Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam

từ viết tắt sử dụng trong tài liệu ATK: An toàn khu. Bộ LĐ-TB và XH: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. XĐGN: Xoá đói giảm nghèo. XHH XĐGN: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo. CNXH: Chủ nghĩa Xã hội. TCPCP: Tổ chức phi chính phủ. HDI: Human Development Index -Chỉ số về phát triển con người. PQLI: Product Quality Life Index- Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống. ODC: Offshore Development Council- Hội đồng phát triển Hải ngoại. Lời nói đầu Một trong những thách thức lớn của các nước đan

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phát triển, nhất là Việt Nam hiện nay là đói, nghèo, nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng sự cố gắng nỗ lực lớn của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành, đoàn thể và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, công cuộc xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã đạt thành tựu to lớn, giảm tỷ lệ đói nghèo 30% (1993) xuống còn 11% (năm 2000), trung bình mỗi năm giảm gần 300.000 hộ đói nghèo. Một trong những bài học về thành công của xóa đói giảm nghèo là phải thực hiện xã hội hoá. Đây là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong các biện pháp xoá đói giảm nghèo nhằm thu hút sự tham gia ủng hộ của mọi thành phần trong xã hội, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, đói nghèo ở Việt Nam còn trầm trọng và vẫn là một thách thức lớn, tỷ lệ đói nghèo theo chuẩn mực mới hiện nay là 24% - 25% (năm 2000). Vì vậy trong 5 - 10 năm tới, đói nghèo vẫn là một vấn đề thời sự được toàn xã hội quan tâm. Trong Báo cáo chính trị về các văn kiện Đại hội Đảng khoá IX chỉ rõ: xoá đói, giảm nghèo trong 5 - 10 năm tới là một trong những nhiệm vụ kinh tế chính trị quan trọng, cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã đề ra mục tiêu cho xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 là giảm tỉ lệ đói nghèo xuống còn 11% (theo chuẩn mực mới) (tức là giảm bình quân mỗi năm là 3%). Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo những năm vừa qua cho thấy, để đạt được mục tiêu này quả không đơn giản, nó đòi hỏi sự cố gắng quyết tâm nỗ lực lớn của toàn xã hội. Do đó, xã hội hoá xoá đói giảm nghèo vẫn là một biện pháp quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết cho xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn tới. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam". Hy vọng đóng góp đôi chút lý luận cho thực tiễn. Nội dung đề tài gồm: Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. Chương II: Thực trạng xã hội hoá công tác Xoá đói giảm nghèo giai đoạn vừa qua. Chương III: Phương hướng, giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 ở Việt Nam. Vì thời gian có hạn, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, cho nên đề tài không tránh khỏi sai sót mong có sự đóng góp ý kiến của các Thầy,Cô giáo và bạn đọc. Mọi ý kiến xin vui lòng gửi theo địa chỉ email: Nguyenbanghi@hotmail.com. Xin chân thành cảm ơn! Chương I Cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. I. Quan niệm đói nghèo: Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp xã hội... Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm nghèo một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, kinh nghiệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá và các giải pháp thực hiện xoá đói giảm nghèo của thế giới; cũng như nắm vững thực tế ở Việt Nam để có những khái niệm, xác định chuẩn mực, xây dựng hệ thống giải pháp thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên để phục vụ cho phần sau, ở đây chỉ khảo sát về khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực nghèo đói của thế giới và Việt Nam. 1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của thế giới: 1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới. Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh: thời gian, không gian, giới và môi trường. - Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có một số người người nghèo khổ "tình thế", chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, địch hoạ, tệ nạn xã hội, rủi ro...v.v. - Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có 3/4 dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng. - Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới. - Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm. Từ nhận dạng trên Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo: + Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống. + Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu; nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp, xã hội, vệ sinh, y tế và giáo dục. Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng. Tuỳ mức độ đảm bảo nhu cầu tối thiểu mà sự nghèo khổ của dân cư được chia thành nghèo, rất nghèo, hoặc nghèo bậc I, bậc II. 1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới: Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo trong một quốc gia bắt đầu từ việc vạch ra giới hạn đói nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy, bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức Hội Đồng phát triển Hải Ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản: - Tuổi thọ. - Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. - Tỷ lệ xoá mù chữ. Gần đây tổ chức UNDP đưa thêm chỉ số về phát triển con người (HDI), bao gồm 3 chỉ tiêu: - Tuổi thọ. - Tình trạng biết chữ của người lớn. - Thu nhập. Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này, UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 121/175 nước trên thế giới (tài liệu công bố năm 1997 và lấy cơ sở số liệu năm 1995). Như vậy, chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác hơn khách quan hơn. - Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới dạng chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo của từng vùng, của một quốc gia được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó. Quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia ồ Số hộ nghèo đói của vùng hoặc quốc gia ồ Số hộ dân cư của vùng hoặc quốc gia Công thức tính quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia. 1.3. Chuẩn mực đói nghèo của thế giới: Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này, hiện trên thế giới có 1,12 tỷ người (20%) đang sống trong tình trạng nghèo khổ, tức là sống dưới 420 USD/người/năm hoặc 35 USD/người/tháng mà Ngân hàng thế giới đã ấn định. - Các nước phát triển: Lấy nước Mỹ làm đại diện cho các nước phát triển. Năm 1992, Mỹ lấy chuẩn mực một người trong hộ có thu nhập bình quân tháng dưới 71 USD là người nghèo khổ (852 USD/năm). - Các nước đang phát triển: Mỗi nước có một chuẩn mực khác nhau: Pakitstan lấy 6 USD/người/tháng; Indonesia 6 USD/người/tháng; Philippin 7 USD/người/tháng. Cũng có nước dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày như Bănglađét dưới 1650 Kalory/người/ngày. 2. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo của Việt Nam: ở Việt Nam đã có nhiều quan điểm đưa ra xung quanh vấn đề khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo. Song các ý kiến sau đây là tập trung nhất. 2.1. Khái niệm: Tách riêng đói và nghèo không khái niệm chung như thế giới. - Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. + Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và sinh hoạt hàng ngày gồm văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp. + Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét. - Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. 2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam: - Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng (hoặc 1 năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương ứng một giá trị nhất định để đánh giá. Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (bằng tổng thu trừ đi tổng chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo. - Chỉ tiêu phụ: là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại...v.v. Lấy chỉ tiêu thu nhập là cơ bản để phản ánh mức sống, biểu hiện bằng giá trị. Tuy nhiên, trong điều kiện giá cả không ổn định như nước ta thì cần thiết sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo tiêu chuẩn (gạo thường), tương ứng với một giá trị nhất định. Việc sử dụng hiện vật quy đổi tương ứng với một giá trị so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian được dễ dàng. Đặc biệt đối với người nghèo nói chung và người nghèo đói ở nông thôn nói riêng, chỉ tiêu lượng kilôgam gạo bình quân 1 người trong 1 tháng tương ứng 1 lượng giá trị nhất định là rất có ý nghĩa thực tế. 2.3. Chuẩn mực xác định nghèo của Việt Nam hiện nay. ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói nhiều địa phương cơ bản lấy tiêu chuẩn thu nhập bình quân 1 khẩu trong 1 năm. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí Minh lấy mức thu nhập bình quân dưới 3 triệu ở thành thị và dưới 2,5 triệu ở nông thôn /1 khẩu/1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân khẩu, gia đình nào có thu nhập bình quân dưới 30 kg gạo/khẩu/tháng được coi là nghèo. Theo Tổng cục Thống kê, để xác định hộ nông dân nghèo được căn cứ vào thu nhập tính bình quân đầu người, nếu đạt dưới 2100 Kalory/ngày/người sẽ là hộ nghèo. Một khuynh hướng khác lại lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức sống dưới mức nghèo khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn mức lương tối thiểu ( Mức lương tối thiểu hiện nay là 210.000 đồng/tháng). Các chuẩn mực trên có thể đúng với từng địa bàn cụ thể song không thể áp dụng cho mọi đối tượng, mọi vùng trên phạm vi cả nước. Còn theo quy định tại thông báo 1751/LĐTBXH ngày 20/5/97 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thì: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo: - Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương đương 55 ngàn đồng). - Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương đương 70 ngàn đồng). - Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90 ngàn đồng). Đây là chuẩn mực tối thiểu chung cho cả nước, khi áp dụng vào từng địa phương cần có điều chỉnh thích hợp tuỳ theo điều kiện cụ thể của địa phương đó. Ngoài ra, cũng cần phải xem xét các đặc trưng cơ bản như: Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán triền miên, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê cuốc mướn để kiếm sống qua ngày hoặc đi ăn xin... Nếu đưa chuẩn mực này ra để xác định thì rất dễ phân biệt hộ đói nghèo ở nông thôn. Về hộ đói: Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, trong giai đoạn hiện nay nếu thu nhập bình quân trong hộ đạt dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 đ/người/tháng) là hộ đói. Song thực tế những hộ nào thiếu lương thực trong gia đình phải đứt bữa hoặc ăn bữa cơm bữa cháo, ăn độn khoai sắn... là biểu hiện của hộ đói. Theo chuẩn mực trên, đến hết năm 1999, cả nước còn khoảng 2 triệu hộ (khoảng 11 triệu người) nghèo đói chiếm tỷ lệ 13%; năm 2000 ước tính 1,7 triệu hộ (8,4 triệu người nghèo đói) chiếm tỷ lệ 11%. Theo Bộ LĐ-TB và XH công bố mới đây( cuối năm 2000) về chuẩn mực mới áp dụng cho 5 năm tới thì: Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng tính theo giá hiện hành (cao gấp 1,5 lần chuẩn cũ), cụ thể như sau: - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000 đồng. - Vùng nông thôn đồng bằng,trung du: dưới 100.000 đồng. - Vùng thành thị: dưới 150.000 đồng. Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 60.000 đồng. Theo chuẩn này, đến hết năm 2000, cả nước có khoảng 4 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 24-25% tổng số hộ trong cả nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ nghèo đói trên 30%. Kể từ khi phát động phong trào XĐGN ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1992 đến nay, Bộ LĐ -TB và XH đã ban hành các chuẩn mực về đói nghèo khác nhau cho phù hợp với một thực tiễn là kinh tế ngày càng phát triển, đời sống ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân trên đầu người từ 257 USD/năm (năm 1992) lên tới 370 USD (năm 2000). Các chuẩn mực mới đưa ra ngày càng cao không những chỉ là dấu hiệu về sự tiến bộ của kinh tế đất nước mà còn là dấu hiệu về sự thành công trong công tác XĐGN. Chuẩn mực mới đưa ra( cuối năm 2000) là hợp lý vì: - Phản ánh đúng thực trạng đói nghèo ở nước ta. Tuy XĐGN trong những năm qua gặt hái thành quả đáng kể, đời sống nhân dân được nâng lên, song thực trạng đói nghèo vẫn trầm trọng, chênh lệch giữa các vùng ngày càng tăng. - Phù hợp quá trình hội nhập quốc tế. Vấn đề đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu, nhất là đối với Việt Nam. Vì vậy, học hỏi kinh nghiệm và trợ giúp lẫn nhau là vấn đề cốt yếu trong hội nhập. Mỗi nước phải đưa ra được chuẩn mực phù hợp với nước mình và phù hợp với quốc tế. - Khả năng huy động nguồn lực cho XĐGN được bảo đảm. - Phù hợp khoa học và thực tiễn. 3. Khái niệm liên quan khác nhau: 3.1. Khái niệm về vùng nghèo: - Là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng như : Đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung tự cấp. Và có mức sống dân cư trong vùng thấp hơn so với mức sống chung của cả nước xét trong cùng một thời điểm (trích Giáo trình kinh tế lao động - Nxb Giáo Dục, Hà Nội-1998, tr.244). Từ khái niệm này có thể suy ra các khái niệm tương đương như: thôn nghèo, làng nghèo, xã nghèo, cụm xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo... 3.2. Khái niệm về giải pháp xoá đói giảm nghèo: - Giải pháp theo từ điển bách khoa: là phương pháp giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó. - Giải pháp xoá đói giảm nghèo là phương pháp giải quyết tình trạng đói nghèo của dân cư nhằm nâng cao mức sống, phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng. II. Quan điểm về công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta. 1. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân: Xoá đói giảm nghèo là một sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cao quý, là một chính sách xã hội cơ bản của quốc gia, có ý nghĩa to lớn về cả kinh tế - chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng, mang tính nhân văn sâu sắc và phát huy bản chất tốt đẹp của dân tộc. Bài phát biểu của Đ/c Mai Chí Thọ, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, tại hội nghị sơ kết chương trình xoá đói giảm nghèo của thành phố Hồ Chí Minh (3/10/92) viết: "Xoá đói giảm nghèo là đạo lý dân tộc, là lý tưởng đạo đức cộng sản". "Với chủ trương xoá đói giảm nghèo, phát triển công tác xã hội và từ thiện chúng ta đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của nhân dân ta, đất nước ta một cách toàn diện về cả chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng". Bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong Hội nghị sơ kết chương trình xoá đói giảm nghèo của thành phố Hồ Chí Minh (ngày 3/10/92) viết: "Chương trình xoá đói giảm nghèo có một ý nghĩa xã hội rất rộng lớn là một đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng CNXH. Các Đồng chí gọi đây là một cuộc cách mạng là rất đúng. Cuộc cách mạng này đòi hỏi phải làm lâu dài và rất kiên trì. Thực hiện thành công chương trình này chúng ta sẽ dần dần xoá bỏ cuộc sống quá chênh lệch giữa đồng bào, những sự bất bình đẳng, những bất công trong xã hội, tạo nên sự đoàn kết, tương trợ tương thân, tương ái với tinh thần tình làng nghĩa xóm "lá lành đùm lá rách", một truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta. Đây là một mặt của nền văn hoá dân tộc mà chúng ta không được xao lãng". - Trích "xoá đói giảm nghèo vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh" - Thành phố Hồ Chí Minh 1992, trang 46. Tại Hội nghị triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa ngày 6-7/1/1999. Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu : "... Điều thường xuyên trăn trở của Đảng và Nhà nước ta hơn 10 năm đổi mới là làm sao người nghèo có cơ hội để thoát nghèo khổ, làm sao để người dân hiện nay còn nghèo đói có được điều kiện thuận lợi, tự vươn lên tổ chức được sản xuất và cải thiện từng bước đời sống để cùng đồng bào cả nước bước vào thế kỷ XXI không còn đói, mọi người đều có cơ hội tham gia xây dựng một xã hội công bằng, văn minh. Những thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhân dân ta đạt được là rất quan trọng, nhưng những vấn đề tồn tại, đặc biệt là vấn đề chênh lệch giàu nghèo cũng diễn ra gay gắt hơn, đòi hỏi phải có chính sách và cách làm phù hợp để giải quyết vấn đề này một cách cơ bản. Đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước ra nhằm khuyến khích mọi người đem tài năng sức lực làm giàu hợp pháp và góp phần xây dựng đất nước. Mặt khác, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng những thành tựu của công cuộc đổi mới, đây là bản chất ưu việt của chế độ ta, đặc biệt là phải quan tâm đến một bộ phận dân cư ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn đang bị đói nghèo, đang sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt...". - Trích Kỷ yếu Hội nghị triển khai công trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa, trang 29. Cũng tại hội nghị này Đồng chí tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát biểu: "... Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo tức là chúng ta thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch, thực hiện Nghị quyết của Trung ương VI (lần 1), Nghị quyết của Bộ chính trị về nông nghiệp nông thôn, đó vừa là trách nhiệm vừa là tình cảm chân thành của chúng ta đối với bộ phận dân nghèo...". - Trích kỷ yếu (như trên) trang 27. Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VII) Đảng ta đã đề ra chủ trương xoá đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu khoá VIII của Đảng một lần nữa đã nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của xoá đói, giảm nghèo, đã xác định phải nhanh chóng đưa các hộ đói nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu hiện nay và sớm hoà nhập với sự phát triển chung của đất nước. 2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo và tạo tiền đề để xoá đói giảm nghèo bền vững. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta, hợp với quy luật khách quan của phát triển kinh tế - xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn thực hiện tốt chủ trương này cần phải kết hợp chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, nâng cao chất lượng cuộc sống. 3. Quan điểm xoá đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy nội lực của người nghèo, xã nghèo tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói, kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng, đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp tác quốc tế để đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo vững chắc. 4. Quan điểm xoá đói giảm nghèo tập trung vào địa bàn nông thôn nơi chiếm 90% số hộ nghèo đói, xã đặc biệt khó khăn, vùng ATK, khu căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc, phụ nữ nghèo. III. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác xoá đói giảm nghèo. Có nhiều nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến kết quả công tác xoá đói giảm nghèo. Song có thể kể ra những nhân tố chính sau: chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, những chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước, sự thay đổi cung cách làm ăn của các hộ nghèo để phát huy nội lực và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để thu hút ngoại lực là những nhân tố ảnh hưởng đến xoá đói giảm nghèo. 1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước và địa phương là một nhân tố cơ bản xuyên suốt trong phát triển kinh tế - xã hội mà bất cứ giai cấp nào nắm quyền hành nhà nước đều phải đưa ra được cương lĩnh chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội. Đó là kim chỉ nam định hướng cho phát triển kinh tế - xã hội: Đi theo hướng nào? Để phục vụ cho ai? Ai thực hiện nó? Trong bao lâu?...v.v. ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó vấn đề xoá đói giảm nghèo bảo đảm công bằng xã hội là một trong những mục tiêu chính trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng, nhà nước. Xoá đói giảm nghèo là điểm nổi bật thể hiện chính sách kinh tế gắn với cuộc sống xã hội. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân (như đã phân tích ở phần trên). Một chiến lược tốt không chỉ thu hút sự quan tâm của cả dân tộc, thu hút được cộng đồng quốc tế một cách thường xuyên mà còn phải được thể chế thành những chương trình phù hợp thiết thực có căn cứ. Điều quan trọng nhất là: thận trọng trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nhằm xử lý đồng thời hai vấn đề kinh tế trì trệ và nghèo đói, phải giải quyết từng bước vững chắc đồng thời hai mục tiêu, tăng trưởng kinh tế và chống nghèo đói bằng các chương trình đồng bộ và thiết thực. 2. Những chính sách và phương thức tác động: Những chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước để xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa thiết thực: Người nghèo giảm bớt được đói nghèo, xã hội giảm bớt được sự chênh lệch giàu nghèo quá thái, vì thế: tài chính tiền tệ, đầu tư, tự do hoá thương mại với tỷ giá cạnh tranh, hạn chế và đi tới không phân biệt đối xử với người lao động, đối với các hình thức sản xuất kinh doanh, ưu tiên đầu tư hỗ trợ tài chính, cũng như đảm bảo chi tiêu xã hội cho vùng nghèo, khó khăn. Nhờ đó mà các đối tượng nghèo đói có các cơ hội về thu nhập, giảm bớt nghèo đói cho chính mình và cho xã hội. Cùng với sự tác động về chính sách vĩ mô ,vấn đề phương thức tác động thông qua các công cụ như: Thuế, giá cả, cải thiện cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, ...v.v... còn giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận các nguồn lực. Vì thực tế hộ đói nghèo thường khó tiếp cận các nguồn lực, dẫu rằng có nhiều nguồn lực tuy sẵn có, mà tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực là yếu tố then chốt của xoá đói giảm nghèo. Do đó, phương thức tác động của nhà nước là cầu nối giữa các nguồn lực với những người nghèo trong xã hội. Đây là những nhân tố ảnh hưởng thể hiện rõ vai trò chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước trong điều hành kinh tế vĩ mô để phát huy nội lực. 3. Vai trò của các tổ chức quốc tế: Tác động hiệu quả đến xoá đói giảm nghèo, cần phải nhận thức đầy đủ vai trò của các tổ chức quốc tế. Nhất là đối với các nước kém phát triển. Đối với nước ta điều đó càng có ý nghĩa. Đành rằng sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế không thể thay thế được nội lực bên trong của đất nước, nhưng rõ ràng và thực tế trong những năm đổi mới ở nước ta đã khẳng định: sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế theo các chương trình dự án: Chuyển giao công nghệ - môi trường sinh thái - chuyển sang dinh dưỡng trẻ em Việt Nam đã có tác động tích cực. Vì thế vấn đề hoàn thiện các thể chế pháp lý, thể chế hành chính, tạo môi trường thuận lợi để thu hút các tổ chức quốc tế tham gia vào chương trình xoá đói giảm nghèo là giải pháp thực tế góp phần xoá đói giảm nghèo. 4. Sự tiếp cận của chính bản thân "họ" những người đói nghèo: Sự tiếp cận đó chính là sự thay đổi về chất, về cung cách làm ăn của người nghèo và có ý thức tự giác của họ trong công việc, cởi trói tâm lý mặc cảm, tâm lý an phận vươn lên làm giàu. Từng hộ nghèo, xã nghèo cũng phải chịu khó học hỏi, siêng năng làm việc tạo cho mình một cuộc sống ngày càng cải thiện, bằng chính sức lao động của mình. Thêm một hộ, một xã thoát nghèo là sẽ có thêm sự ổn định vững vàng để đất nước đi vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì thế, vấn đề nâng cao dân trí thông qua các phương pháp tuyên truyền giáo dục, khuyến nông, lâm, ngư; truyền thông dân số, sức khoẻ và môi trường, là việc làm cần ưu tiên. Suy đến cùng chính người đói nghèo "họ" vừa là "đối tượng" của chính sách tác động của nhà nước, vừa là người tổ chức thực hiện cho chính mình. Không ai hiểu mình bằng chính mình, chỉ khi bản thân họ "tự cải tạo" được thì mọi chương trình quốc gia mới thực sự có hiệu quả. IV. Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo. Xã hội hoá là một vấn đề mới mẻ đối với nước ta, mặc dù thuật ngữ này đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử. Vì vậy, hiện nay chưa có chính thức tổng kết nào một cách toàn diện về xã hội hoá cho mọi lĩnh vực của xã hội, tất nhiên loại trừ lĩnh vực không thể xã hội hoá. Mà thực tế qua khảo sát của người nghiên cứu thấy rằng: Xã hội hoá mới được tổng kết nghiên cứu trên một số lĩnh vực riêng lẻ như: văn hoá, y tế, giáo dục... Do đó, quả là khó khăn khi đưa ra được khái niệm chính xác về xã hội hoá nói chung và xã hội hoá xoá đói giảm nghèo nói riêng. Sau đây là một số khái niệm và khía cạnh mà hợp lý với nội dung đề tài: 1. Khái niệm xã hội hoá; xã hội hoá xoá đói giảm nghèo. Theo từ điển bách khoa, từ điển tiếng Việt (1998 - Nxb: Đà Nẵng) thì: "Xã hội hoá là làm cho trở thành của chung của xã hội". Nếu theo định nghĩa này thì xã hội hoá một lĩnh vực xã hội nào đó nghĩa là làm hay biến lĩnh vực đó trở thành của chung của xã hội. Chẳng hạn xã hội hoá xoá đói giảm nghèo nghĩa là biến lĩnh vực xoá đói giảm nghèo trở thành lĩnh vực chung của xã hội. Trong quyển "Kinh tế chính trị học" tập II, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1996 của Bộ môn kinh tế chính trị học, trang 95 tổng kết: - Xã hội hoá sản xuất là quá trình kinh tế khách quan phản ánh xu thế phát triển tất yếu của xã hội. Quá trình này được quy định bởi sự phát triển biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. - Xã hội hoá sản xuất tăng thêm tính chất xã hội của hình thức sản xuất dựa trên cơ sở phân công và hiệp tác lao động. - Xã hội hoá sản xuất là phạm trù kinh tế phức tạp phản ánh các mối liên hệ kinh tế: kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - tổ chức và kinh tế - xã hội, tất cả những mối liên hệ kinh tế tác động qua lại lẫn nhau trong sự phù hợp giữa lao động sản xuất và quan hệ sản xuất. Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ nêu rõ: "Xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá và sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân". Trong bài "xã hội hoá hoạt động văn hoá thông tin ở cơ sở" T.S. Đỗ Kim Thịnh viết: "Khái niệm xã hội hoá hoạt động văn hoá nói chung và trong đó có xã hội hoá hoạt động văn hoá ở cơ sở được xem là hướng vào thu hút toàn xã hội, cung cấp và phổ biến văn hoá, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hoá phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và nâng cao dần mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá"* * Trích "Xã hội hoá vấn đề văn hoá - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Ban tư tưởng - văn hoá Trung ương, Hà Nội 2000, tr.51. . Trong bài "Một số nhận thức cơ bản về xã hội hoá các hoạt động văn hoá" Th.S. Phạm Vũ Dũng viết: "Xã hội hoá hoạt động văn hoá là biến các hoạt động văn hoá trở thành của toàn xã hội, được xã hội quan tâm nuôi dưỡng, được sự tham gia của nhiều ngành và mọi tầng lớp nhân dân"** ** Như trên, tr.39. . Từ các khái niệm trên có thể rút ra khái niệm xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo như sau: "Xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo là biến công tác xoá đói giảm nghèo trở thành nhiệm vụ của toàn xã hội, được xã hội đặc biệt quan tâm, tập trung mọi nguồn lực nhằm xoá được đói, giảm được nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước lĩnh vực xoá đói giảm nghèo và khuyến khích sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức quốc tế". Như vậy, Xã hội hoá là một trong những biện pháp quan trọng trong chương trình XĐGN. Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến XĐGN phần trên cho thấy tăng cường quản lý, khuyến khích và huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước trên cơ sở của sự ý thức chung của toàn xã hội chính là những nhân tố tích cực, cơ bản ảnh hưởng đến kết quả XĐGN. 2. Đặc trưng của xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo Qua định nghĩa (phần trên) về xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo ta thấy xã hội hoá xoá đói giảm nghèo gồm các đặc trưng sau: - Tính phức tạp: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là một công việc hết sức phức tạp bởi vì bản thân công tác xoá đói giảm nghèo đã đa dạng và phức tạp. Cùng với xu thế tăng trưởn._.g kinh tế trên thế giới thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng dân số nghèo vẫn chiếm 1/4 dân số thế giới (tức 25%), ở Việt Nam hiện nay vào khoảng 11% (năm 2000), 24-25% (Năm 2000-Theo chuẩn mực mới). Hơn nữa đây là một công việc mới mẻ, không chỉ đối với nước ta, mới đưa vào thử nghiệm ở một số lĩnh vực: y tế, văn hoá, giáo dục, thể dục thể thao. Cho nên chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa có tổng kết lý luận và thực tiễn cho công tác này. - Tính lâu dài: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là cả một quá trình lâu dài không thể ngay một lúc có thể thực hiện được. Đòi hỏi phải có kế hoạch, có bước đi cụ thể mới thành công. - Tính truyền thống: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thực chất là phát huy truyền thống "nhà nước và nhân dân cùng làm" có từ rất lâu trong lịch sử nước ta. - Tính tất yếu khách quan: Xu thế tăng trưởng kinh tế gắn liền với xu thế phân hoá giàu nghèo là một quy luật khách quan của cơ chế kinh tế thị trường. Nó đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo thì tăng trưởng mới bền vững. Hơn nữa, Xu thế dân chủ cũng là một quy luật khách quan trong thời đại hiện nay, nhân dân ngày càng được tự do quyết định những lợi ích của họ, nhà nước quản lý chủ yếu bằng định hướng. Tuy nhiên, vai trò quản lý nhà nước vẫn luôn là chủ đạo. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân do đó thực hiện công tác này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng, nhà nước. Như vậy xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là một quá trình lâu dài phức tạp phù hợp với hoàn cảnh nước ta, với xu thế phát triển của thế giới. 3. Điều kiện để xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thành công. Qua tìm hiểu công tác xã hội hoá các hoạt động: Y tế, văn hoá, giáo dục, thể thao trong những năm qua, tìm hiểu công tác xoá đói giảm nghèo thì điều kiện để xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thành công là: Nhận thức, phân công trách nhiệm & phối kết hợp, nguồn lực. Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo Nhận thức Phân công trách nhiệm & phối kết hợp XHH XĐGN Nguồn lực 3.1. Nhận thức: Để xã hội hoá xoá đói giảm nghèo thành công thì điều kiện trước tiên là phải có được sự nhận thức tốt đầy đủ về công tác này của toàn xã hội. Trước hết, Đảng và nhà nước có vai trò chủ đạo và định hướng đối với mọi lĩnh vực xã hội nói chung, với lĩnh vực xoá đói giảm nghèo nói riêng phải coi xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài đòi hỏi có sự thử nghiệm, đúc kết rút kinh nghiệm và học hỏi từ nước khác từ đó tuyên truyền tạo được nhận thức trong toàn thể các cán bộ, công nhân viên chức. Thứ hai, mỗi người dân trong xã hội phải hiểu được rằng đói nghèo đây là một thách thức lớn đối với phát triển, đất nước chỉ giàu mạnh khi mỗi người, mỗi gia đình trong xã hội giàu mạnh. Từ đó mỗi người đều quan tâm và giải quyết đói nghèo cho người khác và cho chính mình. Cuối cùng, các nước và các tổ chức quốc tế thấy được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam chống lại đói nghèo .. Chúng ta cũng phải cho họ thấy được thiện chí sẵn sàng tiếp nhận sự ủng hộ của họ. 3.2. Phân công trách nhiệm và phối kết hợp: Có được nhận thức từ xã hội về xã hội hoá xoá đói giảm nghèo là một điều kiện vô cùng thuận lợi để tiến hành các bước tiếp theo. Đó là vạch ra chủ trương, chính sách về xã hội hoá xoá đói giảm nghèo và đưa các chủ trương, chính sách này vào thực tiễn. Đây là một nhân tố hết sức quan trọng quyết định sự thành công của xã hội hoá xoá đói giảm nghèo. Muốn thực hiện tốt bước này, thì phải phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các thành phần tham gia (Ai tham gia? Ai làm việc gì?...) và đoàn kết tốt các thành phần đó tạo thành một khối thống nhất cùng mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Nếu có được điều này thì sự nghiệp xã hội hoá xoá đói giảm nghèo sẽ nhanh chóng gặt hái kết quả. 3.3. Nguồn lực: Phân công trách nhiệm mới chỉ huy động được nhân tố con người. Nếu không có các nguồn lực khác bảo đảm thì xã hội hoá xoá đói giảm nghèo khó mà đi tới đích. Vì vậy, phải huy động được mọi nguồn lực khác nhau trong xã hội cho công tác này. Nguồn lực trong nước huy động từ ngân sách, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các cá nhân,... nguồn lực bên ngoài chủ yếu từ các nước, các tổ chức quốc tế (song phương và đa phương) các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân tự nguyện... Chương II Thực trạng xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn vừa qua. I. Thực trạng đói nghèo và nguyên nhân. 1. Thực trạng đói nghèo: 1.1. Nước ta vốn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới (hiện nay vào khoảng 370 USD/người/năm). Tỷ lệ đói nghèo còn cao. Theo chuẩn Bộ lao động - Thương binh và xã hội công bố năm 1997 thì tỷ lệ đói nghèo năm 1992-1993 khoảng 30%, năm 1999: 13%; năm 2000 khoảng 11% (xem biểu 1), đến nay giảm 7,5 triệu nghèo đói. Như vậy tỷ lệ nghèo đói nước ta đã giảm đi đáng kể, kể từ khi phát động phong trào xoá đói giảm nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh (năm 1992). Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới thông qua kết quả điều tra mức sống dân cư Việt Nam thì tỷ lệ đói nghèo năm 1992-1993 khoảng 58%, năm 1998 khoảng 37% (nếu chỉ tính đói nghèo về lương thực, thực phẩm thì tỷ lệ đói nghèo là 15%) (Xem biểu 1). Tỷ lệ đói nghèo giảm còn thể hiện qua mức tăng chi tiêu bình quân đầu người. Tỷ lệ người dân có mức chi tiêu bình quân đầu người ở dưới ngưỡng nghèo chung đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 37% vào năm 1998 (Hình 1). Và số người dân thuộc diện dưới ngưỡng nghèo về lương thực thực phẩm, là ngưỡng thấp hơn ngưỡng nghèo chung, đã giảm từ 25% xuống còn 15%. Điều này chứng tỏ ngay cả bộ phận dân cư nghèo nhất cũng cải thiện được mức sống trong thời gian từ 1992 trở lại đây. Tuy tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao song việc đạt được các mức nghèo đói như vậy chỉ trong vòng 5-10 năm vừa qua là rất ấn tượng. Trong những năm gần đây chưa có một quốc gia nào lại đạt được sự giảm nghèo đói một cách mạnh mẽ trong một thời gian ngắn như thế (Trung Quốc và Inđônêxia trong thập niên 1980 có thể coi là những ngoại lệ) . Hình 1: Nghèo đói - nếu được tính trên cơ sở chi tiêu của hộ dân cư ở mức cần thiết - đã giảm đi trong thời gian 1995-1998 ở Việt Nam. Nguồn: Ước tính của Ngân hàng thế giới dựa vào số liệu của VLSS 93 và VLSS 98. Chi tiêu cần thiết để mua lương thực thực phẩm tối thiểu và các mặt hàng thiết yếu khác ở Việt Nam: Biểu 3: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam 1993-1998. Chi tiêu bình quân đầu người hàng năm 1993 (nghìn đồng, tính vào thời điểm tháng 1/1993) 1998 (nghìn đồng, tính vào thời điểm tháng 1/1998) Ngưỡng nghèo về lương thực thực phẩm 750 1287 (92 USD) Ngưỡng nghèo chung 1160 1788 (128 USD) Nguồn: Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới ước tính dựa trên VLSS 93 và VLSS 98. Biểu 1: Số hộ đói nghèo và tỷ lệ: Đơn vị: ngàn hộ Chỉ tiêu Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 1.Tổng số hộ 12.700 13.100 13.550 13.950 14.300 14.877 15.243 15.700 16.150 2.Tổng số hộ nghèo 3811,27 3406 3135,47 2841,62 2749,89 2633,23 2387,05 2056,7 1675 3. Tỷ lệ % 30,01 26 23,14 20,37 19,23 17,70 15,66 13,10 11,00 4.Tổng số hộ nghèo theo khu vực + Nông thôn: - - 2.877,06 2.597,17 2.519,08 2.402,46 2.159,34 1.835,70 1.400,00 . Tỷ lệ (%) 26,38 23,21 22,05 20,30 17,95 14,93 11,13 + Thành thị: - - 258,41 244,45 230,81 230,77 227,71 221,00 275,00 . Tỷ lệ (%) - - 9,78 8,85 8,03 7,56 7,08 6,49 6,02 Biểu 2: Số hộ nghèo đói theo vùng và tỷ lệ.( Đơn vị: Ngàn hộ). Tổng số hộ đói nghèo và tỷ lệ theo vùng 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 + Miền núi phía Bắc 799,50 - 790,70 704,50 695,05 640,95 570,51 349,139 . Tỷ lệ (%) 35,53 - 30,47 28,16 27,24 25,42 22,39 16,93 + Đồng bằng sông Hồng 515,00 - 286,80 354,25 330,52 302,53 272,28 296,386 . Tỷ lệ (%) 20,60 - 14,11 12,04 11,01 9,81 8,38 7,2 + Bắc Trung bộ: 746,50 668,80 630,10 609,37 119,00 500,21 433,257 . Tỷ lệ (%) 44,04 35,70 32,50 30,08 27,84 24,62 20,25 + Duyên hải miền Trung 528,70 - 445,80 419,62 413,66 358,18 291,76 271,593 . Tỷ lệ (%) 35,72 - 27,97 25,47 23,14 22,44 17,80 16,37 + Tây Nguyên 249,50 - 206,50 191,10 188,88 180,39 171,93 107,914 . Tỷ lệ (%) 47,98 - 33,86 30,88 29,45 27,84 25,65 14,57 a+ Đông Nam Bộ 312,00 - 209,70 138,01 116,73 103,85 91,30 166,758 . Tỷ lệ (%) 20,00 - 12,34 7,80 6,47 5,50 4,75 8,95 + Đồng bằng Cửu Long 659,50 - 550,50 506,39 502,92 492,32 489,17 422,736 . Tỷ lệ (%) 24,47 - 18,85 16,69 16,25 15,65 15,37 13 Nguồn: Báo cáo từ các tỉnh, Số liệu hệ thống an sinh xã hội Việt Nam- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, trang 85-87. 1.2. Trong những năm qua, tình trạng đói nghèo đã giảm đi ở cả khu vực nông thôn và thành thị mặc dù nghèo đói ở thành thị vẫn là một vấn đề rất phức tạp. (Xem biểu 1) * Trích: Việt Nam: Tấn công đói nghèo, tr.4, Nxb Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Hình 2: Đồ thị tỷ lệ % hộ nghèo đói theo khu vực ở Việt Nam Tỷ lệ hộ nghèo đói theo khu vực nông thôn và thành thị giảm đáng kể: từ 26,38% (94) - 11,13% (2000) và 9,78% (94) - 6,02% (2000). Qua đây, cũng cho thấy rằng đói nghèo chủ yếu ở khu vực nông thôn (khoảng 90% tổng số hộ đói nghèo của cả nước) ( Hình dưới). ở khu vực thành thị, tỷ lệ đói nghèo tuy thấp hơn, song chủ yếu tập trung chủ yếu ở số dân mới nhập cư. ở khu vực nông thôn và thành thị, sự giảm nghèo đói đã đi kèm với những cải thiện trong việc tiếp cận với giáo dục và với cơ sở hạ tầng. Trong khoảng thời gian từ 1993 đến 1998, tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp tiểu học ở khu vực nông thôn đã tăng từ 85% lên đến 91%. Còn ở thành thị tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cấp tiểu học hầu như không đổi ở mức rất cao (96%). Khả năng được sử dụng nước sạch và phương tiện cho vệ sinh ở cả thành thị và nông thôn đều đã được cải thiện. Dân nông thôn giờ đây ít phải lệ thuộc vào nước sông, hồ và ngày càng nhiều người dân lấy nước uống từ giếng khoan. ở các vùng thành thị, hơn một nửa số dân đã được dùng nước máy. Trên 90% dân thành phố và gần 60% dân nông thôn đã có điện để thắp sáng. Như vậy nỗ lực xoá đói giảm nghèo trong tương lai phải giành chủ yếu cho nông thôn, ở thành thị thì giành cho đối tượng mới nhập cư. 1.3. Một số vùng, khu vực, đặc biệt vùng đồng bào dân tộc tỷ lệ đói nghèo khá cao (trên 20%). Tuy nhiên nghèo đói đã giảm trong cả 7 vùng của Việt Nam nhưng với mức độ khác nhau (xem biểu 2). Miền núi phía Bắc giảm từ 35,53% (1992) - 16,93% (1999) - 15% (2000) Miền Đồng bằng sông Hồng giảm từ 20,6% (1992) - 7,2% (1999). Bắc Trung Bộ giảm từ 44,04% (1992) - 20,5% (1999) - 24,62% (2000). Đông Nam Bộ giảm từ 20% (1992) - 8,95% (1999). Ba vùng có tỷ lệ dân nghèo cao nhất là: Miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, thể hiện: Biểu 4: Tỷ lệ hộ đói nghèo qua các năm của 3 vùng nghèo nhất. (Đơn vị: %) Miền Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Miền núi phía Bắc 28,16 27,24 25,42 22,36 16,93 15,00 Bắc Trung Bộ 32,5 30,08 27,84 24,62 20,25 17,00 Tây Nguyên 30,88 29,95 27,84 25,65 19,57 13,00 Cả nước 20,37 19,23 17,70 15,66 13,10 11 Nguồn: Số liệu hệ thống an sinh xã hội Việt Nam- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Ước tính tỷ lệ hộ đói nghèo ở các vùng vào cuối năm 2000 theo chuẩn mực mới của Bộ LĐTBXH (năm 2000) như sau: ( Đơn vị: Ngàn hộ) Vùng Số hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo (%) 1. Miền núi phía Bắc 923,3 34,1 2. Đồng bằng sông Hồng 482,1 14,0 3. Bắc trung Bộ 833,8 38,6 4. Duyên hải miền Trung 555,7 31,9 5. Tây nguyên 257,5 36,1 6. Đông nam Bộ 261,4 12,8 7. Đồng bằng Cửu Long 686,2 20,3 Cả nước: 4.000,0 24,7 Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Như vậy nghèo đói cao nhất là Bắc Trung bộ. Còn tại hai khu vực miền núi phía Bắc và Tây nguyên, nghèo đói kéo dài là một triệu chứng biểu hiện nhiều hạn chế mà các khu vực này gặp phải khi tham gia vào quá trình tăng trưởng. Những hạn chế đó bao gồm môi trường vật chất khó khăn và điều này làm hạn chế sự phát triển của nông nghiệp cũng như cản trở khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng. 1.4. Sự phân cực giàu nghèo ngày càng tăng. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê, nếu so sánh 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất (nhóm V) với 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn (nhóm I) chênh nhau 7,3 lần (năm 1996) tăng lên 11,23 lần (năm 1999). Hệ số chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn hiện nay khoảng 5-7 lần. Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, trong giai đoạn 1993-1998, kết cấu tăng trưởng chi tiêu đã dẫn đến sự bất bình đẳng tăng lên ở Việt Nam. Hệ số Gini về chi tiêu bình quân đầu người đã tăng từ 0,33 lên 0,35. Đường cong Lorenz đã dịch chuyển một chút theo thời gian từ 1993 đến 1998 cho thấy sự bất bình đẳng có tăng lên một chút (Hình 3). Hình 3: Đường cong Lorenz của Việt Nam. 100 100 80 80 60 60 40 40 20 20 0,35 0,33 0 0 Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Thế giới dựa vào số liệu VLSS 93 và VLSS 98. 1.5. Các chỉ tiêu về cải thiện đời sống còn thấp so với mục tiêu đề ra, đặc biệt chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Theo Số liệu hệ thống an sinh Việt Nam của Bộ LĐTBXH ,Năm 1999, số trẻ suy dinh dưỡng vẫn còn 36,68%, phần lớn là thuộc các gia đình nghèo; tỷ lệ phát triển dân số ở nhóm người nghèo rất cao (trên mức trung bình 1,5% của cả nước); tỷ lệ người biết chữ ở các vùng sâu chỉ khoảng 50%; ở nông thôn chỉ khoảng 43% số hộ gia đình được dùng nước sạch và 20% có hố xí hợp vệ sinh... Ngày càng nhiều người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí, được cấp thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT). Năm 1997, số người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí (KCBMP) là: 1.065.840 (người được cấp thẻ Khám chữa bệnh) và 126.764 (người được cấp thẻ BHYT).Số thẻ BHYT và thẻ KCBMP cấp năm 1998 là 2.987.945 thẻ. Học sinh nghèo đi học được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cũng tăng lên.Năm 1998 là 682.999 học sinh với kinh phí 95.176,92 (triệu đồng) (Chi tiết xem biểu 5, 6, 7). Biểu 5: Số người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí 1997. Đơn vị: người. Vùng Thẻ KCB Thẻ BHYT 1. Miền núi phía Bắc 5.000 2. Đồng bằng sông Hồng 216.395 110.160 3. Bắc Trung Bộ 340.192 - 4. Duyên Hải miền Trung 244.932 16.604 5. Tây Nguyên 46.286 - 6. Đông Nam Bộ 142.993 - 7. Đồng bằng Cửu Long 70.042 - Cả nước: 1.065.840 126.764 Biểu 6: Hỗ trợ người nghèo trong khám chữa bệnh năm 1998 và Hình thức hỗ trợ. Vùng Số thẻ BHYT & thẻ KCBMP Số người nghèo đã điều trị Kinh phí (tr.đ) 1. Miền núi phía Bắc 242.264 82.309 4.102 2. Đồng bằng sông Hồng 382.299 190.527 7.282 3. Bắc Trung Bộ 1.006.363 99.315 5.478 4. Duyên hải miền Trung 107.301 30.030 2.358 5. Tây Nguyên 415.238 137.964 4.186 6. Đông Nam Bộ 359.370 62.192 7.745 7. Đồng bằng Cửu Long 475.110 159.977 8.862 Cả nước: 2.987.945 762.314 40.013 Biểu 7: Miễn giảm học phí và các khoản đóng góp đối với học sinh nghèo 1998. Vùng Tổng số Kinh phí (tr.đ) 1. Miền núi phía Bắc 61.300 6.622 2. Đồng bằng sông Hồng 51.709 2.323 3. Bắc Trung Bộ 254.731 - 4. Duyên hải Miền trung 40.767 80.845 5. Tây Nguyên 38.000 3.790 6. Đông Nam Bộ 55.802 - 7. Đồng bằng sông Cửu Long 180.690 1.598,92 Cả nước: 682.999 95.176,92 Nguồn: Số liệu hệ thống an sinh xã hội Việt Nam- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Tuy nhiên, thực tế đói nghèo đòi hỏi ở mức độ nhiều hơn với 11 triệu người nghèo đói nhưng chúng ta chưa đủ kinh phí để giải quyết tức thời tình trạng đó. 1.6. Tái nghèo đói còn cao (7%). Hàng năm số người phải cứu trợ đột suất do thiên tai, mất mùa khoảng từ 1-1,5 triệu người. Năm 1999 có khoảng hơn 1,5 triệu người thiếu đói phải cứu trợ đột suất (nhất là do bão lụt ở miền Trung). 6 tháng đầu năm 2000, theo báo cáo của 11 tỉnh, tổng số người thiếu đói lên tới 1,021 triệu người, chủ yếu ở các tỉnh miền Trung. Bình quân hàng năm có khoảng 7% số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo. Riêng năm 1999 có 415 ngàn hộ vượt qua ngưỡng nghèo đói thì có 75 ngàn hộ tái nghèo đói. Như vậy, có thể coi 6 nét trên đây là những nét chính của bức tranh đói nghèo của Việt Nam hiện nay, một bức tranh sáng sủa hứa hẹn nhiều nét đột phá trong tương lai tuy nhiên không ít những nét chưa được coi là sáng sủa đó chính là những thách thức đối với Việt Nam trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. 2. Nguyên nhân đói nghèo: Đói nghèo là hậu quả của nhiều nguyên nhân: ở Việt Nam, những nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có 3 nhóm: 2.1. Nhóm nguyên nhân thứ nhất do chính bản thân đối tượng (người nghèo, hộ nghèo) gồm các nguyên nhân cụ thể sau: - Do đông con, đông cháu (người làm thì ít, người ăn thì nhiều); - Do thiếu các điều kiện cơ bản của sản xuất kinh doanh (thiếu vốn, thiếu ruộng đất, thiếu công cụ có chất lượng); - Nghề chính có hiệu quả thấp mà không có nghề phụ khác; - Kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm làm ăn; - Lười nhác, ăn tiêu không có kế hoạch; - ốm đau bệnh tật, tai nạn rủi ro; - Rơi vào các tệ nạn cờ bạc, nghiện ngập...v.v. 2.2. Nhóm nguyên nhân thứ hai là do các điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (dẫn đến các thôn nghèo, xã nghèo, vùng nghèo) bao gồm: - Địa hình phức tạp, đất ít, núi đá nhiều, diện tích canh tác nhỏ hẹp, không thuận tiện. Đất đai cằn cỗi, sỏi sạn, cát bỏng...v.v. - Khí hậu nóng lạnh, nắng mưa thất thường, kèm theo nhiều bão, lũ, sương muối, mưa đá, hạn hán... gây khó khăn, thiệt hại cho sinh hoạt và sản xuất. - Giao thông khó khăn, kinh tế chậm phát triển, hậu quả chiến tranh để lại. Đây là nhóm nguyên nhân chính gây ra sự phát triển khác biệt giữa các vùng dẫn đến tỷ lệ đói nghèo giữa các vùng là khác nhau. 2.3. Nhóm nguyên nhân thứ ba là do khiếm khuyết của các chính sách, trước hết là các chính sách vĩ mô (ảnh hưởng cả đến hộ nghèo, vùng nghèo) bao gồm: - Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư, chính sách giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh, định cư, kinh tế mới. - Nguồn đầu tư còn hạn chế, chưa khai thác hết nguồn lực trong và ngoài nước cho xoá đói giảm nghèo, chưa thực hiện triệt để xã hội hoá để xoá đói giảm nghèo. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới. Báo cáo tổng hợp PPA (1999a) thì nghèo đói do các nguyên nhân sau: . Nguồn vốn tự nhiên, vốn tài chính và vốn vật chất: - Tài sản vốn liếng kinh tế ít. - Thu nhập bằng tiền không ổn định. - Nợ nần, căng thẳng tài chính. - Cơ sở nguồn lực hạn chế. . Nguồn vốn nhân lực: - Có nhiều con nhỏ. - Lao động sớm bị chết, bị bệnh tật hay rời khỏi gia đình. - Trình độ học vấn thấp. - Bị hạn chế về tiếng Việt. . Tính dễ bị tổn thương bởi các cuộc khủng hoảng và những sự đột biến: - Người nhà bị ốm. - Người nhà mới bị chết. - Người nhà nghiện ma tuý hay nghiện rượu. - Hộ bị mất gia súc hoặc chết. - Đầu tư bị thất bại. . Cô lập về văn hoá và địa lý: - Sống ở vùng sâu, vùng xa. - Giao thông khó khăn, địa hình phức tạp. - Sống trên đất có kế hoạch bị giải toả, các điểm xa đường phố chính. . Mối liên hệ xã hội ở mức thấp hay bị xã hội xa lánh - Hộ không có hộ khẩu chính thức. - Hộ mới đến. - Hộ mới lập gia đình tách ra sống độc lập. - Quan hệ xã hội hạn hẹp...v.v. Còn nhiều quan điểm khác, trong đó có quan điểm cho rằng: Đói nghèo xuất phát từ nguyên nhân chính là không được tiếp cận và kiểm soát nguồn lực* * Trích vấn đề Nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, tr.40. . Như vậy đói nghèo do nhiều nguyên nhân chi phối. Hộ đói nghèo thường chịu một hoặc nhiều nguyên nhân. Cho nên, xoá đói giảm nghèo phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cho từng nguyên nhân trong đó phải có giải pháp trung tâm, trọng điểm, giải pháp trước, giải pháp sau, móc xích các giải pháp một cách hợp lý và tính đến lâu dài. II. Kết quả Xã Hội Hoá Xoá Đói Giảm Nghèo. Mục đích phần này là đánh giá cái được và chưa được, tìm hiểu nguyên nhân, rút ra bài học cho Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo. Xét theo 3 góc độ: nhận thức, phân công trách nhiệm và phối kết hợp, nguồn lực. 1. Quản lý Nhà nước: Ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập (1945), chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đói nghèo như một thứ "giặc", cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm. Tiếp đó, người còn dạy rằng, "chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc". Người cũng chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu với mục tiêu: "Làm cho người nghèo thì đủ ăn Người đủ ăn thì khá giàu Người khá giàu thì giàu thêm". Tư tưởng trên đây của chủ tịch Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xoá đói giảm nghèo, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh cải cách, tạo ra những động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Đảng ta luôn chủ trương "khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo" Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: "Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công tác XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hoá giàu nghèo quá giới hạn cho phép". Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài. Nghị quyết nhấn mạnh phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Mục tiêu XĐGN do đại hội VIII đề ra là "giảm tỷ lệ đói nghèo xuống còn khoản 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300 ngàn hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm,tập trung xoá cơ bản hộ đói kinh niên". Trong phương hướng của chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1998-2000 có nêu: "... Thực hiện xã hội công tác XĐGN..." Những chủ trương phương hướng trên khẳng định: Đảng và Nhà nước đã nhận thức tốt, ngay từ thời kỳ thành lập Nhà nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa vấn đề XĐGN và XHH XĐGN, coi đây là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà nước, coi XHH XĐGN là biện pháp quan trọng để XĐGN. Đây là một tiền đề quan trọng, một điều kiện tiên quyết cho thực hiện thành công XĐGN nói chung và XHH XĐGN nói riêng. Chính nhờ vậy mà, 10 năm qua nước ta đã giảm được trên 2 triệu hộ đói nghèo. Tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh, từ gần 30% vào đầu năm 1992 xuống còn khoảng 11% vào năm 2000. Mỗi năm bình quân giảm được 250.000 hộ, riêng giai đoạn 1996-2000 mỗi năm giảm được 300.000 hộ (20%) đạt được mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng VIII đề ra và được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất; trở thành một "điểm sáng" trong công cuộc đổi mới của đất nước. Kinh nghiệm những bước đi ban đầu đã giúp Đảng và Nhà nước hoàn chỉnh cơ bản cơ chế và chính sách về XĐGN, đã thành lập Ban chỉ đạo XĐGN từ Trung ương đến địa phương, phát huy sự ủng hộ, nỗ lực từ các ngành, các cấp, các tổng công ty, các đoàn thể, các tổ chức quốc tế tham gia có hiệu quả vào XĐGN. Về chính sách: Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần VIII thực hiện chỉ thị số 23-CT/TW ngày 29/11/1997 Ban chấp hành Trung ương Đảng về việc thực hiện công tác XĐGN. Chính phủ cùng các bộ, ban, ngành, các cấp chính quyền nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản quản lý về XĐGN. Cho tới nay, chính phủ cùng các bộ, ban, ngành, đã ban hành trên dưới 50 văn bản: Nghị định, nghị quyết, điều lệ, thông tư về triển khai công tác XĐGN đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác. Nội dung chủ yếu là: Quản lý chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN; Chỉ đạo thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN, Ban chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa; Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1998-2000, 2001-2010; Tăng cường quản lý cán bộ làm công tác XĐGN; về Miễn giảm học phí cho học sinh nghèo; về Bảo hiểm Y tế cho người nghèo; Tín dụng cho hộ nghèo; Lồng ghép các chương trình, dự án tham gia thực hiện XĐGN. Điều đó thể hiện sự cố gắng lớn của chính phủ, các bộ, ban, ngành trong việc làm hoàn thiện hệ thống chính sách về XĐGN. Tuy nhiên, hệ thống chính sách đó còn thiếu chưa thật đồng bộ, có hiện tượng lệch thời gian quá dài giữa ra văn bản chỉ đạo và văn bản hướng dẫn khiến các địa phương khó thực hiện. Về triển khai: Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo (gọi tắt là Ban chủ nhiệm chương trình) được thành lập theo Quyết định số 80/1998/QĐ-TTg ngày 09 tháng 4 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ có bộ phận giúp việc chuyên trách là văn phòng chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN (gọi tắt là văn phòng chương trình). Chủ nhiệm chương trình là một phó Thủ tướng (PTT.Nguyễn Công Tạn) có hai Phó chủ nhiệm là Bộ trưởng Bộ LĐ-TB và XH (Phó chủ nhiệm thường trực) và Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn và các thành viên khác. Gồm: -Phó chủ nhiệm Uỷ Ban Dân tộc và miền núi. -Thứ trưởng Bộ LĐ-TB và XH. -Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. -Thứ trưởng Bộ Tài chính. -Thứ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo. -Thứ trưởng Bộ Y tế. -Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. -Phó Chủ nhiệm uỷ ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình. Và các đại diện của đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Từ khi Ban chủ nhiệm chương trình ra đời thì công tác XĐGN thực hiện có hiệu quả hơn, quy củ hơn. Ban chủ nhiệm chương trình đã phối hợp với các cấp chính quyền ở các địa phương thành lập ra Ban chủ nhiệm chương trình ở các cấp: tỉnh, huyện, xã trên khắp 61 tỉnh, thành phố tạo thành hệ thống hành chính quốc gia chặt chẽ, đồng bộ về XĐGN. Giúp cho Ban chủ nhiệm chương trình nắm bắt kịp thời tình hình đói nghèo ở từng cơ sở, địa phương, nhanh chóng chỉ đạo, hỗ trợ cho các địa phương. Tuy nhiên, số cán bộ của các địa phương làm công tác XĐGN còn thiếu, vừa yếu về năng lực lại vừa kiêm nhiệm nhiều việc khác. Thông thường: Mỗi tỉnh có 5-7 cán bộ. Mỗi huyện có 2-3 cán bộ. Mỗi xã có 1 cán bộ. Vì công việc quá nhiều nên với số lượng cán bộ như trên không thể giải quyết tốt công việc, hơn nữa lại chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm. Trước tình hình này chính phủ cũng đã có quyết định số 42/1999/QĐ-TTg ngày 10/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường có thời hạn cán bộ, công chức về xã làm công tác XĐGN. Nhưng đến nay quyết định đó mới chỉ thực hiện ở một số nơi. Mặt khác, một bộ phận cán bộ chưa ý thức tầm quan trọng của công việc, nên sao nhãng hoặc đánh trống bỏ dùi nên công tác XĐGN ở nhiều địa phương không mấy tiến bộ. Tại Hội nghị sơ kết năm 1999 và triển khai kế hoạch năm 2000 chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng (Bộ trưởng Bộ LĐ-TB và XH) báo cáo: - 46 tỉnh đã kiện toàn Ban chỉ đạo XĐGN các cấp; rà soát, điều tra, đánh giá lại thực trạng nghèo đói, lập sổ theo dõi hộ nghèo đói ở từng xã; xây dựng, phê duyệt chương trình XĐGN giai đoạn 1998-2000. - 32 tỉnh, thành phố tổ chức hội nghị quán triệt tới huyện; các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Sơn La... đã quán triệt tới Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã nghèo; 32 tỉnh lấy ý kiến nhân dân ở xã lựa chọn công trình cần đầu tư. - 25 tỉnh đã bố trí cán bộ chuyên trách hoặc tổ chuyên viên ngành giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện theo dõi công tác XĐGN ở tỉnh, huyện hoặc có phụ cấp cho cán bộ làm công tác XĐGN ở xã. 26 tỉnh đã phân công 750 sở, ban ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp trên địa bàn giúp đỡ các xã nghèo. Qua báo cáo trên ta thấy rằng, công tác XĐGN đã được các địa phương hết sức quan tâm, tuy nhiên còn nhiều địa phương chưa thật chú trọng, chưa đầu tư thoả đáng cho công tác này. Hơn nữa theo số liệu báo cáo của Vụ Bảo trợ - Bộ LĐ -TB và XH thì báo cáo về công tác XĐGN ở các địa phương lên thực tế chưa thật đầy đủ. Năm 1999 có 43 tỉnh (Thành phố) báo cáo hàng tháng, quý, năm. Năm 2000 có 46 tỉnh (thành phố) báo cáo hàng tháng, quý, năm. Các tỉnh còn lại không báo cáo hoặc báo cáo sơ sài rất khó cho việc tổng hợp số liệu. Điều này chứng tỏ, chưa có biện pháp thưởng phạt rõ ràng đối với các địa phương, chưa có sự phối hợp ăn ý giữa các cơ quan trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Mặt khác, những báo cáo của các địa phương đưa lên thường sai quy cách, tự ý thay đổi, số liệu chưa chính xác, không sát thực tế lên việc tổng hợp số liệu gặp không ít rắc rối, mất thời gian. Việc chỉ đạo thực hiện vì thế mà gặp khó khăn, cản trở vì Lãnh đạo không nắm chính xác tình hình. Điều này chứng tỏ, chưa có kỷ cương, kỷ luật trong thực hiện hành chính ở các địa phương, đặc biệt công tác thanh tra từ Trung ương chưa tốt. Cùng với quy chế (Ban hành kèm theo Quyết định số 244/1998/QĐ-TTg ngày 19 tháng 12 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ) về hoạt động của Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, quy định rõ về phân công trách nhiệm), Chính phủ cũng đã ban hành văn bản số 174/CP-VX ngày 22/02/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc giúp đỡ các tỉnh nghèo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Và nhiều văn bản khác quy định trách nhiệm từng Bộ, ban, ngành. Tới nay, phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ban, ngành tương đối rõ ràng, đồng thời sự phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành, các Cấp chính quyền địa phương trong thực hiện các chương trình, dự án lồng ghép tương đối có hiệu quả. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa cấp chính quyền địa phương với Trung ương với các Bộ, ban, ngành còn nhiều vướng mắc, còn lúng túng. Nhiều địa phương còn tự ý làm sai mà không báo cáo lên cấp trên. Một số địa phương còn nặng tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào cấp trên, vào Nhà nước; chưa phát huy tính chủ động, tự lực của địa phương mình, cơ sở vật chất của nhân dân và đặc biệt của chính người nghèo để họ tự vươn lên. Hơn nữa, vấn đề nhận thức, nhất là về trách nhiệm với công tác xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương, cơ sở còn chậm và chưa rõ, chưa nhất qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0026.doc
Tài liệu liên quan