Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010

A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài. Cùng với sự CNH-HDH đất nước trong thời kỳ đổi mới. Các đô thị lớn và nhỏ trong cả nước đang vươn lên chứng tỏ vai trò của mình. Mục tiêu đến năm 2010 nước ta cơ bản sẽ là nước công nghiệp. Vì thế để thực hiện được mục tiêu này thì quá trình CNH-HĐH ở các đô thị phải được ưu tiên hàng đầu. Nhưng nguồn thu cho sự phát triển đó được lấy ở đâu? Đây đang là bài toán nan giải cho các nhà quản lý đô thị nói chung và cho chính quyền từng thành phố nói riêng. Nguồn thu

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên giác độ kinh tế- xã hội có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển ở đô thị. Về bản chất hoạt động thu là sự vận động của các nguồn tiền tệ gắn với sự hình thành và các quỹ tiền tệ đó. Thành phố Thanh Hoá sau 10 năm phát triển bây giờ là một đô thị loại 2. Trong 10 năm ấy đã thu được nhiều kết quả khả quan, Thành phố đang dần hoàn chỉnh các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch khu Đông Bắc Ga, khu nhà ở cho những hộ gia đình có thu nhập thấp, nâng cao đời sống cho người dân…Thành phố có 12 phường và 6 xã với số dân là 286.848 người, mật độ dân số nội thành là 17.188 n/km2 (2003) Nguồn thu ngân sách năm 2004 là 162.704200 (1000đ) và dự kiến năm 2005 là 210.961 triệu đồng. Như vậy nguồn thu ngân sách có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của Thành phố. Là sinh viên Khoa Kinh Tế & Quản Lý Môi Trường - Đô Thị khoá 43 và là một người dân Thanh Hoá. Nên tôi muốn tìm hiểu về Thành phố mình ở_ nơi tôi đã lớn lên. Tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010” Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ của Th.s Lê Thăng Long và các bạn trong lớp để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập rất quan trọng này. II. Mục đích chọn đề tài. Tôi muốn tìm hiểu những vấn đề làm được và chưa làm được việc sử dụng hợp lý nguồn thu cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá những năm qua. Nguồn thu của Thành phố là vấn đề rộng hay hẹp, mức độ phức tạp không? Và việc vận dụng những kiến thức học trong 4 năm để tìm hiểu một vấn đề cụ thể. Xem mình đã thu được gì trong thực tế trước khi ra trường. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là các nguồn thu từ thuế (thuế môn bài, thuế trước bạ, thuế nông nghiệp…), các khoản phí, lệ phí (phí ô nhiễm môi trường, phí giao thông…) từ việc cho thuê đất, bán đất… trên địa bàn Thành phố. Được thực tập ở phòng Quản Lý Đô Thị Thành phố là cơ quan hành chính sự nghiệp nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các đơn vị cơ quan hành chính như chi cục thuế Thành phố, phòng tài chính, phòng kế hoạch… Nội dung đề tài là vấn đề nguồn thu trong phạm vi Thành phố Thanh Hoá. Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề án gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về nền tài chính đô thị. Chương 2: Thực trạng tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001-2005. Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2005-2010. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN TÀI CHÍNH ĐÔ THỊ I. Hệ thống tài chính quốc gia và nền tài chính đô thị. 1.1. Hệ thống tài chính quốc gia. a. Trên quan điểm hình thành các quỹ tiền tệ: Các hoạt động tài chính luôn gắn liền với các hoạt động kinh tế xã hội đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau tạo thành một hệ thống. Hệ thống tài chính quốc gia có thể được nhìn nhận ở các góc độ khác nhau trong quá trình quản lý. Về mặt bản chất, hoạt động tài chính là sự vận động của các nguồn tiền tệ gắn với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Mỗi quỹ tiền tệ có một chủ thể quản lý tương ứng, các quỹ có quan hệ với nhau tạo thành các khâu của hệ thống. Theo sơ đồ 1, hệ thống tài chính quốc gia bao gồm các khâu: Ngân sách, tài chính doanh nghiệp, tài chính các hộ gia đình, tài chính các tổ chức xã hội, tài chính đối ngoại, tài chính tín dụng, tài chính bảo hiểm, tài chính trung gian (các doanh nghiệp ngân hàng tín dụng). Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước( chủ thể quản lý là nhà nước) được tập trung từ các nguồn khác nhau và được sử dụng để chi tiêu thực hiện các chức năng của nhà nước ở các cấp chính quyền khác nhau. Mục tiêu hoạt động của tài chính đô thị là tăng nguồn thu, sử dụng hợp lý các nguồn thu để chi tiêu duy trì các hoạt động thường xuyên và kích thích phát triển kinh tế, dịch vụ, văn hoá giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ sức khoẻ…. Tài chính doanh nghiệp là các nguồn lực tài chính gắn với sản xuất của các doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức vốn và các quỹ chuyên dùng, chủ doanh nghiệp là chủ thể thực hiện mục đích của doanh nghiệp. Tài chính các hộ gia đình và các tổ chức xã hội là các quỹ được hình thành từ các nguồn thu nhập khác nhau được sử dụng cho các mục đích tiêu dùng và tích luỹ. Ngân sách Nhà nước Tài chính doanh nghiệp Thị trường Tài chính Các tổ chức tài chính Trung gian Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội Tài chính đối ngoại Sơ đồ 1: Hệ thống tài chính quốc gia Tài chính đối ngoại là những nguồn tài chính hình thành do quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức trong quan hệ trong nước với nước ngoài. Tài chính đối ngoại hình thành hình thành một cách tương đối độc lập, tồn tại dưới các hình thức viện trợ, cho vay, liên doanh… và được xem như một trong số các nguồn tài chính khác. Các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các quỹ tiền tệ từ việc huy động vốn nhàn rỗi dưới các hình thức khác nhau. Các tổ chức tài chính trung gian đóng vai trò cầu nối giữa người bán và người mua quyền sử dụng các nguồn tài chính. Các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ với nhau qua các hoạt động thu nộp đồng thời có quan hệ gián tiếp với nhau thông qua thị trường tài chính. Thị trường tài chính là một khái niệm trừu tượng dùng để chỉ nơi tiến hành các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thị trường tài chính không phải là một khâu của hệ thống tài chính mà chỉ là môi trường để hệ thống tài chính hoạt động. b. Trên quan điểm phân cấp quản lý: Các hoạt động tài chính có thể và cần được nghiên cứu theo các cấp quản lý khác nhau. Ta có thể dễ dàng thấy sự tồn tại hai cấp hoạt động tài chính là tài chính Trung ương và tài chính các địa phương. Trong hệ thống tài chính các địa phương ta thấy sự phân cấp tài chính của các cấp chính quyền: Tài chính tỉnh, thành phố, tài chính quận, huyện, phường, xã. Chủ thể quản lý tài chính của tất cả các cấp là Bộ Tài chính, Sở Tài chính (các tỉnh, thành phố), phòng tài chính các quận huyện, ban tài chính phường, xã. Thể hiện tập trung nhất trong khâu ngân sách chính quyền các cấp. Các khoản thu chi ngân sách của chính quyền các cấp. Các khoản thu chi ngân sách của chính quyền các cấp được hình thành trên cơ sở Luật Ngân sách Nhà nước năm 1998 và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội các địa phương có định hướng của Nhà nước. Quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện theo 3 nguyên tắc sau: - Ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi một cách cụ thể. - Thực hiện việc phân bổ hợp lý từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu ngân sách của cấp dưới. - Không dùng ngân sách của cấp này để chu cho nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt của chính phủ hoặc sự uỷ quyền của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ chi đó. 1.2. Hệ thống tài chính đô thị. a. Khái niệm và nội dung Hệ thống tài chính của các đô thị là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính của cả nước. Hiện nay Nhà nước chưa phân định rõ luồng tài chính- ngân sách đô thị và nông thôn do vậy ngân sách và tài chính đô thị chưa có cơ chế chính sách, cơ chế quản lý riêng mà vẫn áp dụng cơ chế chính sách tài chính chung trong cả nước Ngân sách đô thị là một bộ phận của ngân sách địa phương và phụ thuộc vào ngân sách địa phương. Để phát triển và quản lý đô thị, tăng cường ngân sách địa phương là cần thiết và tất yếu. Trong phân tích kinh tế, có thể coi ngân sách địa phương và ngân sách đô thị là hợp nhất. Sự phân cấp ngân sách tạo nên tính độc lập tương đối về quyền hạn thu chi của mỗi cấp chính quyền và là điều kiện để thực hiện tốt công tác quản lý ngân sách. Trong các đô thị, việc hình thành ngân sách của chính quyền có sự khác nhau tùy thuộc vào vai trò, vị trí của đô thị trong nền kinh tế quốc dân. Các đô thị còn có 2 tổ chức quản lý thu ngân sách và quản lý kho bạc đước tổ chức theo ngành dọc từ bộ tài chính xuống gồm: + Chi cục thuế tỉnh, Chi cục thuế thành phố, quận, thị xã. + Chi cục kho bạc, chi nhánh kho bạc thành phố, quận, thị xã. Để hình thành ngân sách của mình, các cấp chính quyền địa phương đều có ba nguồn thu chủ yếu: Thuế địa phương và các loại phí, nguồn thu từ hàng hóa công cộng, trợ cấp của chính phủ. Kết quả của hoạt động thu đó tạo nên ngân sách chung của địa phương. b. Những đặc điểm cơ bản: Tài chính đô thị là quá trình vận động liên tục phát sinh, phát triển của các nguồn tài chính làm thay đổi các mối quan hệ tiền tệ có liên quan chặt chẽ với hệ thống chính sách cơ chế quản lý để duy trì hoạt động thường xuyên và quá trình đô thị hóa ở đô thị. Hoạt động tài chính có quan hệ với tất cả các hoạt động của đô thị. Mục tiêu của hoạt động tài chính đô thị là tăng nguồn thu, sử dụng nguồn thu để chi tiêu duy trì các hoạt động thường xuyên và kích thích phát triển kinh tế, dịch vụ, văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe, giảm ô nhiễm môi trường, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, chống chi phí không cần thiết, chống lãng phí... Tuy nhiên tài chính đô thị chỉ hoạt động hiệu quả khi quá trình tạo nguồn thông qua quá trình cấp phát thanh toán và hạch toán kinh tế với bộ máy và những nhà quản lý xây dựng đô thị giỏi, tác nghiệp quản lý phù hợp, hệ thống luật lệ và quy chế xây dựng đô thị theo quy hoạch. c. Vai trò của chính quyền đô thị trong việc quản lý tài chính đô thị ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam. Các nước trên thế giới: Các nước phát triển thì nền tài chính đô thị giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia. Chính quyền đô thị có vai trò tự chủ trong việc quản lý riêng biệt nền tài chính đó. Tức là chính quyền thành phố đó ngoài việc tuân theo những quy định pháp luật của nhà nước thì họ có quyền đưa ra những quy định riêng của thành phố trong việc tăng nguồn thu cho ngân sách. Vì thế nền tài chính của họ tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Ngoài ra các đô thị đó có chính sách rất thông thoáng trong việc tăng nguồn thu từ các khoản thuế. Họ không đề cao tăng nguồn thu từ thuế mà tăng nguồn thu từ các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường, văn hóa, du lịch bằng cách cho tư nhân tham gia. Các nguồn thu đó mang lại cho phát triển đô thị của họ đang sống. Tạo ấn tượng tốt cho người dân đô thị và người nước ngoài. Ví dụ như Trung Quốc- Một nước cùng đi theo con đường XHCN giống Việt Nam. Nhưng họ lại phát triển kinh tế theo hướng đi riêng của họ, tiếp thu những cái mới, cái tốt của các nước đã phát triển áp dụng cho sự phát triển của mình. Các đặc khu kinh tế là một ví dụ điển hình, có nền tài chính rất lớn và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, thu hút lượng lớn nguồn đầu tư từ nước ngoài... Các đặc khu ấy được ví như một nhà nước riêng biệt. Ở Việt Nam, tài chính đô thị cũng có vai trò quan trọng trong công cuộc CNH- HĐH đất nước. Nguồn tài chính này chiếm 60% tổng thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên trong hệ thống tài chính quốc gia chưa hình thành hệ thống tài chính đô thị được quản lý riêng biệt. Tài chính đô thị là bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính quốc gia. Nền tài chính của các thành phố rất nhỏ so với nhu cầu của sự phát triển, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng. Những vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính đô thị Việt Nam đó là: Xác định rõ hệ thống, tầm quan trọng của từng khâu trong hệ thống, cơ chế hoạt động, những yếu kém trong cơ chế, nguyên nhân, cách khắc phục. Quản lý cái gì? Quản lý nguồn thu, chi như thế nào. Quản lý như thế nào? thu đủ, chi đúng, chi có hiệu quả, chống tham nhũng. Ai quản lý? Vấn đề cán bộ? Đội ngũ cán bộ tài chính làm việc trong các cơ quan tài chính của Việt Nam được đào tạo tư sơ cấp đến trình độ đại học ở trong nước, nước ngoài với những chuyên ngành khác nhau: Tài chính, ngân hàng tín dụng, kế toán... Nhìn chung về số lượng tương đối đông đủ nhưng về chất lượng còn thiếu nhiều cán bộ có kinh nghiệm quản lý theo cơ chế mới nhất là đối với lĩnh vực tài chính đô thị và nghiệp vụ phát triển đô thị. Chưa phân biệt được đặc thù của tài chính đô thị trong chế độ tài chính dẫn đến các quy định trong quản lý tài chính chi phối cản trở quá trình đô thị hoá. Về hình thức tài chính đô thị có vẻ tập trung cao độ nhưng thực chất lại bị phân tán chia cắt tách biệt với công việc cụ thể về xây dựng đô thị. Tài chính đô thị thuộc phạm trù kinh tế nhưng lại được tổ chức quản lý kiểu hành chính làm mất năng động của các cấp quản lý đô thị, làm chậm tốc độ đô thị hoá. Cơ chế cấp phát vốn và kinh phí còn mang nặng tính bao cấp. Qúa coi trọng việc chế độ cấp phát vốn Nhà nước, xem nhẹ khả năng tự hoạt động và cung cấp các dịch vụ đô thị. Một nguyên tắc cơ bản trong hạch toán kinh tế là phải thu hồi vốn bỏ ra để hoạt động thì các nhà quản lý lại bỏ qua, để rồi đến tình trạng thu tiền thuê nhà không đủ sửa chữa, thu tiền nước sinh hoạt thấp hơn giá thành, cuối cùng là thiếu nước, thiếu nhà, thiếu trường học... Các nguồn tài chính khác để xây dựng đô thị chưa có biện pháp khai thác triệt để. Nguồn tài chính của các khu vực dân cư, của khu vực nước ngoài gần như bị thả nổi. Nhiều gia đình có tiền muốn xây nhà nhưng không được thực hiện được. Quản lý Nhà nước ở đô thị bị chia ra thành nhiều ngành dọc cản trở quá trình kiểm tra, giám sát, thanh tra tài chính. Giữa các cấp các ngành chưa phối hợp chặt chẽ dẫn đến có những quyết định chồng chéo nhau. Ngoài các thành phố Trung ương như thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà nẵng, Cần Thơ có những nguồn tài chính tương đối vững mạnh. Còn các đô thị loại II, III, IV,V thì ngân sách nhỏ, không tự chủ được nguồn tài chính mà chủ yếu vẫn là các nguồn tài chính từ ngân sách Trung ương cấp. Là nước XHCN nên chúng ta phát triển kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Tức là chúng ta phát triển hài hoà các yếu tố với nhau. Vì vậy nguồn tài chính các đô thị nói chung ở Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức với vai trò của nó. Hy vọng trong một tương lai không xa các cấp chính quyền nhận thức và thực hiện các chính sách để tăng nguồn thu của đô thị. Chú trọng đến việc xây dựng và nuôi dưỡng các nguồn thu. Như vậy chính quyền đô thị mới thể hiện được vai trò rất quan trọng của mình. II. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính Vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền đô thị diễn ra trong phạm vi nền tài chính quốc gia và trên địa bàn đô thị họ quản lý. Tài chính của mỗi cấp thể hiện sức mạnh quyền hạn, trách nhiệm của cấp đó trong bộ máy quản lý đô thị. Những mối quan hệ cơ bản về tài chính nảy sinh trên cơ sở công việc và điều kiện tài chính bao gồm: - Phân chia trách nhiệm: Ai làm gì? ai chi khoản gì? thực chất là sự phân quyền mà các cấp chính quyền luôn đòi hỏi sự công bằng và chính xác. - Phân chia nguồn thu: Ai nhận nguồn vốn nào? Phải làm gì khi thu chi không cân bằng? Là những điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền thực hiện nhiệm vụ của mình. Bình đẳng trong vay mượn và hỗ trợ cung cấp các dịch vụ của Chính phủ: Tài chính liên cấp. Chính quyền đô thị vừa là người điều tiết vừa là người cung cấp các dịch vụ trong phạm vi đô thị của mình; Những loại dịch vụ cấp thành phố cung cấp bao gồm: Đường sá đô thị duy tu bảo dưỡng đường sá, chiếu sáng đô thị, vệ sinh môi trường, giao thông, bệnh viện, cảnh sát,... Trong nền kinh tế thị trường, các chính quyền đô thị chỉ nên giới hạn vào cung cấp các dịch vụ cho dân cư đô thị của mình. Để sản xuất có hiệu quả các cấp các ngành cần xác định rõ sản xuất cái gì, cho ai, bao nhiêu và chất lượng thế nào? Chính quyền đô thị phải cung cấp các dịch vụ có tính xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không muốn cung cấp như y tế cộng động, giáo dục công, văn hoá xã hội, trật tự an toàn xã hội... III. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính a. Sự tồn tại khách quan của các mối quan hệ Vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền đô thị diễn ra trong phạm vi nền tài chính quốc gia và trên địa bàn đô thị họ quản lý. Tài chính của mỗi cấp thể hiện sức mạnh quyền hạn, trách nhiệm của cấp đó trong bộ máy quản lý đô thị. Những mối quan hệ cơ bản về tài chính nảy sinh trên cơ sở công việc và điều kiện tài chính bao gồm: Phân chia trách nhiệm: Ai làm gì? ai chi khoản gì? thực chất là sự phân quyền mà các cấp chính quyền luôn đòi hỏi sự công bằng và chính xác. Phân chia nguồn thu: Ai nhận nguồn vốn nào? Phải làm gì khi thu chi không cân bằng? Là những điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền thực hiện nhiệm vụ của mình. Bình đẳng trong vay mượn và hỗ trơ cung cấp các dịch vụ của Chính phủ:Tài chính liên cấp. Chính quyền đô thị vừa là người điều tiết vừa là người cung cấp các dịch vụ trong phạm vi đô thị của mình. Những loại dịch vụ cấp thành phố cung cấp bao gồm: Đường sá đô thị duy tu bảo dưỡng đường sá, chiếu sáng đô thị, vệ sing môi trường, giao thông, bệnh viện, cảnh sát,... Trong nền kinh tế thị trường, các chính quyền đô thị chỉ nên giới hạn vào cung cấp các dịch vụ cho dân cư đô thị của mình. Để sản xuất có hiệu quả các cấp các ngành cần xác định rõ sản xuất cái gì, cho ai, bao nhiêu và chất lượng thế nào? Chính quyền đô thị phải cung cấp các dịch vụ có tính xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không muốn cung cấp như y tế cộng động, giáo dục công, văn hoá xã hội, trật tự an toàn xã hội... IV. Các nội dung thu của ngân sách đô thị từ trong nước 4.1. Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Ngân sách đô thị, hay ngân sách của thành phố, thị xã, thị trấn, được hình thành theo luật ngân sách Nhà nước năm 1998. Cũng giống như ngân sách các địa phương, ngân sách đô thị hình thành dựa vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước về hành chính kinh tế, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trên chế độ định mức chi tiêu và chính sách để lại nguồn thu cho các đô thị để thiết lập và chấp hành ngân sách. Các nguồn thu của ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Các khoản thu được giữ lại 100%: Tiền thuê chênh lệch giá đất Tền thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước Lệ phí trước bạ phát sinh trên địa bàn quận, huyện không kể lệ phí trước bạ nhà đất Thu tiền từ hoạt động sổ xố kiến thiết Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật. Các khoản phí, lệ phí và các khoản thu nhập khác nộp vào ngân sách tỉnh theo quy định của chính phủ Các khoản huy động của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của chính phủ(các loại quỹ phát triển nhà ở) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho ngân sách cấp tỉnh, thành phố Thu kết dư ngân sách ngân sách cấp tỉnh, thành phố Bổ sung từ ngân sách trung ương (tài trợ của chính phủ) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương và ngân sách cấp tỉnh, thành phố: Thuế giá trị gia tăng (VAT) không kể VAT của hàng hoá nhập khẩu Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành Thuế thu nhập (đối với người có thu nhập cao) Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài Thu sử dụng vốn ngân sách Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách tỉnh và ngân sách quận, phường: Thuế chuyển quyền sử dụng đất, thực chất là chênh lệch giá đất Thuế nhà đất Tiền sử dụng đất Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách tỉnh và ngân sách huyện, xã: Thuế sử dụng đất nông nghiệp(cho thị trấn, xã tối thiểu là 20%) Thuế tài nguyên Lệ phí trước bạ nhà đất Thuế tiêu thụ đặc biệt (kinh doanh vàng mã; vũ trường, karaoke, massage...) 4.2. Ngân sách cấp thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận * Các khoản thu này được giữ lại 100%. - Thu ngoài quốc doanh: Đó là các khoản thu từ thuế và lệ phí đối với các công ty, doanh nghiệp, các tiểu thương, tiểu chủ không thuộc sở hữu Nhà nước. - Thuế môn bài: Không gồm thuế môn bài thu từ các hộ gia đình, các nhà kinh doanh nhỏ ở thị trấn, xã. - Thuế sát sinh: Thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa bàn. - Lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý. - Thu kết dư ngân sách cấp thành phố: Đó là những khoản chi còn dư được tổng kết vào cuối năm. - Bổ sung từ ngân sách tỉnh: Là những khoản trợ cấp ngân sách tỉnh cho thành phố, thị xã, huyện, xã. - Các khoản thu khác theo quy định của nhà nước: Thuế tắc nghẽn giao thông, thuế ô nhiễm môi trường… cũng là những nguồn thu quan trọng, đồng thời góp phần khắc phục các vấn đề về giao thông và cải thiện môi trường. * Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách tỉnh và ngân sách thành phố thuộc tỉnh. - Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là chênh lệch giá của đất trong quá trình chuyển quyền sử dụng. Thuế có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nên người sử dụng phải cân nhắc khi chuyển quyền sử dụng đất. - Thuế đất ở: đất xây dựng các công trình sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và khả năng thu nhập của các công trình. Nếu đất đô thị chỉ để ở thì đất phụ thuộc vào vị trí từng loại phố, tuỳ loại đô thị, thuế đất ở đô thị cao hơn thuế đất nông nghiệp từ 2 đến 32 lần. Đất ven đô, ven trục giao thông chính có mức thuế cao hơn từ 1,5 đến 2,5 lần thuế đất nông nghiệp vào loại cao nhất trong vùng. - Tiền thuê đất: Là khoản thu điều tiết vào thu nhập do sử dụng đất mang lại. Tiền thuê đất phải lớn hơn thuế đất một khoản bằng lợi nhuận của người có tài sản cho thuê. Các đơn vị không được nhà nước giao đất phải đi thuê đất để xây dựng nhà xưởng để hoạt động. - Thuế sử dụng đất nông nghiệp (cho thị trấn, xã tối là 20%): Thực hiện điều tiết đối với đất được sử dụng vào sản xuất nông nhiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và chất lượng kinh tế đất. Thuế suất được tính bằng kg thóc/sào/năm. Thực tế thường quy đổi thành tiền để đơn giản khâu thu nộp. - Tiền sử dụng đất: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sủ dụng ổn định lâu dài, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước. - Thuế tài nguyên: Đánh vào các chủ thể sử dụng tài nguyên khoáng sản hoặc người trực tiếp khai thác. - Lệ phí trước bạ nhà đất: Là khoản tiền mà người mua đất hoăc mua nhà phải nộp thay người bán cho chi cục thuế. - Thuế tiêu thụ đặc biệt kinh doanh hàng mã, vũ trường, karaoke, massage…. - Nguồn thu từ hàng hoá công cộng. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ cung cấp một số hàng hoá dịch vụ, dịnh vụ giao thông, bảo vệ của cảnh sát, phòng cháy chữa cháy, công viên và thoát nước… Tuy nhiên trong một số các điều kiện nhất định thì việc cung cấp hàng hoá của chính quyền địa phương đạt hiệu quả cao. Nói chung nguồn thu từ hàng hoá công cộng là rất ít vì nó mang tính chất phục vụ cho tầng lớp nhân dân. Người dân sử dụng các hàng hoá công cộng đó họ phải trả tiền thông qua các dịch vụ. Các loại lệ phí: + Lệ phí giao thông + Lệ phí cấp giấy phép xây dựng + Lệ phí xử phạt hành chính + Lệ phí lưu trú đô thị + Lệ phí khác: Phòng cháy chữa cháy, sử dụng bến bãi, lề đường, quảng cáo công chứng, vệ sinh môi trường... * Trợ cấp của Chính phủ Trợ cấp của chính phủ cho các công trình của địa phương như trợ cấp giáo dục, phúc lợi xã hội, nhà ở và phương tiện công cộng, đường giao thông, bệnh viện, y tế… là những nguồn tài chính quan trọng cho đô thị. * Nguồn thu ngân sách từ trong nhân dân Nguồn thu từ trong nhân dân có vai trò cũng rất quan trọng cho sự phát triển đô thị, huy động được lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân sẽ rất tốt cho sự phát triển đô thị. Chính quyền đô thị nên tạo ra nhiều dịch vụ mới để thu hút nhân dân tham gia và dựa trên nguyên tắc người được hưởng phải trả tiền. V. Nguồn thu từ nước ngoài Đó là các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật. Vay nước ngoài như từ nguồn vốn World Bank, IMF…Các nguồn vốn khác như ODA, FDI thì chủ yếu đầu tư vào nông thôn, vùng miền núi kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TĂNG NGUỒN THU NGÂN SÁCH CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ THÀNH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2005 I. Giới thiệu về Thành phố Thanh Hoá Một người pháp tên là Charles Robequin viết lại những quan sát về thành phố Thanh hoá trong một luận văn tiến sĩ của mình, ông đặc biệt tán thưởng chất lượng các đồ gốm sành màu tím ngắt hoặc màu da lươn vàng ươm ở Lò Chum Bến Ngự chất đầy trên các con thuyền mành và thuyền đinh, mỗi năm có sản lượng 1.500 tấn và xuất khẩu ít nhất 270 tấn ra thị trường Bắc Bộ. Thành phố Thanh hoá được biết đến với chiến thắng Hàm Rồng vẻ vang thể hiện tinh thần chiến đấu quật cường của quân dân Nam Ngạn trong kháng chiến chống Mĩ. Bây giờ lại rất nổi tiếng bởi là nơi cung ứng hàng trăm mặt hàng đá ốp lát có hàm lượng Silic cao với nhiều màu sắc tuyệt vời. Thành phố nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vị trí địa lý trên là một lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho phát triển Thành phố mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước cũng như với nước bạn Lào. Ngày 1/5/1994 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Thành phố Thanh hoá trên cơ sở là Thị xã Thanh hoá, Địa giới bao gồm: Phía Bắc tới núi Vôi- Xã Đông Cương Phía Đông tới cảng Lễ Môn- Xã Quảng Hưng Phía Nam tới Cầu Quán Nam- Xã Đông Vệ Phía Tây tới cây số Ba- Phường Phú Sơn Năm 2003, Thành phố có diện tích tự nhiên là 58,58 km2 riêng đất xây dựng đô thị là 14.926 km2. Có 12 phường và 6 xã. Tính đến 01/01/2003 tổng số dân toàn thành phố là 286.848 người, mật độ dân số nội thành là 17.188 người/km2 Khu trung tâm có các phường Ba Đình, Điện Biên, Lam Sơn, Ngọc Trạo, Tân Sơn, Trường Thi. Kế cận có phường Đông Sơn, Đông Vệ, Phú Sơn, Đông Thọ, Nam Ngạn, Hàm Rồng. Ngoại vi thành phố có các xã Đông Cương, Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng. Hướng phát triển của thành phố là Đông- Đông Bắc(xã Đông Cương) và Đông- Đông Nam(xã Quảng Thành). Các xã Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng và Quảng Thắng là những quỹ đất tiềm năng rộng lớn cho các khu đô thị mới có quy hoạch hiện đại. Thành phố có khu công nghiệp có tổng diện tích 180 ha: khu công nghiệp Đình Hương 30 ha, khu công nghiệp vừa và nhỏ Tây Bắc ga 50 ha, khu công nghiệp Lễ Môn 100 ha. Giá trị Sản xuất chiếm 34,4% tổng GDP của thành phố. II. Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh hoá trong giai đoạn 2001- 2005 2.2.1 Vấn đề xây dựng nguồn thu: Đây không phải là hạn chế riêng của Thành phố Thanh hoá mà còn là hạn chế của nhiều đô thị khác. Xây dựng nguồn thu là một phạm trù mới trong quản lý thu ngân sách Nhà nước. Cho nên vấn đề xây dựng và nuôi dưỡng nguồn thu chưa được các cấp chính quyền Thành phố quan tâm. Nguồn thu ngân sách chủ yếu là nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác. Các cán bộ quản lý chưa nhận thấy được tầm quan trọng khi tạo nên các nguồn thu mới trên địa bàn Thành phố. Ví dụ như thất thu từ việc không áp dụng thu thuế xây dựng nhà ở mà chỉ thu lệ phí cấp giấy phép xây dựng. Mà vô tình làm mất hàng chục tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước. Các nguồn thu thường xuyên hàng năm không thể thay đổi được mà chính quyền các cấp thực hiện công tác thu tốt hơn, ngày một có hiệu quả hơn. Chính quyền thực hiện còn nhiều khó khăn như phụ thuộc vào quyết định của lãnh đạo tỉnh, theo đúng pháp luật hiện hành. Có một ví dụ về việc tạo thêm nguồn thu ngân sách của thành phố trong năm 2003-2004: Xã Quảng Thành năm 2003 lập quy hoạch một khu dân cư 50 lô đất, xã tiến hành đầu tư xây dựng hạ tầng đền bù giải phóng mặt bằng trước khi đấu giá đất. Năm 2004 thành phố thực hiện việc đấu giá đất, mỗi lô có giá trị gần 200 triệu đồng. Như vậy tổng thu là 50 tỷ đồng nếu được thực hiện thành công. Tài chính thành phố quy định số tiền này nộp vào Kho bạc Nhà nước để thu vào ngân sách thành phố 100% và yêu cầu xã giải trình để xin lại các chi phí đã bỏ ra. Quá trình giải quyết kéo dài nên quyền lợi của xã không được đảm bảo. Xã dừng việc thực hiện khu dân cư thứ hai lại. Xã Quảng Hưng bên cạnh biết như thế cũng dừng hạ tầng khu dân cư của mình lại. Như vậy nguồn thu kia đã vô tình bị mất do không thực hiện được dự án. Việc làm ấu trĩ về hạch toán và phân chi quyền lợi, chi phí về đất sử dụng nguyên thuỷ, quyền lợi về đất xã được bao nhiêu phần trăm. Bởi vậy việc làm của chính quyền thành phố vừa làm mất tiền vừa làm mất lòng tin của nhân dân của chính quyền thành phố. 2.2.2 Thực trạng thực hiện thu ngân sách Năm 2001 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14 nhiệm kỳ 2001-2005. Là năm tạo tiền đề cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2001-2005. Trong năm qua UBND thành phố đã tích cực chỉ đạo công tác thu trên địa bàn và đạt được những kết quả khả quan, cụ thể: Đơn vị: 1000đ Số thứ tự Chỉ tiêu thu Dự toán tỉnh giao Thành phố thực hiện % thực hiện/ dự toán 1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 1.7300.000 1.7546.000 101 2 Thuế nông nghiệp 1.050.000 501.000 47 3 Thuế trước bạ nhà đất 750.000 2.741.900 365 4 Thuế nhà đất 1.800.000 2.001.700 111 5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 2.000.000 3.742.800 187 6 Tiền sử dụng đất 8.000.000 8.524.400 106 7 Tiền thuê đất 100.000 102.100 102 8 Phí, lệ phí 900.000 1.105.800 123 9 Thu khác ngân sách 600.000 314.300 52 10 Thu đóng góp 5.241.500 11 Thu sự nghiệp 245.700 12 Các khoản phụ thu 300.000 13 Trợ cấp ngân sách 9.547.500 14 Tổng 32.500.000 51.644.700 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2001) Tổng thu ngân sách năm 2001 đạt 51.644.700 (1000đ) bằng 113 % so với cùng kỳ. Các khoản thu thành phố thực hiện đều đạt và vượt chỉ tiêu là thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, trong đó thuế trước bạ nhà đất là cao nhất 365%. Chỉ có thuế nông nghiệp không đạt dự toán tỉnh giao(47%). Nguyên nhân là do thành phố có chính sách giảm, miễn thuế nông nghiệp cho các hộ nông dân có hoàn cảnh khó khăn và hiện tại tỷ trọng lao động trong nông n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34186.doc
Tài liệu liên quan