Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp nhằm phát triển kinh tế- Xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đến năm 2010 (80tr)

Mục lục T Lời nói đầu hành phố Hồ Chí Minh trước đây là vùng Sài Gòn - Gia Định bị Mỹ chiếm đóng, đến năm 1975 mới được quân và dân ta giải phóng và trở thành một thành phố của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1976 được đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đến nay thành phố đã trải qua những bước thăng trầm cùng cả nước, có giai đoạn gặp nhiều khó khăn khi các thế lực thù địch mưu toan quay lại, khi cơ chế bao cấp làm hạn chế khả năng phát triển của thành phố, nhưng vượt qu

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp nhằm phát triển kinh tế- Xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đến năm 2010 (80tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a những khó khăn đó, nhân dân thành phố đã ra sức xây dựng thành phố ngày một phồn vinh, giàu đẹp xứng đáng là “hòn ngọc viễn đông”. Năm 1986, Đảng ta đã quyết định đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều này đã thúc đẩy kinh tế Việt Nam nói chung, kinh tế thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có những bước phát triển nhảy vọt. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay đã trở thành trung tâm kinh tế, tài chính... lớn nhất cả nước, vì vậy các vấn đề kinh tế xã hội của thành phố luôn là chủ đề được Đảng, Nhà nước và dư luận quan tâm. Năm 1991, mô hình kiểu khu công nghiệp đầu tiên của Việt Nam ra đời đó là khu chế xuất Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh, ngay sau đó hoạt động của khu chế xuất Tân Thuận đã đạt được những kết quả đáng mừng, sự thành công của khu chế xuất Tân Thuận đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của hàng loạt khu chế xuất, khu công nghiệp về sau này. Trong những năm vừa qua các khu công nghiệp đã đóng góp hết sức tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, làm cho quá trình đó có những bước phát triển nhảy vọt. Trong giai đoạn mới, tại Đại hội lần thứ IX Đảng ta một lần nữa đã khẳng định “Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm” và phải “Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, thì vai trò của các khu công nghiệp càng được củng cố như một dây nối kinh tế Việt Nam với kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh đó, các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố có cơ hội để phát triển và có tác động trở lại làm cho tình hình kinh tế xã hội của thành phố phát triển. Tuy nhiên nói như vậy không phải là các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh không còn tồn tại những vấn đề cần giải quyết. Do đó nghiên cứu về các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đánh giá những thành tựu cần phát huy, những khó khăn cần khắc phục trở thành một vấn đề có tính thời sự. Vì vậy đây là lý do để tôi lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp nhằm phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đến năm 2010” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về khu công nghiệp Chương II: Thực trạng phát triển và vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1996 - 2003 Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do những nguyên nhân khách quan cùng những nguyên nhân chủ quan nên chuyên đề không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự thông cảm, cùng những ý kiến đóng góp hết sức quý báu của các thầy, các cô. Tôi xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thị Kim Dung đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề này. Sinh viên thực hiện: Trần Thị Quỳnh Trang Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về Khu công nghiệp I. Khái quát chung về KCN 1.Khái niệm về KCN, KCX 1.1. Khu công nghiệp Hình thức đầu tư vào KCN còn gọi là KCN tập trung mới xuất hiện ở Việt Nam sau khi Chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo hình thức khu chế xuất. Khu công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ tầng, phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển của một liên hiệp các ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh. Tại Việt Nam, theo Điều 2: “Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao”, được Chính phủ ban hành năm 1997 có quy định: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất. 1.2. Khu chế xuất Khu chế xuất là một thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Anh là “Export Processing Zone”. Xung quanh khái niệm chung này cho đến nay có nhiều quan niệm cụ thể khác nhau với nhiều định nghĩa tương ứng. Thông thường nội hàm của khái niệm này thường thay đổi tùy theo thời gian và không gian cụ thể. Cho đến nay các nhà kinh tế học còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm khu chế xuất. Tại Việt Nam, khu chế xuất thường được hiểu theo nghĩa hẹp, theo đó, Khu chế xuất là một khu vực công nghiệp tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất là khu khép kín, có ranh giới địa lý được xác định trong quyết định thành lập khu chế xuất, nhưng biệt lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuất bằng một hệ thống tường rào. Khu chế xuất được hưởng một quy chế quản lý riêng quy định tại Quy chế khu chế xuất Như vậy, về cơ bản khu chế xuất là khu kinh tế tự do. ở đó, các xí nghiệp công nghiệp được tổ chức ra để chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Thông thường, nước chủ nhà đứng ra xây dựng các cơ sở hạ tầng của khu chế xuất, xây dựng công trình sản xuất và phục vụ đời sống ở đây, sau đó kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài mang vốn, thiết bị, nguyên vật liệu từ nước ngoài vào và thuê nhân công của nước chủ nhà tổ chức thành lập khu chế xuất, tiến hành sản xuất hàng hoá để bán trên thị trường thế giới. Các mặt hàng dưới dạng máy móc, thiết bị, nguyên liệu nhập khẩu vào khu chế xuất và hàng hoá xuất khẩu từ khu chế xuất ra thị trường thế giới đều được miễn thuế. Tuy nhiên, ở một số KCX, cũng có hoạt độngkinh doanh mua bán lại công nghệ, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu trong nội bộ khu chế xuất hoặc giữa các khu chế xuất với nhau và việc bán hàng hoá do khu chế xuất sản xuất ra trên thị trường nước chủ nhà. Chính vì vậy, nó được gọi là khu chế biến xuất khẩu (hay còn gọi là khu chế xuất). Tuy nhiên, còn có một số tên gọi khác như: Khu mậu dịch tự do (Malaysia), đặc khu kinh tế (Trung Quốc), khu chế xuất tự do (Hàn Quốc) ... Mặc dù cách gọi tên cụ thể là rất khác nhau, nhưng nhìn chung ở các khu vực này chủ yếu là các hoạt động sản xuất và chế biến còn hoạt động mua bán thì rất ít hoặc không thấy. 1.3. Khu công nghệ cao Khu công nghệ cao ra đời với nhiều tên gọi khác nhau như: trung tâm công nghệ, trung tâm khoa học, thành phố khoa học, khu phát triển công nghiệp, công nghệ cao ... nhưng mục đích và ý nghĩa chung của nó là xung quanh một cơ sở hạt nhân nào đó thành lập những khu vực, lĩnh vực nhất định với một kết cấu hạ tầng riêng nhằm đảm bảo cho quá trình chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Các khu công nghệ cao đều có đặc điểm là sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học công nghệ và sản xuất kinh doanh ... Việc thành lập khu công nghệ cao ở bất cứ nước nào cũng để nhằm phát triển công nghiệp kỹ thuật cao, thu hút chất xám để tạo ra sản phẩm có hàm lượng khoa học cao hơn hẳn các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhằm tạo ra các bước đột phá quan trọng để phát triển công nghệ và công nghiệp trong nước. Đây là nơi được Chính phủ nước sở tại dành rất nhiều điều kiện ưu đãi để khuyến khích các nhà đầu tư, các nhà khoa học vào làm việc và nghiên cứu, ứng dụng và cho ra đời các sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. 2. Đặc điểm cơ bản của KCN ở Việt Nam và phân biệt nó với khu chế xuất 2.1. Đặc điểm cơ bản của KCN ở Việt Nam KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. KCN có những đặc điểm chính sau đây: KCN có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi, nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong khu để thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ tục xin phép và thuê đất (giảm hoặc miễn thuế). Nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ nước ngoài hay các tổ chức, cá nhân trong nước. ở các nước, Chính phủ thường bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng như san lấp mặt bằng, làm đường giao thông... Tại Việt Nam, Nhà nước không có đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN được hiểu là tiến hành kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và trong nước kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng. Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong KCN dành chủ yếu cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và hàng hoá tiêu dùng, các nhà sản xuất trong KCN rất quan tâm đến việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao với mục đích thay thế hàng nhập khẩu. Mọi hoạt động kinh tế trong KCN trực tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ chế quản lý kinh tế trong KCN lấy điều tiết của thị trường làm chính. KCN có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là một vương quốc nhỏ trong một vương quốc như KCX. Các chế độ quản lý hành chính, các quy định liên quan đến ra, vào KCN và quan hệ với doanh nghiệp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong KCN sẽ là các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các điều kiện bình đẳng. KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả doanh nghiệp 100% vốn trong nước. Ra đời cùng với loại hình KCX, KCN cũng sớm gặt hái được nhiều thành công ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt là các nước đang phát triển. 2.2. Phân biệt khu công nghiệp với khu chế xuất * Điểm giống nhau: KCN và KCX đều là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về cơ sở hạ tầng, KCN, KCX đều được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công nghiệp. Về cơ cấu ngành, KCN, KCX đều gồm các ngành truyền thống như mà trong nước có lợi thế so sánh và các ngành công nghiệp mới như điện tử, lắp ráp... * Điểm khác nhau: KCN có phạm vi hoạt động rộng hơn KCX, nó không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đãi từ phía Chính phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ được hưởng chế độ ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra nước ngoài và từ nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp chế xuất trong KCN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). KCN không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung. Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp KCX được hưởng thuế thu nhập 10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất: nộp 15% và miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ. Còn doanh nghiệp KCN nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm trong 2 năm; 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và trong 2 năm. Đối với nước sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây: + Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với nền sản xuất trong nước. + Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX. + Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu. Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là khó khăn đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các khó khăn trên mà các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị trường nội địa. Do đó, việc xây dựng thành công các KCX thường gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa. Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ưu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có đủ sức hấp dẫn mạnh hơn đối với các nhà đầu tư so với KCN. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các KCN và KCX là không ít khó khăn nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCX hay KCN phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút được. Như vậy KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Đối với KCN thường được thành lập ở những vùng đình trệ về kinh tế, nơi có nhiều người thất nghiệp, nhưng lại có một số ưu thế phát triển như: nguồn tài nguyên, vị trí địa lý thuận lợi. Được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, so với KCN thì KCX cũng được xác định là KCN nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. 3. Phân loại các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay Mặc dù có những đặc điểm chung, những KCN còn có những nét đặc thù thể hiện tính đa dạng của nó, một cách tổng quát có thể chia KCN thành 4 loại: Một là: các KCN được thành lập trên khuôn viên đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, KCN Khánh Hoà, KCN Liên Chiểu (Đà Nẵng), KCN Bình Dương, KCN Tân Tạo, Bình Chiểu (TP Hồ Chí Minh), KCN Sài Đồng B (Hà Nội)... nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KCN theo đúng quy hoạch mới, đồng thời tạo hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt việc phát triển KCN, có điều kiện xử lý chất thải công nghiệp. Đối với KCN thuộc loại này thì vấn đề quan trọng nhất là nhanh chóng nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, nhất là các công trình xử lý chất thải công nghiệp, đồng thời đảm bảo tính phù hợp trong quy hoạch xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thuận tiện cho các doanh nghiệp sử dụng. Hai là: các KCN được hình thành nhằm đáp ứng yêu cầu cho việc di dời các nhà máy, xí nghiệp đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do nhu cầu chỉnh trang đô thị và bảo vệ môi trường, môi sinh mà phải chuyển vào KCN. Hiện nay, do các thành phố phát triển nhanh và quy mô lớn hơn, dân cư tập trung đông hơn nên các cơ sở công nghiệp đã xây dựng trong nội thành chẳng những gây mất mỹ quan cho cảnh quan thành phố mà còn gây ô nhiễm môi trường sống cho dân cư đô thị. Việc mở rộng các cơ sở này: đổi mới công nghệ khó thực hiện do không còn diện tích đất và xử lý hạ tầng, bảo vệ môi trường tốn kém. Thuộc diện cần thiết phải di dời có nhiều cơ sở. Do đó việc hình thành các KCN phục vụ nhu cầu di dời là yêu cầu khách quan thực hiện càng sớm càng tốt. Ba là: các KCN hiện đại và có quy mô lớn, xây dựng mới. Thuộc loại KCN này, hiện nay có 20 trong đó có 13 khu (kể cả KCX) do các công ty nước ngoài đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, như KCN Hải Phòng - Nomura, KCN Singapore, KCN Long Bình - Amator, KCN Bắc Thăng Long... Nhìn chung các KCN này có tốc độ xây dựng hạ tầng tương đối nhanh và chất lượng hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có hệ thống xử lý chất thải công nghiệp tiên tiến, đồng bộ và có một số khu vực có nhà máy phát điện riêng, tạo điều kiện hấp dẫn đầu tư đổi mới, các công ty nước ngoài có công nghệ tiên tiến, có khả năng tài chính và làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Khả năng vận động xúc tiến đầu tư có điều kiện hơn do bên nước ngoài tham gia liên doanh rộng ở nhiều nước, có kinh nghiệm tiếp thị. Bốn là: Các KCN có quy mô nhỏ gắn liền với nguồn nguyên liệu nông, lâm, thủy sản được hình thành ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Trung du Bắc Bộ và Duyên hải miền Trung. Quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng trong thế kỷ 21 sẽ đặt ra những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, tạo ra những đặc trưng mới cho bộ mặt các KCN. Cách phân loại trên sẽ phục vụ cho việc tạo ra những thông tin phong phú và hữu ích cho các cấp quản lý và hoạch định chính sách. II. Điều kiện hình thành, các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành và các chỉ tiêu đánh giá khả năng phát triển của các KCN 1. Điều kiện hình thành và các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành các KCN 1.1. Điều kiện hình thành Quá trình hình thành các KCN mới, cải tạo mở rộng các KCN cũ phải tuân thủ những điều kiện sau: Một là: dựa trên đường lối của Đảng và Nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu phát triển công nghiệp trong tương lai của thành phố để xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các loại hình KCN trên địa bàn phù hợp với định hướng phát triển và phân bố công nghiệp một cách hợp lý. Hai là: xây dựng quy hoạch cụ thể và mặt bằng KCN * Về quy hoạch phát triển cụ thể KCN - Đối với KCN mới: +Xác định diện tích KCN bao gồm khu sản xuất, khu thương mại, khu làm việc. +Số lượng các doanh nghiệp và các ngành nghề chủ yếu. +Xác định nhu cầu lao động, điện, nước và khả năng đáp ứng khác +Sơ đồ mặt bằng KCN: sơ đồ phân bố các doanh nghiệp trong KCN, các công trình công cộng như công viên, cây xanh. +Tiến độ xây dựng cho từng hạng mục công trình bao gồm dự án khả thi, giấy phép xây dựng và đấu thầu xây dựng, kế hoạch đền bù và giải phóng mặt bằng. +Xác định các hạng mục công trình liên quan đến các hạng mục ngoài hàng rào - Đối với KCN cũ: +Đánh giá thực trạng của từng khu tìm ra những bất hợp lý về thị trường, công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, môi trường. +Xác định những doanh nghiệp có thể cải tạo, những doanh nghiệp phải di dời ra ngoại vi. +Lựa chọn các phương án cải tạo di dời có hiệu quả Ba là: triển khai xây dựng KCN bao gồm lựa chọn các đối tác xây dựng có uy tín, triển khai xây dựng theo các hạng mục công trình. Bốn là: khuyến khích đầu tư vào KCN thông qua cơ chế hấp dẫn mang tính cạnh tranh so với các tỉnh và thành phố khác. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành các khu công nghiệp * Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý: KCN phải được xây dựng ở vị trí địa lý thuận lợi, đảm bảo cho giao lưu hàng hoá giữa KCN với thị trường quốc tế và các vùng còn lại trong nước. Đây là một trong những điều kiện cần thiết đối với sự thành công của bất kỳ KCN nào để đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hoá và nguyên liệu ra vào các KCN được nhanh chóng và thuận tiện nhất nhằm giảm chi phí lưu thông và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất ra. Các KCN cần được xây dựng ở gần các khu vực đô thị, gần các trung tâm văn hoá - xã hội, có hệ thống giao thông thuận lợi... Ngoài ra, về khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, sông, hồ... cũng cần phải lưu tâm để tránh gây khó khăn cho quá trình xây dựng và hoạt động sau này. * Cơ chế chính sách: Nơi có dự kiến xây dựng KCN phải có sự ổn định về chính trị, an ninh và trật tự xã hội để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia kinh doanh và đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài nhiều khi không coi những ưu đãi về kinh tế là quan trọng hàng đầu, mà cái chính là sự ổn định về chính trị, xã hội của nước tiếp nhận đầu tư. Chủ trương chính sách đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của việc phát triển KCN, vì nếu có chính sách ưu đãi thì các nhà đầu tư sẽ giảm được chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận kinh doanh gây nên sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Do đó chính sách đầu tư có mối liên hệ chặt chẽ với việc thu hút đầu tư vào KCN. Các chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế công ty, thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức; không hạn chế việc chuyển vốn và lợi nhuận của các nhà đầu tư ra nước ngoài; xác định rõ quyền sử dụng đất của các nhà đầu tư... sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Đồng thời, phải có quy chế hoạt động của KCN rõ ràng, cụ thể và ổn định. Có như vậy, các nhà đầu tư mới an tâm đầu tư vào KCN và nước chủ nhà mới có thể quản lý tốt được hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Chính sách kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công của KCN. Đó là các chính sách về: đầu tư, thương mại, lao động, ngoại hối và các chính sách khác. * Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của vùng Về điều kiện kinh tế, các KCN phải nằm trong khu vực có chính sách ưu tiên của Nhà nước, đặc biệt là trong các khu vực làm đòn bẩy phát triển kinh tế của cả nước. Những khu vực này có thể được Nhà nước hỗ trợ trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phục vụ chung nhưng có lợi cho cả KCN như: nâng cấp sân bay, mở rộng cảng biển, cải tạo và nâng cấp đường bộ, đường sắt...và được các Bộ, các ngành tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ trong việc xây dựng các công trình cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc... KCN là nơi không có dân cư sinh sống. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của các khu đô thị, các thành phố lân cận, nơi cung cấp đủ nguồn lao động về số lượng và chất lượng. Người lao động phải có đủ trình độ cần thiết để tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Đây là yếu tố hỗ trợ rất hiệu quả cho hoạt động của KCN. Đối với các nhà đầu tư, vấn đề cũng rất được quan tâm là nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương có đủ cung cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp, địa chất khu vực KCN phải đảm bảo khả năng để xây dựng các xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất công nghiệp. * Vấn đề giải phóng mặt bằng và giá thuê đất Một yếu tố nữa cũng có ảnh hưởng là trong việc giải phóng mặt bằng quy hoạch ngoài việc cần giải phóng nhanh mặt bằng mà cần phải lưu ý đến khả năng đền bù không quá cao để tránh việc đẩy giá đất lên cao làm kém đi tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Giá thuê đất phải được cân đối với khung giá đất ở các địa phương lân cận và của khu vực sao cho thật sự hợp lý, có sức cạnh tranh cao. 2.Các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác các KCN 2.1. Tỉ lệ diện tích được điền đầy Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả khai thác về việc sử dụng mặt bằng các KCN % Điền đầy = Diện tích đã cho thuê *100% Tổng diện tích KCN Chỉ tiêu này được đưa ra nhằm xác định tính hiệu quả của việc khai thác và sử dụng đất có ích trên tổng diện tích đất được cấp phép theo dự án của KCN. Đồng thời qua đó có thể so sánh được thành công trong việc khai thác sử dụng diện tích đất giữa các khu công nghiệp với nhau. 2.2. Số dự án đầu tư Chỉ tiêu này nhằm xác định số dự án được đầu tư vào từng KCN và khả năng thu hút các nhà đầu tư đồng thời nó còn dùng để so sánh hiệu quả khai thác giữa các KCN với nhau. 2.3. Tổng số vốn đầu tư Chỉ tiêu này dùng để xác định tổng số vốn đã được các nhà đầu tư đầu tư cho từng KCN đồng thời qua đó so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư giữa các KCN với nhau. 2.4. Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đất khu công nghiệp Tỉ lệ VĐT (tỷ đồng/ha) = Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng) Tổng diện tích KCN (ha) Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá, so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích giữa các KCN với nhau để từ đó chúng ta có thể đánh giá được tính hấp dẫn thu hút vốn của các KCN một cách chính xác hơn. 2.5.Quy mô của một dự án đầu tư Quy mô của một dự án = Tổng VĐT vào KCN *100% Tổng số dự án đầu tư 2.6. Số lao động Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm giữa các KCN về số lượng lao động làm việc tại KCN. Qua chỉ tiêu này, chúng ta có thể thấy được lợi ích của việc xây dựng các KCN trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp và lao động dôi dư ở các địa phương có KCN Chỉ tiêu này đánh giá khả năng và năng lực đóng góp của KCN vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP. Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng của KCN đối với việc tăng trưởng GDP và tăng trưởng kinh tế, từ đó có cách nhìn nhận đúng trong việc cần thiết phải đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN. III. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Đến tháng 9 năm 1991 thì KCN đầu tiên ở Việt Nam là KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh mới được thành lập. Trong 10 năm qua, hoạt động của các KCN đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước. Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát triển KCN trước hết tạo tiền đề cho đô thị hoá nông thôn, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp. KCN cũng chính là cầu nối giữa nước ta với thế giới bên ngoài, nó làm vai trò tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa. 1. Đối với phát triển vùng lãnh thổ nói chung KCN trở thành một công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng của Chính phủ, đồng thời tạo ra sự phân công lao động theo hướng chuyển từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài ở địa phương. Không ít vùng nông thôn nghèo, đất đai sình lầy, hoang hoá, ít có khả năng sinh lợi, sau khi xây dựng KCN thu hút các nhà đầu tư kinh doanh, đã trở nên sầm uất, đời sống kinh tế xã hội của vùng như được “lột xác”. 2. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Phân tích lý luận tái sản xuất của Mark, mô hình Harrod - Domar và lý thuyết “phân kỳ các giai đoạn phát triển” của Rostow ta kết luận được rằng: Đầu tư là động lực, là yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Mà KCN là một hình thức thu hút đầu tư do đó nó cũng là một yếu tố của tăng trưởng. Thực tế phát triển KCN đã thành công ở nhiều nước, như Đài Loan, Thái Lan phát triển KCN từ những năm đầu của thập kỷ 60 và đã thu được những thành tựu to lớn. Đến năm 1991, trong 3 KCN của Đài Loan đã có 238 doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động với tổng vốn đầu tư hơn 860 triệu USD, trong đó hơn 70% là đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị xuất khẩu tích lũy đã hơn 35 tỷ USD, đạt kỷ lục tạo việc làm cho 90.000 lao động. Còn Thái Lan năm 1960 thu nhập GDP bình quân là 94 USD/người. Qua 3 thập kỷ công nghiệp hóa, năm 1994 công nghiệp đã lên ngôi chiếm 34% GDP và nông nghiệp chỉ còn 10%, 70% giá trị xuất khẩu do các ngành công nghiệp đảm nhận, thu nhập GDP bình quân đầu người năm 1995 đạt 2600 USD. Công nghiệp chế tạo từ thập kỷ 60 đến nay là khu vực đóng góp phần quan trọng nhất đối với tiến bộ của cả nước. Từ lý luận và thực tế cho thấy việc phát triển KCN là nhân tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đó là những tụ điểm tập trung các xí nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước; đưa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững; phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản, hỗ trợ các ngành này và phục vụ xuất khẩu; phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt, thực hiện đô thị hoá nông thôn; chuyển dời các cơ sở sản xuất từ nội đô ra ngoại vi, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị; tạo nhiều việc làm cho dân cư thành thị và nông thôn. 3. Đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước Phát triển các KCN là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới thúc đẩy sự nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các KCN thúc đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng máy móc thiết bị, công nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại vào sản xuất; tạo ra các yếu tố để liên kết các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư nước ngoài với công nghiệp trong nước, góp phần tích cực vào việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu; tăng thu nhập ngoại tệ; thực hiện phân công lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. 4. Đối với phát triển xã hội Mục tiêu phát triển kinh tế suy đến cùng là nhằm thỏa mãn các nhu cầu về đời sống vật chất, đời sống tinh thần ... của con người, của xã hội. Mục tiêu phát triển xã hội là nhằm nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Do đó sự tác động của KCN đối với phát triển kinh tế như đã nói ở trên cũng chính là sự tác động đến xã hội. Ngoài ra các KCN còn là những trung tâm tạo việc làm mới, đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, hình thành các đô thị vệ t._.inh, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với văn minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy việc thành lập KCN có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu vực. IV. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển các KCN 1. Các KCN tỉnh Bình Dương 1.1. Những thành tựu hoạt động của các KCN tỉnh Đồng Nai Đến nay Bình Dương đã có hệ thống 10 KCN được cấp giấy phép hoạt động đó là các KCN: Sóng Thần I, Sóng Thần II, Việt Hương, Đồng An, Việt Nam- Singapore, Bình Đường, Tân Đông Hiệp A, Tân Đông Hiệp B, Bình Hòa, Tân Định. Với chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, Bình Dương có nhiều mô hình xây dựng KCN bao gồm: 6 KCN do các doanh nghiệp nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như công ty Thanh Lê, 1 KCN do doanh nghiệp nhà nước liên doanh với tư nhân trong nước đầu tư, 2 KCN do doanh nghiệp tư nhân trong nước đầu tư như KCN Việt Hương, 1 KCN do nhà nước liên doanh với nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Với phương châm “trải chiếu hoa” để mời gọi các nhà đầu tư đến nay tỉnh Bình Dương tạo được sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư. Các chủ đầu tư vào KCN rất đa dạng dưới nhiều hình thức liên doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài như KCN Việt Nam-Singapore, công ty trách nhiệm hữu hạn như KCN Việt Hương, các KCN còn lại do nhà nước đầu tư xây dựng. Nhìn chung các KCN của Bình Dương hoạt động có hiệu quả. Năm 2003, Bình Dương tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng trong thu hút đầu tư vào các KCN. Tính đến giữa tháng 12 năm 2003, tổng vốn đầu tư mà các KCN thu hút được đạt trên 150 triệu USD trong đó có 41 dự án đầu tư mới với tổng vốn đăng ký xấp xỉ 79 triệu USD và 36 dự án điều chỉnh bổ sung tăng vốn gần 72 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút vào tỉnh Bình Dương năm 2003. Với 10 KCN đã được Chính phủ cho phép thành lập, Bình Dương là một trong những tỉnh đạt tỷ lệ lấp đầy KCN cao. Phần lớn các KCN trên địa bàn đã cơ bản hoàn thành công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, một số khu có diện tích lấp đầy cao như KCN Sóng Thần I đạt tỷ lệ 91%, Sóng Thần II 78%, Đồng An 90%, Bình Đường 82%, Tân Đông Hiệp A 81%. Tính đến nay các KCN Bình Dương có 386 dự án còn hoạt động, bao gồm 246 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký trên 886 triệu USD và 140 dự án trong nước với tổng vốn điều lệ 748 tỉ đồng, giải quyết việc làm cho gần 79 nghìn lao động. Năm 2003 doanh thu các doanh nghiệp đạt 886 triệu USD tăng 80% so với cùng kỳ năm 2002. 1.2.Bài học kinh nghiệm của Bình Dương trong phát triển các KCN có thể vận dụng cho TP Hồ Chí Minh Các KCN có được những thành công như vậy là do được sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, đa dạng hoá các thành phần kinh tế cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà nước, tư nhân, liên doanh, chính điều này khiến cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại các KCN này diễn ra nhanh chóng. Đồng thời chú trọng trong việc thu hút vốn vào các KCN thông qua việc ban hành danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài, thông qua việc giới thiệu tiềm năng của tỉnh trên các lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm, UBND tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo gặp gỡ các nhà đầu tư để xúc tiến gọi thầu. Ban hành quy định về trình tự xét duyệt dự án đầu tư theo cơ chế đầu tư một cửa, đã tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ các nhà đầu tư. Bài học thành công của Bình Dương là đa dạng hoá các thành phần kinh tế để xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và rất chú trọng trong việc thu hút vốn đây là việc làm rất cần thiết đối với các KCN. Sở dĩ đạt được những kết quả như vậy là do có sự quan tâm đúng mức của chính quyền địa phương, coi trọng công tác quy hoạch, định hướng kêu gọi đầu tư nhất là đầu tư cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, đồng thời ban hành các danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài. Đây là việc làm rất cần thiết đối với các KCN đòi hỏi chính quyền địa phương phải quan tâm 2. Các KCN tỉnh Đồng Nai 2.1. Những thành tựu hoạt động của các KCN tỉnh Đồng Nai Do những lợi thế về vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng, Đồng Nai là một trong những tỉnh phát triển mạnh các KCN. Tính đến tháng 11 năm 2003 đã có 15 KCN được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đó là : KCN Amata, KCN Nhơn Trạch I, KCN Nhơn Trạch II, KCN Nhơn Trạch III, KCN Gò Dầu, KCN Loteco, KCN Biên Hoà II, KCN Biên Hoà I, KCN Sông Mây, KCN Hồ Nai, KCN Dệt may Nhơn Trạch, KCN An Phước, KCN Tam Phước, KCN Long Thành, KCN Nhơn Trạch V. Hình thành sau KCX Tân Thuận và một số KCN khác nhưng đến nay Đồng Nai được coi là một trong những nơi hấp dẫn nhất thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong các KCN. Tính đến hết giữa tháng 11 năm 2003, Ban Quản lý các KCN Đồng Nai đã cấp mới giấy phép đầu tư cho 54 dự án với tổng vốn đầu tư 184,8 triệu USD và điều chỉnh giấy phép đầu tư tăng vốn đầu tư cho 120 dự án, vốn đầu tư tăng 152,25 triệu USD. Như vậy, đến giữa tháng 11, có 373 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động tại các KCN Đồng Nai với tổng vốn đăng ký là 5,5 tỉ USD, vốn thực hiện 3,1 tỉ USD; tạo công ăn việc làm cho 1,3 vạn lao động người Việt Nam. Đồng Nai là một trong những địa phương có khả năng thu hút đầu tư nước ngoài cao nhất cả nước. 2.2.Bài học kinh nghiệm của Đồng Nai trong phát triển các KCN có thể vận dụng cho TP Hồ Chí Minh Để hình thành và phát triển các KCN tỉnh rất coi trọng công tác quy hoạch, đặt các KCN của tỉnh trong mối liên hệ với cả vùng Đông Nam Bộ đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thiện việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tìm cơ chế thích hợp để gọi vốn đầu tư để sớm lấp đầy phủ kín KCN. Cùng với việc hình thành các KCN tỉnh đã khẩn trương xây dựng các khu dân cư tập trung, mở rộng đào tạo nghề để phục vụ KCN, xây dựng chế độ quản lý hành chính mở cửa, cải tiến thủ tục hải quan, tổ chức các dịch vụ có chất lượng và giá cả hợp lý thuận lợi cho việc triển khai sau khi cấp giấy phép. Chương II: Thực trạng phát triển và vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1996 - 2003 I. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội TP Hồ Chí Minh (1996 -2003) TP Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt thuận lợi, nằm giữa vùng Nam Bộ giàu có và nhiều tiềm năng. Cách thủ đô Hà Nội 1738 km về phía Đông Nam. Có chung địa giới hành chính với các tỉnh Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa -Vũng Tàu; phía Đông Nam giáp biển đông. Diện tích là 2029 km2, dân số là 5,33 triệu người. Do vị trí địa lý và những yếu tố đất đai, khí hậu thuận lợi, vùng đất này sớm trở thành nơi hội tụ của các thương nhân bốn biển, năm châu. Trong những năm gần đây (1996 - 2003), với cơ chế kinh tế đổi mới, nền kinh tế TP đã có những bước phát triển rất đáng tự hào, trở thành trung tâm kinh tế, tài chính... là đầu tàu của cả nước. 1. Những thành quả đạt được 1.1. Kinh tế thành phố liên tục tăng trưởng với tốc độ cao Giai đoạn 1996-2003 kinh tế TP Hồ Chí Minh liên tục tăng trưởng với quy mô năm sau cao hơn năm trước, năm 2003 GDP của thành phố đạt 70.826 tỷ đồng gần gấp đôi năm 1996 (đạt 37.380 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của TP luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước, và cao hơn gấp nhiều lần so với một số tỉnh, trong đó đáng chú ý là sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố đã có những thay đổi đáng kể. Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 1996-2003 (giá cố định) Năm GDP (tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng (%) 1996 37.380 1997 41.900 12,092 1998 45.683 9,029 1999 48.499 6,164 2000 52.860 8,992 2001 57.787 9,321 2002 63.690 10,215 2003 70.826 11,204 Nguồn: Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư Sản xuất công nghiệp đã từng bước thay đổi, đi dần vào thế ổn định, đáp ứng phần lớn nhu cầu của người dân thành phố và cả nước, tham gia xuất khẩu ngày một nhiều. Đặc biệt sự ra đời của 10 KCN tập trung đã góp phần to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư và công nghệ của nước ngoài cũng như đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng của công nghiệp thành phố, làm cho vị trí của công nghiệp thành phố so với công nghiệp cả nước không ngừng tăng lên. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2003 đạt 88.882 tỷ đồng gấp 2,56 lần năm 1996 (đạt 34.770 tỷ đồng) Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản: tuy diện tích đất cũng như lao động nông nghiệp giảm, nhưng nhờ đầu tư kỹ thuật, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nên giá trị sản lượng vẫn liên tục tăng lên. Cụ thể như sau: Bảng 2: Giá trị sản xuất CN và N, L, TS giai đoạn 1996- 2003 (giá cố định 1994) Chỉ tiêu Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Giá trị sản xuất CN (tỷ đồng) 34.770 39.410 44.327 49.560 57.217 66.930 77.021 88.882 Chỉ số phát triển CN (%) 113,34 112,48 111,81 115,45 116,98 115,08 115,40 Giá trị sản xuất N,L,TS (tỷ đồng) 1.314 1.466 1.618 1.814 1.880 2.059 2.209 2.410 Chỉ số phát triển N,L,TS(%) 111,57 110,37 112,11 103,64 109,52 107,29 109,10 Nguồn: Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư 1.2. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực Cơ cấu kinh tế TP có sự thay đổi đáng kể cả về cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp, thuỷ sản và dịch vụ, ngược lại ngành công nghiệp với sự xuất hiện của các KCN chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Cơ cấu thành phần chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, giảm dần tỷ trọng khu vực nhà nước, khu vực ngoài nhà nước giảm mạnh hơn khu vực nhà nước trong giai đoạn 1996-2000, nhưng đến năm 2002-2003 có dấu hiệu tăng trở lại. Bảng 3: Cơ cấu GDP giai đoạn 1996 - 2003 (theo giá thực tế) Đơn vị tính: % Cơ cấu %) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 *Phân theo ngành kinh tế Công nghiệp 40,1 41 42,5 43,8 45 46,2 46,6 47,7 Nông nghiệp 2,9 2,6 2,4 2,1 2 1,9 1,7 1,6 Dịch vụ 57 56,4 55,1 54,1 53 51,9 51,7 50,7 *Phân theo thành phần kinh tế Kinh tế Nhà nước 47 46,1 45,2 44,7 43,0 42,3 41,9 40,9 Kinh tế ngoài Nhà nước 39,5 39,0 38,3 38,1 37,6 37,1 37,3 37,6 Khu vực có VĐT nước ngoài 13,5 14,9 16,5 17,2 19,4 20,6 20,8 21,5 Nguồn: Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư 1.3. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng Quan hệ kinh tế của TP với các nước được mở rộng và có bước phát triển mới, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của TP liên tục tăng cao, năm 2003 đạt 12.073 triệu USD gấp hơn 1,5 lần năm 1996 (đạt 7.680 triệu USD), duy chỉ có năm 2001, do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 tại Mỹ làm cho nhập khẩu tăng chậm, trong khi xuất khẩu giảm mạnh so với năm 2000, dẫn đến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm so với năm trước, nhưng đến năm 2002 khó khăn đã được khắc phục, xuất nhập khẩu của TP lại tiếp tục tăng lên. Bên cạnh đó một dấu hiệu đáng mừng nữa trong quan hệ kinh tế quốc tế của TP là cán cân thương mại không ngừng được cải thiện, từ tình trạng nhập siêu năm 1996 (nhập siêu 24 triệu USD) đến năm 2003 đã xuất siêu 2.533 triệu USD. Đến nay TP đã có quan hệ xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ với khoảng 75 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu của thành phố (1996-2003) Đơn vị tính: triệu USD Chỉ tiêu Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Xuất khẩu (Triệu USD) 3.828 3.830 3.722 4.647 6.316 6.016 6.425 7.303 Nhập khẩu(Triệu USD) 3.852 4.095 3.620 3.416 3.844 3.936 4.026 4.770 Tổng kim ngạch XNK(Triệu USD) 7.680 7.925 7.342 8.063 10.160 9.952 10.451 12.073 Cán cân thương mại(Triệu USD) -24 -265 102 1.231 2.472 2.080 2.399 2.533 Nguồn: Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư 1.4. Lạm phát được kiềm chế và đẩy lùi Bảng 5: Chỉ số giá tiêu dùng (tháng 12 năm báo cáo so với tháng 12 năm trước) giai đoạn 1996-2003 Năm Chung Hàng hóa Dịch vụ 1996 107,10 107,03 107,71 1997 102,41 102,38 103,59 1998 109,02 109,14 108,13 1999 101,56 100,40 105,25 2000 101,75 100,96 104,01 2001 101,54 100,71 104,25 2002 103,72 103,37 104,81 2003 103,97 103,61 105,09 Nguồn: Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lạm phát từng bước được kiềm chế và đẩy lùi, trong các năm 1997, 1999, 2001 có dấu hiệu thiểu phát. Nhìn chung giá dịch vụ tương đối tăng nhanh hơn giá hàng hoá 1.5. Đời sống dân cư được cải thiện. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế được tăng cường. An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững Trong những năm vừa qua do kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, nên đời sống người dân TP đã được cải thiện rõ rệt, GDP bình quân đầu người tăng cao, mức chi tiêu cho đời sống cũng tăng lên, hơn thế nữa, cơ cấu chi tiêu cũng chuyển dịch theo hướng tích cực: chi ăn uống giảm tương đối, ngược lại các khoản chi cho ở, đi lại, học hành, giải trí tăng đáng kể. Tỷ lệ thất nghiệp giảm dần qua các năm từ 10,8% năm 1996 xuống còn 8,73% năm 2003, đặc biệt tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt từ 18,1% năm 1996 xuống còn 8% năm 2003. Về y tế 100% số xã trên địa bàn TP đã có trạm y tế, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho người dân. Về giáo dục tỷ lệ người biết đọc biết viết trên địa bàn TP tăng từ 96,47% năm 1996 lên 97,52% năm 2003 Bảng 6: Một số các chỉ tiêu xã hội của TP giai đoạn 1996-2003 Chỉ tiêu Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tỷ lệ thất nghiệp (%) 10,8 10,2 9,7 9,3 8,9 8,86 8,79 8,73 Tỷ lệ hộ nghèo (%) 18,1 18,3 13,9 11,8 9,5 9,0 8,5 8,0 Tỷ lệ người biết đọc, biết viết (%) 96,47 96,70 96,93 97,16 97,38 97,41 97,50 97,52 Tỷ lệ số xã có trạm y tế (%) 100 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bên cạnh đó, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn TP luôn được giữ vững, số vụ trộm cắp, lừa đảo... và các tệ nạn xã hội đã từng bước được khống chế, làm cho người dân an tâm sinh sống và làm việc. 2. Những khó khăn và yếu kém 2.1. Tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé;hạ tầng kỹ thuật; trình độ công nghệ chưa đồng bộ Kinh tế TP giai đoạn 1996 - 2003 tăng trưởng với tốc độ rất cao, nhưng không vững chắc, năm 1997 tốc độ tăng trưởng đạt tới 12,092%, nhưng năm 1998 giảm xuống còn 9,029%, đặc biệt năm 1999 tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,164% thấp nhất trong giai đoạn này, vì vậy nhiều nhà kinh tế đã ví kinh tế TP Hồ Chí Minh là “người to nhưng không khoẻ”. Tốc độ tăng trưởng tuy có cao hơn cả nước và cao hơn nhiều tỉnh, nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô còn nhỏ bé, GDP bình quân đầu người năm 2003 khoảng trên dưới 1500 USD, đó là mức quá thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hiện có tuy đã được đầu tư xây dựng nhưng nhìn chung còn chưa thoả mãn tốt nhất cho yêu cầu. Trong các doanh nghiệp, thiết bị máy móc đã được đổi mới nhưng so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn lạc hậu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. ở các đơn vị công nghiệp hệ số hao mòn tài sản cố định gần 25%, nếu tính đủ hao mòn thực tế cả hữu hình và vô hình tỷ lệ đó còn cao hơn. Về trình độ công nghệ có 30% tiên tiến, 45,5% trung bình và còn tới 24,5% là lạc hậu. 2.2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao; sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ còn thấp Hiệu quả nói ở đây gồm cả góc độ doanh nghiệp và góc độ xã hội. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trước hết là hiệu quả sử dụng đồng vốn. Trong những năm qua hiệu quả sử dụng đồng vốn của các doanh nghiệp trên địa bàn TP còn chưa cao, tính chung toàn nền kinh tế một đồng vốn chỉ tạo ra được trên 0,2 đồng lợi nhuận một năm. Hàng năm số doanh nghiệp bị lỗ khá lớn, thường phải trên 15%. ở góc độ xã hội, hiệu quả kinh tế được thể hiện ở tỷ lệ tích luỹ và huy động GDP vào ngân sách. Tỷ lệ tích luỹ của TP dao động từ 30% đến 40%. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách từ 25% đến 35%. Sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ còn thấp, thể hiện ở chỗ giá còn cao và chất lượng sản phẩm còn thấp tương đối so với hàng ngoại nhập. Một vấn đề cần quan tâm hiện nay là trong khi giá điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng và dịch vụ là “đầu vào” của hầu hết các ngành sản xuất đều tăng, mà giá sản phẩm “đầu ra” lại chỉ tăng chậm, hoặc không tăng, do người mua không chấp nhận, người bán không thể tuỳ tiện tăng giá, do đó người bán phải giảm lãi để tiêu thụ được hàng. Đối với các mặt hàng xuất khẩu bị sự cạnh tranh khốc liệt của các nước, nhất là khi hàng rào mậu dịch được dỡ bỏ, khi đó khó khăn sẽ lớn hơn nhiều. Mặt khác khi đời sống dân cư được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng trong nước được nâng cao, yêu cầu phẩm chất hàng hoá và dịch vụ cũng được nâng cao tương ứng. Trong khi kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, chất lượng hàng hoá còn hạn chế, khó tiêu thụ; đó là chưa nói đến hiện tượng hàng gian, hàng giả v.v... làm cho sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ của TP gặp khó khăn rất nhiều 2.3. Cơ chế quản lý kinh tế chưa hoàn thiện và sự chậm trễ trong cải cách hành chính là yếu tố cản trở quá trình phát triển Chính phủ đã đặc biệt quan tâm tháo gỡ những trở ngại trong cơ chế, tạo điều kiện cho địa phương và doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Song nhiều vướng mắc vẫn còn đó. Sức ì của các cơ quan quản lý vẫn còn rất lớn. Từ chủ trương đến thực hiện còn không ít trở ngại. Cái gốc cơ chế và cải cách hành chính là bộ máy Nhà nước và con người. Quá trình chuyển đổi cơ chế là quá trình vừa gỡ bỏ cơ chế cũ, vừa xây dựng cơ chế mới. Sự đoạn tuyệt với cơ chế cũ; xây dựng tiếp thu và vận hành cơ chế mới là cả một quá trình gay go và phức tạp. Vì cơ chế cũ đã từng ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm của hàng triệu người. Chừng nào cơ chế mới chưa hoàn toàn được xác lập theo chiều sâu, thì tiêu cực còn phát sinh, vì trong nền kinh tế thị trường động lực cá nhân được giải toả, nhưng cơ chế quản lý mới chưa hoàn thiện, thì động lực cá nhân sẽ biến dạng, méo mó, dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương, phép nước khá nghiêm trọng, hiện tượng buôn lậu, hối lộ, tham nhũng và các tiêu cực khác liên tục phát sinh. 2.4. Đội ngũ cán bộ quản lý và tay nghề người lao động chưa theo kịp với nhu cầu phát triển Nguyên nhân chính của những yếu kém và tồn tại trên đây là con người, thiếu hụt những nhà quản lý giỏi, những chủ doanh nghiệp có tài và những người lao động thành thạo công việc. Cho đến nay bộ máy quản lý vĩ mô vẫn rất cồng kềnh, nhiều tầng nấc. Đây là mảnh đất nảy sinh lối quản lý hành chính quan liêu, tham nhũng và là gánh nặng đối với các đơn vị kinh tế cơ sở. Điều đáng ngại là trong đội ngũ cán bộ này còn nhiều người thiếu hiểu biết cần thiết và thiếu đạo đức nghề nghiệp. Năm 2003, TP có xấp xỉ 2,408 triệu lao động, trong đó có gần 6,5 nghìn người có trình độ trên đại học, trên 25 nghìn cao đẳng, đại học và đội ngũ công nhân kỹ thuật khá đông...Nguồn nhân lực đó chiếm tỷ trọng lớn so với cả nước. Song so với nhu cầu hãy còn quá thiếu và yếu. Cơ cấu lao động mất cân đối và yếu về chất lượng đào tạo. Mặt khác khâu quản lý, sử dụng còn quá nhiều bất hợp lý, chưa phát huy hết năng lực của đội ngũ này. ở đội ngũ quản lý trực tiếp doanh nghiệp, trình độ các giám đốc doanh nghiệp công nghiệp mặc dù có cao hơn các ngành khác, nhưng vẫn còn 25% giám đốc chưa có bằng cấp chuyên môn. Điều đó rất tai hại khi họ điều hành cả doanh nghiệp và cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả của nhiều doanh nghiệp thời gian qua. Nhìn chung, các lĩnh vực kinh tế xã hội đều phát triển, kinh tế TP phát triển theo hướng bền vững và thực hiện tương đối tốt quan điểm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại cần khắc phục trong cơ chế chính sách, cũng như về đội ngũ cán bộ v.v..., có như vậy kinh tế TP mới phát huy được hết thế mạnh của mình, tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao, xứng đáng là trung tâm kinh tế, công nghiệp lớn của cả nước. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của các KCN cùng với quá trình hoạt động và phát triển của nó đã có tác động không nhỏ đối với kinh tế - xã hội của TP, góp phần vô cùng quan trọng làm cho kinh tế xã hội của TP đi lên theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra. II. Khái quát tình hình phát triển các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1996 - 2003 1. Sự cần thiết phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn TP Hồ Chí Minh 1.1. Phát triển các KCN là nội dung không thể tách rời trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội TP Hồ Chí Minh Có nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ sản xuất công nghiệp khác nhau như điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm công nghiệp. Nhiều nước trong đó có Việt Nam nhấn mạnh đến việc hình thành các KCN, KCX là một dạng đặc thù của KCN. Để làm tốt vai trò “đầu tàu” trong phát triển kinh tế của vùng trọng điểm phía Nam nói riêng và cả nước nói chung, TP Hồ Chí Minh cần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp đặc biệt là những ngành mà TP có thế mạnh về nguồn lao động kỹ thuật cao, là đầu mối giao thông quan trọng, có cảng biển, sân bay, và đường sông. Nhưng việc lựa chọn sản xuất theo mô hình nào phải căn cứ theo định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước và quy hoạch của thành phố. Mặt khác việc áp dụng mô hình KCN là phù hợp với luận chứng kinh tế kỹ thuật trong việc phát triển các ngành công nghiệp của thành phố, bởi TP Hồ Chí Minh là nơi tập trung đông dân cư (lớn nhất cả nước với 5,33 triệu dân) nên vấn đề bảo vệ môi trường và môi sinh là hết sức cần thiết trong khi đó ở các huyện ngoại thành diện tích đất trống còn nhiều, dân cư thưa thớt. Như vậy việc hình thành các KCN là cần thiết, nhằm di dời các cơ sở sản xuất trong nội đô đồng thời tạo điều kiện cho các huyện ngoại thành phát triển kinh tế. 1.2. Quy hoạch khu công nghiệp TP Hồ Chí Minh phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống khu công nghiệp trong cả nước Trên cơ sở quán triệt định hướng phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ đã được nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng xác định hướng quy hoạch phát triển các KCN thời kỳ 2001-2005 và đến năm 2010, việc hình thành phát triển các KCN trên địa bàn TP Hồ Chí Minh có thể tiến hành theo hai hướng: một là, dựa vào quy hoạch phát triển của địa phương, của Chính phủ, hai là, chưa có quy hoạch nay đặt vấn đề bổ sung, xây dựng mới KCN. Nhưng dù hình thành KCN theo hướng nào cũng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch phát triển của hệ thống các KCN trong cả nước. Việc quyết định chủ trương này là vấn đề lớn, phức tạp nên cần phải xây dựng dự án khả thi và được duyệt một cách thận trọng, vững chắc, trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và trong quá trình xây dựng đầu tư chế xuất: từ vị trí mặt bằng đến định hướng sản phẩm, khả năng tiêu thụ sản phẩm của KCN, khả năng hình thành các khu dân cư mới và xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng. Đây là vấn đề trong thực tiễn ít được địa phương quan tâm từ đầu thường và lúng túng khu quyết định triển khai xây dựng KCN mới 1.3. Phát triển khu công nghiệp - nhân tố quan trọng nhằm tăng năng lực cạnh tranh của công nghiệp TP trong quá trình hội nhập cả nước và khu vực Việc hình thành và phát triển các KCN là tất yếu kinh tế của nhiều quốc gia nhất là các nước đang phát triển như nước ta nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập với kinh tế quốc tế” thì việc phát triển KCN là một giải pháp quan trọng làm dây nối hội nhập các bộ phận của nền kinh tế nội địa với nền kinh tế thế giới. Phát triển KCN là một trong những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các KCN và coi phát triển KCN là một giải pháp quan trọng mang tính đột phá nhằm tạo thuận lợi thu hút đầu tư, tiết kiệm nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái tạo ra một cục diện mới về công nghiệp tập trung trong một khoảng thời gian dài. Thực chất công nghiệp hóa ở nước ta cũng như TP Hồ Chí Minh là chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việc phát triển KCN là giải pháp thực tế để khắc phục tình trạng lạc hậu cả về cơ cấu sản xuất và công nghệ, tình trạng đầu tư dàn trải. Về mặt phân bố sự không đồng bộ giữa sản xuất và cơ sở hạ tầng, gom tụ các nguồn lực vào các KCN để nâng cao sức cạnh tranh từng bước mở rộng mức độ hội nhập khu vực và thế giới. KCN - mô hình kinh tế năng động Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, khả năng tài chính có hạn, khả năng tiếp cận thị trường, nhất là thị trường thế giới còn hạn chế, phát triển KCN là giải pháp thích hợp để thu hút đầu tư nước ngoài, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa trong đó có hàng hóa xuất khẩu, mở rộng thị trường. KCN là một công cụ chuyển giao giúp một đất nước hoặc một địa phương tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới khi thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu, mở rộng các quan hệ thị trường, từng bước thích nghi với thông lệ quốc tế. Việc phát triển các KCN đặt nền móng cho bước tìm tòi mô hình kinh tế năng động, làm tác dụng “đầu tàu” có sức lan tỏa và dẫn dắt đối với sản xuất công nghiệp trong nước. Xây dựng và phát triển KCN cùng với việc hình thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch sẽ góp phần hình thành các đô thị mới, giảm bớt sự tập trung quá tải ở trung tâm thành phố. TP Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của cả nước đã có quá trình phát triển công nghiệp lâu dài nhưng hiện đang đứng trước những thử thách trong quá trình hội nhập. Để thực hiện được vai trò trung tâm phát triển, cải biến sâu sắc cơ cấu công nghiệp khắc phục tình trạng ách tắc về thị trường, công nghệ còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, hệ thống công nghệ thiết bị từ nhiều nguồn chắp vá... thì việc xây dựng các KCN là giải pháp thực tế mang tính đột phá góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mức độ hội nhập của thành phố với cả nước, khu vực và thế giới. 2. Số lượng và quy mô các khu công nghiệp trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Tính đến tháng 11 năm 2003 thành phố Hồ Chí Minh có: 3 khu chế xuất (Tân Thuận, Linh Trung 1 và Linh Trung 2); 11 khu công nghiệp (Bình Chiểu, Cát Lái (II), Cát Lái (IV), Hiệp Phước, Lê Minh Xuân, Tân Bình, Tân Tạo, Tân Thới Hiệp, Tây Bắc Củ Chi, Vĩnh Lộc, Phong Phú); 1 khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. Ban Quản lý các KCN & KCX thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là HEPZA), địa chỉ: 35 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. 11 KCN trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là: 1. KCN Bình Chiểu: Quyết định thành lập số 549/QĐ-TTg ngày 13-8-1996 của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích: 27 ha Địa điểm: phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng: 56 tỉ đồng Thời gian hoạt động: 50 năm Ngành công nghiệp ưu tiên phát triển: các ngành không gây ô nhiễm. Chủ đầu tư: Tổng công ty Bến Thành (Sunimex) KCN Hiệp Phước: Quyết định thành lập số 667/QĐ-TTg ngày 16-9-1996 của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích: 332 ha trong đó khu A: 106 ha, khu B và C: 226 ha Địa điểm: xã Hiệp Phước và Long Thới, huyện Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh. Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng: 430 tỉ đồng Thời gian hoạt động: 50 năm Đặc điểm: - Cự ly với các trung tâm kinh tế và giao thông trong khu vực +Cách trung tâm TP Hồ Chí Minh khoảng 20 km +Ra biển Đông theo sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu. +Theo sông Soài Rạp vào hệ thống giao thông thuỷ nội địa từ TP Hồ Chí Minh đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. +Cách sân bay Tân Sơn Nhất khoảng 25 km - Hạ tầng kỹ thuật +Đường nội bộ trải bê tông nhựa nóng: đường chính rộng 60 km nối liền với đường Bắc - Nam thành phố và tuyến đường Xuyên á; đường nhánh rộng 35 m và 24 m. +Cấp điện: nguồn điện riêng từ nhà máy điện Hiệp Phước +Cấp nước: từ hệ thống cấp nước của TP Hồ Chí Minh và nguồn nước riêng từ nhà máy nước ngầm Long Hậu do KCN đầu tư với công suất giai đoạn đầu là 5000 m3/ngày. +Thông tin liên lạc: do bưu điện TP Hồ Chí Minh cung cấp dịch vụ. Ngành công nghiệp ưu tiên phát triển: công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp hoá chất, công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu xây dựng. Chủ đầu tư: Công ty phát triển công nghiệp Tân Thuận (IPC) KCN Lê Minh Xuân: Quyết định thành lập số 630/QĐ-TTg ngày 8-8-1997 của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích: 100 ha Địa điểm: trên điạ bàn 2 xã Tân Nhựt và Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh. Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng: 246 tỉ đồng Thời gian hoạt động: 50 năm Đặc điểm: - Cự ly với các trung tâm kinh tế và giao thông trong khu vực +Cách trung tâm TP Hồ Chí Minh khoảng 18 km +Cách sân bay Tân Sơn Nhất 18 km +Cách cảng Sài Gòn 18 km +Nằm gần Quốc lộ 1A và nối kết với đường cao tốc Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh là tuyến đường gần nhất ra cảng Tân Thuận. - Hạ tầng kỹ thuật +Đường nội bộ trải bê tông nhựa rộng 20 m +Thông tin liên lạc: do bưu điện TP Hồ Chí Minh cung cấp dịch vụ. +Cấp điện: sử dụng điện lưới quốc gia từ trạm biến áp Phú Lâm. +Cấp nước: từ hệ thống nước của TP và hệ thống nước ngầm tự khai thác. +Hệ thống thoát nước và nhà máy xử lý nước thải công suất hiện tại 2000m3/ngày đêm. Ngành công nghiệp ưu tiên phát triển: các ngành sản xuất có mức độ ô nhiễm không khí, tiếng ồn, ô nhiễm nước thải vừa phải theo quy định; ưu tiên tiếp nhận các doanh nghiệp sản xuất có ô nhiễm thuộc diện quy hoạch di dời khỏi khu dân cư trong TP. Chủ đầu tư: Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Bình Chánh. KCN Tân Bình: Quyết định thành lập số 65/QĐ-TTg ngày 1-2-1997 của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích: 225 ha Địa điểm: 108 Tây Thạnh, phường 15, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh. Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng: 703 tỉ đồng Thời gian hoạt động: 50 năm Đặc điểm: - Cự ly với các trung tâm kinh tế và giao thông trong khu vực +Là KCN duy nhất nằm trong nội th._.mún, phân tán theo kiểu quận huyện nào cũng có, hoặc thấy chỗ nào còn trống thì quy hoạch KCN để giữ đất. - Phát triển các KCN nhằm di dời hoặc phát triển các loại xí nghiệp, cơ sở sản xuất có ô nhiễm của TP phải nằm dưới hạ lưu sông Sài Gòn, không để khu vực dân cư bị ô nhiễm nguồn nước và không khí, tiếng ồn. Cần phối hợp với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm trong việc quy hoạch các KCN có mức độ ô nhiễm cho toàn vùng. - Việc quy hoạch các KCN mới hoặc mở rộng các KCN hiện có phải có sự tham gia ý kiến của nhân dân địa phương tịa khu vực quy hoạch (nhất là dân đã qua nhiều thế hệ, sống định cư) để bảo đảm hài hoà lợi ích của xã hội, của người dân, của doanh nghiệp đầu tư phát triển, kinh doanh hạ tầng KCN. Khắc phục tình trạng coi trọng lợi ích của doanh nghiệp hơn lợi ích của người dân trong quy hoạch KCN 3. Phương hướng phát triển các KCN trên địa bàn TPHồ Chí Minh đến năm 2010 Tuỳ theo đặc điểm, tình hình hoạt động của mỗi KCN mà định hướng phát triển KCN đó trong những năm tới cần được xác định hợp lý. Đối với KCN mới thành lập, chủ yếu tập trung xây dựng hạ tầng theo kế hoạch, các KCN khác tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư, nâng cao dần tỷ lệ huy động diện tích đất công nghiệp. Tuy nhiên phương hướng phát triển của các KCN trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đến năm 2010 cần tập trung những khâu trọng yếu sau: Một là: tiếp tục phát triển các KCN của TP theo hướng kết hợp quy hoạch ngành với quy hoạch vùng, lãnh thổ và quy hoạch kinh tế- xã hội của TP. Để phát huy có hiệu quả KCN phải kết hợp phát triển đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình phúc lợi công cộng... trong một quy hoạch tổng thể phát triển vùng (hình thành đô thị công nghiệp, khu kinh tế tổng hợp...). Việc hình thành KCN mới cần được đánh giá trên cơ sở khả năng phát triển hạ tầng và khả năng thu hút đầu tư. Đối với địa phương đã có KCN hoạt động hiệu quả, đã sử dụng trên 50% diện tích KCN hiện có, nay có khả năng thu hút đầu tư trong nước, ngoài nước thì có thể thành lập mới KCN. Trong trường hợp khác có thể xin được mở rộng quy mô KCN hiện có, hoặc xây dựng cụm công nghiệp chuyên môn hoá và điểm công nghiệp ở địa bàn thích hợp với quy mô hợp lý. Trong trường hợp KCN được thành lập sau nhiều năm vẫn chưa có khả năng xây dựng hạ tầng và tiếp nhận các dự án đầu tư, thì có thể cho chuyển đổi mục đích sử dụng, thu hồi giấy phép đầu tư hoặc thay đổi chủ đầu tư... Đi đôi với việc thực hiện quy hoạch các phân khu chức năng là việc thực hiện quy hoạch hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật trong mỗi KCN, thực hiện xây dựng đồng bộ các công trình phục vụ sản xuất (cấp nước, xử lý chất thải...) được đưa vào sử dụng cùng với khi cơ sở sản xuất hoạt động. Cần sớm khắc phục tình trạng xem nhẹ việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải, khu nhà ở ăn nghỉ cho công nhân cạnh KCN. Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển KCN còn đòi hỏi cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra các đơn vị thực hiện, tháo gỡ khó khăn, ngăn chặn những hiện tượng chuyển đổi sai mục đích sử dụng hoặc rút giấy phép đầu tư... Phát triển KCN nhất thiết phải gắn với lợi thế kinh tế vùng, gắn với nhu cầu thị trường, từng bước mở rộng các quan hệ liên kết, hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp trong cùng KCN (cơ sở sản xuất liên kiện và cơ sở lắp ráp), giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với các cơ sở nguyên liệu... Các hoạt động cung ứng yếu tố sản xuất (đào tạo và cung ứng nguồn lao động, cung ứng các dịch vụ hạ tầng như điện, nước) ở trong hay ngoài KCN cũng cần được phát triển tương ứng với nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp KCN. Hai là: Triển khai kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. Các công ty phát triển hạ tầng KCN có nhiệm vụ tổ chức quản lý xây dựng hệ thống các công trình hạ tầng KCN đúng tiến độ, đúng chất lượng công trình, gắn với quy hoạch phát triển ngành và vùng; tập trung xây dựng có trọng điểm, tổ chức thi công hợp lý, chú trọng bảo đảm sự đồng bộ, cân đối giữa nhu cầu đầu tư và khả năng huy động vốn; giữa hạ tầng trong và ngoài hàng rào. Trong đó, vừa bảo đảm xây dựng các công trình sản xuất, vừa chăm lo giải quyết nhà ở cho công nhân, hệ thống xử lý chất thải, hạn chế ô nhiễm môi trường... Giải quyết nhanh, hợp lý việc giải phóng mặt bằng, kịp giao đất có hạ tầng cho chủ đầu tư xây dựng. Việc xây dựng sẵn nhà xưởng như công ty kinh doanh hạ tầng Tân Tạo ký kết hợp đồng tay ba với nhà đầu tư và tổ chức tín dụng đã tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nhanh chóng có nhà xưởng, sớm đưa dự án đầu tư đi vào hoạt động. Hình thức đổi đất lấy công trình hạ tầng cũng thiết thực hỗ trợ vốn xây dựng hạ tầng, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư đẩy nhanh tiến trình thực hiện vốn đầu tư... Đối với các công trình công cộng (nhà ở, khu giải trí, bệnh xá...) được huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn (của doanh nghiệp KCN, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, áp dụng BOT hoặc được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ...). Trong một số trường hợp đặc biệt (do khó khăn về vốn, không có doanh nghiệp làm chủ đầu tư...) thì có thể được cho phép thành lập công ty xây dựng hạ tầng sự nghiệp có thu với nguồn vốn được ngân sách hỗ trợ. Ba là: Tăng cường công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN. Có nhiều hình thức vận động hợp với các nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư trong nước (thông qua hội thảo ở nước ngoài, lập trang Web, vận động trực tiếp, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng...) để cung cấp, hướng dẫn đầy đủ các thông tin cần thiết về hình ảnh của KCN; về các yếu tố, điều kiện, môi trường đầu tư, kinh doanh hiện tại; về các chính sách ưu đãi thực tế được áp dụng tại địa bàn KCN... Việc phản ánh chân thực, hiệu quả về hoạt động của các doanh nghiệp đang hoạt động, cùng với chính các chủ doanh nghiệp này cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư là hình thức vận động có hiệu quả nhất. Những hành động ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, dù là cá biệt cũng gây ra không ít sự hoài nghi về chính sách nhất quán của TP, tác động tiêu cực đến thu hút đầu tư nước ngoài. Công tác vận động xúc tiến đầu tư cần được tổ chức thống nhất, có sự tham gia của các ngành và địa phương, kể cả cơ quan ngoại giao, các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài... Thành lập các tổ chức xúc tiến mậu dịch, đầu tư ở một số nước và khu vực quan trọng. Bốn là: Đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước phục vụ đắc lực cho phát triển KCN. Đây là một trong những yếu tố cơ bản tạo môi trường đầu tư và kinh doanh, tăng sức hấp dẫn đầu tư vào KCN. Công tác quản lý KCN được vận hành theo cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” thông qua cơ chế uỷ quyền của Bộ, ngành trung ương và UBND tỉnh, thành phố cho Ban quản lý KCN TP thực hiện một số nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đầu tư, xây dựng, thương mại, lao động... Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý này bằng việc xác lập quy trình giải quyết công việc đi đôi với việc hoàn chỉnh quy chế đầu tư, xây dựng đấu thầu; quy chế hải quan, vay vốn tín dụng, chính sách thuế mới, cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng, giảm phiền hà, rút ngắn thời gian, xử lý công việc có hiệu quả. Yêu cầu cấp bách hiện nay là thực thi các chính sách mới của Nhà nước về tài chính (như chính sách hỗ trợ phát triển các công trình hạ tầng KCN, hạ tầng xã hội ngoài hàng rào, chính sách tài chính liên quan đến đất đai và chính sách thuế, ưu đãi thuế, chính sách tín dụng ngân hàng đối với phát triển KCN; chính sách phát triển lao động và đào tạo nghề...). Cần thực hiện nhất quán các chính sách mới khuyến khích đầu tư nước ngoài và pháp luật có liên quan theo Nghị định 27/2003/NĐ-CP và thi hành các luật (sửa đổi): Luật Doanh nghiệp, Luật kế toán, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai... Để nâng cao hiệu lực thi hành luật pháp, vấn đề quan trọng là tăng cường kỷ luật thi hành pháp luật, thể chế Nhà nước một cách công khai, nhất quán trong thực tiễn, tạo lòng tin của nhà đầu tư đối với chính sách của Nhà nước. Cùng với quá trình thực hiện Chương trình cải cách hành chính, Ban quản lý KCN TP cần được kiện toàn theo yêu cầu thực tế. Trong đó, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, bộ phận; mỗi người thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ sử dụng đúng thẩm quyền của mình; thực hiện tốt cơ chế “hậu kiểm” với sự phối hợp các cơ quan chức năng; nhân rộng kinh nghiệm của những địa phương, đơn vị điển hình; triển khai chế độ khoán biên chế và khoán kinh phí, thực hiện việc công khai chi tiêu tài chính công của cơ quan trước cán bộ, công chức trong đơn vị. Khâu quyết định ở đây là vấn đề cán bộ, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức có năng lực, phẩm chất đủ khả năng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Cán bộ thiếu và yếu sẽ cản trở thực hiện mọi chương trình đổi mới, bộ máy quản lý cũng không có hiệu lực và hiệu quả. III. Một số giải pháp nhằm phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đến năm 2010 Trên cơ sở phân tích những lợi thế cũng như những khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của TP nói chung, sự phát triển của các KCN nói riêng; căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quan điểm phát triển các KCN, phương hướng phát triển các KCN trên địa bàn TP đến năm 2010; từ những kết quả đạt được và những cái chưa được (đã phân tích trong Chương II), xin trình bày những giải pháp sau đây, những giải pháp này chỉ mang tính tương đối góp phần tăng cường việc thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, nhằm lấp đầy diện tích đất cho thuê, qua đó phát huy tốt vai trò của các KCN trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP đến năm 2010. 1. Một số kiến nghị đối với Trung ương 1.1. Kiến nghị trong công tác quy hoạch - Xây dựng quy hoạch hệ thống KCN trên địa bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đề nghị Bộ làm đầu mối từ đó làm cơ sở cho TP điều chỉnh quy hoạch hệ thống các KCN - Theo quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định đến 2020 cảng tổng hợp Hiệp Phước sẽ thay thế các cảng nội thành. Nhưng cho tới nay, việc xây dựng cảng tổng hợp chưa được cấp phép của Chính phủ. Việc này cản trở trực tiếp cho sự phát triển KCN Hiệp Phước, đồng thời sẽ hạn chế lớn đến quá trình quy hoạch phát triển TP đến năm 2015 phải trở thành TP công nghiệp hiện đại. Mặt khác phía nam TP hiện nay có KCX Tân Thuận, có đại lộ Nguyễn Văn Linh với 5 cụm phát triển đang từng bước được xây dựng, có KCN Phong Phú, KCN Hiệp Phước, nhà máy điện Hiệp Phước và cảng tổng hợp tương lai. Đây là tiền đề quan trọng làm cơ sở để xây dựng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, lấy vai trò TP là trung tâm công nghiệp, dịch vụ lớn của cả nước, làm lực đẩy chung nâng cao hiệu quả hoạt động của công trình kinh tế toàn khu vực. Đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các công trình kinh tế hiện hữu theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kiến nghị Chính phủ xem xét, phê duyệt địa điểm Hiệp Phước cho việc di dời hệ thống Cảng khu vực TP Hồ Chí Minh, gắn liền với việc mở rộng KCN Hiệp Phước; xây dựng kế hoạch xây dựng cảng tổng hợp Hiệp Phước, đảm bảo tàu trên 30.000 tấn ra vào để đáp ứng cho nhu cầu phát triển TP hướng về phía Nam và ra biển Đông. - Đề nghị thực hiện một cơ chế quản lý trong “cùng một sân chơi” cho cả ba đối tượng doanh nghiệp trong KCN: doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác (ngoài doanh nghiệp nhà nước). Kiến nghị giao cho Ban quản lý “một cửa” cả hai đối tượng: công ty phát triển hạ tầng KCN; Ban quản lý hành chính Nhà nước đối với công ty từ khi công ty lập dự án đầu tư phát triển KCN và các hoạt động của công ty với tư cách là công ty phát triển hạ tầng KCN. -Việc điều chỉnh quy hoạch tổng mặt bằng của TP cho phép xây dựng đô thị vệ tinh ở Tây- Bắc gắn với một KCN và phát triển dân cư, thương mại- dịch vụ. Quy mô dự kiến 6000 ha để thành đô thị vệ tinh của TP; thực hiện chủ trương phi tập trung hoá vào nội thành như hiện nay. 1.2. Một số kiến nghị khác - Về quản lý Nhà nước: trong thời gian qua, Ban quản lý các KCN-KCX TP đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền thực hiện cơ chế quản lý “một cửa”. Tuy nhiên việc thực thi cơ chế này trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, bởi vì KCN được xem là mô hình đặc thù nhưng lại chịu sự điều tiết của các luật khác nhau như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, đối tượng đầu tư vào KCN cũng chịu sự điều chỉnh bởi các luật khác nhau trên. Vì vậy, mặc dù được sự uỷ quyền thực hiện cơ chế quản lý “một cửa”, nhưng thực tế Ban quản lý chưa có quyền quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đang đầu tư vào các KCN. Do đó, kiến nghị với Quốc hội, trong thời gian chưa đồng bộ hoá được các điều luật trong các luật nêu trên, cần sớm ban hành Luật Khu công nghiệp. - Chính phủ cần có những quy định thoáng hơn nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng trong việc cho các doanh nghiệp thuộc diện di dời được vay vốn. Chẳng hạn như có thể cho các doanh nghiệp di dời vào KCN sử dụng nhà xưởng mới xây dựng (chưa có giấy chứng nhận hoàn công) trong KCN đem thế chấp để vay vốn ngân hàng, vì hiện nay muốn sử dụng tài sản này thế chấp để vay vốn thì doanh nghiệp phải làm xong thủ tục hoàn công mới được giải ngân, mà thời gian để tiến hành thủ tục hoàn công diễn ra khá lâu. - Kiến nghị Chính phủ nhanh chóng ban hành khung giá các loại đất cho từng vùng, nguyên tắc, phương pháp xác định giá cho từng loại đất. 2. Các giải pháp từ phía chính quyền thành phố 2.1. Cải thiện môi trường đầu tư đồng thời tăng tính hấp dẫn của các KCN * Điều chỉnh về Chính sách và cơ chế quản lý - Chính sách: Ngoài những chính sách chung hiện hữu, đề nghị bổ sung, điều chỉnh: + Các quận huyện có KCN cần được hưởng chính sách: có tỷ lệ để lại nguồn thu từ KCN cho địa phương để giải quyết hạ tầng ngoài KCN và những vấn đề xã hội phát sinh từ KCN; về đào tạo nhân lực, về y tế, về lao động nhập cư v.v... Tương tự, các KCN trong vùng kinh tế trọng điểm cần được xem xét những chính sách ưu tiên hơn các KCN không trong vùng kinh tế trọng điểm nhằm phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của cả vùng. Các chính sách này cần thoả mãn được cả hai lợi ích chung của vùng và lợi ích của từng địa phương có KCN trong vùng. + Xoá bỏ chính sách ưu đãi khác nhau đối với các KCN có điều kiện tương ứng như nhau trong cùng một khu vực nhưng nằm trên hai địa phương khác nhau; như: các KCN khu vực Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh) với các KCN Sóng Thần, Đồng An (Bình Dương); các KCN khu vực Bình Chánh (TP Hồ Chí Minh) với Đức Hoà; Hiệp Phước (TP Hồ Chí Minh) với Cần Giuộc (Long An) v.v... + Có chính sách ưu đãi riêng khuyến khích cho những tập đoàn đa quốc gia đầu tư các KCN chuyên ngành. - Tổ chức và cơ chế quản lý: Mở rộng phạm vi thực hiện quản lý nhà nước các KCN trên địa bàn theo cơ chế “một cửa” với các nội dung sau: + Giao cho Ban quản lý làm đầu mối giúp UBND TP chủ trì tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước về quy hoạch hệ thống KCN đã được phê duyệt trên địa bàn TP: về quỹ đất, về tổ chức triển khai các KCN, về xây dựng hạ tầng đồng bộ ngoài KCN v.v... +Hình thành một công ty xây dựng hạ tầng KCN công ích trực thuộc Ban quản lý để tác động tích cực trong việc xây dựng hạ tầng trong và ngoài KCN, đồng thời tác động bình ổn thị trường giá cả các KCN trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. + Kiện toàn tổ chức của Ban quản lý theo hướng: bổ sung một số Sở ngành có liên quan làm Uỷ viên của Ban quản lý (thay thế các Uỷ viên do các Bộ ngành cử trước đây- nay đã nghỉ hưu hoặc hầu như không còn hoạt động) để đảm bảo tính chặt chẽ trong việc phối hợp thực hiện quản lý nhà nước hoạt động của các KCN trên địa bàn (Thay vì Ban quản lý thoả thuận quy chế phối hợp với từng Sở ngành chức năng). Các uỷ viên ban quản lý có thể là đại diện của các Sở ngành sau: Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài Chính, Sở Thương Mại, Sở Lao động, Ngân hàng Nhà nước TP, Công an, Hải quan TP, Sở Tài nguyên - Môi trường, Khoa học - Công nghệ... * Về phương thức thành lập KCN và cho thuê đất Cho đến nay, việc thành lập KCN được thực hiện theo phương thức Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp này sẽ cho các doanh nghiệp đầu tư vào KCN thuê lại đất và phí sử dụng hạ tầng. Làm như vậy có ưu điểm là đơn giản, song trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng trở thành nhà đầu cơ đất, Nhà nước không chi phối được giá cho thuê lại đất theo chính sách chung được điều chỉnh trong từng thời kỳ. Do vậy cần tách biệt giữa việc cho thuê lại đất (quyền của Nhà nước) và phí sử dụng hạ tầng (quyền của doanh nghiệp phát triển hạ tầng). Bên cạnh đó cần quan tâm đến việc xây dựng và phát triển các công trình hạ tầng xã hội trong khu vực xây dựng KCN và đẩy mạnh việc xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào để đáp ứng yêu cầu phát triển KCN. * Điều chỉnh về thủ tục vay vốn - Đối với việc vay vốn nước ngoài: Ngân hàng Nhà nước TP cần phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ xem xét: xác định tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp căn cứ vào vốn pháp định và hạn mức vay trung dài hạn nước ngoài theo chỉ tiêu doanh số cho vay, nhằm tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong việc vay và trả nợ vay nước ngoài phục vụ cho các nhu cầu vốn mà không phải điều chỉnh giấy phép đầu tư, đặc biệt là ưu tiên cho những trường hợp cần thiết, khấu hao trả nợ nhanh, trước hạn để đổi mới công nghệ. Trường hợp sử dụng tài sản thế chấp: Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước TP cho phép doanh nghiệp cầm cố, thế chấp tài sản cho phía nước ngoài khi đi vay. - Đối với việc vay vốn trong nước: Ngân hàng nhà nước TP cần phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KCN hướng dẫn cho các công ty xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng và các ngân hàng thương mại có liên quan áp dụng mô hình: cho công ty xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng vay vốn xây dựng nhà xưởng theo nhu cầu của doanh nghiệp di dời, theo phương thức cho thuê, mua trả chậm; đây là mô hình mà công ty kinh doanh hạ tầng KCN Tân Tạo đã áp dụng có hiệu quả cần được nhân rộng. Cách làm này vừa đáp ứng được các điều kiện cho vay của ngân hàng, vừa giúp ngân hàng dễ theo dõi giám sát, vừa hỗ trợ vốn cho các công ty xây dựng và gián tiếp hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp di dời. Ban quản lý cần cung cấp các thông tin về thời gian cấp giấy chứng nhận hoàn công cho ngân hàng để ngân hàng có thể tiến hành giải ngân nhanh cho các doanh nghiệp cần vốn vay. Phối hợp tay ba với các ngân hàng thương mại cho vay vốn, tổ chức giám định thiết bị máy móc, thiết bị thế chấp vay vốn, nhằm ràng buộc trách nhiệm pháp lý và kinh tế của các tổ chức giám định trong việc giám định máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình vay vốn. * Một số giải pháp khác: - Ngành bưu chính viễn thông của TP cần nhanh chóng có kế hoạch tăng cường công suất các tổng đài khu vực để kịp thời cung ứng nhu cầu thông tin liên lạc của các nhà đầu tư trong các KCN nhằm bảo đảm thông tin liên lạc được thông suất. - Đối với những KCN có mức thu hút vốn đầu tư cao cần khuyến khích và có sự hỗ trợ về vốn để đầu tư thêm cơ sở hạ tầng, viễn thông cho các KCN này nhằm hình thành những KCN chất lượng cao - Phối hợp, phân công với các địa phương khác trong xây dựng quy hoạch và xây dựng phát triển KCN của vùng kinh tế trọng điểm. Trước mắt trong giai đoạn đến năm 2010, bao gồm: Về quy hoạch các KCN tập trung mang tính liên địa phương để hình thành những đô thị công nghiệp mới phục vụ quy hoạch phát triển chung của cả vùng. Như: các KCN khu vực Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh) với các KCN Sóng Thần, Đồng An (Bình Dương); các KCN khu vực Bình Chánh (TP Hồ Chí Minh) với Đức Hoà; Hiệp Phước (TP Hồ Chí Minh) với Cần Giuộc (Long An) v.v...; Về phân công các ngành nghề thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp giữa TP với các tỉnh lân cận; Về nối kết mạng lưới hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội bên ngoài các KCN liền kề giữa các địa phương; Về xử lý rác và chất thải công nghiệp; Về đào tạo và cung ứng nguồn lao động. - Điều chỉnh bổ sung quy hoạch các KCN Tân Thới Nhì, Nhị Xuân trình Chính phủ phê duyệt. Đồng thời ra quyết định huỷ quy hoạch làm KCN và chuyển mục đích sử dụng các KCN đã quy hoạch nhưng không còn khả năng thực hiện. - Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, các cơ quan chức năng cần có giải pháp tăng thêm đầu tư cho các công trình xử lý chất thải chung trong các KCN; buộc các doanh nghiệp phải lắp đặt thiết bị xử lý chất thải và thực hiện chủ trương “ai gây ô nhiễm, người đó phải chi trả”; cần kiểm soát chặt chẽ việc phát triển các KCN theo đúng quy hoạch; ngăn chặn triệt để ngay từ đầu không để khu dân cư nằm xen lẫn với các nhà máy công nghiệp 2.2.Tăng cường tiếp thị đầu tư Để lấp đầy các KCN, phát huy tốt vai trò của nó trong phát triển kinh tế xã hội, ngoài việc không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, tăng tính hấp dẫn của các KCN, cần phải có các giải pháp tiếp thị đối với các nhà đầu tư, kích thích họ bỏ vốn đầu tư vào các KCN, điều này cần phải có sự phối hợp đồng bộ của UBND TP với các cơ quan tham mưu là Ban quản lý KCN và các công ty kinh doanh trong KCN. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm hiểu cơ hội đầu tư thông qua việc giới thiệu định hướng phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch các KCN, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào các KCN trong khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê đất bảo đảm cơ chế “một cửa”, giải quyết thủ tục hành chính nhanh nhất cho các nhà đầu tư, vận dụng thêm các ưu đãi khác để thu hút đầu tư, hướng dẫn việc làm thủ tục nhanh gọn, quy định thời hạn cấp giấy phép trong thời gian ngắn nhất. Đối với công ty kinh doanh trong KCN cũng tăng tiếp thị cho KCN thông qua các công ty có uy tín trong và ngoài nước để tìm kiếm các nhà đầu tư, hạ giá cho thuê đất và mặt bằng, nhanh chóng lấp đầy các KCN; cử chuyên gia tiếp xúc với các hiệp hội, tổ chức thương mại của khu vực và thế giới giới thiệu các công ty của thành phố cho những nhà đầu tư có ý định đầu tư vào các KCN này. 3. Các giải pháp thuộc các KCN 3.1. Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý các KCN Theo quy định tại Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ thì các Bản quản lý KCN - KCX ngoài nhiệm vụ và quyền hạn được giao còn phải chịu sự quản lý Nhà nước của UBND cấp tỉnh. Mặt khác, phương hướng hoạt động của các Ban quản lý cũng phải phù hợp với nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, việc phân cấp uỷ quyền chưa được đồng bộ nhất quán, chồng chéo giữa các cơ quan. Trong thời gian tới để củng cố hoạt động của Ban quản lý KCN TP, nhằm tăng cường khả năng quản lý của Ban đối với các KCN, hướng dẫn các KCN phát triển theo định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cần nghiên cứu hoàn thiện mô hình quản lý các KCN. Các Bộ, Ban, Ngành trung ương thực hiện uỷ quyền cho Ban quản lý KCN với mức độ cao hơn. Trong Ban quản lý KCN TP có thể có đại diện của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để giúp các vấn đề có liên quan phụ thuộc lĩnh vực phụ trách. Đồng thời, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, có thể cử cán bộ quản lý sang địa phương khác thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích luỹ kinh nghiệm. 3.2. Cải thiện môi trường làm việc cho người lao động Sự ra đời các KCN trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đã góp phần không nhỏ tạo việc làm, giải quyết tình trạng lao động thất nghiệp. Nhưng một thực trạng sử dụng lao động tại các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập. Vẫn có tình trạng công nhân phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt như một ngày phải làm việc từ 10 - 12 tiếng, các chủ sử dụng lao động chưa tuân thủ Bộ luật lao động, chưa tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động, không có chế độ nghỉ ốm. Chính vì vậy mà trách nhiệm của Ban quản lý các KCN TP là phải yêu cầu các chủ đầu tư khi sử dụng lao động của Việt Nam đảm bảo cho người lao động về thu nhập, điều kiện làm việc, nhà ở... để người lao động yên tâm làm việc lâu dài. Bên cạnh đó các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng lao động cũng phải có những biện pháp phối hợp với các cấp lãnh đạo trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia đóng bảo hiểm đầy đủ. Mặt khác, cần phải xây dựng nhà trong khu lân cận KCN cho người lao động làm việc trong các KCN. Trước mắt, cần tập trung xây dựng các căn hộ ở vùng lân cận các KCN: Tân Tạo, Tân Bình bởi vì số lượng công nhân ở hai KCN này quá nhiều (đều hơn 6500 lao động cho mỗi khu). Bên cạnh đó, trong vùng lân cận của KCN Tây Bắc Củ Chi và Tân Thới Hiệp chưa có nhà cho công nhân, vì vậy cũng cần tiến hành xây dựng các căn hộ tại khu vực này, tạo sự ổn định về chỗ ở cho người lao động. 3.3.Quy định ngành nghề kinh doanh trong các KCN Hiện nay việc quy định ngành nghề kinh doanh trong các KCN chưa rõ ràng, chưa làm nổi bật tính chuyên dụng của từng KCN. Việc quy định ngành nghề kinh doanh trong từng KCN phải căn cứ vào: vị trí địa lý, nguồn nguyên liệu, những ngành sản xuất nghề truyền thống tại khu vực và tính năng của KCN đó. Chẳng hạn như: KCN Tân Bình cần thu hút đầu tư các ngành: cơ khí, điện - điện tử, may mặc, dệt, thuộc da, da giầy; KCN Tây Bắc Củ Chi chế biến nông sản, lương thực thực phẩm, các ngành sản xuất khác nhưng không được gây ô nhiễm (chế biến lâm sản, sành sứ, thuỷ tinh, vật liệu xây dựng, hoá chất, nhựa, cao su). 3.4. Một số giải pháp khác Ban quản lý cần xây dựng tiêu chuẩn mô hình KCN ở TP Hồ Chí Minh và chỉ đạo các KCN hiện hữu xây dựng các KCN theo tiêu chuẩn đã được TP phê duyệt. Tranh thủ các quan hệ của các doanh nghiệp hiện có để thu hút thêm các dự án khác. Để đạt được điều đó, trước tiên các KCN phải cung cấp những điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá hoặc tìm kiếm các nguồn đầu tư vào. Chủ động và tích cực thu hút đầu tư, đưa ra các biện pháp nhằm hấp dẫn đầu tư, ngoài ra cần thành lập các đoàn kêu gọi vận động thu hút vốn đầu tư ở nước ngoài, hoặc xúc tiến việc thiết lập mạng lưới thông tin về các KCN ở TP Hồ Chí Minh chẳng hạn như việc thiết lập một trang Web của riêng các KCN trên Internet... Để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội Đảng bộ TP đề ra thì việc phát triển các KCN tập trung có một vai trò quan trọng. Tuy nhiên cần sớm quán triệt quan điểm là ưu tiên phát triển về chất hơn là phát triển về lượng của các KCN, tránh hiện tượng xây dựng, đầu tư tràn lan kém hiệu quả, để các KCN TP nói riêng, kinh tế xã hội TP nói chung có vị trí tương xứng với tầm vóc là đầu tàu của cả nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kiến nghị ở Việt Nam, mô hình các KCN là chưa từng có trong tiền lệ, tuy nhiên với những tác dụng hết sức tích cực, trong giai đoạn tới, việc xây dựng và phát triển các KCN là một yêu cầu mang tính khách quan. Thành phố Hồ Chí Minh, là nơi ra đời KCX đầu tiên của Việt Nam vào năm 1991, đó là KCX Tân Thuận, đến năm 1996, 1997 hàng loạt các KCN được ra đời tại TP Hồ Chí Minh, kể từ đó đến nay, các KCN này đã đóng góp hết sức tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bên cạnh đó các KCN cũng có những tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của TP, và ngay trong nội tại các KCN cũng còn những vấn đề tồn tại, làm hạn chế khả năng phát triển của các KCN. Do đó, xin kiến nghị một số vấn đề chủ yếu sau: Đối với Trung ương: kiến nghị trung ương ban hành các cơ chế, chính sách thông thoáng, hợp lý hơn, đặc biệt là cần thiết phải ban hành khung giá các loại đất nhằm nhanh chóng giải toả mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN. Đối với chính quyền địa phương: cần phải điều chỉnh lại quy hoạch các KCN trên địa bàn TP, đối với các KCN phát triển tốt cần mở rộng diện tích của khu, còn đối với các khu hoạt động không hiệu quả cần phải chuyển mục đích sử dụng đất. Đồng thời cần giao quyền cho Ban quản lý KCN làm đầu mối chủ trì các hoạt động của các KCN Đối với Ban quản lý các KCN cần phải nâng cao hơn nữa năng lực quản lý, quy định rõ ngành nghề kinh doanh cho từng KCN, đồng thời giải quyết tốt lợi ích cho người lao động của KCN. Kết luận Sau gần mười năm phát triển các KCN ở TP Hồ Chí Minh cùng với ba KCX của TP, đã hoàn thành một bước quan trọng năm mục tiêu và mười hai nhiệm vụ mà Chính phủ đã giao được quy định tại Nghị định 36/CP của Chính phủ trên các mặt thu hút đầu tư trong và ngoài nước, giải quyết việc làm, du nhập kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng năng lực xuất khẩu gạo, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hoá, xã hội của TP phát triển theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá các vùng ngoại thành. Có thể nói quá trình phát triển các KCN cùng các KCX là quá trình tạo ra sản phẩm mới, tạo ra con người mới mang tác phong công nghiệp. Từ đó tạo ra tình hình mới trong sản xuất kinh doanh, từng bước góp phần đáng kể vào việc chuyển TP Hồ Chí Minh thành thành phố công nghiệp hiện đại. Trong đó các KCN đã góp phần cùng thànhphố sắp xếp lại nền kinh tế, tổ chức lại sản xuất kinh doanh, bố trí lại dân cư để đi vào xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là quá trình góp phần đổi mới cơ chế quản lý trên tất cả các lĩnh vực đầu tư, thương mại, tài chính, ngân hàng, hải quan, môi trường, lao động, v.v... Đó cũng là quá trình góp phần chuẩn bị cho thànhphố trong hội nhập quốc tế. Là quá trình làm thay đổi phong cách quản lý ngày càng tiên tiến hơn, hiện đại hơn, xây dựng một phong cách quản lý kiểu mới. Danh mục tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Quyết định số 159/BKH-KCN ngày 26/6/1997 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho Ban quản lý các KCX, KCN TP Hồ Chí Minh trong việc thi hành dự án; tiếp nhận, thẩm định điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động các dự án đầu tư nước ngoài trong các KCN Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1996-2003 (Vụ Kinh tế địa phương và Lãnh thổ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Báo cáo tình hình các KCN đến tháng 11/2003 (Vụ quản lý các KCN - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Tạp chí thông tin các KCN số năm 2003 Kỷ yếu các KCN, KCX Việt Nam năm 2002 (NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, tháng 12/2002) Các trang Web: www.mpi.gov.vn (của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) www.hochiminhcity.gov.vn (của TP Hồ Chí Minh) www.dpi.hochiminhcity.gov.vn (của Viện Quy hoạch TP Hồ Chí Minh) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT410.doc
Tài liệu liên quan