tiền lương tiền thưởng, bảo hiểm phúc lợi. + Quy định về cạnh tranh độc quyền. + Quy định về tự do mậu dịch hay xây dựng nên các hàng rào thếu quan chặt chẽ. Như vậy: một mặt các yếu tố pháp luật có thể tạo điều kiện thuận lợi các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu bằng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhưng mặt khác nó cũng ra hàng rào cản trở sự hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu khi buôn bán ra nước ngoài hay căn cứ khi doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường nội địa, gây khó khăn cho doanh nghiệp tận dụng cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh. 2.3. Các yếu tố về văn hoá xã hội. Các yếu tố về văn hoá xã hội tạo nên các loại hình khác nhau của nhu cầu thị trường, là nền tảng cho sự xuất hiện thị yếu tiêu dùng, sự yêu thích trong tiêu dùng sản phẩm cũng như sự tăng trưởng của các đoạn thị trường mới. Đồng thời các xu hướng vận động của các yếu tố văn hoá xã hội cũng thường xuyên phản ánh những tác động do những điều kiện về kinh tế và khoa học công nghệ mang lại. Các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ có thể thành công trên thị trường quốc tế khi có những hiểu biết nhất định về môi trường văn hoá của các quốc gia, khu vực thị trường mà mình dự định đưa hàng hoá vào để đưa ra các quyết định phù hợp với nền văn hoá xã hội ở khu vực thị trường đó. 2.4. Các yếu tố kinh tế. - Công cụ, chính sách kinh tế của các nước xuất nhập khẩu các quốc gia và những chính sách khác nhau sẽ tạo ra các cơ hội kinh doanh quốc tế khác nhau cho các doanh nghiệp. Nếu như với các nền kinh tế phát triển cao, các liên kết khu vực và thế giới được thành lập với quy mô ngày càng lớn thì điều đó cho phép hàng hoá tự do qua lại biên giới các nước thì rõ ràng các hoạt động xuất khẩu cũng vì vậy mà phát triển. - Hệ thống tài chính ngân hàng. Hệ thống tài chính ngân hàng hiện đang phát triển hết sức mạnh , có ảnh hưởng trực tiếp tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò to lớn trong việc quản lý, cung cấp vốn đảm bảo việc thực hiện thanh toán một cách thuận tiện nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Chính sách kinh tế quốc gia được thực hiện qua hệ thống tài chính ngân hàng tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng, tạo những công trình xây dựng mới giúp cho hoạt động xuất khẩu, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp được thuận lợi. Trong hoạt động xuất khẩu, vấn đề đảm bảo việc thanh toán được thực hiện tốt là hết sức quan trọng, đặt biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu vì qua việc này doanh nghiệp thu hồi được vốn và có lợi nhuận. Việc thanh toán chủ yếu thông qua ngân hàng. Như vậy ngân hàng trở thành cầu nối giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. - Nguồn lực tài nguyên và giá cả. Với những quốc gia nhân lực dồi dào, tài nguyên phong phú và giá rẻ thì sản phẩm của họ có sức cạnh tranh về giá cả. Khi xuất khẩu sẽ tiêu thụ nhanh chóng. - Sự ổ định của giá trị đồng tiền : Nếu giá của đồng tiền dùng để thanh toán lên giá hoặc giảm giá thì lợi ích một trong hai bên sẽ bị thiết hại và họ sẽ xem xét có nên tiếp tục quan hệ thương mại với nhau nữa hay không khi lợi ích của họ không được đảm bảo. 2.5 Các yếu tố khoa học công nghệ. Các yếu tố khoa học công nghệ quan hệ chặt chẽ với nhau hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng làm cho các doanh nghiệp đạt được trình độ công nghiệp hoá cao, quy mô tăng lên, tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành, chất lương sản phẩm được đồng bộ và được nâng cao lên rất nhiều. Sự phát triển của khoa học công nghệ đẩy mạnh sự phân công và hợp tác lao động quốc tế, mở rộng quan hệ giữa các khối quốc gia tạo điều kiện cho hoạt đông xuất khẩu 2.6. Nhân tố chính trị. Thương mại quốc tế có liên quan rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới, do vậy tình hình chính trị xã hội của mỗi quốc gia hay của khu vực đều có ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Chính vì thế ngưới làm kinh doanh xuất khẩu phải nắm rõ tình hình chính trị xã hội của các nước liên quan bởi vì tình hình chính trị xã hội sẽ ảnh hưởng tới hoạt đông kinh doanh xuất khẩu qua các chính sách kinh tế xã hội của các quốc gia đó . Từ đó có biện pháp đối phó hợp lý với những bất ổn do tình hình chính trị gây ra. 2.7. Các nhân tố cạnh tranh quốc tế Cạnh tranh trên thị trường quốc tế khốc liệt hơn thị trường nội đại rất nhiều. Hoạt động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển ngoài đối phó với các nhân tố khác thì sự thắng lợi của các đối thủ cạnh tranh là thách thức và là bức rào cản nguy hiểm nhất. Các đối thủ cạnh tranh không chỉ dựa vào sự vượt bậc về kinh tế, chính trị, tiềm lực khoa học công nghệ mà nay sự liên doanh liên kết thành các tập đoàn lớn tạo nên thế mạnh độc quyền mang tính toàn cầu sẽ từng bước gây khó khăn bóp chết các hoạt động xuất khẩu của các quốc gia nhỏ bé. Do vậy vượt qua được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu phát triển với hiệu quả hơn. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt sản xuất kinh doanh phức tạp, không những chịu ảnh hưởng của những điều kiện môi trường khách quan và chủ quan trong doanh nghiệp mà phần lớn sự tác động của các yếu tố của môi trường vĩ mô trong nước cũng như quốc tế là những nhân tố giữ vai trò quan trọng và phần lớn quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động xuất khẩu.Vì vậy doanh nghiệp phải biết tận dụng phát huy những thuận lợi của các nhân tố tích cực đồng thời phải biết đối phó với các yếu tố tiêu cực để giúp cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng được duy trì và phát triển. Có đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu thì mới có điều kiện mở rộng thị trường. Chương II Phân tích hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Công ty may Thăng Long I. Khái quát về công ty may Thăng Long 1.Giới thiệu về công ty. Ngày 8/5/1958 Bộ ngoại thương ra quyết định thành lập công ty được mang tên: Công ty may mặc xuất khẩu tạp phẩm. Trụ sở văn phòng công ty được đặt tại số nhà 15 phố Cao Bá Quát. Do sản xuất phát triển, sau công ty chuyển về 40 Hùng Vương nhưng vẫn không đáp ứng dược yêu cầu nên bộ phận đóng gói, đóng hàm phải chuyển về 17 Chả cả và Cửa Đông. . Năm 1961 là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, công ty cũng có một có một chuyển biến lớn là chuyển về 250 Minh Khai, tức là địa điểm khang trang ngày nay. Về địa điểm mới đủ mặt bằng, tổ chức sản xuất được ổn định, các bộ phận phân tán ở khắp nơi trong thành phố như Chả Cá, Cửu Đông, Hàng Ngang, Hàng Trống, Hàng Bồ, Lò Đúc..đều được tập trung về đây và được thống nhất là một mối dây chuyền. Sản xuất từ khâu nguyên liệu cắt, may và đóng gói được khép kín. Ngày 31/8/1965 Bộ Ngoại thương có quyết định tách bộ phận gia công để thành lập: Công ty may mặc xuất khẩu. Công ty may mặc xuất khẩu đổi tên thành xí nghiệp may mặc xuất khẩu. Cũng trong năm 1965 công ty được trang bị mới 178 máy may công nghiệp với tốc độ 3000 vòng /phút của Cộng hoà Dân Chủ Đức, chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu mặt hàng xuất khẩu. Kể từ sau ngày thành lập, hệ thống tổ chức sản xuất vừa được tương đối ổn định, công ty lại bị ảnh hưởng của chiến tranh tàn phá làm cho tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn. Song trước những khó khăn trong chiến tranh công ty vẫn cố gắng tận dụng thời gian để sản xuất. Tuy kết quả đạt được không cao như trước nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu đặt hàng của bạn hàng nước ngoài. Với những thành tích đã đạt được, đến năm 1991 công ty là đơn vị đầu tiên trong ngành may mặc được Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, tạo thế chủ động giảm được nhiều thủ tục phiền hà, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đến tháng 6/1992 công ty được bộ công nghiệp cho phép chuyển đổi tổ chức và hoạt động từ xí nghiệp thành công ty, công ty may Thăng Long chính thức ra đời từ đây. 2. Cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty Tên đơn vị: Công ty may Thăng Long Tên giao dịch: Thăng Long Garment export company Tên viết tắt: Thaloga Trụ Sở chính: 250 Minh Khai- Hai Bà Trưng- Hà Nội Loại hình doanh nghiệp: Tổng Công ty Dệt – may Việt nam Ngành nghề kinh doanh: May mặc- gia công may mặc Số điện thoại: 8623372 Fax: 84.4623374 Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp tổ chức quản trị theo kiểu “ Trực tuyến – chức năng” có nghĩa là phòng ban tham mưu với ban giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình giúp ban giám đốc điều hành đưa ra ra những quyết định đúng đắn, có lợi cho công ty. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị Công ty may Thăng Long gồm có: -Một tổng giám đốc. -Ba phó giám đốc. -Hệ thống các phòng ban và các xưởng sản xuất. 2.1.Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty may thăng Long (Trang bên) *Tổng giám đốc: Tổng giám đốc là người đứng đầu bộ máy Công ty, thay mặt Công ty chịu trách nhiệm trứơc Nhà nước về toàn bộ hoạt động của mình, đồng thời chỉ huy toàn bộ bộ máy quản trị, tại các bộ phận của Công ty. *Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật: có trách nhiệm giúp việc cho tổng giám đốc về mặt kỹ thuật thiết kế của Công ty. *Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất: có nhiệm vụ giúpviệc cho tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh. *Phó tổng giám đốc điều hành nội chính: có chức năng tham mưu, giúp việc của Công ty, có nhiệm vụ trức tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, bảo hiểm y tế, tuyển dụng lao động, đào tạo cán bộ, chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên. *Phòng kỹ thuật: Phòng kỹ thuật tham mưu cho giám đốc điều hành kỹ thuật, quản trị, phác thảo, tạo mẫu mã hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng và nhu cầu của công ty. *Phòng KCS: Phòng KCS xây dựg các phương án quản trị và nâng cao chất lượng sản phẩm tiết kiệm chi phí trong sản xuất, phòng KCS tiến hành kiểm tra chất lượng hàng may mặc trước khi giao hàng cho khách hàng. *Văn phòng Công ty: Văn phòng công ty có nhiệm vụ, chức năng tham mưu cho giám đốc về mặt tổ chức, quản trị về mặt số lượng cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. *Phòng kế hoạch sản xuất: Phòng kế hoạch sản xuất có chức năng tham mưu cho giám đốc điều hành kế hoạch sản xuất của công ty, giúp ban giám đốc lập kế hoạch, đôn đốc, theo dõi các kế hoạch sản xuất tiêu thụ ngắn và dài hạn. *Phòng kho: phòng kho có nhiệm vụ quản lý và cấp phát nguyên vật liệu nhập về công ty. Phòng kho quản lý và bảo quản các thành phần do các xí nghiệp sản xuất ra và chờ thời gian giao hàng cho khách. *Phòng kế toán – tài vụ: Có chức năng chuẩn bị và quản trị nguồn tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh và các khoản lương cho các cán bộ công nhân viên trong công ty. *Phòng thị trường: Phòng thị trường có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát thị trưòng và lập kế hoạch sản xuất kịp thời, đúng thời hạn trong hợp đồng. *Cửa hàng dịch vụ: cửa hàng dịch vụ làm công tác dịch vụ, phục vụ thêm cho đời sống của công nhân viên. *Các xí nghiệp may trong công ty: sáu xí nghiệp được trang bị máy may hiện đại và theo quy trình công nghệ khép kín, thống nhất, đánh bại từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình sản xuất sản phẩm. Các xí nghiệp may thực hiện quá trình sản xuất hàng may mặc bao gồm các công đoạn: cắt, may, là, đóng gói sản phẩm. *Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm(TTTM và GTSP): tại đy công ty trưng bày các mặt hàng sản xuất, vừa giới thiệu sản phẩm vừa bán, đồng thời đây cũng là nơi tiếp nhận các ý kiến đóng góp phản ánh từ người tiêu dùng. *Cửa hàng thời trang: Tại đây các mẫu mã quần áo được thiết kế này tại xưởng thời trang và chúng mang tính chất giới tiệu là chính. *Xí nghiệp dịch vụ đời sống: Xí nghiệp này chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty.. *Chi nhánh và cơ sở khác: Ngoài các bộ phận, các xí nghiệp tập trung tại công ty ở 250 Minh Khai, Công ty may Thăng Long còn có 2 chi nhánh ở Hải Phòng và Nam Định. 2.2. Máy móc thiết bị và quy trình công nghệ của công ty may Thăng Long - Máy móc thiết bị Công ty may Thăng Long được thành lập tương đối lâu từ thời kỳ bao cấp nên đa số máy móc thiết bị của Công ty được các nước XHCN giúp đỡ. Trải qua một thời gian hoạt động tương đối dài, đến nay các loại thiết bị máy móc của công ty đã trở nên lạc hậu không còn phù hợp nhưng từ khi chuyển sang kinh tế thị trờng công ty đã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị mới từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến như Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Hiện nay công ty đã thay thế hết các số máy móc cũ, máy móc mà công ty đang sử dụng đều thuộc thế hệ mới chủ yếu từ năm 1989-1990 trở lại đây và đều có nguồn gốc chủ yếu từ Nhật Bản, Đức. Dưới đây là bản kiểm kê tình hình máy móc thiết bị của công ty trong năm 1999. Bảng 1 : Thống kê máy móc thiết bị Tên máy móc thiết bị Nước sản xuất Số lượng (chiếc) Máy may 1 kim Nhật 673 Máy may 1 kim Đức 145 Máy may 2 kim cố định Nhật 127 Máy may 2 kim cố định Đức 6 Máy vắt sổ Nhật 175 Máy thùa khuyết đầu bằng Nhật 237 Máy đính cúc phẳng Nhật 22 Máy đính cúc phẳng Đức 3 Máy đính bộ Nhật 20 Máy cuốn ống Nhật 13 Máy nẹp sơ mi Đức 30 Máy cạp chun Đức 6 Máy cạp chun Nhật 2 Máy tra cạp quần Jean Đức 8 Máy thùa đầu tròn Đức 3 Máy thùa đầu tròn Tiệp 10 Máy vắt gấu Nhật 8 Máy trần viền Nhật 17 Máy bổ cơi Đức 1 Máy thêu tự động Nhật 1 Máy thêu tự động Đức 2 Máy cắt vòng Nhật 4 Máy cắt tay Nhật 11 Máy dập cúc HK 46 Máy dập cúc cơ khí máy Vnam 7 Nồi hơi đốt dầu HK 2 Máy giặt ĐLoan 6 Máy vắt HK 6 Máy sấy HK 8 Nồi hơi đốt điện Nhật 12 (Nguồn: Phòng kỹ thuật- công ty may Thăng Long ) Qua bảng thống kê ta nhận thấy tuy máy móc thiết bị có nguồn gốc khác nhau nhưng khá hoàn thiện và đồng bộ. Mỗi xí nghiệp của công ty được trang bị 150 máy các loại. Với trình độ công nghệ khá tiên tiến như vậy, Công ty đủ năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó Công ty không ngừng đầu tư thêm máy móc thiết bị mới. Trong năm 1998 công ty đã nhập về một dây chuyền công nghệ tự động để may áo sơ mi cao cấp (XN1). Nhiều phương án công nghệ đang được tiếp tục xây dựng và thực hiện, đưa thêm máy móc thiết bị tự động, hiện đại và để sản xuất mặt hàng cao cấp hơn, chủng loại đa dạng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị trường nước ngoài cũng như thị trường nội địa. -. Quy trình công nghệ sản xuất Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp lớn chuyên sản xuất và gia công các mặt hàng may mặc theo quy trình khép kín từ A đến Z( bao gồm: cắt, may, là, đóng gói, đóng thùng, nhập kho) với các loại máy móc chuyên dùng và số lượng sản phẩm tương đối lớn được chế biến từ nguyên liệu chính là vải. Sơ đồ: quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty Nguyên liệu vải Cắt Đặt mẫu -Đánh số- Cắt May May cổ- May tay Ghép thành phẩm Thêu Giặt, mài ,tẩy Kho thành phẩm Đóng gói Là Trải vải Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là quy trình sản xuất phức tạp kiểu liên tục. Sản phẩm được trải qua nhiều giai đoạn sản xuất kế tiếp nhau. Công ty sản xuất rất nhiều sản phẩm với chủng loại và mẫu mã khác nhau, song tất cả đều phải trải qua một quy trình công nghệ như trên. Như vậy quy trình công nghệ sản xuất mà công ty đang áp dụng là quy trình công nghệ khép kín, từng bộ phận chuyên môn hoá rõ rệt vì thế tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra đạt tiêu chuẩn mà công ty đã xây dựng. 2.3. Tình hình nhân sự của công ty Tình hình nhân sự của Công ty may Thăng Long được thể hiện ở bảng phân tích cơ cấu lao động của Công ty trong năm 2000. Tổng số lao động 31/12/200 có 2165 người với cơ cấu như sau: Bảng 2 : Cơ cấu lao động của Công ty năm 2000 TT Loại lao động Số lượng (người) Tỉ trọng % 1 Phân loại theo chức năng 1.Loại lao động gián tiếp 2.Loại lao động trực tiếp 2156 178 1987 8 92 2 Phân theo trình độ 1.Đại học và trên đại học 2.Cao đẳng 3.Nhân viên tạp vụ 178 148 18 12 83 10 7 3 Phân theo giới tính Nam Nữ 2165 217 1948 10 90 4 Lao động hợp đồng 2164 99,9 (Nguồn số liệu Văn phòng- công ty may Thăng Long ) Trong những năm qua Công ty từng bước sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ trong quá trình đổi mới, bổ sung đội ngũ cán bộ , đã qua đào tạo cơ bản vào đội ngũ cán bộ chủ chốt của công ty. Trong thời gian qua, số lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt của công ty. Trong thời gian qua, số lượng công nhân của công ty có nhiều biến động do công ty luôn tổ chức và soát lại biên chế các phòng ban, định biên lại lao động nhằm giảm lao động gián tiếp. 2.4.Tình hình vốn kinh doanh của công ty Là một doanh nghiệp Nhà nước nên nguồn vốn của công ty chủ yếu là do Nhà nước cấp, luôn chiếm khoảng 70% tổng số vốn hàng năm. nguồn vốn cố định của công ty luôn ổn định qua các năm. Riêng nguồn vốn lưu động của công ty là có tăng do có được sự đầu tư hàng năm từ Ngân sách Nhà nước và bổ sung từ các quỹ các nguồn khác trong và ngoài công ty: huy đông nội lực, vay ngân hàng, vay từ các tổ chức kinh tế. Việc nhận vốn từ ngân sách còn đặt ra trách nhiệm cho công ty phải tìm mọi biện pháp trong khả năng có thể để đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Bảng 3: Kết quả báo cáo tình hình vốn kinh doanh của công ty trong Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Tổng số vốn Triệu đồng 16815 17365 17642 Phân theo tài sản 1.Vốn cố định 2.Vốn lưu động ‘’ ‘’ ‘’ 12393 4422 74 26 12393 4972 71 29 12948 1694 73 27 Phân theo nguồn hình thành 1.Ngân sách cấp 2.Từ bổ sung ‘’ ‘’ ‘’ 12180 4653 72 28 12744 4621 73 27 12790 4852 72 28 ( Nguồn :công ty may Thăng Long ) Ngoài ra, để đảm bảo duy trì và phát triển nguồn vốn công ty đã chủ động mua sắm tài sản cố định dể tăng năng lực sản xuất, thực hiện đầu tư theo chiều sâu. Việc đầu tư mua sắm tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất là một việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp có khả năng theo kịp sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm, đồng thời hạ giá thành sản phẩm nhằm đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Công ty cũng thực hiện sữa chữa tài sản cố định không chỉ nhằm mục đích bảo dưỡng mà còn phải nâng cao năng lực sản xuất, đảm bảo tài sản cố định hoạt động liên tục theo kế hoạch sản xuất. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định thông qua tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị. II. Phân tích hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty may Thăng Long. 1.Phân tích hoạt động kinh doanh tại công ty. 1.1.Các bạn hàng và mặt hàng chủ yếu của công ty. Từ khi công ty được giao quyền chủ động tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu, công ty đã có cơ hội giao lưu với các bạn hàng quốc tế, đem sản phẩm may mặc của mình tới các quốc gia khác nhau trên thế giới. Công ty chủ động tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu và nguồn tiêu thụ của mình trên nhiều thị trường khác nhau ở các nước khác nhau trên thế giới. Hiện nay công ty nhập nguyên vật liệu chủ yếu từ một số nước như Trung Quốc, Inđonesia, Đức. Công ty cũng đã liên kết với nhiều đơn vị, công ty trong tổng công ty Dệt May và các ngành hữu quan để có thêm nhiều quan hệ, nhiều mối cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra có lợi hơn. Công ty tăng cường mối quan hệ với một số đơn vị như Dệt 8/3, Dệt Phong Phú, Công ty dệt 19-5...để có nguồn cung cấp nguyên liệu rẻ hơn. Cùng với sự thay đổi cơ chế kinh tế của đất nước, các công ty dệt nay cũng phải cạnh tranh khốc liệt thì mới có thể tồn tại được. Chính vì vậy sản phẩm của các công ty dệt trong nước cũng được đầu tư, nâng cao chất lượng rất nhiều, chủng loại đa dạng mà giá thì rẻ hơn rất nhiều so với so với hàng nhập ngoại có chất lượng tương đương. Công ty may Thăng Long hiện nay rất quan tâm đến tìm nguồn đầu vào ở các công ty dệt trong nước để vừa chủ động, kịp thời trong nguồn nguyên vật liệu vừa có mức giá rẻ. Tuy nhiên với một số loại hàng cao cấp công ty vẫn phải nhập nguyên vật liệu từ một số nước có chất lượng cao như Italia, Nhật, Anh... Công ty may Thăng Long đã có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cùng với khả năng có thể huy động vốn dễ dàng hơn nên trong một số năm qua công ty may Thăng Long đã rất nỗ lực trong công tác nghiên cứu thị trường, tìm các phương hướng mở rộng và phát triển thị trường đồng thời với việc không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của công ty để chủ động thoã mãn nhu cầu hàng may mặc luôn thay đổi và ngày càng cao của khách hàng cả trong và ngoài nước, đặc biệt chú ý đến những thị trường nhiều tiềm năng. Sản phẩm may mặc của công ty đã luôn luôn được đổi mới, đa dạng về chủng loại, kích cỡ, màu sắc, chất liệu với chất lượng sản phẩm cao và giá thành được người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Hiện nay công ty cũng sản xuất và tổ chức tiêu thụ trong thị trường nội địa một số loại quần áo cao cấp trước đây thường chỉ xuất khẩu và được người tiêu dùng trong nước đặc biệt là những người có thu nhập khá trở lên rất ưa thích và mua dùng, ví dụ như: sản phẩm sơ mi cao cấp, áo Jacket... Nhưng hiện nay do nhiều lý do trong đó có lý do thu nhập của nhân dân trong nước còn thấp và một bộ phận rất lớn của dân cư còn có tư tưởng sính hàng ngoại nên trong một số năm qua doanh thu từ thị trường nội địa chưa được cao, năm 2000 vừa qua doanh thu nội địa chỉ chiếm khoảng 20-25% tổng doanh thu của công ty. Với thị trường trong nước rộng lớn và đang phát triển mãnh mẽ theo sự đổi mới từng ngày của đất nước, làm thế nào để kích thích được nhu cầu trong nước, gợi mở và thoã mãn tốt nhất nhu cầu may mặc của nhân dân để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty đang là câu hỏi rất lớn không chỉ riêng cho công ty may Thăng Long mà cho cả rất nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước. Những năm trước 1990 nếu những mặt hàng chủ yếu của công ty may Thăng Long chỉ gồm áo mưa, pịama, Măng to và quần áo jean thì những năm gần đây công ty đã sản xuất và gia công thêm rất nhiều mặt hàng mới. Biểu sau cho thấy các mặt hàng và thị trường tiêu thụ chủ yếu của công ty may Thăng Long: Bảng 4: Mặt hàng và thị trường chủ yếu của công ty hiện nay STT Mặt hàng Thị trường hiện nay 1 Jacket EU, Nhật, Thuỵ Sỹ, Czêk, Hàn Quốc 2 áo dệt kim Mỹ, EU, Nhật 3 Jilê Hàn Quốc 4 Sơ mi nam nữ EU, Czeek, Nhật, Hà Lan... 5 Bộ pijama EU, Thuỵ Sỹ, Hồng Kong, Đài Loan, Singapo 6 Quần Hungary, Nhật EU, Hồng Kông, Đức 7 Veston Mehico, Mỹ, Đài Loan... 8 Quần áo trẻ em Canađa, Algeri.. 9 Thảm Nhật 10 Bộ thể thao EU 11 Bộ comle Li Bi, barazil (Nguồn phòng thị trường –Công ty may Thăng Long) 1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong một số năm gần đây (1998-2001). *Doanh thu Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước nên nguồn vốn của công ty là do ngân sách Nhà nước cung cấp nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị thì công công ty phải tự hạch toán kinh doanh và phải có nhiệm vụ bảo tồn nguồn vốn ngân sách cấp. Khi bước sang cơ chế thị trường, ở đó có sự cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp muấn làm ăn có hiệu quả là rất khó khăn mặc dù có thiết bị, có năng lực sản xuất nhưng không có thị trường tiêu thụ cũng không thể sản xuất được, ngoài ra do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Nam á (7/1999) một số bạn hàng của công ty giảm mạnh, hàng hoá xuất khẩu do hết hạn ngạch với EU cũng đạt giá trị không cao. Hiện nay doanh thu từ hàng mua đứt bán đoạn (gọi là hàng FOB) đang là mục tiêu của doanh nghiệp may và may Thăng Long. Thực tế cho thấy hàng bán FOB mang lợi nhuận cao. Cùng một số mặt hàng, nếu mua nguyên phụ liệu để may rồi bán thành phẩm, sau khi trừ các khoản chi phí sẽ có lãi, ít nhát hai lần so với khi chỉ may gia công mặt hàng đó cho khách hàng. Đồng thời làm hàng bán FOB sẽ có điều kiện tiếp cận trực tiếp với thị trường nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của thị trường từ đó có thể chủ động sản xuất, tránh được tính mùa vụ, bị động trong sản xuất mà các doanh nghiệp làm gia công thường gặp. Muốn làm hàng bán FOB trước hết công ty phải nắm chắc thông tin về nhu cầu, về giá cả thị trường, nắm các thông tin cần về các nhà cung cấp nguyên phụ liệu trên thị trường, thông tin về khách hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng phải giữ chữ tín với khách hàng bằng cách đảm bảo chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng đồng thời có được giá cạnh tranh. Mặt khác, có thể thấy giá gia công hàng may ở Việt nam thuộc loại thấp so với trên thế giới. Nếu như ở các nước khác giá gia công hàng may như Canađa là 2.65$, Mỹ 2.3$, Trung Quốc là 0.37$/h, hiện nay ở Việt nam mức giá gia công xuất khẩu là 0.2-0.25$/h quả là thấp. Điều này phần nào phản ánh tỷ lệ lãi gia công xuất khẩu của công ty thấp. Nó là yếu tố góp phần làm giảm lợi nhuận của công ty qua các năm. Hơn thế nữa, xuất phát từ thực trạng của thị trường may Việt nam có sự cạnh gay gắt giữa các cơ sở may để giành quota, giành bạn hàng gia công cũng như làm đơn giá gia công bị giảm xuống thấp như mặt hàng áo Jacket, sơ mi... Bảng 5 : Một số chỉ tiêu tài chính của công ty may Thăng Long TT Chỉ tiêu đơn vị 1998 1999 2000 2001 1 Tổng doanh thu Tr. đ 78881 97000 1121170 130378 2 Kim ngạch xuất khẩu USD 27700 31000 37000 40000 3 Kim ngạch nhập khẩu USD 16100 7800 7092 5563 4 Giá trị tổng sản lượng Tr.đ 35936 42349 47560 55683 5 Nộp ngân sách - 1645 2874 3370 3470 6 Vốn đầu tư - 16300 8520 12669 20200 7 Lực lượng lao động Người 1996 2000 2165 2300 8 Thu nhập bình quân(đ/n) 1000đ 835 920 1000 1000 ( Nguồn: Phòng kế hoạch- công ty may Thăng Long) Có thể thấy là qua các năm, Công ty có sự tăng mạnh doanh thu. Điều này chứng tỏ doanh thu mặt hàng gia công xuất khẩu và gia công trông nước tăng. Mặt khác, lực lượng lao động cũng tăng lên theo từng năm và thu nhập của nguời lao động cũng được nâng cao. Với mức lương thu nhập bình quân như vậy là tương đối cao so với ngành may. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho Công ty trong việc khuyến khích công nhân tăng năng suất lao động, làm thêm ca, phát triển và thu hút đội ngũ công nhân kỹ thuật cán bộ có trình độ. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được phát triển không ngừng là do công ty tăng sản lượng, mở rộng mặt hàng trên cơ sở rất chú ý đến việc áp dụng công nghệ mới, chú trọng quản lý kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của khách hàng trong và nước ngoài. *Lợi nhuận. Đồng thời với tăng doanh thu và tăng sản lượng, lợi nhuận của Công ty cũng tăng rõ rệt theo từng năm. Lợi nhuận là một trong những thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty. Lợi nhuận của Công ty không ngừng tăng lên do đó công ty luôn đảm bảo khả năng trả lãi ngân hàng, trả lương cho người lao động và có nguốn đầu tư thêm máy móc thiết bị mới. Hiện nay công ty áp dụng phương pháp phân tích tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm và luôn đưa ra được hợp lý khi tiến hành đàm phán với các khách hàng, ký kết được hợp đồng và đảm bảo có lãi cho công ty. Lợi nhuận công ty thể hiện ở biểu dưới: Bảng 6 : Lợi nhuận của công ty năm 1997-2001 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 Lợi nhuận 800 1400 1600 1800 2500 ( Nguồn Phòng Kế toán –công ty may Thăng Long) Nhìn chung, về cơ bản công ty may Thăng Long đ._.ố lượng? Giá cả? … yêu cầu về chất lượng, màu sắc, độ bền? Thời hạn giao hàng? Và từ đó Công ty tiến hành phân tích, đánh giá để xem xét khả năng đáp ứng, những thuận lợi khó khăn của mình để có kế hoạch triển khai các nguồn lực, tiến hành và sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên việc mở rộng thị trường xuất khẩu phải tập trung vào các thị trường có triển vọng nhất, đồng thời củng cố không ngừng các thị trường truyền thống mới có thể đem lại hiệu quả như mong muốn. ở một góc độ khác, mặc dù việc mở rộng thị trường theo bất kỳ hướng nào cũng đều có lợi cho Công ty để tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng lợi nhuận. Nhưng vấn đề là ở chỗ: Công ty cần chú trọng vào những có triển vọng nhất và những sản phẩm mũi nhọn để tránh xuất khẩu và mở rộng về những thị trường có tiềm ẩn nguy cơ bất lợi cho Công ty trong tương lai. Xác định các mặt hàng mũi nhọn và thị trường trọng điểm thì việc đầu tư của Công ty sẽ thu được hiệu quả kinh tế cao và bỏ lỡ ít nhất những cơ hội trong kinh doanh. 2.Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó trọng tâm là sản xuất hàng xuất khẩu. Công ty may Thăng Long là một Doanh nghiệp công nghiệp sản xuất hàng may mặc. Công ty có quyền XNK trực tiếp và đã có quan hệ với trên 20 quốc gia trên thế giới. Chính do sự phức tạp và tiềm ẩn các yếu tố rủi ro trong môi trường kinh doanh ở các thị trường này nên Công ty cần phải xây dựng được một kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch xuất khẩu để chuẩn bị và hoạt động có hiệu quả. Kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch xuất khẩu sẽ cung cấp cho các cán bộ quản lý và các cán bộ tác nghiệp trong Công ty những cơ sở để hành động, lựa chọn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Không có kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch xuất khẩu Công ty sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện các chỉ tiêu được giao và đạt được các mục tiêu đề ra. Trước hết Doanh nghiệp đánh giá môi trường kinh doanh để tìm ra các cơ hội kinh doanh trên thị trường hoặc các đoạn thị trường mà Công ty dự định kinh doanh. Đồng thời tăng cường các thị mạnh và khắc phục các điểm yếu của Công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Trong khâu này, Công ty sẽ sử dụng phương pháp đánh giá môi trường thích hợp và đưa ra được những đánh giá tổng quan về môi trường. Công ty cũng sẽ phân tích được các điểm mạnh của bản thân Công ty, phân tích các hoạt động của Công ty. Dựa vào kết quả giai đoạn trên (phân tích môi trường kinh doanh và phân tích nội bộ) Công ty tiến hành lập bảng dự báo các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh, chỉ tiêu xuất khẩu trong tương lai. Những căn cứ để dự báo các chỉ tiêu như từ các số liệu nghiên cứu thị trường, ước lượng số khách hàng tiềm năng thực tế có khả năng nhập khẩu của Công ty. Tuỳ thuộc từng loại từng đoạn thị trường với mức cạnh tranh khác nhau có thể ước lượng khác nhau. Mở rộng lượng khách hàng theo tiến triển, tăng lên của kim ngạch xuất khẩu và các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ khác. Tiếp theo Công ty sẽ dựa vào các số liệu trên để lập kế hoạch huy động vốn thực hiện việc sản xuất kinh doanh của mình. Lập kế hoạch vay vốn có tầm quan trọng lớn vì các ngân hàng bao giờ cũng muốn biết rõ các doanh nghiệp trước khi cân nhắc để cho vay vốn. Lập bảng kế hoạch cũng là biện pháp giúp Công ty điều chỉnh được sự cân đối giữa cung và cầu, điều khiển được lượng hàng tồn kho. Nếu lượng hàng tồn kho quá lớn, sẽ làm tồn đọng vốn hạn chế khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng nếu hàng dữ trữ quá ít có thể sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh việc quản lý doanh nghiệp đến đâu hay đến đó “gió chiều nào che chiều ấy” đa số kém hiệu quả và có nguy cơ phá sản. Bằng cả lý luận và thực tiễn đã khẳng định sự tối cần thiết của việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Có kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ tạo cơ sở cho việc ra quyết định đúng đắn trong đầu tư, tổ chức và quản lý kinh doanh có hiệu quả nhất. Bước thực hiện cuối cùng và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch xuất khẩu là cần kiểm tra việc thực hiện kế hoạch để đánh giá được những hiệu quả đã đạt được những điểm yếu cần khắc phục, tạo cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch xuất khẩu tiếp theo. 3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng may mặc. Vấn đề cốt lõi để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty mayThăng Long là làm sao phải nâng cao được sức cạnh tranh của nó trên thị trường thế giới như về chất lượng, giá cả, thời gian. 3.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Công ty may Thăng Long đa số xuất khẩu các mặt hàng may mặc do chính Công ty sản xuất, gia công ra. Chính vì vậy Công ty có thể nâng cao chất lượng sản phẩm bằng việc: Đầu tư vào các máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ sản xuất bởi vì máy móc thiết bị có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu của Công ty. Máy móc thiết bị lạc hậu không đồng bộ sẽ gây hỏng hóc, ngưng trệ sản xuất, tiêu tốn lao động quá khứ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Như vậy đầu tư hiện đại hoá máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô, tăng năng lực sản xuất là biện pháp cần thiết và cấp bách ở Công ty hiện nay. Nâng cao khả năng thiết kế mẫu mã. Sản phẩm may mặc là sản phẩm mang tính mốt rất cao. Mẫu mã là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Công ty. Công ty may Thăng Long hiện có bộ phận thiết kế mẫu thời trang và sản xuất nhiều sản phẩm may mặc thời trang. Tuy nhiên khả năng tự thiết kế mẫu mã phù hợp với nhu cầu của khách hàng để chủ động đi chào hàng và ký kết hợp đồng là rất hạn chế. Vì vậy Công ty cần: + Phải tuyển những người có khả năng thiết kế mẫu thời trang. + Khuyến khích cán bộ tạo mẫu phát huy sáng kiến và trình độ của mình. Công ty ngoài việc có mức lương tương ứng thì phải gắn trách nhiệm với quyền lợi của người cán bộ tạo mốt. + Công ty cần có quan hệ chặt chẽ với các Công ty may khác, đặc biệt là viện mẫu thời trang Việt Nam (Fadin) để thiết kế các mẫu mã sản phẩm, các mốt mới để bắt kịp với sự thay đổi nhu cầu may mặc thế giới. 3.2. Giá thành sản phẩm hợp lý. Giá thành sản phẩm là một yếu tố cạnh tranh khá mạnh trong thi trường may mặc thế giới. Hiện nay công ty may Thăng Long buộc phải phấn đấu làm sao để có chi phí sản xuất, chi phí lưu thông nhỏ nhất. Chính vì vậy Công ty may mặc Thăng Long cần chú ý đến việc: + Mua nguyên vật liệu từ nơi nào có lợi nhất, tiết kiệm NVL trong sản xuất, cải tiến công nghệ và quản lý lao động chặt chẽ để giảm giá thành của công ty. + Tiếp đó công ty phải cố gắng tìm các phương án giảm tối đa các phí tổn thương mại để giảm giá bán các mặt hàng. Các phí tổn thương mại này bao gồm toàn bộ các chi phí liên quan đến việc bán các sản phẩm. + Việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ tiêu thụ ở các thị trường nước ngoài cũng phải được tính toán cẩn thận sao cho hiệu quả cao nhất với một mức phí cố định. Nếu cứ quảng cáo khuyến mại tràn lan và không phù hợp với các thị trưòng nước ngoài thì có khi rất tốn kém mà chẳng có tác dụng gì, thậm chí đôi khi còn phản tác dụng như trong trường hơp không phù hợp với đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán của khách nước ngoài. + Ngoài ra công ty cần cố gắng tiếp cận được càng gần người tiêu dùng càng tốt vì khi đó hàng có trể được bán với giá cao hơn và có được thông tin về khách hàng và kịp thời hơn. 3.3 Đảm bảo thời gian sản xuất và giao hàng . Trong tình hình hiện nay, bên cạnh việc cạnh tranh về giá cả là rất quan trọng song tại mội thị trường quốc tế thì thời gian giao hàng càng trở nên dặc biệt quan trọng để công ty có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Với Công ty may Thăng Long hiện nay thì phải nghiên cứu tìm hiểu thih truờng để tung sản phẩm vào đúng thời điểm thì mới có thể thu lợi nhuận cao và chiếm được các thị trường đó. Nếu Công ty chậm chân thì đối thủ sẽ vào trước, rất khó len vào hay hàng hoá của Công ty ra muộn có thể đã là loại hàng lỗi thời. Thêm nữa, các hợp đồng may mặc xuất khẩu hiện nay đòi hỏi phải thực hiện đúng hợp đồng, nếu Công ty giao hàng không đúng hẹn sẽ vừa tốn chi phí có liên quan, vừa có thể bị phạt rất lớn về hợp đồng và điều tệ hại hơn là có thể mất vĩnh viễn nhiều bạn hàng và uy tín kinh doanh bị sụt giảm. Để có thể đảm bảo thời gian, Công ty cần hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất và điều hành sản xuất.Trước đây việc bố trí sản xuất ở Công ty tách rời từng công đoạn:cắt, may, là, đóng gói theo từng đơn vị sản xuất khác nhau khiến năng suất lao động thấp, lãng phí lao động và chu kỳ sản xuất kéo dài làm chậm thời gian cho khách hàng. Đến nay Công ty đã tổ chức lại sản xuất theo dây chuyền khép kín, các công đoạn sản xuất được thực hiên trọn vẹn trong một đơn vị. Công ty cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất, điều hành sản xuất để cho phép sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và sức lao động trong Công ty, đáp ứng tiến độ sản xuất để có thể góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty, thực hiện mục tiêu tổng hợp của Công ty. 4.Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ công nhân tay nghề cao, nâng cao trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu cho đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty. Tay nghề của người công nhân liên quan trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Công ty phải thường xuyên đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân các bậc thợ, đặc biệt cho các công nhân trẻ đang học việc. Khi Công ty nhập công nghệ may tiên tiến vừa cấp thiết tổ chức hướng dẫn công nhân cách thức vận hành, sử dụng đúng để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Trong sản xuất, Công ty cần quản lý chặt chẽ hơn về số lượng, chất lượng sản phẩm, định mức số lượng sản phẩm giao cho các công nhân. Thực hiện các biện pháp trả lương sản phẩm, thưởng phạt nghiêm minh hơn sẽ khích lệ sự say mê học hỏi trong công việc, tăng thêm sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền lợi và trách nhiệm vụ công nhân với các sản phẩm mình làm ra. Hiện nay Công ty thường tổ chức các cuộc kiểm tra tay nghề, thi công nhân có tay nghề giỏi. Đây là hình thức bổ ích có tác dụng to lớn kích thích người lao động không ngừng hoàn thiện khả năng chuyên môn. Trong gian đoạn tới Công ty nên tiếp tục thực hiện thường xuyên hơn và tạo nội dung thi đua phong phú và thiết thực hơn, có nguồn động viên, cổ vũ bằngvật chất và tinh thần xứng đáng, kịp thời cho những người có tay nghề giỏi có tinh thần trách nhiệm và phấn đấu cao, cho những người có sáng kiến, sáng tạo trong lao động sản xuất giúp ích cho Công ty…Những hoạt động bổ ích như vậy sẽ tạo tinh thần đoàn kết, phân đấu trong toàn thể cán bộ công nhân viên, tạo động lực mạnh cho công nhân học hỏi và phấn đấu không ngừng nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh doanh to lớn cho Công ty. - Song song với việc đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, Công ty còn phải nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn xuất nhập khẩu cho đội ngũ cán bộ kinh doanh. Sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng trở nên gay gắt hơn. cạnh tranh gay gắt khiến cho Công ty có rất ít cơ hội tăng giá bán sản phẩm. Mục tiêu của công ty hiện nay là làm sao tăng được tỷ suất lợi nhuận. Muốn vậy phải giảm chi phí tối đa để sao cho với một mức chi phí cố định thu được lãi cao nhất. Để giải quyết vấn đề này Công ty may Thăng Long và các Công ty khác trong nền kinh tế thị trường phải luôn chú trọng đến nhân tố con người trong Công ty bởi họ là đối tượng của công tác lãnh đạo, quản lý và là những người điều hành và thúc đẩy các hoạt động của Công ty. Trong đó phải chú ý đặc biệt đến đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty. Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp công nghiệp sản xuất hàng may mặc và nó có hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp nên càng đòi hỏi Công ty phải có một đội ngũ nhân viên tác nghiệp có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của Công ty và của sản xuất trong nước. Đồng thời nắm bắt chính xác, kịp thời của mọi thông tin về sự thay đổi đó (như diễn biến chính trị, quân sự, tài chính hay sự thay đổi chính sách của chính phủ nào đó). Tuy nhiên để có được đội ngũ nhân viên như vậy, mỗi nhân viên và cán bộ lãnh đạo của Công ty phải là những người giỏi về nghiệp vụ chuyên môn của mình ở vị trí của mình trong Công ty, đồng thời phải có khả năng sử dụng tốt ngoại ngữ (tiếng Anh) trong hoạt động kinh doanh của mình, hiểu biết tâm lý, thị hiếu, thói quen của khách hàng trên các thị trường quan tâm. Các cán bộ phải luôn rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận nghiên cứu và phân tích các thông tin liên quan đến sản phẩm và dịch vụ mà mình kinh doanh, thị trường và giá cả trên thị trường nước ngoài. Muốn vậy, Công ty trước hết cần thực hiện thông tin liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của kinh doanh trong và ngoài nước. Vì vậy Công ty trước hết cần thực việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, thực hiện việc trang bị các thiết bị thông tin liên lạc trong các phòng kinh doanh để kịp thời nắm bắt các nhu cầu và biến động của thị trường thông qua việc tham gia các mạng thông tin sẵn có ở thị trường Việt Nam. Thêm vào đó khả năng tiếp thị tốt cũng là một trong các tiêu chuẩn không thể thiếu đối với Công ty may Thăng Long. Vì Công ty hoạt động xuất khẩu nên sự phát triển của Công ty đòi hỏi phải có khả năng tiếp thị hơn hẳn các doanh nghiệp chỉ hoạt động trong nước. Bởi vì thị trường ở đây mà Công ty tiếp cận là thị trường nước ngoài, nơi mà các đòi hỏi tiêu chuẩn phải cao hơn hẳn so với thị trường trong nước và phải luôn ở mức ngang bằng với các tiêu chuẩn chung của thị trường thế giới. Để đáp ứng được các yêu cầu trên, Công ty cần có chế độ khuyến khích cán bộ công nhân viên theo các khoá học tại chức và dài hạn, đi học tập bồi dưỡng kiến thức ở các trường đào tạo có tiếng như: ĐH KTQD, ĐH ngoại ngữ…Đặc biệt cần có hình thức đào tạo thích hợp và khẩn trương về khả năng ngoại ngữ cho một số cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu của Công ty. 5. Hoàn thiện quy trình xuất khẩu. Quy trình xuất khẩu là một vấn đề quan trọng. Nếu có một quy trình xuất khẩu tốt và hợp lý thì sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển. Đồng thời tạo được nhiều lợi ích cho Công ty. Trong quy trình xuất khẩu hiện nay của Công ty còn khuyết 2 nhiệm vụ: “Thuê tàu” và “mua bảo hiểm”. Đó là khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu. Cơ sở vật chất của Việt Nam còn kém, cụ thể là đội tàu nên các Công ty xuất khẩu chọn cơ sở giao hàng là “Giao lên tàu FOB”. Với điều kiện này thì công ty sẽ ít mạo hiểm, ít rủi ro về tổn thất hàng hoá nhưng Công ty lại mất một khoản lợi lớn từ nghiệp vụ bổ trợ này. Trong thời gian tới Công ty cần thực hiện điều kiện giao hàng CIF. Với điều kiện này Công ty còn thu được lợi nhuận Công ty sẽ thực hiện sản xuất trong nước và bán ra nước ngoài trong nghiệp vụ thanh toán, Công ty hầu như chỉ có một phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức này đảm bảo cho Công ty nhận được tiền hàng. Tuy nhiên nếu chỉ thực hiện được phương thức LC thì cứng nhắc không linh hoạt. Trong trường hợp hai bên có quan hệ lâu dài tin cậy lẫn nhau thì phương thức LC mất nhiều thời gian và phí mở. Do vậy Công ty cần linh hoạt trong phương thức thanh toán, đối với khách hàng truyền thống tin cậy thì có thể dùng phương thức này nhằm thu kèm chứng từ, nếu tin cậy hơn thì dùng phương thức chuyển tiền. III . kiến nghị với Nhà nước . Trong quá trình thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, ngành may mặc nói chung và Công ty may Thăng Long nói riêng đều gặp phải khó khăn mà tự thân không giải quyết được. Đồng thời các doanh nghiệp là một thực thể trong nền kinh tế nên phải hoạt động theo pháp luật nhà nước, do đó ngoài các biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở phạm vi doanh nghiệp, vai trò của Nhà nước mà biểu hiện ở hệ thống các văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động này. Nó là nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh nó chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Công ty may Thăng Long. Sau đây là một số kiến nghị với Nhà nước.. 1. Cải cách hệ thông thuế để khuyến khích xuất khẩu. Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi bổ sung song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lí, có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó vấn đề cấp bách hiện nay là cần phải cải cách hệ thống chính sách thuế hiện hành để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới. Việc cải cách hệ thống thuế trước hêt phải đảm bảo tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo nguồn vốn để thực hiện CNH-HĐH nền kinh tế đồng thời phải đảm bảo đồng bộ hợp lí, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư góp phần thúc đẩy xản suất kinh doanh. Thêm vào đó, chính sách thuế phải đưa ra đơn giản dễ hiểu để thực hiện khuyến khích xuất khẩu và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại. Chính vì vậy , hệ thống thuế nói chung và thuế đối với các lĩnh vực xuất khẩu nói riêng bao gồm các nội dung lớn là: ban hành một hệ thống thuế đồng bộ, xem xét lại các nội dung phạm vi điều chỉnh và thuế suất của tất cả các sắc thuế. Bên cạnh đó nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu hơn nữa thì quốc hội cần xem xét và điều chỉnh việc giảm miễn thuế đối với một số mặt hàng xuất khẩu. Nhà nước đã coi ngành dệt may là ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của đất nước thì nên áp dụng thuế suất 0% đối với NVL chính phải nhập khẩu như bông, vải sợi và áp dụng thuế suất ưu đãi cho các nguyên phụ liệu. Để chủ động xản suất hàng xuất khẩu và lại có thể tăng thuế này lên nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách đồng thời đảm bảo sản xuất nguyên liệu trong nước . Hiện nay, thời hạn tạm mượn thuế nhập khẩu để sản xuất trong nước là 90 ngày là quá ngắn là bởi vì từ khâu kí kết hợp đồng mua nguyên phụ liệu sản xuất và xuất khẩu khó có thể thực hiện được trong thời gian đó. Vì vậy cần điều chỉnh một thời gian hợp lí theo chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên 120 đến 180 ngày để doanh nghiệp dễ dàng hơn trong hoạt động xuất khẩu. Hơn nữa việc hoàn thiện thuế tạm nhập tái xuất cần phải tiến hành nhanh chóng hơn, tránh để tình trạng chiếm dụng vốn lâu dài của nhà xuất khẩu. Nhà nước nên quy định cụ thể cơ quan nào thu thuế thì có trách nhiệm hoàn trả thuế để các doanh nghiệp không phải gõ cửa nhiều nơi đòi hỏi hoàn thuế. Đối với luật thuế VAT, cần xem xét lại mức thuế suất, thuế doanh thu đối với doanh nghiệp may mặc là 10% là quá cao với thuế suất doanh thu trước đây là 2%-4%. Với thuế VAT là 10% doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế nhiều hơn trước 45-70% điều đó không phù hợp với một ngành đang rất cần đẩy mạnh xuất khẩu để mở rộng thị trường xuất khẩu. Mặt hàng may mặc là mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của đất nước. Phát triển ngành sản xuất kinh doanh và xuất khẩu hàng may mặc vừa tạo điều kiện sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo việc làm ổn định và nâng cao khả năng tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Do đó việc sản xuất kinh doanh và xuất khẩu hàng may mặc cần được hưởng các ưu đãi đặc biệt so với các mặt hàng khác. 2.Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất hoạt động xuất khẩu hiện nay, đa số có nhu cầu đầu tư, đổi mới công nghệ và đòi hỏi một lượng vốn lớn thì mới có khả năng sản xuất ra các mặt hàng đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhà nước cần só chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp dệt may với lãi suất ưu đãi hơn vì khi đã đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại thì đương nhiên thời gian thu hồi vốn đầu tư không thể nhanh được. Hơn nữa các tổ chức tài chính cũng cần phải căn cứ vào hoạt động của doanh nghiệp với mức tín dụng cho phép để vay không nên quá câu nệ vào lượng vốn pháp định của doanh nghiệp khi đi vay. Nhà nước cần khẩn trương tạo điều kiện để thị trường chứng khoán có thể hoạt động được giúp cho Công ty có thể huy động vốn dễ dàng. Mặt khác, dự kiến nguồn vốn đầu tư chiều sâu để phát triển sản xuất và cho ngành dệt may là rất lớn, khoảng 5 tỷ USD đén năm 2010, do đó ngành phải phát huy mọi nguồn vốn trong và ngoài nước. Nguồn vốn tự đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài, vốn huy động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì Công ty may Thăng Long rất cần tranh thủ Công ty nguồn vốn viện trợ của chính phủ với lãi suất ưu đãi để đầu tư vào các công trình may (thời hạn may từ 8-15 năm). Hàng năm Chính phủ nên dành cho một phần ODA cho Công ty may Thăng Long với lãi suất ưu đãi để mua nguyên liệu (vải) dự trữ, đầu tư vào các dự án. Đồng thời phân bố vốn đầu tư sao cho có hiệu quả. Các công trình đòi hỏi vốn như ở các khâu quan trọng thì nên hướng vào các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các công trình đòi hỏi vốn nhỏ, công đoạn ngắn, kỹ thuật không phức tạp thì nên sử dụng vốn đầu tư trong nước. Ngoài ra chính sách đầu tư vốn của Nhà nước với ngành Dệt may cần phải chú ý các vấn đề sau: + Nhà nước cấp đủ vốn lưu động định mức cho các doanh nghiệp dệt may bằng cách dùng vốn ngân sách để bổ sung cho vốn lưu động. + Cho phép Công ty giữ lại lợi nhuận sau thuế để đầu tư phát triển. Đồng thời ngân hàng nên nới lỏng điều kiệncho vay và hạ lãi suất hợp đồng vay phù hợp với tốc độ tăng cường giá cả. Bên cạnh đó cũng cần phải đổi mới cơ cấu vốn vay, tổng vốn trung và dài hạn để ngành may mặc có điều kiện đổi mới trang thiết bị. + Đầu tư phải phù hợp cân đối, khi xét duyệt dự án và cấp vốn đầu tư thì cần đầu tư cho ngành may mặc để giải quyết nguyên liệu may. 3.Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu. Thủ tục hành chính, cách thức nghiệp vụ quản lý hoạt động xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến quá trình xuất khẩu hàng hoá. Hàng xuất khẩu hiện nay đòi hỏi thời hạn giao hàng phải đúng với hợp đồng nhưng ngành hải quan và các thủ tục kiểm tra xuất nhập khẩu hiện nay còn rườm rà và gây ra sự chậm trễ trong giao hàng cho khách. Chúng ta thực hiện cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả, thực hiện theo nguyên tắc “quản lý một cửa” cho các hoạt động xuất nhập khẩu, khắc phục sự chồng chéo phiền hà đùn đẩy nhau trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Trước hết Nhà nước cần phải hiện đạihoá ngành hải quan, hàng năm tổ chức các khoá huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ hải quan như Luật vận tải quốc tế, Luật thuế, ngoại ngữ… cho cán bộ ngành hải quan. Làm như vậy sẽ tránh gây thiệt hại cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và cho nền kinh tế quốc dân. .4.Đảm bảo ổn định về chính trị và kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trên thế giới Có thể nói sự ổn định chính trị và kinh tế là nhân tố tạo sức hấp dẫn rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong những năm gần đây, cùng với ổn định chính trị và cố gắng đảm bảo ổn định vĩ mô nền kinh tế như: khắc phụctình trạng nhập siêu, kiềm chế lạm phát xuống còn mức thấp…Chúng ta đã thu hút được rất lớn đầu tư nước ngoài vào trong nước và đã tạo được cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Trong những năm tới, để khuyến khích các hoạt động kinh tế đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu thì bên cạnh việc đảm bảo ổn định chính trị vàkinh tế. Chúng ta cần giữ vững quan hệ hoà bình với các nước trong khu vực và trên thế giới đẩy mạnh quan hệ hợp tác hưu nghị với các nước, tạo bầu không khí thuận lợi cho hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu của đất nước nói riêng. Ngoài ra, Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp để phát triển được ngành công nghiệp Dệt may. Đây là một trong những giải pháp hết sức căn bản, nhưng lại mang tính tổng hợp cao, bởi nó cần phối hợp của Chính phủ, của mọi ngành chức năng và các định chế xã hội, văn hoá…Về mặt cơ sở pháp lý, quyền sở hữu tài sản phải được quy định rõ ràng, các quy chế của Chính phủ phải được xác định một cách thận trọng, mức độ can thiệp hành chính tuỳ tiện được tối thiểu hóa, hệ thống thuế phải đơn giản, không tham nhũng, các tiến trình pháp lý phải công bằng và hiệu quả. Việt Nam đang ở trong quá trình cải cách về mặt thể chế, do vậy cần rất nhiều thời gian để hoàn thiện một môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp trước hết là trong nước. 5. áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt để khuyến khích xuất khẩu. Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam có một vị thế thuận lợi trong quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế như hiện nay. Việc nối lại quan hệ với các nước và các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới như IMF, WB, ADB, ký kết hiệp định về hợp tác thương mại với EU và với Chính phủ các nước khác. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với trên 105 quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó đã ký hợp tác thương mại với 58 nước đặc biệt là việc gia nhập ASEAN, tham gia AFTA…nên khối lượng buôn bán quốc tế của Việt Nam ngày càng tăng, hoạt động xuất khẩu ngày càng được thúc đẩy. Chính vì vậy chính sách tỷ giá với tư cách là một công cụ điều tiết vĩ mô có vai trò ngày càng lớn đối vơi sự phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Hiện nay nền kinh tế tài chính nước ta (trong đó quan trọng nhất là tính hợp lý của tỷ giá, chế độ tỷ giá hối đoái hiện hành, thực trạng cán cân thanh toán lạm phát) tuy đã được hoàn thiện một bước song vẫn còn nhiều yếu tố tiềm ẩn mang tính bất ổn định, xu hướng mất giá của đồng tiền Việt Nam so với đòng ngoại tệ đặc biệt với đồng đôla Mỹ là tương đối rõ nét. Do đó mục tiêu của tỷ giá hối đoái trong thời gian tới là phải thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá, ấn định phù hợp dựa trên sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam so với các ngoại tệ, phù hợp với cung cầu trên thị trường, đảm bảo ổn định trong kinh tế đối nội và tăng trưởng kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết. Bất cứ giải pháp nào về tỷ giá hối đoái với nền kinh tế nước ta hiện nay đều không được phép phá vỡ sự ổn định tương đối của đông tiền Việt Nam đã đạt được trong quá trình đẩy lùi lạm phát thời gian qua. Thêm vào đó cần phải giảm tới mức thấp nhất các tác động tiêu cực của thị trường tài chính quốc tế và tổn thương đối với nền kinh tế thông qua các kênh tỷ giá và sự vận động của các luồng ngoại tệ và vốn. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thanh toán quan hệ ngoại hối cho các hoạt động kinh tế đối ngoại đồng thời hỗ trợ cải cách và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế để thực hiện nhanh chóng công cuộc CNH-HĐH đất nước. Hơn nữa bên cạnh mục tiêu dài hạn là ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát thì chính sách tỷ giá cần tạo hỗ trợ hợp lý cho mục tiêu khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu. Đối với ngành Dệt may, cần khuyến khích xuất khẩu đồng thời cần nhập khẩu may móc thiết bị, công nghệ hiện đại và các nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất.Vì vậy việc duy trì một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý như hiện nay là tối ưu. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay khi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính không nhỏ, cần có giải pháp điều chỉnh tỷ giá một cách khéo léo. Khi điều chỉnh phải chú ý đến mối quan hệ chặt chẽ giữa tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trên cơ sở phân tích các biến số như tỷ lệ lạm phát trong và ngoài nước, cán cân thương mại, khuynh hướng thay đổi giá của các đồng tiền và tâm lý của người dân. việc điều chỉnh cần thực hiện từ từ qua từng giai đoạn, nên tiến hành lúc có lạm phát và khi nhu cầu đối với hàng hoá của ta đang ở mức tăng. Với ngành Dệt may chính sách nhiều tỷ giá là rất quan trọng vì mong muốn xuất nhiều mà nhu cầu nhập cũng rất lớn, nên áp dụng một tỷ giá cao cho xuất khẩu và thấp cho nhập khẩu. Kết luận. Phát triển quan hệ xuất nhập khẩu là kết quả tất yếu của quá trình tự do hoá thương mại, của quá trình phân công lao động, quá trình nâng cao vai trò tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy có mức độ khác nhau nhưng có thể nói mọi ngành công nghiệp, tập đoàn kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng của xuất nhập khẩu. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu mà các ngành công nghiệp sẽ tìm được cơ cấu sản phẩm cho phép khai thác tốt nhất lợi thế so sánh thúc đẩy tăng trưởng có hiệu quả. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hiện làmục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói riêng và Công ty may Thăng Long nói riêng. Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu . thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc có ý nghĩa chiến lược, đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Trong chiến lựơc hướng về xuất khẩu, Công ty may Thăng Long đã tận dụng được các tiềm lực có sẵn trong nước, đẩy mạnh sản xuất để xuất khẩu sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động thu về một lượng ngoại tệ khá lớn phục vụ cho qua trình CNH-HĐH. Qua quá trình thực tập ở Công ty may Thăng Long và việc tìm tòi tài liệu để hoàn thành đề tài này cho em nhận thức thêm tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và đối với nền kinh tế Việt Nam. Tài liệu tham khảo Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hướng phát triển XNK năm 1996-2000. Hà Nội năm 1996 Bộ Thương mại du lịch: Chính sách và biện pháp quản lý Nhà nước về XNK. Hà Nội, năm 1998 Hà Quốc Hội: Nghiệp vụ kinh doanh XNK. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999 Trần Chí Thành: Quản trị kinh doanh XNK. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2000 Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội năm 1998 Nguyễn Đình Hương: Quan hệ thương mại Việt Nam- ASEAN và chính sách XNK của Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999 Tô Xuân Dân: Giáo trình Kinh tế quốc tế. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1998 Nguyễn Kế Tuấn: Quản trị các hoạt động thương mại trong DNCN. Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1996 Bùi xuân Lưu: Giáo trình Kinh tế ngoại thương. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1998 PGS-TS Đặng Đình Đào “ Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam, thực trạng và giải pháp” Tạp chí kinh tế và phát triển năm 2000 Lam Giang “Mở rộng khả năng xuất khẩu –thách thức lớn với ngành Dệt may”. Tạp chí Thương Mại số 3+4, năm 2000 Văn Tuý “Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu”. Tạp chí thông tin tài chính số 12/6/1999 Trần Lê Giang “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Châu Âu- thực trạng và triển vọng”. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, tháng 5/1999 Các tài liệu của công ty may Thăng Long Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33897.doc