Một số kiến nghị và giải pháp nhằm làm tăng thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội Quận Ba đình

lời mở đầu Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo và dựa trên nền tảng liên minh công-nông-trí thức. Một nhà nước kiểu mới “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.Ngày nay đứng trước yêu cầu đổi mới của đất nước cần cải cách bộ máy nhà nước và phương thức hoạt động của bộ máy chính trị, nhằm giữ vững bản chất của nhà nước càng đòi hỏi thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân và các tổ chức đoàn thể hệ thống chính trị, đảm bảo con đường tiến

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số kiến nghị và giải pháp nhằm làm tăng thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội Quận Ba đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lên chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của nghành BHXH là bước chuyển đổi toàn diện về tổ chức bộ máy quản lý đến cơ chế chính sách, thực hiện bình đẳng về BHXH giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho sức lao động tự do hơn trong cơ chế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng về an sinh xã hội cho mọi người dân. Do vậy “BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần đảm bảo đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc.”(Chỉ thị 15/CT-T W ). BHXH Quận Ba Đình ra đời cùng với hệ thống tổ chức bộ máy cấp quận nhằm quản lí sự nghiệp BHXH trên địa bàn quận. Sau 8 năm hoạt động, BHXH Quận Ba Đình đã đạt được kết quả đáng khích lệ, song bên cạnh đó còn tồn tại những vấn đề cần giải quyết trong vấn đề tài chính mà cụ thể là trong chế thu. Là một sinh viên của chuyên nghành bảo hiểm trường Đại học Công Đoàn em đã rất cố gắng và nỗ lực tìm hiểu về vấn đề và mạnh dạn chọn đề tài “Một số kiến nghị và giải pháp nhằm làm tăng thu BHXH ở BHXH Quận Ba đình” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Với mục đích được đóng góp một phần rất nhỏ bé vào mục tiêu hoàn thiện cơ chế quản lí tài chính của hệ thống BHXH Quận. Trong chuyên đề, em nghiên cứu công tác thu BHXH ở quận Ba Đình thực trạng và giải pháp để thấy được những thành tích đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại trong quá trình hoạt động của BHXH Quận Ba Đình. Để từ đó đưa ra những định hướng giải pháp tổ chức thực hiện và những kiến nghị với cơ quan chức năng nhằm giúp BHXH Ba Đình hoạt động có hiệu quả tốt hơn góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chung của BHXH Thành phố cũng như góp phần vào bảo đảm an ninh chính trị trên địa bàn quận Ba Đình. Đây là một vấn đề khó mang tính tổng quát cao.Vì vậy để hoàn thiện được chuyên đề thực tập này em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn TS Nguyễn Thị Hải Đường đồng thời được sự chỉ bảo tận tình của Ban giám đốc và các cô các chú trong bộ phận theo dõi thu BHXH của BHXH quận Ba Đình. Qua đây cho phép em gửi lời cảm ơn trân trọng đến cô giáo và các cô chú, anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, lựa chọn đề tài và hoàn thiện chuyên đề này. Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương : Chương I : Lý luận chung về tài chính BHXH. Chương II : Thực trạng công tác thu BHXH ở BHXH quận Ba Đình. Chương III : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm làm tăng thu BHXH ở BHXH quận Ba Đình. chương I Lý luận chung về tài chính bảo hiểm xã hội và cơ chế thu bảo hiểm xã hội I. Một số nội dung chính về BHXH 1.Khái niệm BHXH. Lịch sử đã chứng minh rằng bắt đầu từ khi nền kinh tế hàng hoá phát triển và việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì đồng thời cũng là khi mâu thuẫn chủ thợ phát sinh. Nguyên nhân xuất phát từ việc giới chủ sủ dụng lao động không hề mong muốn khi buộc phải bảo đảm thu nhập cho công nhân của họ trước những tổn thất xảy ra đối với những công nhân làm việc cho mình trong những trường hợp gặp phải rủi ro. Không cam chịu với thái độ của các chủ sử dụng lao động, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện những cam kết trả công lao động và bảo đảm cho họ một số thu nhập nhất đinh để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi gặp những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Chính vì vậy Nhà nước phải đứng ra can thiệp buộc giới chủ phải thực hiện đúng cam kết với người mình thuê. Ngược lại giới thợ phải thực hiện đúng cam kết cho giới chủ như năng suất lao động, giờ làm …Trên cơ sở xác suất xảy ra rủi ro đối với người lao động làm thuê Nhà nước đã buộc cả giới chủ sử dụng lao động và người lao động phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng để hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi một quốc gia cùng với sự tài trợ của chính nhà nước từ NSNN khi cần thiết.Quỹ này nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi cho nguồn thu nhập của họ, ngày càng có quy mô rộng lớn, khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng được đảm bảo. Xuất phát từ thực tế khách quan trên, người ta hiểu rằng toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ chặt chẽ đó được quan niệm là BHXH đối với người lao động. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thống nào về BHXH. Dưới đây là hai khái niệm khá phổ biến và dễ hiểu về BHXH: Khái niệm1: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một số quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.” ( Nguồn: Giáo trình Kinh tế bảo hiểm-Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). Khái niệm này phản ánh rõ nét mối quan hệ rằng buộc về lợi ích và trách nhiệm giữa ba bên: Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, thể hiện rõ nhất bản chất của BHXH . Khái niệm2: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội do bị mất hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế,sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”( Nguồn: Tổ chức Lao động quốc tế ILO). Đây là khái niệm BHXH của tổ chức lao động quốc tế (ILO), phản ánh một cách tổng quan về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia phát triển.Mục đích cuối cùng của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và gắn kết trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mọi ngưòi. 2. Bản chất và vai trò của BHXH 2.1 Bản chất của BHXH - BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan.nền kinh tế hàng hoá càng phát triển, việc thuê mướn lao động càng trở nên phổ biến thì càng đòi hỏi sự phát triển đa dạng và hoàn thiện của BHXH .Nền kinh tế hàng hoá phát triển là cơ sở, là nền tảng của BHXH, hay nói một cách khác BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH .Bên tham gia BHXH chỉ có thể là ngưòi lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản đồng thời những biến cố đó có thể xảy ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được thay thế và bù đắp từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.Mục tiêu này được tổ chức quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật . +Xây dựng điều kiện sốn đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu của người già, tàn tật và trẻ em. ( Nguồn: Giáo trình kinh tế bảo hiểm- Trường ĐHKTQD) Như vậy BHXH ra đời là một chính sách thiết yếu và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Thực chất đây là một trong những loại hình chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu lao động, an toàn xã hội ... Chính sách BHXH cón thể hiện trình độ văn minh tiềm lực và sức mạnh kinh tế khả năng tổ chức của mọi quốc gia. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 2.2. Vai trò của BHXH -Người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. BHXH là một nhân tố góp phần thực hiện công bằng xã hôị bởi vì theo quy luật số đông bù số ít BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. - BHXH còn góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất đảm bảo an toàn cho sản phẩm và đời sống xã hội của con người. Nhà nước sẽ lập ra các tiêu chuẩn các nguyên tắc về an toàn lao động buộc người lao động và người sử dụng lao động phải tuân theo. Quỹ BHXH hỗ trợ cho người lao động kịp thời khi có rủi ro xảy ra đối với họ, nên người lao động được nghỉ ngơi được điều dưỡng để nâng cao phục hồi sức khoẻ để có thể tiếp tục lao động bình thường . - BHXH đóng vai trò gắn kết ba chủ thể : Người lao động, Nhà nước và người sử dụng lao động. Cả ba chủ thể đều có được lợi ích từ mối quan hệ này. Thông qua BHXH cả người lao động và người sử dụng lao động đều nhờ BHXH mà mình được bảo vệ cuộc sống an toàn khi lao động. Còn đối với nhà nước chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất đồng thời giải quyết khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản suất ổn định, kinh tế chính trị và đời sống xã hội được phát triển và an toàn hơn. - BHXH tập trung được nguồn vốn lớn cho sự phát triển sản xuất. Xét trên phương diện tài chính BHXH chính là mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung. Quỹ này được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ và một phần dùng để chi quản lí sự nghiệp BHXH.Trên thế giới phần lớn các nước đều thiết kế mô hình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH theo nguyên tắc tồn tích và có tính dịch chuyển thu nhập giữa mọi người tham gia và qua các thế hệ. Vì thế quỹ luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi. Số dư này có thể được đem đi đầu tư cho các chương trình kinh tế xã hội, đóng góp vào xây dựng đất nước và làm tăng trưởng quỹ BHXH . Tóm lại, BHXH có một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì lợi ích của cộng đồng. 3. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó có nghĩa là khó có thể có những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ khi mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ có sự tiến bộ và phát triển hơn. Do vậy sau đây chỉ là những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng để xây dựng những nguyên tắc cần thiết phù hợp với điều kiện cụ thể. Nguyên tắc1: “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về BHXH”. BHXH là một trong những quyền con người và được dại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 Tuyên ngôn ghi rõ: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”. Nguyên tắc 2: “BHXH vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính tự nguyện”. Để tiến tới xây dựng hệ thống BHXH tối ưu nhất phải đi từ tính bắt buộc của BHXH. Đó là quá trình tiến tới xã hội hoá hoàn toàn BHXH và vai trò của Nhà nước được phát huy tối đa và chiếm ưu thế. Tính bắt buộc được thể hiện trong các nghĩa vụ tham gia và nghĩa vụ đóng góp, bao gồm đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham gia đối với từng chế độ BHXH cụ thể. Tính bắt buộc được thể chế hoá ở hầu hết các nước dưới hình thức các chính sách các chế độ BHXH cụ thể và những quy định của Chính phủ hay Luật BHXH. Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia BHXH có quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân. Nguyên tăc 3: “Đảm bảo tính công bằng trong BHXH”. Tính công bằng trong BHXH bao gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ lệ hợp lí giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích số đông của cộng đồng. Tuy nhiên không thể đảm bảo tính công bằng tuyệt đối vì BHXH hoạt động theo nguyên tắc số đông bù số ít . Nguyên tắc 4: “Xác định mức đóng và hưởng hợp lí” Đóng và hưởng phải hợp lí thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính công bằng. Mặt khác sự hợp lí này còn ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng người tham gia vào BHXH thực tế, quyết định sự thành công của chính sách BHXH đối với mỗi quốc gia, bởi vì chính sách BHXH có đảm bảo tính công bằng thì người lao động mới tự giác tham gia. 4. Các chế độ BHXH Sau chiến tranh thế giới lần thứ I (1919) Tổ chức lao động quốc tế được thành lập viết tắt là ILO. Sự kiện này góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển các chính sách BHXH, cho đến nay Công ước quốc tế 102về chế độ BHXH của (ILO) T6/1952 vẫn đã và đang được xem như một bảng chuẩn mực về các chế độ BHXH cần thiết cho mỗi quốc gia. Công ước đã quy định 9 chế độ BHXH như sau: 1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ cấp thất nghiệp 4. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 5. Trợ cấp tuổi già 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp thai sản ( trợ cấp sinh đẻ) 8. Trợ cấp khi tàn phế 9. Trợ cấp cho người còn sống Tuỳ theo diều kiện kinh tế của mỗi nước mỗi thời kỳ mà có thể thực hiện các chế độ khác nhau nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ trong đó yêu cầu ít nhất phải có một trong các chế độ 3, 4, 5, 8, 9. Đặc điểm của các chế độ BHXH: + Các chế độ BHXH được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước. + Hệ thống các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro tài chính. + Mỗi chế độ BHXH được chi trả đều căn cứ vào mức đóng góp của mỗi bên tham gia. + Phần lớn các chế độ được chi trả định kỳ. + Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. + Chi trả BHXH như là quyền lợi được hưởng của mỗi chế độ BHXH . + Mức chi trả còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của quỹ dự trữ được đầu tư an toàn và có hiệu quả thì mức chi trả mới có thể cao và ổn định. + Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để nó có thể phản ánh được sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội. II. Một số nội dung chính về Tài chính bHXH (TCHBXH) Khái quát chung về TCBHXH TCBHXH là một khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia, nó tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động khi gặp rủi ro trong đó góp phần phát triển kinh tế xã hội. TCBHXH và quỹ BHXH là hai thuật ngữ khác nhau song lại có nội dung đồng nghiã với nhau. Cho nên khi nói đến TCBHXH cũng là nói đến mối quan hệ bên trong của quỹ BHXH trong việc tạo lập và sử dụng quỹ. Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Nguồn quỹ BHXH bao gồm các nguồn sau: - Thu từ đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động: Người sử dụng lao động thường đóng theo tỷ lệ phần trăm cố định theo quỹ lương của người lao động tham gia BHXH trong đơn vị, còn người lao động thường đóng theo tỷ lệ phần trăm cố định theo thu nhập thực tế của họ. - Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm: Nhà nước thường đóng cho một nhóm người được bảo hiểm đặc biệt hoặc là những người trong hoàn cảnh tài chính không bình thường. Chính phủ với tư cách là người sử dụng lao động sẽ đóng đều đặn một khoản tiền vào quỹ BHXH. - Các nguồn khác: Quỹ BHXH có thể nhận thu từ các nguồn khác như từ các cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi. Song từ các nguồn này thường không nhiều và không ổn định. Việc xác định các nguồn hình thành như trên đã thể hiện mối quan hệ ràng buộc về lợi ích và trách nhiệm giữa các bên tham gia. Đối với người lao động đóng góp vào quỹ BHXH, có thể giúp tránh được thiệt hại kinh tế, khi có sự cố xảy ra với người lao động mà mình thuê. Không những thế còn có thể tạo lập được mối quan hệ “chủ - thợ” tốt đẹp. BHXH tạo tâm lý an tâm, an toàn và vì thế tạo động lực thúc đẩy người lao động làm việc hiệu quả hơn. Với người lao động tham gia BHXH và đóng một phần thu nhập của mình bảo vệ cho chính mình và gia đình cũng là lợi ích mong muốn của chính họ. Sự ràng buộc về trách nhiệm và lợi ích còn thể hiện ở việc Nhà nước tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm sẽ đảm bảo được mục đích cuối cùng là an toàn xã hội, mặt khác còn giảm bớt những khó khăn từ phía NSNN. 2. Phân loại quỹ BHXH Nhằm quản lí và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả nhất người ta sẽ tiến hành phân loaiị quỹ BHXH theo từng tiêu chí khác nhau cho phù hợp với mục đích nghiên cứu. Có thể phân loại theo một số tiêu chí phổ biến sau: Theo tính chất sử dụng: + Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động tạm thời. + Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất, hưu do tàn tật hoặc mất sức lao động. Theo các chế độ: + Quỹ hưu trí, tử tuất + Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp + Quỹ thất nghiệp + Quỹ ốm đau, thai sản. Theo đối tượng tham gia BHXH + Quỹ cho công chức nhà nước + Quỹ cho lực lượng vũ trang + Quỹ cho người lao động trong các doanh nghiệp + Quỹ cho các đối tượng còn laị Cho dù phân loại quỹ theo tiêu chí nào thì quản lí quỹ vẫn là một vấn đề quan trọng trong quản lý TCBHXH. Có được quản lí tốt quỹ BHXH thì mới quản lí tài chính BHXH tốt được. III. Quản lý tài chính BHXH . Quản lí tài chính BHXH bao gồm quản lý Nhà nước về TCBHXH và quản lý sự nghiệp tài chính BHXH .Chuyên đề này sẽ tập trung nghiên cứu quản lý sự nghiệp tài chính BHXH chủ yếu liên quan đến quá trình sử dụng một cách hiệu quả thu chi quỹ BHXH gồm 5 nội dung sau: Quản lý thu BHXH Quản lý chi BHXH Quản lí hoạt động bộ máy Cân đối thu chi quỹ BHXH Quản lí hoạt đ ộng đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH . Đối với nước ta, chính sách BHXH hiện đang áp dụng cho các chế độ BHXH bắt buộc.Vì thế trong phạm vi chuyên đề này em chỉ tập trung nghiên cứu vào nội dung quản lý tài chính BHXH đối với các chế độ bắt buộc và chủ yếu là nghiên cứu cơ chế thu BHXH . 1. Quản lý thu BHXH Thu nhằm tạo lập quỹ BHXH, do vậy các nguồn hình thành quỹ BHXH cũng chính là các nguồn thu BHXH.Trong các nguồn hình thành quỹ BHXH nguồn của người lao động và người sử dụng lao động đóng góp là chủ yếu nhất. Ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm trong trường hợp cần thiết. Phần thu do đầu tư quỹ nhàn rỗi trong trong chuyên đề này sẽ không xét đến mà chủ yếu là nghiên cứu sự quản lý nguồn thu từ hai đối tượng trên. 1.1 Công tác thu BHXH Công tác thu BHXH cốt lõi là quản lý đối tượng tham gia BHXH và quỹ tiền lương của từng đơn vị tham gia BHXH. Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một công việc phức tạp. Trên cơ sở những đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định, công tác quản lý thu BHXH phải thực hiện những nội dung sau: - Quản lý số lượng lao động đăng ký tham gia BHXH. - Quản lý số lượng lao động bắt buộc phải tham gia BHXH theo quy định. - Quản lý công tác cấp sổ BHXH: sổ BHXH có vai trò xác nhận quá trình đóng BHXH của người tham gia theo thời gian đóng góp, mức đóng BHXH, ngành nghề công tác … Quản lý quỹ lương của từng đơn vị tham gia BHXH. Căn cứ vào mức thu BHXH đã quy định của nhà nước, cơ quan BHXH tiến hành thu BHXH của đối tượng tham gia trên cơ sở tiền lương được bảo hiểm của họ. Đối với người sử dụng lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng quỹ lương tháng thực tế của họ. Quản lý thời gia đóng BHXH: Cơ quan BHXH thực hiện quản lý nội dung này để có căn cứ chi trả các chế độ BHXH cho người lao động. Tuỳ theo chính sách BHXH của từng nước mà tỷ lệ nộp BHXH cũng khác nhau. 1.2 Quản lý thu BHXH qua các thời kỳ 1.2.1 Thời kỳ sau khi giành chính quyền (1946 - 1959) Ngay sau khi Cách mạng Tháng tám thành công Chính phủ đã ban hành hai sắc lệnh rất quan trọng về BHXH:sắc lệnh số 54 (ngày 1/11/1945) và sắc lệnh số 105 (ngày 14/6/1946). Hai sắc lệnh này quy định các công chức Nhà nước đều phải đóng BHXH bằng 6% - 10% lương, các cơ quan đơn vị doanh nghiệp đóng từ 7% - 10% quỹ lương. Như vậy, ngay sau khi thành lập nước mức quy định đóng góp BHXH đã khá cao, tổng cộng mức đóng lên tới 20% tổng mức lương của cơ quan, doanh nghiệp. Thời kỳ này đã đạt được một số kết quả sau: - Đã xác định rõ người lao động và người sử dụng lao động là hai bên đóng góp BHXH là chủ yếu. Thời kỳ này Ngân sách Nhà nước không có tài trợ. - Nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động đã rất rõ ràng cụ thể, đặc biệt chủ và thợ đã thấy được quyền lợi của mình. đây là thời kỳ quỹ BHXH được hình thành độc lập với Ngân sách Nhà nước. Các chế độ BHXH thời kỳ này mặc dù chưa hình thành hệ thống nhưng đã đặt nền móng cho những giai đoạn tiếp theo. 1.2.2 Thời kỳ 1960 - 1987 Sau khi Miền Bắc giải phóng, tại Điều 23 Hiến Pháp 1960 được Chính phủ thực hiện rất nghiêm túc qua nghị định 28 CP (27/12/1961) ban hành kèm theo điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước Trong đó 3 nội dung rất cơ bản sau được thực hiện liên tục trong nhiều năm. Nội dung 1: Cơ quan xí nghiệp nộp 4.7% tiền lương trong đó 1% chi cho chế độ hưu trí mất sức lao động và trợ cấp tử tuất do Bộ Lao Động thương binh xã hội quản lý, 3.7% chi ốm đau thai sản tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, nghỉ mát dưỡng sức, do Tổng liên đoàn Lao Động quản lý. Nội dung 2: BHXH thực hiên 6 chế độ sau: ốm đau, thai sản tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, hưu trí, mất sức lao động, tử tuất. Ngoài ra mỗi cán bộ viên chức đi nghỉ mát dưỡng sức đều được BHXH gánh vác chi phí. Nội dung 3: quỹ BHXH được hình thành do 2 cơ quan quản lý. Bộ Lao Động và Tổng liên đoàn. Tuy nhiên Ngân sách Nhà nước đảm bảo nội dung thu chi, mức thu thời kỳ này đạt khá cao so với kế hoạch. Năm 1962: Thu đạt 65.36% kế hoạch Năm 1963: Thu đạt 93.53% kế hoạch 1.2.3 Thời kỳ 1988 - 1992 Quỹ BHXH vẫn do tổng liên đoàn Lao Động VIệt Nam và bộ Lao Động quản lý nhưng trước tình hình ngân sách chi BHXH ngày càng tăng cho nên Tháng10/ 1986 HĐBT nay là chính phủ ban hành Nghị định 236/ CP sửa đổi và bổ sung một số nội dung BHXH như sau: + Nâng mức trích nộp BHXH thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý từ 3.7% - 5%. T3 / 1988 quy định một lần nữa nâng mức trích nộp do Bộ Lao Động thương binh và xã hội quản lý từ 1% đến 10%, tổng cộng mức thu là 15%. Thời kỳ này còn đề cập đến Nghị định 26/ CP chi tiết hoá một số nội dung sau liên quan đến TCBHXH + Góp phần giảm biên chế ở một số cơ quan nhà nước lâu nay đã trở thành gánh nặng cho Ngân sách. + Nâng cao mức đóng góp BHXH đã được khoản chi phí này hạch toán vào giá thành sản phẩm để từng bước chuyển sang kinh tế thị trường. + Xác định 6 chế độ là chi chủ yếu, khoản chi nghỉ mát dưỡng sức giảm đi. 1.2.4 Thời kỳ 1992 - 1995 Đây là thời kỳ BHXH Việt Nam có biến động đột biến đặc biệt là từ khi Nghị định 43/ CP ra đời. Nội dung của Nghị định này đã tiến bộ hẳn so với tất cả các nghị định trước đây. Nội dung Nghị định này bao gồm tất cả những vấn đề có liên quan đến hệ thống BHXH của đất nước. Xét trên góc độ tài chính những tiến bộ này thể hiện cụ thể: Nghị định 43/ CP (26/3/1993) quy định người lao động và người sử dụng lao động phải đóng góp BHXH và có đóng mới có hưởng. Mức thu tăng từ 15- 20%, nguồn thu lúc này tăng do đối tượng được quy định rất chặt chẽ. Đặc biệt trong giai đoạn này có sự cải cách tiền lương và bước đầu Nhà nước đã thực hiện tiền tệ hoá tiền lương. Trong thời kỳ này mặc dù quỹ chưa tách khỏi Ngân sách Nhà nước nhưng đã tổ chức hạch toán độc lập. Chế độ dưỡng sức nghỉ mát đã bỏ hẳn công tác quản lý đơn giản và chặt chẽ hơn. Do từng chế độ được cụ thể hoá một cách chi tiết nên việc ghi các chế độ quản lý đơn giản và chặt chẽ hơn 1.2.5 Thời kỳ 1995 đến nay Luật lao động ra đời năm 1994 đã có một chương về BHXH (Chương XII). Chương này đã cụ thể hoá rất chi tiết về đối tượng tham gia, đối tượng được hưởng mức đóng góp. Hệ thống các chế độ được bổ sung và sữa chữa lại. Điều lệ BHXH mới ban hành kèm theo Nghị định 12/ CP của Chính phủ quy định mức thu là 20% trong đó người sử dụng lao động góp 15% quỹ tiền lương của người lao động, người lao động đóng 5% lương của mình và Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết. Các bước của quá trình quản lý thu: Bước 1: Cơ quan bảo hiểm cấp cơ sở sau khi thu phí bảo hiểm của các đối tượng tham gia BHXH. Số tiền thu phải chuyển vào kho bạc cùng cấp đồng thời phải báo cáo cơ quan BHXH cấp tỉnh, thành, kho bạc cấp huyện sẽ chuyển số tiền này lên kho bạc tỉnh thành và kho bạc cấp tỉnh phải thông báo cho cơ quan BHXH cùng cấp. Bước 2: Những đối tượng phải thu thuộc cấp tỉnh thành đảm nhiệm BHXH cấp này cũng phải nộp cho cơ quan BHXH trung ương và thông báo cho BHXH Việt Nam biết. Cơ quan BHXH là đầu mối quan trọng trong tính toán phải cân đối số thu và số chi để từ đó có kế hoạch đầu tư đúng hướng và hợp lý phần tiền thu được còn nhàn rỗi chưa chi hết. Hằng năm Ngân sách Nhà nước bù thiếu cho BHXH theo đúng kế hoạch mà các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. Số tiền nằm ở kho bạc Trung ương được chuyển vào tài khoản của BHXH Việt Nam, sau đó Bộ tài chính sẽ thông báo cho BHXH Việt Nam biết. Mặc dù các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng có một số đối tượng nợ đọng BHXH ( cả chủ và thợ đều nợ), phần nợ đọng này các cấp phải báo lên cấp trên để có các kế hoạch và biện pháp truy thu. 2. Quản lý chi các chế độ BHXH. Quản lý hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH bao gồm quản lý các đối tượng được hưởng các chế độ BHXH và quản lý cấp kinh phí cho quá trình thực hiện chi trả các chế độ BHXH . Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể là bản thân người lao động hoặc những người thân của họ. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp dài hạn mức độ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng góp, tiền lương làm căn cứ đóng góp và biến cố rủi ro mà người lao động gặp phải. Trợ cấp một lần có thể trả cho chế độ hưu trí (tuổi già hoặc mất sức), trả cho các thành viên trong gia đình người hưu trí chết (có người mai táng phí), trả cho chế độ thai sản… Trợ cấp một lần thường áp dụng cho các chế độ BHXH hưởng theo phần trăm lương được bảo hiểm này giữ tương đối ổn định. Do đó phải thường xuyên lập kế hoạnh chi tài chính cho những chế độ này theo khoản thu bảo hiểm đóng ở tỷ lệ tính toán đủ chi cho một năm. Nếu có sự khác nhau nhỏ nào về tài chính giữa các năm có thể sử dụng một quỹ riêng biệt ( quỹ dự phòng) để giải quyết. Tuy nhiên đối với những chế độ ngắn hạn thường không phải sử dụng những quỹ dự phòng riêng như vậy. Trợ cấp dài hạn được trả ttrong các trường hợp: Trả trong suốt thời gian hưu trí của người được bảo hiểm. Trả cho chế độ tử tuất sau khi người được bảo hiểm chết Trả trên cơ sở tạm thời hoặc vĩnh viễn (tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp ) 2.1 Cân đối thu chi quỹ BHXH Quỹ BHXH không phải là một quỹ tài chính tự cân đối thu chi, không vì mục tiêu lợi nhuận. Các khoản chi của quỹ BHXH thường lớn hơn nguồn thu quỹ BHXH từ người lao động và người sử dụng lao động . Do vậy để có thể cân đối thu chi quỹ BHXH Nhà nước phải tài trợ cho quỹ . Đẳng thức: “Tổng thu = Tổng chi” được diễn giải như sau Tổng thu: Thu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động. Thu từ sự đóng góp của người lao động Thu từ phía Nhà nước Thu từ lãi đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi Thu khác. Tổng chi: Chi trả các chế độ BHXH Chi hoạt động bộ máy Chi phí cho hoạt động đầu tư Chi khác. Do phương thức cân bằng thu chi như vậy, quỹ BHXH thuộc khu vực tài chính nhà nước. Có thể nói quỹ BHXH chính là một quỹ xã hội, là một trung gian tài chính vô vị lơị, ra đời để khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường đối với người lao động trong xã hội. Quản lý công tác cân đối thu chi đòi hỏi phải theo dõi hoạt động thu chi tài chính quỹ, phát hiện ra tính mất cân đối quỹ hoặc bất kỳ sự thay đổi nào từ phía thu chi một cách kịp thời để từ đó có những đối sách thích hợp để quỹ BHXH thực sự thể hiện bản chất và để quỹ hoạt động ngày một hiệu quả hơn. Chương II Thực trạng thu BHXH ở quận Ba Đình I. Vài nét về cơ quan BHXH quận Ba Đình 1. Quá trình hình thành và phát triển Thực hiện nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, hoạt động theo cơ cấu 3 cấp: + Bảo hiểm xã hội Việt Nam + Bảo hiểm xã hội Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương + Bảo hiểm xã hội quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Năm 1995 sự nghiệp BHXH chuyển đổi mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động theo quy định của bộ Luật lao động được cụ thể hoá bằng điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. Ngày 12/7/1995 BHXH thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 01/ QĐ-TCCB về việc thành lập BHXH quận Ba Đình . Ngày 31/7/1995 BHXH quận Ba Đình nhận bàn giao sự nghiệp bảo hiểm xã hội từ Liên đoàn lao động và phòng Lao động - thương binh xã hội cùng cấp chuyển sang với sự chứng kiến của quận uỷ, UBND, Liên đoàn lao động thành phố, Sở lao động thương binh và xã hội, BHXH thành phố Hà Nội cùng các ngành có liên quan được đặt tại 71- Quán Thánh - Hà Nội . Quá trình phát triển của cơ quan BHXH quận từ khi mới thành lập không chia ra từng giai đoạn cụ thể. Trải qua 8 năm phát triển BHXH quận Ba Đình không ngừng phát triển và đã trở thành một trong những cơ quan BHXH quận mạnh nhất trong các cơ quan BHXH khác ở các quận và xã phường khác trong thành phố Hà Nội. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ cơ quan BHXH quận Ba Đình luôn luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao của BHXH thành phố. Năm nào cơ quan cũng hoàn thành gần sát với kế hoạch được giao, đặc biệt năm 2002 vừa qua cơ quan đã hoàn thành vượt mức ._.kế hoạch đạt kết quả cao về doanh số đồng thời tạo được uy tín đối với người tham gia BHXH đóng góp không nhỏ vào qúa trình an sinh xã hội trên địa bàn quận. Cũng như BHXH thành phố Hà Nội và các quận huyện khác, hiện nay BHXH đang thực hiện 6 chế độ sau: Chế độ hưu trí Chế độ tử tuất Chế độ ốm đau Chế độ thai sản Chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp Chế độ chăm sóc sức khoẻ (BHYT) 2. Cơ cấu tổ chức của BHXH Ba Đình Bộ máy tổ chức ban đầu của BHXH quận Ba Đình gồm có 20 người trong đó: Liên đoàn Lao động chuyển sang 2 người, phòng lao động Thương binh và Xã hội chuyển sang 18 người, là quận có nhiều người nhất trong 9 quận huyện lúc đó. Số biên chế luôn biến động do sự điều động của tổ chức. Hiện nay tháng 1-2003 BHXH quận Ba Đình và BHYT của quận đã sát nhập lại với nhau. Do vậy bộ máy tổ chức của BHXH quận Ba Đình đã thay đổi. Toàn bộ cơ quan có 24 người, trong đó 20 người là cán bộ công chức. Ban lãnh đạo gồm có 4 người, một giám đốc phụ trách chung và 3 phó giám đốc phụ trách công việc chuyên môn. Cơ quan không có cơ cấu tổ chức phòng, các công việc chuyên môn tuỳ theo khối lượng công việc được chia theo các bộ phận cụ thể như : Bộ phận thu 6 người, kế toán 3 người, bộ phận chính sách hồ sơ 4 người, một thủ quỹ, bộ phận cấp phát phiếu chữa bệnh 6 người. Điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của cơ quan BHXH quận Ba Đình Giám đốc (Phụ trách chung và kế toán tài chính) Phó giám đốc - Phụ trách thu BHXH - Cấp sổ BHXH - Đối chiếu tăng giảm chính kết quả thu bảo hiểm xã hội - Chốt sổ BHXH - Đối chiếu chi 2 chế độ ốm đau, thai sản Phó giám đốc - Phụ trách tổ chức công tác chính sách, di biến động hồ sơ đi đến Phó giám đốc - Phụ trách cấp phát phiếu khám chữa bệnh và các việc làm liên quan đến hành chính nội bộ cơ quan (Nguồn BHXH quận Ba Đình) Cách thức tổ chức như trên đã chuyên môn hoá các công việc nên cơ quan luôn có kế hoạch và phương hướng hoạt động cho từng quý đồng thời có những biện pháp khuyến khích khen thưởng, kỷ luật kịp thời khiến cho toàn cơ quan lúc nào cũng có không khí sôi động, hăng say phấn đấu đạt được kế hoạch đề ra thậm chí vượt mức kế hoạch. 3. Tình hình hoạt động của cơ quan 1997-2002 3.1 Những thuận lợi và khó khăn 3.1.1. Thuận lợi Ba Đình là một quận nằm ở trung tâm thành phố tập trung dân cư, là trung tâm hành chính- chính trị quốc gia gồm nhiều cơ quan đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan của Đảng và Nhà nước, các xí nghiệp từ Trung ương tới địa phương, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, quy tụ nhiều ngành nghề và người lao động. Vì vậy việc mở rộng đối tượng tham gia hàng năm là một yếu tố khách quan. Các đơn vị kể trên muốn tham gia hoạt động kinh doanh thì đồng thời phải tham gia đóng BHXH cho người lao động, có như vậy họ mới yên tâm làm việc. Đây là điều kiện bắt buộc tạo thành thế mạnh, điểm khác biệt của BHXH đối với các tổ chức phi BHXH khác. Mặc dù mới hoạt động sau 8 năm nhưng BHXH quận Ba Đình đã xây dựng được nhiều mối quan hệ tốt cả trong và ngoài quận. Cộng với sự nhiều kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ công nhân viên nghiệp vụ chi trả trợ cấp cho các chế độ được thực hiện rất nhanh chóng, cấp thiết đặc biệt là chế độ hưu trí được chi trả hàng tháng đều đặn đúng thời hạn. Chính vì vậy nghiệp vụ thu cũng được thực hiện đầy đủ qua hệ thống Ngân hàng, kho bạc.Từ đó mà các công tác khác cũng được thực hiện theo đúng chỉ tiêu kế hoạch mà BHXH thành phố giao cho. 3.1.2. Khó khăn Theo quy định của Bộ luật lao động và điều lệ BHXH về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và phải đóng BHXH bao gồm người sử dụng lao động và người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh .... Có thể nói BHXH quận Ba Đình đã quản lý khá tốt đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên vẫn còn không ít đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc đã không tham gia do nhiều nguyên nhân : do một số người lao động chưa nhận thức đúng hoắc chưa đầy đủ về quyền lợi mà mình được hưởng khi tham gia BHXH. Nền kinh tế đã trải qua cơn khủng hoảng và có dấu hiệu phục hồi nhưng đầu tư nước ngoài vào thủ đô còn thấp chưa xứng với tiềm năng. Bên cạnh đó nhiều cơ sở sản xuất của cả Nhà nước và tư nhân còn gặp khó khăn làm ăn thua lỗ nên dẫn đến nợ đọng số tiền BHXH. 3.2 Kết quả thu chi giai đoạn 1997-2002 Từ năm 1993 thực hiện Nghị định 43/ CP của Chính phủ về việc đổi mới BHXH cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, quỹ BHXH được hình thành với sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước. Quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nước, được quản lý sử dụng tuân theo quy định về chế độ tài chính Nhà nước, thực hiện nguyên tắc hạch toán cân bằng thu chi. Quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động khi thuê mướn lao động phải đóng BHXH cho người lao động, quy định rõ nghĩa vụ người lao động trong việc đóng góp . Vì vậy số người tham gia BHXH ngày càng tăng nên số thu BHXH tăng nhanh đồng nghĩa với chi BHXH cũng tăng lên. Từ năm19 97 đến nay tình hình thu chi quỹ BHXH quận Ba Đình thể hiện như sau: Bảng 1: Kết quả thu - chi quỹ BHXH giai đoạn 1997- 2002 Năm Số đối tượng tham gia ( Người) Số người hưởng BHXH (Người) Tổng thu (Tỷ đồng) Tổng chi (Tỷ đồng) 1997 35 528 26 126 33,672 76,25 1998 37 551 26 445 34,646 85,73 1999 38 373 27 893 35,007 96,83 2000 41 811 28 194 48,148 118,52 2001 44 275 31 650 59,055 151,89 2002 47 329 34 263 65,096 160,21 (Nguồn : BHXH Ba Đình) Qua bảng 1 ta thấy đối tượng tham gia BHXH ngày càng mở rộng, năm 1997 số đối tượng tham gia là 35 528 người tính dến năm 2002 số đối tượng tham gia lên tới 47.329 người tăng gấp 1,34 lần so với năm 1997. Sở dĩ tổng chi lớn hơn tổng thu rất nhiều là do BHXH Ba Đình còn có sự hỗ trợ của NSNN. Trong 8 năm qua từ khi thành lập (1995) đến nay ngành BHXH Ba Đình đã thu hút được số đông người lao động tham gia. Để đạt được kết quả đó phải kể đến nỗ lực của ngành trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH thời gian qua. BHXH Ba Đình đã tích cực rà soát, tuyên truyền vận động để tăng thêm đối tượng tham gia đóng BHXH đối với những đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH nhưng chưa tham gia. Mặt khác, do sự vân động của cơ chế thị trường và các chính sách đầu tư phát triển của Nhà nước có sự thay đổi dẫn đến hàng loạt các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty liên doanh được thành lập, giải quyết được phần lớn số lao động trẻ có năng lực trình độ chưa có việc làm vào các doanh nghiệp, thu hút một số lượng lao động lớn lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước sang làm việc ở công ty tư nhân. Ii. tình hình thu quỹ bhxh tại bhxh quận ba đình BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Vì vậy nghiệp vụ công tác thu có vai trò rất quan trọng là nguồn hình thành quỹ BHXH. Theo quy định Điều 149 của Bộ luật lao động bao gồm: a. Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương. b. Người lao động đóng 5% tiền lương. c. Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. d. Lãi từ hoạt động bảo tồn, tăng trưởng và thu khác. Nguồn thu này được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo toàn giá trị và tăng trưỏng theo quy định của Chính phủ. Nghiệp vụ thu là một công việc rất quan trọng và khó khăn đối với ngành BHXH nói chung, của ngành BHXH quận Ba Đình nói riêng nhưng do có nhận thức đúng đắn về công tác thu BHXH nên ngay sau thành lập BHXH quận Ba Đình được sự chỉ đạo của ban giám đốc BHXH thành phố Hà Nội, BHXH quận Ba Đình đã tổ chức triển khai thực hiện, bắt đầu từ việc hướng dẫn các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn quận lập danh sách lao động đăng ký đóng BHXH theo diện bắt buộc, thực hiện thu BHXH theo mức 20% so với tổng quỹ tiền lương. Trong đó người sử dụng lao động đóng 15%, người lao động đóng 5%. Hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm nộp cùng lúc 20% vào quỹ BHXH. Các cán bộ được phân công theo dõi công tác thu tiến hành mở sổ sách nghiệp vụ đóng BHXH của từng đơn vị và từng người lao động. Trong công tác quản lý thu BHXH cốt lõi là quản lý đối tượng tham gia và quỹ tiền lương của từng đơn vị tham gia. Quản lý đối tượng tham gia. Trên cơ sở những đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định công tác thu BHXH phải thực hiện những nội dung: - Quản lý số lượng lao động đăng ký tham gia BHXH - Quản lý số lượng lao động bắt buộc tham gia BHXH theo quy định. - Quản lý công tác cấp sổ BHXH : Sổ BHXH có vai trò xác nhận quá trình đóng BHXH của người tham gia theo thời gian đóng góp, mức đóng góp Bảo hiểm xã hội, ngành nghề công tác. Về đối tượng tham gia: BHXH quận Ba Đình thực hiện theo quy định thu của BHXH Việt Nam về các đối tượng tượng tham gia BHXH bao gồm người lao động và người sử dụng lao động : 1. Các doanh nghiệp nhà nước. 2. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên . 3. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp. 4. Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ từ cơ quan hành chính sự ngiệp, cơ quan Đảng đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. 5. Các cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt tại Việt Nam trừ trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. 6. Cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng đoàn thể hội đồng quần chúng dân cư từ trung ương đến địa phương. 7. Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. Bộ quốc phòng, Bộ công an đóng cho quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng lương và sinh hoạt phí theo điều lệ BHXH đối với sĩ quan quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/ CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ. 9. Cán bộ xã phường thị trấn hưởng sinh hoạt phí tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 3 Nghị định số 09 / 1998/ NĐ-CP( ngày 23/1/1998) của Chính phủ. áp dụng vào các đối tượng thuộc phạm vi trên BHXH quận Ba Đình đã tiến hành thu ngay số tiền BHXH từ 1997 đến 2002 như sau: Bảng 2: Số đơn vị và lao động tham gia BHXH từ 1997-2002 Năm Số đơn vị tham gia Số đối tượng tham gia(người) Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn Tốc độ tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn(%) 1997 337 35 528 - - 1998 356 37 551 +2023 1,05 1999 440 38 373 +822 1,03 2000 471 41 811 +3438 1,09 2001 521 44 275 +2464 1,06 2002 621 47 329 +2775 1,07 (Nguồn: BHXH Ba Đình) Qua bảng ta thấy năm 1997 toàn quân chỉ có 337 đơn vị tham gia BHXH với tổng đối tượng là 35.528 người. Qua 6 năm số đơn vị tham gia BHXH đã tăng lên đến 621 đơn vị với tổng số đối tượng là 47.329 người. Nhìn chung quy mô người lao động tham gia BHXH tăng dần qua các năm biểu hiện ở lương tăng tuyệt đối liên hoàn qua các năm tuy nhiên tốc độ tăng không đồng đều nhau. Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực Châu á nói chung và Hà Nội nói riêng nên các trung tâm kinh tế chính trị cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy mà số đối tượng tham gia năm 1999 tăng chậm chỉ có 822 người so với năm 1998. Nhưng đến năm 2000 thì lại tăng nhanh thậm chí tăng nhanh nhất trong 6 năm cụ thể là tăng 3438 người với tốc độ tăng 1,09%. Để đạt được kết quả đó phải kể đến nỗ lực của ngành trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH trong thời gian qua: - Dưới sự lãnh đạo của Ban giám đốc BHXH Ba Đình đã tích cực rà soát, tuyên truyền vận động để tăng thêm đối tượng tham gia đóng BHXH đối với những đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH nhưng chưa tham gia. - Thông qua việc tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách chế độ BHXH qua các phương tiện thông tin đại chúng, người lao động đã ý thức được trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia BHXH . - Bên cạnh đó các bộ trong cơ quan còn trực tiếp xuống các đơn vị sử dụng lao động, tuyên truyền vận động chủ sử dụng lao động, người lao động đã ý thức được trách nhiệm và quyền lợi của họ trong việc tham gia Bảo hiểm xã hội. Đồng thời cũng thông qua biện pháp tuyên truyền, vận động BHXH Ba Đình đã phối hợp với các ban ngành liên quan trong việc thực hiện công tác BHXH nên BHXH Ba Đình đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, uy tín nhất định khiến người lao động tin tưởng hơn vào chính sách BHXH để từ đó tham gia BHXH . Mặt khác cũng phải kể đến nguyên nhân khách quan làm tăng số đối tượng tham gia BHXH . Đó là do chính sách kinh tế mở rộng đầu tư của Nhà nước dẫn đến hàng loạt các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty liên doanh được thành lập. Tuy nhiên số lượng người lao động thuộc các khu vực trên tham gia BHXH vẫn là số ít so với tổng số lao động. Bảng 3: Số đơn vị và lao dộng tham gia BHXH thuộc khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ 1997-2002 Năm Số lao động tham gia (người) Số đơn vị thuộc khối NQD Số lao động tham gia thuộc khối NQD (người) Tỷ trọng (%) 1997 35 528 0 0 0 1998 37 551 25 630 1,67 1999 38 373 36 760 2,02 2000 41 811 55 1631 3,89 2001 44 275 77 2014 4,54 2002 47 329 135 3055 6,5 (Nguồn BHXH Ba Đình) Qua bảng 3 ta thấy rõ khối lao động thuộc khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn ít, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số lao động tham gia toàn quận. Năm 1997 không có đơn vị nào tham gia, đến năm 1998 đã có 25 đơn vị tham gia với tổng số đối tượng tham gia là 630 người. Đến năm 2002 đã lên tới 3055 người tham gia thuộc 135 đơn vị tăng gấp 4,8 lần so với năm 1997. Như vậy, mặc dù tốc độ tăng chậm tỷ trọng chiếm ít nhưng cũng góp phần vào quá trình mở rộng đối tượng của cơ quan đồng thời cũng là một thành tích đáng kể của BHXH Ba Đình. Một nguyên nhân khách quan làm cho số lao động tham gia BHXH tăng lên hàng năm nữa là do có sự thay đổi trong bộ máy tổ chức của Đảng và Chính phủ và các cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước nên số đơn vị khối hành chính sự nghiệp trung ương cũng tăng lên. Sỡ dĩ như vậy là vì Ba Đình là một quận tập trung nhiều cơ quan hành chính sự nghiệp đặc biệt tập trung nhiều các cơ quan của Đảng và Chính phủ. Về công tác cấp sổ BHXH : Đây là một nghiệp vụ mang tính chuyên ngành đồng thời là bước chuyển đổi từ BHXH thông qua Ngân sách Nhà nước sang BHXH theo quỹ BHXH thu được. Thực chất đây là văn bản pháp lý ghi nhận quyền hưởng của người lao động tham gia đóng BHXH. Tổng số các đơn vị cơ quan đóng trên địa bàn quận Ba Đình tương đối lớn tập trung nhiều các cơ quan của Đảng và Chính phủ. Trước khi đổi mới, do có sự tồn tại của cơ chế cũ nên việc lưu trữ hồ sơ tài liệu của các cơ quan đơn vị rất lỏng lẻo, thiếu khoa học, không cập nhật thông tin số liệu, hồ sơ di chuyển nhiều nơi. Nhiều cơ quan đơn vị không có hồ sơ hoặc hồ sơ thiếu cơ sở pháp lý nên việc xem xét cấp sổ BHXH cho người lao động gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy các cán bộ cơ quan BHXH quận Ba Đình vẫn làm tốt công tác này. Thông qua việc cấp sổ trước hết giúp cho người sử dụng lao động và người lao động nhận thức tốt hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH. Mặt khác thông qua việc cấp sổ BHXH là dịp để các cơ quan đôn đốc kiện toàn lại toàn bộ hệ thống hồ sơ tài liệu của mình. Đối với cơ quan BHXH Ba Đình việc cấp phát sổ BHXH nhằm quản lý đơn vị đối tượng tham gia, quản lý chế độ chính sách BHXH tốt hơn. Đồng thời giúp cho công tác thu và thu BHXH đạt kết quả cao hơn. Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2002 BHXH Ba Đình đã cấp sổ được cho 44 297 người lao động. Số còn lại là những trường hợp chưa đến thời hạn cấp hoặc thiếu hồ sơ BHXH. Quận Ba Đình đã thống kê gửi BHXH thành phố Hà Nội giải quyết. Quản lý quỹ lương của từng đơn vị tham gia BHXH Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH Căn cứ để các cơ quan BHXH xác định số tiền thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động là quỹ tiền lương do vậy để thu BHXH được chính xác cơ quan BHXH phải quản lý chặt chẽ quỹ tiền lương của từng đơn vị tham gia BHXH. Tuỳ thuộc vào chính sách BHXH của từng nước mà mức thu trên lương BHXH cũng khác nhau. Dưới đây là một số ví dụ : ở Mỹ : trong số tiền lương của người lao động, Chính phủ sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định, sau đó đưa các khoản thu này vào quỹ BHXH. Mức khấu trừ cụ thể : - Người sử dụng lao động 13.65% - Người lao động 7.65 % ở Thái Lan : thực hiện việc đóng BHXH theo cơ chế người lao động nộp 1/3 thu nhập, người sử dụng lao động nộp 1/3 thu nhập, Nhà nước nộp 1/3. ở Nhật Bản: mức đóng góp vào quỹ BHXH tương đối cao, người lao động phải đóng từ 3.5% đến 4.6 % thu nhập hàng tháng còn người sử dụng lao động đóng từ 25% đến 30 %. Nhà nước trợ cấp cho quỹ BHXH khi cần thiết. ở Việt Nam được quy định như sau : tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương theo cấp bậc, chức vụ tiền lương theo hợp đồng lao động và các khoản phụ cấp (nếu có). Các khoản phụ cấp bao gồm : Phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng vào tiền hưởng BHXH. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị lao động thực trả cho người lao động nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức quy định rõ ràng như sau : + Đối với người sử dụng lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu 15% quỹ tiền lương của người lao động tham gia BHXH. + Đối với người lao động góp 5% lương tháng của mình. + Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết. Căn cứ vào các quy định trên BHXH đã tiến hành thu quỹ BHXH trên cơ sở quỹ tiền lương của đơn vị tham gia. Đây là công việc cơ quan đặt lên hàng đầu tập trung làm việc để hoàn thành kế hoặch. Cụ thể được thể hiện như sau : Bảng 4 : Kết quả thu BHXH 1997 – 2002 Năm Số tiền thu (Triệu đồng) Lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (Triệu đồng) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (%) 1997 33 672 - - 1998 34 646 + 97 1,02 1999 35 870 + 1 224 1,03 2000 48 148 +12 278 1,34 2001 59 055 +10 907 1,22 2002 65 096 + 6 041 1,10 (Nguồn BHXH Ba Đình) Theo bảng 4: Năm 1997 số tiền BHXH thu được là 33.672 triệu đồng nhưng đến năm 2002 số tiền thu quỹ BHXH tăng lên gấp đôi đến 65.096 triệu đồng. Mức tăng được thể hiện tăng dần qua các năm đặc biệt tăng mạnh vào năm 2000 với lượng tăng là 12.278 triệu đồng và tốc độ tăng của năm 2000 so với năm 1999 là 1,34% đây là tốc độ tăng mạnh nhất trong 6 năm. Đạt được thành tích trên là do những nguyên nhân sau: Công tác thu BHXH là một công việc hết sức mới mẻ của ngành BHXH nói chung, của BHXH Ba Đình nói riêng. Nhưng do nhận thức đúng đắn về công tác thu BHXH nên ngay từ đầu khi mới thành lập BHXH quận Ba Đình được sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH Thành phố Hà Nội, BHXH Ba Đình đã tổ chức triển khai thực hiện bắt đầu từ việc hướng dẫn các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn quận, lập danh sách lao động đăng ký đóng BHXH theo diện bắt buộc, thực hiện thu BHXH theo đúng quy định. Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm nộp cùng lúc 20% vào quỹ BHXH. Các cán bộ được phân công theo dõi đóng BHXH của từng đơn vị và đến từng người lao động. Thực hiện rà soát kỹ lưỡng danh sách lao động và tiền lương biến động từ khi mới thành lập đến nay để làm cơ sở thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động theo đúng quy định của pháp luật, lập một hệ thống danh sách hoàn chỉnh và chính xác nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động. Như phần trên đã nói tiền lương đóng BHXH tăng hay giảm là phụ thuộc vào quỹ lương của đơn vị tham gia. Quỹ lương tăng tiền đóng BHXH của đơn vị đó cũng tăng theo. Trong 7 năm qua do đối tượng tham gia BHXH quận Ba Đình được mở rộng nên quỹ lương đã tăng dần theo từng năm như sau: Bảng 5: Số quỹ lương và số thu BHXH năm 1997 tt Khối đơn vị Số đơn vị Số lao động (người) Quỹ tiền lương (đồng) Số tiền BHXH phải thu ( đồng) 1 DN trung ương 98 12 922 50.386.645.070 11.647.124.136 2 DN thành phố 32 7 247 27.011.114.888 5.937.653.966 3 DN quận 5 433 1.537119.120 437.467.739 4 HCSN trung ương 130 10 309 57.932.548.595 11.646.231.459 5 HCSN thành phố 20 2 035 9.959.060.054 1.984.617.506 6 HCSN quận 52 2 582 10.781.826.124 2.018.835.394 7 Khối ngoài QD 0 0 0 0 8 Khối ngoài công lập 0 0 0 0 Cộng 337 35 528 157.590.313.840 33.671.948.350 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Ba Đình) Bảng 6: Số quỹ lương và số thu BHXH năm 2002 TT Khối đơn vị Số đơn vị Số lao động (người) Quỹ tiền lương (đồng) Số tiền quỹ BHXH phải thu (đồng) 1 DN trung ương 126 17 142 97.339.434.490 20.542.201.267 2 DN thành phố 33 8 566 47.117.474.220 12.054.601.480 3 DN quận 5 286 1.720.032.300 344.356.720 4 HCSN trung ương 185 12 936 100.233.935.894 20.567.147.109 5 HCSN thành phố 25 2 206 15.272.563.145 3.057.305.977 6 HCSN quận 93 3 164 20.5660178.118 4.176.283.622 7 Khối xã phường 12 66 251.377.936 49.476.239 8 Khối ngoài QD 135 3 055 17.819.536.389 4.079.092.074 9 Khối ngoài công lập 7 151 621.887.950 134.852.680 Cộng 621 47 329 301.002.420.442 65.095.299.168 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Ba Đình) Nhìn vào số liệu của Bảng 5 và Bảng 6 ta thấy số đơn vị tham gia BHXH sau 6 năm tăng như sau: Số đơn vị tăng: 284 đơn vị Số người tham gia BHXH tăng:12.071 người Quỹ tiền lương tăng: 143.412.106.602 đồng Số tiền thu BHXH tăng: 31.387.280.818 đồng Như vậy thì số đơn vị tham gia đóng BHXH tại thời điểm tháng 12/2002 tăng gần gấp 2 lần so với năm 1997, quỹ tiền lương và số tiền BHXH phải thu cũng đồng thời tăng gần gấp đôi. Nguyên nhân tăng số thu BHXH là do số đơn vị tham gia tăng. Theo bảng 5 năm 1997 số đơn vị ngoài quốc doanh và ngoài công lập không có đơn vị nào tham gia. Nhưng đến năm 2002 thì đã có 135 đơn vị ngoài quốc doanh và 7 đơn vị ngoài công lập tham gia đóng góp BHXH. Do vậy quỹ tiền lương mới tăng lên tỷ lệ thuận với nhau. Nhưng phần tăng này chỉ là số ít, bởi vì tuy số đơn vị tham gia tăng gần gấp đôi nhưng số đối tượng lao động tham gia BHXH chỉ tăng 1/3 so với năm 1997. Nguyên nhân chính làm tăng quỹ lương hàng năm là do Nhà nước đIều chỉnh mức lương tối thiểu tăng dần qua các năm. Cụ thể như sau: Mức 120.000 đồng áp dụng từ tháng 1/1994 đến tháng12/1996 Mức 144.000 đồng áp dụng từ tháng1/1997 đến tháng12/1999 Mức 180.000 đồng áp dụng từ tháng1/2000 đến tháng12/2000 Mức 210.000 đồng áp dụng từ tháng1/2001 đến tháng12/2002 Mức 290.000 đồng áp dụng từ tháng1/2003 đến nay. Vì vậy nếu giữ nguyên mức lương tối thiểu năm 1997 là 140.000 đồng thì quỹ lương toàn quận lúc này là 288.472.620.341 đồng. Trong bảng 6 thì năm 2002 tổng quỹ lương toàn quận là 301.002.420.442 đồng tăng so với mức lương tối thiểu cũ là73.529.800.101 đồng làm cho tổng thu quỹ BHXH tăng. Nhiệm vụ năm 2001 đặt ra cho năm 2002 là thu đạt 62,5 tỷ đồng và thực tế cuối năm 2002 thu đạt được là 65. 095.299.168 đồng hoàn thành 104% kế hoạch, duy trì tốt công tác chi trả đảm bảo an toàn tuyệt đối. Cụ thể như sau: Bảng 7: Chỉ tiêu BHXH Ba Đình và BHXH thành phố Hà Nội Năm 2002 TT Các chỉ tiêu BHXH Thành phố BHXH Ba Đình 1 Số đơn vị đăng ký đóng BHXH 5 989 612 2 Số lao động ( người) 562 411 47 329 3 Số tiền BHXH phải thu năm 2002 (tỷ đồng) 768 62,5 4 Số tiền BHXH đã thu năm 2002 ( tỷ đồng) 795,8 65,1 5 Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) 103,6 104 (Nguồn BHXH Ba Đình) Căn cứ vào bảng 7, thành phố Hà Nội nếu chia đều số đơn vị, số lượng lao động, số tiền toàn thành phố cho 12 quận, huyện ta thấy như sau : Số đơn vị bình quân một quận huyện quản lý : 499 đơn vị Số lao động bình quân một quận huyện quản lý : 46.867 người Số tiền phải thu bình quân một quận, huyện : 64 tỷ đồng Như vậy nếu so sánh chỉ tiêu số tiền phải thu BHXH ở mức bình quân đầu người quận huyện thì BHXH Ba Đình phải thu tăng gấp 1,1 lần . Đạt được những kết quả như vậy là do những cố gắng chủ yếu sau : - Công tác quản lý thu đã từng bước đi vào nề nếp ổn định. Công tác thu BHXH ở các quận ngày một hoàn thiện hơn. - Trình độ cán bộ viên chức của cơ quan được nâng cao không ngừng hoàn thiện làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình vì sự nghiệp chung vì người lao động. - Với một số lớn đối tượng tham gia và tiền thu BHXH đã từng bước áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thu BHXH. - Tiến hành phân loại các đối tượng lao động và các khoản tiền lương phụ cấp và tổ chức việc thu BHXH theo đúng chính sách. -Trong quá trình thực hiện đối chiếu, đôn đốc tiến độ nộp BHXH Ba Đình đã thực hiện đầy đủ, kip thời xử lí tình trạng nộp chậm, bằng nhiều biện pháp có hiệu quả như: + Cử các cán bộ trực tiếp xuống các đơn vị cơ sở để kiểm tra thúc giục các chủ sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của người tham gia + Tăng cường việc rà soát số lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc theo luật định. + Xử lý kịp thời những vi phạm vừa có tác dụng quảng cáo những trường hợp tương tự nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu. + Thường xuyên đôn đốc đối chiếu số thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đồng thời phối hợp chặt chẽ với các ban ngành liên quan trong việc thực hiện công tác thu BHXH tại địa bàn quận. + Tổ chức chương trình tập huấn hội thảo về thu BHXH. + Thông qua trực tiếp các cán bộ thu BHXH thường xuyên cử họ đến các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp để hướng dẫn, giải thích chính sách đôn đốc kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH. + Các cán bộ lãnh đạo đôn đốc kiểm tra đối chiếu thường xuyên để thu đúng thu đủ kịp thời số tiền BHXH phát sinh theo quỹ lương hàng tháng, hàng năm. + Kết hợp công tác thu với giải quyết các chế độ chính sách phù hợp và chặt chẽ. Thời gian và phương thức đóng BHXH Thời gian và phương thức đóng BHXH là một trong những yếu tố cần thiết giúp cho công tác thu BHXH nhanh và gọn hơn. Theo quy định ngay sau khi ngày trả lương tháng, nếu trả lương tháng 2 kỳ thì đóng BHXH vào sau ngày trả lương kỳ 2 trong tháng. Nếu đóng chậm tháng nào phải nộp lãi suất tiền gửi Ngân hàng ở thời điểm nộp chậm (Quy định thông tư 58/TC-HCSN ngày 24-5-1995 của Bộ Tài Chính). Phương thức đóng BHXH là các đơn vị tham gia không trực tiếp nộp bằng tiền mặt mà thanh toán bằng chuyển khoản qua Ngân hàng hoặc Kho bạc. Vì vậy buộc các đơn vị tham gia BHXH phải mở tài khoản ở Ngân hàng hoặc kho bạc ở địa bàn thành phố. Hàng tháng, đến thời điểm nộp BHXH các cán bộ BHXH Ba Đình nhắc nhở các đơn vị tham gia BHXH nộp, các đơn vị này sẽ làm việc với các Ngân hàng, kho bạc mà có tài khoản của mình biết tiếp theo Ngân hàng, Kho bạc thành phố sẽ báo cho BHXH cấp quận là đơn vị đó đã nộp tiền. Vì vậy BHXH các cấp được yêu cầu Ngân Hàng, Kho bạc trích tiền từ tài khoản của đơn vị sử dụng lao động để nộp tiền BHXH và tiền phạt chậm BHXH( nều có) mà không cần có sự chấp nhận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động. Do có sự liên hệ chặt chẽ giữa 3 bên này mà BHXH quận Ba Đình luôn dẫn đầu trong công tác thu quỹ BHXH so với các quận khác. Mức thu BHXH qua từng chế độ giai đoạn 1997- 2002 3.1. Tình hình thu quỹ BHXH ngắn hạn 1997 –2002 ( Bao gồm các chế độ : ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp ) Chế độ ốm đau : Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc do ốm đau . Việc thực hiện chế độ này như hiện hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoấ trong khi xét trợ cấp . Đảm bảo công bằng giữa đóng hưởng BHXH đồng thời có tính đến các yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH . Chế độ thai sản : Chế độ này giúp cho lao động nữ có được trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc được vì sinh con . Hơn nữa việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau . Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp : Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp . Đồng thời chế độ này còn quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp . Ba chế độ này để hình thành nên nguồn quỹ bảo hiểm đều là do người sử dụng lao động đóng góp . Sở dĩ như vậy là vì : - Những rủi ro xảy ra đối với người lao động hoàn toàn ngoài sự mong muốn của họ và phần lớn là mang tính khách quan vì lao động cho họ mà người lao động mới gặp rủi ro . - Hầu hết các rủi ro đều liên quan đến môi trường sản xuất kinh doanh trang thiết bị bảo hộ lao động, vệ sinh …đến máy móc thiết bị nhà xưởng công cụ lao động . - Thời gian làm việc dài hay ngắn, cao hay thấp hoàn toàn do người sử dụng lao động quy định . Nguồn quỹ dành cho 3 chế độ này là 5% trong 15% đóng góp của người sử dụng lao động được chi trả trong cả quá trình lao động . Vì vậy nguồn quỹ này có thể cân đối thu chi hàng năm . Cụ thể được thể hiện như sau : Bảng 8 Tình hình thu quỹ BHXH ngắn hạn 1997- 2002 ( Chế độ ốmđau, thai sản, tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp ) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Thu (Tỷ đồng ) 1,567 1,632 1,794 2,430 2,953 3,125 ( Nguồn BHXH Ba Đình ) Trong nguồn quỹ BHXH Ba Đình không phân rõ mức thu quỹ BHXH ngắn hạn nhưng dành ra 5% trong 15% phần đóng góp của người sử dụng lao động để chi trả cho các chế độ ngắn hạn ( ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ) . Vì vậy số thu quỹ BHXH hàng năm tăng theo thu quỹ BHXH cụ thể là : Năm 1997 múc thu là 1,567 tỷ đồng đến năm 2002 mức thu đạt là :3,125 tỷ đồng tăng 1,358 tỷ đồng so với năm 1997 . Việc chi trả các chế độ này được thực hiện theo nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng đến đâu hưởng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33612.doc