Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp ở Việt Nam

Tài liệu Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp ở Việt Nam: ... Ebook Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp ở Việt Nam

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ Kho¸ luËn tèt nghiÖp §Ò tµi: Mét sè gi¶i ph¸p thu hót ®Çu t­ trùc tiÕp n­íc ngoµi vµo khu c«ng nghiÖp ë viÖt nam Hä vµ tªn sinh viªn : NguyÔn quang khoan Gi¶ng viªn h­íng dÉn : Pgs.ts nguyÔn nh­ b×nh  Hµ néi - 2007 MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng biểu, sơ đồ Mở đầu Chương 1.Lý luận chung về FDI và Khu Công nghiệp ở Việt Nam. 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về KCN 1 Khái quát về KCN và định nghĩa KCN. 1 Phân biệt KCN với KCX. 4 Mô hình và phân loại KCN 6 Sự cần thiết khách quan phát triển KCN ở Việt Nam 9 Sự cần thiết tất yếu phát triển KCN ở Việt Nam 9 Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam 12 Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI của một quốc gia 19 Tổng quan về đầu tư nước ngoài 19 Khái niệm về FDI 21 Tác động của FDI 23 Đối với nước chủ đầu tư 23 Đối với nước nhận đầu tư 23 Các hình thức thu hút FDI vào một quốc gia 25 Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( Contractual Business Co – Operation) 25 Doanh nghiệp liên doanh ( Joint – Venture enterprise): 25 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign capital enterprise): 26 Các hình thức BOT, BTO, BT 26 Thu hút FDI vào KCN 27 Sự cần thiết phải tăng cường thu hút FDI vào các KCN 27 Nội dung của quá trình thu hút FDI vào KCN 28 Chương 2 Thực trạng thu hút FDI vào Khu Công nghiệp ở Việt Nam hiện nay 29 Đặc điểm tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 29 Thuận lợi: 29 Đối với trong nước: 29 Đối với ngoài nước: 31 Khó khăn – Thách thức 31 Ở trong nước: 31 Ở ngoài nước: 32 Thực trạng thu hút FDI vào các KCN Việt Nam thời gian qua 33 Quy mô và tốc độ thu hút FDI vào các KCN 33 Quy mô bình quân một dự án FDI 35 Tỷ lệ lấp đầy diện tích KCN 36 Công tác quản lý nước ngoài về ĐTNN 37 Công tác xây dựng pháp luật, chính sách: 37 Về công tác điều hành cụ thể: 40 Về công tác xúc tiến đầu tư và hợp tác quốc tế: 41 Đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN Việt Nam 42 Ưu điểm trong thu hút FDI vào các KCN 42 Về hoạt động đầu tư nước ngoài: 42 Về quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các dự án FDI trong các KCN. 43 Tồn tại trong thu hút FDI vào các KCN 43 Nguyên nhân và các tồn tại 45 Nguyên nhân khách quan 45 Nguyên nhân chủ quan: 45 Chương 3 Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào KCN Việt Nam trong thời gian tới. 48 Một số vấn đề trong xây dựng , phát triển và phương hướng hoàn thiện các KCN ở Việt Nam 48 Mục tiêu , triển vọng phát triển và thu hút FDI vào các KCN đến 2010 53 Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào các KCN Việt Nam trong thời gian tới. 55 Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư vào KCN 55 Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các KCN 55 Áp dụng các biện pháp tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư 57 Nâng cao chất lượng quy hoạch và danh mục dự án gọi vốn FDI 57 Đa dạng hoá và đổi mới các phương thức tổ chức xúc tiến 58 Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư 61 Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền về đầu 62 Cải cách hành chính, nhanh chóng áp dụng cơ chế một cửa một dấu tại chỗ, tạo môi trường đầu tư thuận lợi. 62 Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với KCN 63 Tham gia tích cực và chủ động hơn vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực. 64 Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các KCN 65 Cải thiện cơ sở hạ tầng tại KCN 65 Sử dụng đất và tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN 65 Kết luận 67 Danh mục tài liệu tham khảo 68 Phụ lục DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á AIA: Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN investment area) AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of the south east Asian nations) ASEM: Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu BTA: Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ĐTNN: Đầu tư nước ngoài Eu: Liên minh Châu Âu FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FPI : Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment) GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATS: Hiệp định về thương mại dịch vụ IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) JETRO: Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản KCN: Khu công nghiệp KCNC: Khu công nghệ cao KCX: Khu chế xuất MNCs: Các công ty đa quốc gia (Multinational Corporrations) NICs: Các nước công nghiệp mới (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông), (Newly Industrial Countries) NGO: Tổ chức phi chính phủ NGO ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance) OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ TRIPS Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến tm và quyền sở hữu trí tuệ TNCs: Các công ty xuyên quốc gia R&D: Nghiên cứu và triển khai UNCTAD: Uỷ ban thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc UNIDO WB: Ngân hàng thế giới WEPZA: Hiệp hội các KCX thế giới WTO: Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SỞ ĐỒ HÌNH VẼ Bảng 1.1. Khác biệt giữa KCN và KCX Bảng 2.1. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đến tháng 12 năm 2006 Bảng số 2.2. Quy mô bình quân một dự án FDI trong KCN Bảng 2.3. Cơ cấu KCN theo tỷ lệ lấp đầy Bảng 3.1. Quy hoạch phát triển KCN đến năm 2010 của các vùng trên cả nước MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Việc phát triển các KCN trở thành một trong những phương thức huy động vốn và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, vốn khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của quốc gia trong hơn 15 năm qua, đồng thời từng bước góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu chiến lược của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, , thì hoạt động thu hút vốn FDI vào phát triển các KCN ở Việt Nam đã bộc lộ không ít những tồn tại, bất cập. Đó là: Việc thu hút FDI vào các KCN trong vài năm gần đây có xu hướng chậm lại chưa đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá. Vấn đề đặt ra là cần phải đánh giá đúng những thành công, những tồn tại, bất cập trong việc thu hút FDI vào các KCN ở nước ta thời gian qua và tìm ra những nguyên nhân của các tồn tại, bất cập ấy thì mới có giải pháp đúng để giải quyết những bất cập cơ bản trong tình hình hiện nay của Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của thu hút FDI vào các KCN. Từ vấn đề cấp thiết đó, Khoá luận này sẽ đi vào nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN ở Việt Nam” Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI vào KCN của Việt Nam Đánh giá thực thực trạng thu hút FDI của Việt Nam và KCN thời gian qua và đưa ra các vấn đề tồn tại cần phải tiếp tục hoàn thiện Đề suất hệ thống giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam và KCN thời gian qua. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thu hút FDI trong KCN ở Việt Nam. (KCN không kể khu chế xuất, khu công nghệ cao, đặc khu kinh tế, khu kinh tế mở và kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam) Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung chủ yếu nghiên cứu theo cách tiếp cận quản lý vĩ mô + Thời gian từ 1990 Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Biện chứng, lịch sử, tổng hợp và phân tích thống kê, xây dựng mô hình, kế thừa có cân nhắc, phân tích khách quan những kết quả nghiên cứu khác của các tác giả trong nước và nước ngoài. Kết cấu của đề tài Tên đề tài: “Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN ở Việt Nam” Đề tài dài X trang, ngoài phần mở đầu, kết luận, 5 bảng biểu, X phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài được bố cụng thành 3 chương sau: Chương 1. Lý luận chung về FDI và Khu Công nghiệp ở Việt Nam. Chương 2 Thực trạng thu hút FDI vào Khu Công nghiệp ở Việt Nam hiện nay Chương 3 Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào KCN Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI VÀ KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM. Một số vấn đề lý luận cơ bản về KCN Khái quát về KCN và định nghĩa KCN. Từ cuối thế kỷ XIX các KCN bắt đầu được hình thành và phát triển. Năm 1896, KCN đầu tiên trên thế giới được hình thành ở Trafford Park thành phố Manchester, nước Anh. Tiếp theo Anh, các nước khác lần lượt thành lập các KCN như Hoa Kỳ 1899, Italy 1904, Puerto Rico 1947 và sau những năm 50 thì sự tăng trưởng các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Nếu như năm 1940 ở Mỹ mới có 33 KCN thì đến năm 1959 con số này đã là 452 và đến năm 1970 số KCN đã lên đến 2.400. Với Châu Á, KCN đầu tiên được thành lập ở Singapore vào năm 1951, ở Malaysia 1954 và ở Ấn Độ 1955. Hiện nay ở khu vực Châu Á có trên 1000 KCN đang hoạt động. Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển các KCN trên thế giới đã trên 100 năm. Ở Việt Nam, KCN đầu tiên được thành lập vào năm 1991 tại thành phố Hồ Chí Minh, đó là KCX Tân Thuận. Về mặt lý thuyết KCN thành lập nhằm mục đích thiết lập những điều kiện, yếu tố thuận lợi về mặt pháp lý và hạ tầng kỹ thuật trên một địa bàn hạn chế phù hợp với khả năng về tài chính, quản lý, là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và có ý nghĩa về phương diện vận dụng lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Phát triển KCN được xác định trên nền tảng lý thuyết kinh tế của trường phái tư do mậu dịch trong thương mại quốc tế. Lý thuyết này đưa ra hai căn cứ chứng minh cho hiệu quả tích cực của việc mở rộng trao đổi thương mại quốc tế và hợp tác kinh tế giữa các nước nói chung và giữa hai nhóm nước chậm phát triển và phát triển nói riêng. Thứ nhất, nhờ có sự hợp tác và trao đổi như vậy, các nước chậm phát triển có khả năng khai thác những lợi thế so sánh và nguồn lực của mình vào quá trình phát triển kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên và lao động chính là những nguồn lực mà các nước này có và muốn khai thác. Thứ hai, Theo học thuyết về lợi thế so sánh của D. Ricardo, một nước có năng suất lao động không cao vẫn có thể có lợi khi phân công vào lao động quốc tế. Những lợi thế mà các nước có thể phát huy được khi sử dụng hình thức KCN có thể là vị trí địa lý kinh tế và kinh doanh thuận lợi cho sản xuất và buôn bán quốc tế, ưu thế về tay nghề và giá trị lao động đối với việc sản xuất và khả năng chuyên môn hoá để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thế giới về một số mặt hàng nhất định… Trong bối cảnh các hoạt động kinh tế trên thế giới đang được “toàn cầu hoá” việc tính toán đến và lợi dụng các lợi thế của mỗi quốc gia ngày càng trở nên cấp thiết, bởi vì nếu chậm trễ thì chúng sẽ không còn là lợi thế nữa. KCN tạo ra những điều kiện có thể lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc gia hay quốc tế. Rõ ràng xét về mặt lợi ích và hiệu quả kinh tế theo nguyên lý về lợi thế so sánh, KCN là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các Công ty xuyên quốc gia, Tổ chức nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hiện nay trên thế giới. KCN là mô hình kinh tế linh hoạt, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài (đối tượng chủ yếu đầu tư vào KCN), vì họ hi vọng vào thị trường nước đầu tư, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hoá của mình, tạo lên yếu tố kích thích cạnh tranh sản xuất trong nước từ đó không những nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập khẩu lậu từ bên ngoài. Với cách tiếp cận trên và quá trình hình thành KCN cho phép tổng hợp một số định nhĩa về KCN như sau: Thứ nhất, KCN được hiểu là một vùng lãnh thổ đặc biệt cho những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng sẵn có cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây sẽ là địa bàn lý tưởng cho các nhà đầu tư cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thứ hai, KCN là một vùng đất được phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp với hạ tầng cơ sở, tiện ích công cộng và các dịch vụ hỗ trợ phát triển. các nước như Thái Lan, Philipin quan niệm KCN như một thành phố công nghiệp vì ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và sử lý chất thải, KCN còn bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, nhà ở cho công nhân… Thư ba, Theo quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997, KCN là “Khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”. Thực tế khái niệm này mới chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp. Điều này dẫn đến một thực tế là nhiều KCN được xây dựng thiếu tính đồng bộ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc và hiệu quả kinh tế xã hội của các khu công nghiệp thấp. Vì vậy, khái niệm trong Nghị định 36/CP cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế nước ta và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, có thể rút ra một số kết luận như sau về KCN: KCN là lãnh thổ hữu hạn được phân cách bằng đường bao hữu hình hoặc vô hình. Được phân bố tập trung với hạt nhân là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến, tư liệu sản xuất) và hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp sử dụng chung hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo một cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của ban quản lý KCN. Phân biệt KCN với KCX. KCN được thành lập trên cơ sở nước chủ nhà tạo những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý và hạ tầng kỹ thuật trên một địa bàn hạn chế phù hợp với khả năng về tài chính, quản lý để thu hút đầu tư của các nước phát triển, đặc biệt là các Công ty xuyên quốc gia. KCX với tính chất là khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước. Các tổ chức, quốc gia trên thế giới có thể có cách hiểu không hoàn toàn giống nhau về KCX như: Định nghĩa của hiệp hội các KCX thế giới (WEPZA): Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, KCX bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ các nước cho phép, như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương nào hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất KCX với khu vực miễn thuế. Định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO): KCX là khu vực được giới hạn về hành chính, có danh giới địa lý xác định, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép được tự do nhập trang thiết bị và sản xuất nhằm mục đích sản xuất sản phẩm. Chế độ thuế quan được ban hành cùng với những quy định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Định nghĩa của Việt Nam: Theo quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36 CP ngày 24 tháng 4 năm 1997, KCX là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Xét về bản chất KCX cũng là một loại hình KCN, tuy nhiên giữa hai khái niệm này cũng có một số khác biệt: Bảng 1.1. Khác biệt giữa KCN và KCX Khác biệt KCX KCN Mục tiêu thành lập Nhằm thu hút đầu tư của nước ngoài Nhằm thu hút cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước Chế độ ngoại thương Ưu đãi, miễn giảm thuế Theo khuôn khổ chế độ mậu dịch và thuế quan chung của mỗi quốc gia Cấu trúc tổ chức Chỉ gồm doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ sản xuất hàng xuất khẩu Trong KCN có doanh nghiệp chế xuất và KCN Tính chất hoạt động Khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu Khu vực vừa sản xuất hàng xuất khẩu và sản xuất hàng bán vào nội địa Có thể thấy rằng, KCN là một trong những công cụ đểtạo ra thể chê thương mại tự do cho các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Theo các chuyên gia kinh tế, trong thời gian qua ở các nước Châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Malaixia, Trung Quốc… KCX, đặc khu kinh tế được thành lập nhiều và thu được nhiều thành công, do các nước này có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, lại nằm trên các tuyến đường hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động bậc nhất thế giới. Tuy nhiên, KCX ở một số nước đang phát triển khác lại gặp nhiều khó khăn, do các nguyên nhân sau: Mật độ KCX được thành lập ở các nước có điều kiện kinh tế xã hội, địa lý giống nhau, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt thu hút FDI. Hy vọng của các nước thành lập KCX là để tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kỹ thuật nước ngoài, tạo tác dụng lan toả các khu vực khác trong nước, nhưng thực tế thành quả đạt được rất hạn chế. Mâu thuẫn giữa tăng xuất khẩu, thu ngoại tệ và bảo hộ sản xuất trong nước. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế của mô hình KCX cổ điển, nhiều nước đã chuyển sang phát triển mô hình KCN. Mô hình và phân loại KCN Thực tiễn kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hoá cùng với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia với sức ép của thời đại, thế giới ngày nay đã định hình ra các mô hình KCN khác nhau, các mô hình KCN này có những đặc điểm chung và các đặc điểm riêng, song danh giới giữa chúng rất mỏng manh, dễ sử dụng lẫn nhau. Tuy nhiên, xét về quy mô và tính chất hoạt động, KCN có thể phân ra thành các nhóm sau: Phân theo quy mô: có hai loại KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trở lên KCN vừa và nhở: có quy mô nhỏ hơn 50 ha Phân theo chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN có 3 loại: KCN có doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài làm chủ đầu tư. Vd: KCN Hà Nội – Đài tư ( Hà Nội). KCN do liên doanh giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Đặc trưng của các KCN này là được xây dựng hiện đại có quy mô thường lớn hơn 100 ha, xuất đầu tư bình quân 1 triệu USD/ha. Thường ở các KCN này khi xây dựng hoàn chỉnh mới cho các nhà đầu tư thuê xây dựng hạ tầng. Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Nomura (Hải Phòng), KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng)… KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư, Đặc trưng của các KCN này thường được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu ( xây dựng đến đâu cho các nhà đầu tư thuê sau đó mới tiếp tục xây dựng tiếp), xuất đầu tư của các KCN này bình quân 120.000 USD/ha. Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh), KCN Lệ Môn (Thanh Hoá), KCN Bắc Vinh (Nghệ An)… Phân theo mục đích phát triển KCN, có các hình thức sau: KCN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài thường tập trung ở các Thành phố lớn, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Quy mô thường lớn hơn 100 ha. KCN nhằm di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn. Thường tập trung ở các Thành phố lớn, có quy mô nhỏ hơn 100 ha. Vd: KCN Phú Thịnh (Hà Nội), KCN Thanh Trì (Hà Nội)… KCN gắn với ưu thế địa phương, thường có quy mô nhỏ hơn 100 ha, gắn với lợi thế địa phương và chế biến các nông sản, thực phẩm do địa phương đó sản xuất ra. Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Tiền Hải (Thái Bình), KCN Tâm Thắng (Đắc Lắc)… Phân theo đặc điểm ngành công nghiệp: KCN tập trung các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo như: KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa – Vũng Tàu) tập trung các dự án về thép, phân bón, điện, khí… KCN tập trung các nghành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng sản xuất các sản phẩm: may mặc, đầu tư, dự án – giày, xe máy… Như KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), KCN Đông An (Bình Dương). KCN tập trung các ngành công nghiệp dịch vụ, chuyên sản xuất các sản phẩm phục vụ cho các ngành công nghiệp như bao bì, đóng gói… KCN Bình Đường (Bình Dương) KCN gắn với nông nghiệp, nông thôn: gồm các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm công nghiệp, sản xuất các sản phẩm hỗ trợ cho nghành nông nghiệp và nông thôn. Như KCN Phúc Khánh (Thái Bình), Tân Thắng (Đắc Lắc)… Phân theo trình độ công nghệ hoá: KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp và trung bình tương đương với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp ngoài khu. Như KCN Bình Đường (Bình Dương), KCN Lê Minh Xuân (TP HCM)… KCN tập trung các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá cao so với các ngành công nghiệp trong nước nhưng chỉ đạt mức trung bình trong khu vực. KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Sài Đồng B (Hà Nội)… KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá cao so với khu vực như KCN Thăng Long (Hà Nội), KCN Vĩnh Lộc (TP HCM)… KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới. Như KCN Nomura (Hải Phòng)… Sự cần thiết khách quan phát triển KCN ở Việt Nam Sự cần thiết tất yếu phát triển KCN ở Việt Nam Nền kinh tế nước ta đang vận hành trong một hệ trục toạ độ mà chiến lược CNH, HĐH chính là trục tung và hội nhập nền kinh tế toàn cầu là trục hoành. Càng nhanh chóng CNH, HĐH đất nước thì càng sẵn sang hội nhập nền kinh tế thế giới, hội nhập nhanh, chủ động và có lợi thế hơn. Mặt khác càng hội nhập toàn cầu hoá sâu rộng thì càng có điều kiện thuận lợi để CNH, HĐH nhanh, vững chắc và hiệu quả. Phát triển KCN là một giải pháp tổng hợp, mang tính toàn diện để giải quyết đồng thời các yêu cầu về vốn, lao động, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý, là con đường tối ưu để tiến tới mục tiêu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghã xã hội. Do đó, bằng việc phát triển KCN, chúng ta có thể rút ngắn và đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH. Mặt khác, chúng ta đang thực hiện CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, nên sự vận động của tất cả các thành phần kinh tế trên các lĩnh vực của nền kinh tế không thể tách rời xu thế này. Đồng thời, để nền kinh tế phát triển vững chắc, bên cạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, chung ta cần đảm bảo tính độc lập trong phát triển kinh tế, có một đường lối phát triển riêng được xây dựng trên cơ sở điều kiện thực tế của đất nước. Phát triển KCN có thể thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu trên. Điều này được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất là KCN được hiểu là một vùng lãnh thổ đặc biệt có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng sẵn có cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây sẽ là nơi đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN, các công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế sẽ được du nhập vào Việt Nam. Đây cũng chính là các nhân tố góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực chất của toàn cầu hoá quá trình phân công lao động trên phạm vi quốc tế theo hướng chuyên môn hoá và tập trung hoá. Phát triển KCN chính là một cách để chúng ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Thứ hai là KCN là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi và nhiều ưu đãi, đồng thời cũng được quản lý chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật. Tại KCN, các nhà đầu tư vừa được tự do kinh doanh vừa phải tuân thủ chặt chẽ pháp luật Việt Nam. Qua hoạt động của các doanh nghiệp KCN trong và ngoài nước, KCN thiết lập các mối liên kết kinh tế theo vùng, theo ngành trên phạm vi trong nước và quốc tế, từ đó giúp chúng ta khai thác các nguồn lực sẵn có, phát huy được những lợi thế so sánh, đồng thời huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế. Như vậy, với mô hình KCN, chúng ta vừa phat huy được các yếu tố nội lực, vừa tận dụng được các yếu tố bên ngoài để phát triển. KCN đảm bảo cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mà vẫn giữ được thế chủ động và độc lập của nền kinh tế đất nước. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, chúng ta chưa thể có ngay được một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ trên cả nước, chưa thể tạo ra một mặt bằng thống nhất và bình đẳng cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hoạt động, phát triển KCN là một giải pháp để có được một hệ thống kết cầu hạ tầng đồng bộ, môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất để thu hút vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, quan điểm về phát triển KCN có sự thay đổi: phát triển KCN không chỉ chú trọng vào mục tiêu thu hút vốn FDI nhằm du nhập các yếu tố vốn, công nghệ, trình độ công nghệ của thế giới vào Việt Nam, xen kẽ khu vực trong nước, mà KCN còn là một giải pháp để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước, thông qua việc thu hút các doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư vào KCN. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là dòng vốn đầu tư trong nước vào KCN trong vài năm gần đây ngày càng gia tăng. KCN à mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Ở các nước phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, có một thời kỳ các nước này đã đẩy mạnh việc phát triển các KCN và rất chú trọng vai trò của KCN trong quá trình phát triển kinh tế. Kinh nghiệm triển khai mô hình KCN ở các nước này cho thấy, phát triển KCN là một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp quốc gia. Có thể nói thành công của các KCN đã góp phần không nhỏ để các nước này trở thành những nước có nền kinh tế phát triển như hiện nay. Các nước công nghiệp mới phát triển (NICs) như Trung Quốc, Hàn Quốc cũng như các nước đang phát triển ở Đông Nam Á hiện nay cũng đang triển khai việc xây dựng và phát triển các KCN, khu kinh tế và đều gặt hái được những thành công đáng kể. Tóm lại, thành công của KCN đã được khẳng định trên thế giới và bước đầu được khẳng định ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh tién trình CNH, HĐH đất nước. KCN là nới tập trung các nguồn lực để phát triển kinh tế, là nơi diễn ra sự phân công lao động xã hội ở trình độ cao, thực hiện các mối liên kết kinh tế quốc tế. Phát triển KCN là phù hợp với xu thế kinh tế thế giới, phù hợp với chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước của đảng và nhà nước ta. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam Qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, các KCN đang từng bước thể hiện rõ vai trò không thể thay thế của nó trong tiên trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. các KCN trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc hiện đại hoá vào hệ thống kết cấu hạ tầng, thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vai trò của KCN thể hiện ở các khía cạnh sau: KCN huy động một lực lượng vốn lớn từ nhiều nguồn để phát triển kinh tế. Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam cho thấy nhân ttó hàng đầu, nếu không nói là quan trọng nhất đối với CNH, HĐH cũng như đối với sản xuất kinh doanh của nền kinh tế là phải có vốn lớn. Muốn cho sự nghiệp CNH, HĐH được tiến hành với tốc đọ nhanh cần phải có cơ chế, chinh sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất. KCN đi liền với nó là một hệ thống các cơ chế chính sách thu hút đầu tư tương đối đồng bộ, trong những năm qua đã huy động được một lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế. Tác dụng huy động vốn của KCN được thể hiện ở hai mặt: Trước hết là huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước, đây là nguồn vốn có tính chất quyết định, là nhân tố nội lực. Những năm đầu xây dựng KCN, do chưa nhận thức được tầm quan trọng của KCN trong việc huy động nguồn vốn bên trong, chúng ta đã xem nhẹ việc thu hút các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN. Điều nay có thể thấy rõ ở số dự án và tổng vốn đầu tư của thành phần kinh tế trong nước vào KCN trong thời gian này còn rất hạn chế. Chỉ vài năm gần đây, vai trò của khu vực trong ước mới được chú trọng, dòng vốn đầu tư trong nước trong KCN tăng đáng kể, số dư án trong nước trong các KCN hai năm gần đây đã vượt so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đến tháng 4 năm 2006, các KCN cả nước thu hút được hơn 2.400 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 116.000 tỷ đồng. Kết quả này cho thấy rõ tiềm lực của khu vực kinh tế trong nước và là kết quả của chu trương phát huy nội lực để xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Thứ hai là huy động vốn của của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế tích luỹ nội bộ càn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. KCN là một giải pháp hữu hiệu nhăm huy động vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế từ khi xây dựng khu công nghiệp cho đến nay, số dự án và tổng vón đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp không ngừng ra tăng và chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng vốn FDI đầu tư trên cả nước. Tổng số dự án FDI trong KCN đến tháng 4 năm 2006 là hơn 2.200 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 17,7 tỷ USD. Có thể nói, KCN là nơi chính sách ưu đãi đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện rõ nét nhất, các nhà đầu tư nước ngoài nhìn chung cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào KCN, bởi lẽ trong KCN có một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và sẵn có, một môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất, là nơi cơ chế “một cửa, tại chỗ” được thực thi rõ rang nhất. đây chính là những lợi thế chủ yếu để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào KCN. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH Có được những đóng góp nêu trên phải kể tới vai trò to lớn của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN. Cùng với dòng vốn của khu vực có FDI vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư nước ngoài còn đưa vào Việt Nam những dây truyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Mặc dù nhiều công nghệ so với trình độ công nghệ trên thế giới còn ở mức trung bình, nhưng cũng phần nào nâng cao trình độ công nghệ hiện có của Việt Nam. Đó là chưa kể tới những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản) đầu tư vào KCN, như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel…, các dự án này đã du nhập vào Việt Nam những công nghệ hiện đại nhất trên thế giới, ở những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử… KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp. Về mặt lượng, đương nhiên KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng GDP của các ngành kinh tế tạo ra trong cả nước, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp do các doanh nghiệp KCN tạo ra luông tăng qua các năm, từ 13% năm 2000 lên 26,4% năm 2004 và năm 2005 đạt 28%. Nhưng quan trọng hơn, về mặt chất, KCN đã thu hút được các dự án có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao như dầu khí, sản xuất ô tô, xe máy, dụng cụ văn phòng, cơ khí chính xác, vật liệu xây d._.ựng… Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN còn ít (chiếm khoảng 5-10% số dự án), nhưng cũng góp phần phát triển những ngành nghề mới, đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề công nghiệp. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, dự án giày… và công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự án), đây là dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao. Các ngành công nghiêp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền thống, đã có từ lâu ở nước ta, nhưng các dự án trong KCN đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, phải kể tới đóng góp của KCN vào nâng cao tỷ trọng các ngành dịch vụ công nghiệp như dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông… Đây là những dịch vụ có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế và có giá trị gia tăng khá, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Tóm lại, KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, cả về mặt chất và lượng. Mặc dù có sự bất hợp lý trong cơ cấu ngành nghề công nghiêp, tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp kỹ thuật cao còn thấp và còn tồn tại những hậu quả do các công nghệ chưa được hiện đại du nhập vào công nghiêp nhưng đóng góp của KCN vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước là không thể phủ nhận. KCN đã tạo ra một lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao, thích ứng với nền công nghiệp hiện đại; một đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý giỏi. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định rằng con người luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Không thể phủ nhận rằng người lao động Việt Nam rất tháo vát, nhạy bén, thích ứng mau lẹ với mọi hoàn cảnh biến động của nền kinh tế thị trường và có khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới để sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Nhưng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH thì chất lượng của người lao động Việt Nam còn thấp do chưa có một nền tảng giáo dục tốt. Phát triển KCN để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là một trong những mục tiêu quan trọng của nước ta. Mặc dù việc thu hút nguồn nhân lực làm việc chưa phải là lớn, hiện hơn 850.000 người, nhưng điều quan trọng là số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, được trực tiếp làm việc trong một môi trường làm việc có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI đã đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp tiên tiến, có tác động lan toả và nâng cao nền tảng trình độ lao động của đội ngũ lao động Việt Nam. Ngoài ra, các doanh nghiệp KCN còn thu hút một lượng lớn người lao động Việt Nam vào các vị trí quản lý doanh nghiệp, đội ngũ lao động này được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng Marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Đội ngũ lao động này, khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam, hoặc tự mình khởi sự doanh nghiệp sẽ áp dụng phương thức quản lý tiên tiến đã tiếp thu được vào hoạt động của doanh nghiệp mình. Từ đó sẽ vừa nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp, vừa truyền đạt những kiến thức quản lý cho người lao động Việt Nam khác. Như vậy, xét trên các góc độ, vai trò của KCN không chỉ dừng lại ở việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao mà quan trọng hơn là tác động lan truyền của nó tới các doanh nghiệp Việt Nam khác. Các KCN đã thực sự góp phần vào việc nâng cao trình độ chung của lao động nước ta. KCN đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất công nghiệp, vào kim ngạch xuất nhập khẩu và ngân sách cả nước. Các doanh nghiệp KCN trong 15 năm xây dựng và phát triển đã đóng góp một tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp cả nước. Nếu như năm 2001, giá trị sản xuất công nghiệp do các KCN tạo ra đạt hơn 4,5 tỷ USD chiếm 15% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, thì đến năm 2005, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp KCN đã đạt được 14 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2001 và chiếm tới 28% tổng giá trị sản xuất cả nước. Như vậy, các KCN đã đóng góp đáng kể vào việc tăng trưởng công nghiệp và nâng cao tỷ trọng ngành công nghiêp trong GDP. Đây là biểu hiện rõ nét nhất về mặt lượng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Phần lớn các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất hàng công nghiệp chủ yếu để xuất khẩu, năm 2005 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt hơn 6 tỷ USD, gấp 2 lần so với năm 2001 và chiếm 19% trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước, riêng đối với giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu, chiếm 29%. Tuy nhiên, nhận thức vai trò của các doanh nghiệp FDI trong KCN đối với xuất khẩu sẽ là thiếu sót nếu không kể tới vai trò của các doanh nghiệp trong nước, mặc dù đóng góp của các doanh nghiệp này vào kim ngạch xuất khẩu còn bé, nhưng các doanh nghiệp đã góp phần tạo nguồn hàng để giải quyết nhu cầu thị trường trong nước, giảm bớt việc nhập khẩu hàng hoá để phục vụ sản xuất. Tóm lại, vai trò của các doanh nghiệp KCN kể cả trong và ngoài nước thể hiện ở chỗ, các doanh nghiệp góp phần cân đối cán cân thương mại theo hướng gia tăng xuất khẩu và giảm bớt nhập khẩu những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp KCN đã đóng góp nhất định vào nguồn thu ngân sách Nhà nước. Năm 2005, các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách hơn 650 triệu USD, gấp 3,6 lần so với năm 2001. KCN góp phần phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của đất nước Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và cấp thiết của nền kinh tế quốc dân. Để thu hút đầu tư vào KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc triển khai nhanh dự án, ngoài các chính sách ưu đãi về tài chính và quản lý thuận lợi của Nhà nước, cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. việc thu hút đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN có ý nghĩa về nhiều mặt: Thứ nhất là huy động một nguồn vốn lớn để đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KCN, đến tháng 4/2006, cả nước có 135 dự án xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, trong đó có 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, thu hút một lượng vốn hơn 1 tỷ USD và hơn 34.000 tỷ đồng. Hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào đồng bộ và hiện đại trong KCN, bao gồm cả hệ thống điện nước, bưu chính viễn thông, không chỉ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN hoạt động, mà còn có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế của địa phương nơi có KCN. Thứ hai là hệ thống kết cấu hạ tầng thuận lợi trong KCN sẽ có tác dụng thu hút đầu tư vào KCN, nhanh chóng lấp đầy diện tích đất trong KCN. Thực hiện được mục tiêu của việc xây dựng KCN là thu hút đầu tư lấp đầy KCN. KCN góp phần nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan Nhà nước quản lý về KCN KCN là một mô hình mới được xây dựng và phát triển ở Việt Nam, nên thực tế việc triển khai mô hình này trong thời gian qua đã xuất hiện rất nhiều vấn đề bất cập trong quản lý nhà nước về KCN, các vấn đề về thuế… Thực tiễn phát triển KCN đã cho chúng ta rất nhiều bài học trong quản lý Nhà nước về KCN nói riêng và quản lý Nhà nước nói chung. Đến nay, bộ máy quản lý KCN đã được hình thành một cách thống nhất từ trung ương tới địa phương bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan quản lý KCN cấp trung ương và các ban quản lý cấp tỉnh. Việc quản lý đang diễn ra theo xu hướng phân cấp mạnh mẽ cho ban quản lý các KCN cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư trong KCN. KCN cũng là nơi có điều kiện để thực hiện tốt cơ chế “một cửa, tại chỗ”, tạo thuận lợi tối đa cho nhà đầu tư khi làm thủ tục đầu tư vào KCN. KCN cũng là nơi cho các cơ quan Nhà nước “thử nghiệm” các chính sách và ngày càng hoàn thiện các chính sách đó cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra, quá trình triển khai KCN những năm qua cũng là quá trình phát triển của hoạt động xúc tiến đầu tư vào KCN với nhiều hình thức đa dạng, có hiệu quả và tính chuyên nghiệp ngày càng cao; bước đầu hình thành một hệ thống các cơ quan xúc tiến đầu tư trên cả nước. Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI của một quốc gia Tổng quan về đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là quá trình vận động của nguồn lực vốn (tư bản) từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm mục đích thu được lợi ích lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra. Như vậy, tiêu chí để xác định hoạt động đầu tư quốc tế bao gồm: Vốn (dưới các hình thức khác nhau) được đưa ra khỏi biên giới của một quốc gia và đưa vào sử dụng ở một quốc gia khác. Tiêu chí này giúp phân biệt hoạt động đầu tư với hoạt động thương mại hàng hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế. Khi đưa vốn từ nước nay qua nước khác, quyền sở hữu vốn thường vẫn thuộc về các chủ thể của nước xuất vốn. Hình vi đầu tư có thể mang tính dài hạn (trên hai năm) bao gồm cả một quá trình đưa vốn tổ chức xây dựng công trình, tổ chức sản xuất kinh danh, v.v… Đây cũng là tiêu chí cơ bản giúp phân biệt đầu tư với thương mại hàng hoá và các hoạt động tín dụng quốc tế. Mục đích của đầu tư là bảo đảm thu lợi ích lớn hơn chi phí đầu tư. Hoạt động đầu tư phải phù hợp với pháp luật quốc gia của nước xuất vốn, nước nhận vốn và pháp luật quốc tế. Đầu tư quốc tế tạo nên dòng lưu chuyển vốn giữa các quốc gia, do vậy nó tác động mạnh đến nền kinh tế của cả nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Đối với những nước đang cs nhu cầu phát triển kinh tế mà không có khả năng tạo ra các nguồn vốn tích luỹ đầu tư từ nội bộ đều rất cần đến nguồn vốn đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, rất nhiều quốc gia lớn, có thể có nền kinh tế phát triển, trong đó có các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Quốc cũng cần đến đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trong những thời kỳ nhất định. Cũng có quốc gia như Nhật Bản hoàn toàn không cần đến vốn vay nước ngoài hoặc đầu tư tư nhân nước ngoài trong quá trình công nghiệp hoá. Đầu tư quốc tế rõ rang là có vai trò quan trọng đối với các quốc gia để phát triển kinh tế, nhưng không phải luôn luôn là yếu tố quyết định. Các hình thức đầu tư quốc tế: gồm có bốn hình thức cơ bản: Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance – ODA) – còn được gọi là viện trợ nước ngoài, bao gồm vốn cho vay ưu đãi và cho không từ các chính phủ và các tổ chức quốc tế dành cho Chính phủ các nước cần nhận vốn, thông thường là các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) là kênh đầu tư tư nhân bao gồm các hình thức đầu tư của các công ty (chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia) trong đó nhà đầu tư tham gia trực tiếp quản lý vốn. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment – FPI) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nứoc ngoài góp vốn bằng cách mua trái phiếu, cổ phiếu của doanh nghiệp nước sở tại, mà không trực tiếp tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Đầu tư theo hình thức vay thương mại bao gồm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất là các khoản tiền của các ngân hàng thương mại cho Chính phủ hoặc các công ty ở các nước đang phát trển vay dài hạn theo lãi suất thương mại để thực hiện các mục đích đầu tư. Ngoài ra thuộc kênh này còn có các khoản cho vay của các thiết chế tài chính và công ty kinh doanh dưới các hình thức thuê mua tài chính, tín dụng thương mại. Trong bốn kênh đầu tư quốc tế nêu trên thì ba kênh đầu là quan trọng hơn trong quan hệ kinh tế quốc tế. Kênh vay thương mại thực chất là hoạt động bảo đảm đầu tư tạo nên quan hệ tài chính quốc tế. Ngoài ra còn có các hình thức khác như: hoạt động chuyển tiền theo kênh kiều hối, tiền công lao động xuất khẩu, quà biếu, các khoản tiền tài trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Đối với một số nước, các hoạt động này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài và có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các kênh này chiếm tỷ trọng nhỏ, thường được xếp vào các hạot động tài chính, thương mại dịch vụ hoặc viện trợ ODA. Khái niệm về FDI Theo IMF, FDI “là hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của nhà đầu tư tại một doanh nghiệp ở nước khác với nước của nhà đầu tư, trong đó nhà đầu tư cần phải có vai trò có ý nghĩa quyết định trong quản lý doanh nghiệp”. Một số tổ chức quốc tế, chẳng hạn OECD, định nghĩa FDI theo nghĩa rộng hơn: bao gồm các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân, kể cả việc cho vay dài hạn hoặc sử dụng nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm mục đích tạo dựng các quan hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản lý. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nay là Luật đầu tư chung “đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hay bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư”. Từ các định nghĩa nêu trên ta thấy FDI có những đặc điểm cơ bản sau: Nhà đầu tư (các thể nhân, pháp nhân có vốn đầu tư) không phải là chủ thể của nước nhận vốn đầu tư. Chủ đầu tư nước ngoài (bên nước ngoài) phải góp một lượng vốn lớn hơn mức tối thiểu do luật pháp nước chủ nhà quy định. Ví dụ: Việt Nam trước đây quy định mức tối thiểu này là 30% vốn pháp định của dự án đầu tư, một số nước quy định 20 – 25%, nhiều nước phats triển như Mỹ quy định 10%, thậm chí có nước chỉ quy định có 5% như Nam Tư cũ. Tính chất trực tiếp tham gia quản lý dự án đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài có quyền tham gia quản lý trực tiếp dự án đầu tư với mức độ tuỳ theo tỷ lệ góp vốn. Đặc điểm này gây tranh luận nhiều nhất vì rất khó xác định thế nào là quản lý trực tiếp. Hành vi thực hiện FDI có thể rất khác nhau như: đầu tư thành lập doanh nghiệp mới, mở rộng các doanh nghiệp FDI sẵn có, mua cổ phiếu của doanh nghiệp nội địa vượt quá giới hạn phân định FDI với đầu tư mua cổ phiếu thông thường (FPI), cho vay dài hạn kèm theo điều kiện kiểm soát, v.v… Kết quả sản xuất kinh doanh của dự án đầu tư hoàn toàn tuỳ thuộc vào thị trường, khả năng kinh doanh của nhà đầu tư và được phân chia cho các chủ đầu tư theo tỷ lệ góp vốn. Như vậy, FDI là một kênh đầu tư nước ngoài thuộc nhóm đầu tư tư nhân. FDI có thể được thực hiện thông qua việc bỏ vốn tài chính hoặc phi tài chính để thành lập một doanh nghiệp mới hoặc mua lại những doanh nghiệp đang hoạt động. Hình thức trách nhiệm pháp lý của các doanh nghiệp FDI tuỳ theo từng nước quy định, nhưng thông thường là hai hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần. Tác động của FDI Đối với nước chủ đầu tư Tác động tích cực: Giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các Công ty xuyên quốc gia, khắc phục xu hướng lợi nhuận bình quân giảm dần, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm khi ở thị trường trong nước đã chuyển sang giai đoạn suy thoái, do đó giúp cho các nước đầu tư tăng doanh số sản xuất ở nước ngoài, phát huy các lợi thế so sánh của mình. Phá vỡ hàng rào thuế quan của các nước có xu hướng bảo hộ, khi thuế bảo hộ cao có thể đầu tư tổ chức sản xuất và bản sản phẩm cao hơn giá trên thị trường thế giới. Bành trướng ảnh hưởng kinh tế và chính trị. Tác động tiêu cực: Vốn đầu tư chảy ra nước ngoài có khả năng làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm của quốc gia. Khi các Công ty lớn đầu tư ra nước ngoài sản xuất những mặt hàng cùng loại sẽ tạo lên khả năng cạnh tranh mới giữa các doanh nghiệp ngoài nước với chính doanh nghiệp trong nước, thậm chí cạnh tranh với chính doanh nghiệp đầu tư. Đối với nước nhận đầu tư Tác động tích cực: Giúp các nước tiếp nhận vốn đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt tăng trưởng kinh tế ( FDI là kênh vốn nước ngoài nhưng do chủ đầu tư tự quản lý và thu hồi vốn, do đó nước chủ nhà không phải đi vay và hoàn trả vốn, hiệu quả đầu tư thường đạt cao hơn các loại đầu tư gián tiếp. Giải quyết việc làm; Năng động hoá nền kinh tế, tạo sức sống mới cho các doanh nghiệp thông qua việc trao đổi công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý, văn hoá kinh doanh, v.v…; Tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán; Đối với các nước đang phát triển, FDI còn có tác dụng giúp học tập quản lý, đổi mới công nghệ thích nghi với thị trường thế giới. Tác động tiêu cực: Nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; Đây chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan bảo hộ, làm mất tác dụng của công cụ thuế quan; Tạo cạnh tranh giữa doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước; Đầu tư FDI, nhất là các công ty xuyên quốc gia, có thể sẽ gây nên những vấn đề phức tạp mới về chuyển giao các công nghệ quá hiện đại mà không phù hợp; Lợi nhuận thu được có xu hướng chuyển ra nước ngoài, làm giảm tiềm lực phát triển kinh tế lâu dài; Các nước phát triển có xu hướng chuyển giao các công nghệ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư; Góp phần phát triển nhiều vấn đề xã hội mới như phân hoá đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xám”, tham nhũng, hối lộ, v.v… Các hình thức thu hút FDI vào một quốc gia Trên thế giới hiện nay phổ biến các hình thức chủ yếu sau: Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( Contractual Business Co – Operation) Là hình thức đầu tư, theo đó bên nước ngoài và bên chủ nhà cam kết thức hiện các nghiệp vụ và được hưởng các quyền lợi tương xứng ghi trong một hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hình thức hợp tác kinh doanh có đặc điểm cơ bản là không thành lập pháp nhân mới, các hạot động đầu tư được quản lý trực tiếp bởi một ban điều hành hợp doanh trong khuôn khổ tổ chức của doanh nghiệp trong nước. Đây là một hình thức đơn giản, dễ thực hiện, do đó thường thích hợp với giai đoạn đầu mở cửa cho đầu tư FDI. Bên nước ngoài thường đóng góp thiết bị, công nghệ, vật tư, tham gia kiểm soát chất lượng, còn bên trong nước thường tổ chức sản xuất theo chỉ dẫn của người nước ngoài. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có nhược điểm là rất dễ gây tranh chấp do trách nhiệm thường không rõ ràng và không có pháp nhân quản lý hoạt động đầu tư. Khi môi trường đầu tư đã ổn định, hình thức này ít được sử dụng. Doanh nghiệp liên doanh ( Joint – Venture enterprise): Là hình thức thành lập một doanh nghiệp giữa một hoặc một số bên nước ngoài với một hoặc một số bên của nước chủ nhà. Các đặc điểm cơ bản của hình thức liên doanh là: Phải có sự góp vốn cả hai bên trong nước và ngoài nước, trong đó tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài phải lớn hơn mức pháp định của nước chủ nhà. Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân mới độc lập về tài sản và tư cách pháp nhân. Hình thức góp vốn có thể là vốn tài chính, vốn vật chất hoặc vốn vô hình như khả năng, kinh nghiệm kinh doanh, sở hữu trí tuệ, lợi thế thương mại, v.v… Cơ chế quản trị và phân phối kết quả kinh doanh thường theo nguyên tắc đối vốn; hình thức pháp lý có thể khác nhau tuỳ theo luật pháp của các nước nhưng thông thường là hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign capital enterprise): Theo hình thức này, nhà đầu tư nước ngoài thành lập một pháp nhân mới theo pháp luật nước chủ nhà. Doanh nghiệp này thuộc quyền sở hữu 100% của nhà đầu tư nước ngoài. Đây là hình thức được nhiều nhà đầu tư FDI ưa thích, nhất là các công ty xuyên quốc gia. Do đó hình thức này rất phát triển ở những nước có môi trường đầu tư rõ ràng, ổn định và thích hợp với nhiều ngành nghề khác nhau. Các hình thức BOT, BTO, BT Đây là một hình thức đầu tư tương đối mới và được áp dụng cho cả kênh đầu tư trong nước. Đặc điểm của hình thức này là: Phải có chính quyền nước chủ nhà đứng ra ký hợp đồng đầu tư với nhà đầu tư nước ngoài; Sau khi ký hợp đồng BOT (hoặc BTO, BT) phải thành lập một pháp nhân mới điều hành quản lý dự án BOT; Hoạt động của dự án BOT phải theo một chu trình mẫu gồm ba giai đoạn: Xây dựng (nhà đầu tư bỏ vốn), khai thác kinh doanh (doanh nghiệp BOT kinh doanh theo điều kiện ký kết với nước chủ nhà thu lợi ích cho chủ đầu tư), Chuyển giao (sau một thời gian nhất định đủ để hoàn vốn, toàn bộ công trình được chuyển giao không bồi hoàn cho nước chủ nhà). Hình thức BOT (BTO và BT) có xu hướng phát triển trong những năm gần đây. Những lĩnh vực thích hợp cho hình thức này là các công trình kết cấu hạ tầng có khả năng khai thác như đường, cảng, sân bay, cầu,… Thu hút FDI vào KCN Sự cần thiết phải tăng cường thu hút FDI vào các KCN Thu hút FDI là điều kiện cần để phát triển KCN có hiệu quả. Các KCN chỉ có thể thực hiện tốt mục tiêu của nó nếu nó thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định. Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, khả năng nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì thu hút được nhiều vốn FDI là rất quan trọng trong việc phát triển có hiệu quả các KCN. Thu hút FDI vào KCN là để tăng cường ảnh hưởng lan toả của các KCN đến các doanh nghiệp trong nước: Tác động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và phát triển xuất khẩu. Trong những năm qua, việc thu hút FDI vào các KCN tuy có nhiều thành công nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển trong quá trình CNH, HĐH. Cụ thể là vốn FDI thu hút vào các KCN có vẻ như ngày càng chậm lại, quy mô bình quân của các dự án FDI vào KCN có xu hướng nhỏ đi, tác động lan toả của KCN còn ở mức thấp cần được đẩy mạnh nhiều hơn nữa, tỷ lệ lấp đầy của nhiều KCN còn chưa cao (44%), một số tỉnh thành phố còn ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư có những điểm trái với quy định của pháp luật… những bất cập nói trên đã đặt ra yêu cầu tăng cường thu hút FDI vào các KCN. Ngày càng nhiều các KCN được thành lập và có nhu cầu phát triển nên cần một khối lượng lớn vốn đầu tư trong khi nguồn vốn lớn đầu tư trong khi nguồn vốn FDI vào Việt Nam còn có hạn. Tính đến hết tháng cuối tháng 12/2006, cả nước có tới 139 KCN được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập, trong đó 76 khu đã đi vào hoạt và 54 khu đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản. Sắp tới khi các KCN được cấp giấy phép đã xây dựng xong và các KCN mới được thành lập thì nhu cầu thu hút vốn FDI vào phát triển KCN lại có xu hướng tăng lên. Nghiên cứu các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào các KCN ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết và thực tiễn. Nội dung của quá trình thu hút FDI vào KCN Thu hút FDI là quá trình các quốc gia tiếp nhận đầu tư ( Quốc gia sở tại) tiến hành các công việc cần thiết để các nhà đầu tư hình thành ý đồ đầu tư, ra quyết định đầu tư và được cấp giấy phép đầu tư. Có thể gọi quá trình này là Marketing trong đầu tư. Từ đó, có thể hiểu: “Thu hút FDI vào KCN” là quá trình tiến hành các công việc cần thiết để các nhà đầu tư biết đến các KCN như là một địa điểm đầu tư hấp dẫn, giúp các nhà đầu tư hình thành ý đồ đầu tư, ra quyết định đầu tư và dược cấp giấy phép đầu tư vào KCN. Để đánh giá hoạt động thu hút FDI vào các KCN cần phải sử dụng một số chỉ tiêu cơ bản sau: Quy mô và tốc độ thu hút FDI vào KCN Quy mô bình quân một dự án FDI trong KCN Tỷ lệ lấp đầy diện tích Việc phân tích kết quả các chỉ tiêu trên qua các năm sẽ cho biết hiệu quả của việc thực hiện các công việc thu hút FDI vào các KCN trong từng năm hoặc từng giai đoạn. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đặc điểm tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Thuận lợi: Đối với trong nước: Tình hình chính trị - xã hội của nước ta tiếp tục ổn định. Thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với việc khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, trong đó có việc đưa ra nhiệm vụ: “Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hổitong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài” đã tiếp tục củng cố lòng tin của cộng đồng đầu tư quốc tế, thúc đẩt gia tăng dòng vốn FDI vào nước ta. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc độ gia tăng GDP trên 8,2% (Năm 2006), thị trường trong nước và xuất khẩu được mở rộng; cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Cùng với sự phát triển tích cực quan hệ ngoại giao với các nước, trong năm 2006 vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục nâng cao, nhất là sau kh trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 14 tại Hà Nội và được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), tiếp tục làm tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với địa bàn đầu tư nước ta. Năm 2006 cũng là năm bắt đầu triển khai nhiều luật mới, trong đó có Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, tạo mặt bằng pháp lý chung và điều kiện thuận lợi cho hoạt động ĐTNN tại Việt Nam và mở ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Việc phân cấp toàn diện về quản lý ĐTNN cho địa phương theo quy định mới nhất của Chính Phủ đã bước đầu tạo điều kiện để nâng cao vai trò và tính chủ động của các địa phương trong việc thu hút và quản lý nhà đầu tư về hoạt động ĐTNN. Môi trường đầu tư – kinh doanh của nước ta tiếp tục được cải thiện. Ngoài triển khai Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp cùng các Nghị Định hướng dẫn đã được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư, nhiều biện pháp đã được tiến hành nằm hạn chế và khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… Theo kết quả thăm dò của tổ chức JBIC, các doanh nghiệp Nhật Bản xếp Việt Nam vào vị trí thứ 3 trong số các nước cần thu hút đầu tư, sau Trung Quốc và Ấn Độ, vượt trên Thái Lan là nước đứng vị trí thứ 3 và năm 2005. Việc thực hiện Chương trình hành động Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, Chương trình Kết nối hai nền kinh tế Việt Nam – Singapore đã góp phần tháo gỡ nhiều rào cản đối với ĐTNN, làm cho môi trường đầu tư nước ta trở nên thông thoáng và hấp dẫn hơn. Công tác xúc tiến đầu tư được coi trọng ở cả trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, các hoạt động xúc tiến đầu tư được tổ chức trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các ngày Việt Nam ở nước ngoài đã góp phần gia tăng sự hiểu biết về nước ta, củng cố hình ảnh Việt Nam với tư cách là một điểm đến an toàn và đầy hứa hẹn đối với các nhà đầu tư. Đối với ngoài nước: Dòng vốn ĐTNN tiếp tục có xu hướng chuyển mạnh sang các nước đang phát triển, nhất là các nền kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao, có lợi thế về lao động, tài nguyên và chính sách đầu tư thông thoáng, trong đó có Việt Nam. Những rủi ro do tạp trung đầu tư quá lớn vào Trung Quốc đã bộ lộ rõ trong năm 2005, làm cho các nhà ĐTNN, nhất là các tập đoàn lớn điều chỉnh chiến lược đầu tư dài hạn, trong đó có việc phân bổ nguồn vốn đầu tư sang một số nước khác trong khu vực, trong đó Việt Nam là nước được nhiều tập đoàn xuyên quốc gia quan tâm. Như dự báo, các tập đoàn của Nhật Bản đã thực hiện chiến lược phân bổ nguồn vốn đầu tư theo mô hình Trung Quốc +1. Điều này đã tạo cơ hội mới cho Việt Nam trong việc tăng cường thu hút đầu tư của các tập đoàn Nhật Bản. Giá nhiều loại nguyên liệu thô trên thế giới gia tăng mạnh đã kích thaích nguồn vốn ĐTNN vào các nền kinh tế đang phát triển nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Điều này cũng đã làm gia tăng các mối quan tâm của các nhà ĐTNN vào ngành công nghiệp khai khoảng của nước ta, nhất là thăm dò khai thác dầu khí, khai thác và chế biến một số loại khoáng sản. Khó khăn – Thách thức Ở trong nước: Năm 2006, nền kinh tế chịu nhiều tác động bất lợi từ thị trường thế giới, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, thiên tai (bão, lụt) nặng nề tại các tỉnh miền Trung và miền Nam đã ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn. Về cơ sở hạ tầng, mặc dù Chính phủ đã có những nỗ lực dặc biệt trong phát triển cơ sở hạ tầng nhưng lĩnh vực này phát triển không kịp mức tăng trưởng cao của nền kinh tế và nhìn chung vẫn còn yếu kém so với các nươc trong khu vực. Đặc biệt, vẫn xảy ra tình trạng quá tải về dịch vụ cảng biển, thiếu điện tại một số địa phương, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và gây tâm lý lo ngại đối với các nhà đầu tư mới. Việc thực thi các luật mới đòi hỏi phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tại các địa phương nhằm khắc phục tình trạng chậm trễ và lũng túng trong thời gian đầu. Lợi thế về nguồn lao động trẻ dồi dào chưa được phát huy đầy đủ do công tác đào tạo chưa đạp ứng được yêu cầu. Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dòng vốn ĐTNN, năm 2006 đã xuất hiện tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề và các chức danh quản lý. Trong năm qua, việc điều chỉnh nâng lương tối thiểu đột ngột và tình trạng đình công có xu hướng gia tăng cũng đã gây một số khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sức cạnh tranh quốc gia còn yếu. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, cũng như cạnh tranh về sản phẩm hàng hoá Việt Nam còn thấp trong khi nước ta hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ở ngoài nước: Nền kinh tế thế giới tiếp tục chịu nhiều tác động bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế như giá nguyên liệu, nhiên liệu biến động mạnh, nhất là giá dầu thô, thiên tai xảy ra trên diện rộng và diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, nguy cơ bùng phát dịch cúm gia cầm vẫn gây lo ngại đối với các nhà đầu tư. Cạnh tranh thu hút ĐTNN giữa các nước tiếp tục diễn ra gay gắt, trong đó Trung Quốc và Ấn Độ nơi có lợi thế về thị trường, lao động và môi trường đầu tư được đánh giá là hấp dẫn hàng đầu thế giới. Thực trạng thu hút FDI vào các KCN Việt Nam thời gian qua Quy mô và tốc độ thu hút FDI vào các KCN Tình hình thu hút đầu tư vào các KCN đến tháng 12 năm 2006 cả nước đã có 5056 dự án đầu tư còn hiệu lực trong các KCN, trong đó có 2433 dự án FDI (chiếm 48,12%) với tổng số vốn đăng ký đạt 21,79 tỷ USD và 2623 dự án đầu tư trong nước với số vốn đầu tư khoảng trên 135,694 ngàn tỷ đồng ( tương đương khoảng 8,48 tỷ USD). Năm 2006, các KCN, KKT đã thu hút được 356 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 4.336 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước và gấp 2,4 lần so với năm 2005 ( các KCN đã thu hút được 305 dự án với tổng vốn đăng ký đạt trên 1,8 tỷ USD). Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh là những ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32060.doc
Tài liệu liên quan