Một số lý luận về môi trường kinh doanh quốc tế của Doanh nghiệp

Chương I Một số vấn đề lý luận về môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp I. Xuất khẩu _ loại hình kinh doanh chủ yếu trong kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. 1.Khái niệm và các hình thức kinh doanh quốc tế. 1.1. Khái niệm kinh doanh quốc tế. K inh doanh quốc tế đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá giữa hai hay nhiều quốc gia. Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, kinh doanh quốc tế và các hình thức kinh doanh doanh quốc tế ngày c

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số lý luận về môi trường kinh doanh quốc tế của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng được mở rộng và phát triển. Với những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, trình độ quản lý ... Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia trên thế giới đã và đang nâng cao vị thế và tăng thị phần của mình trong khu vực và trên thế giới nói chung. Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự tác động ngày càng tăng của xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đối với nền kinh tế từng quốc gia và thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế và các hình thức kinh doanh quốc tế ngày càng đa dạng, phong phú và đang trở thành một trong những nội dung cực kỳ quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. F Kinh doanh quốc tế là một hoạt động rất hấp đẫn. Nó thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các khoa học quản lý kinh tế với các hoạt động kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của từng quốc gia, quốc tế như yếu tố luật pháp, kinh tế, văn hoá, chính trị ... Hơn nữa, hoạt động kinh doanh quốc tế nhằm từng bước khắc phục sự suy thoái nền kinh tế của mỗi quốc gia, khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia về các nguồn lực cho sự phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần thúc đẩy các quốc gia tiến tới xã hội công bằng, văn minh. Trong những điều kiện lịch sử mới, vấn đề mở cửa nền kinh tế đang trở nên cấp bách và đang tạo cho nhiều quốc gia những cơ hội thuận lợi trong quá trình đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện này mỗi quốc gia đang phải đứng trước những thử thách mới như phải đương đầu với cuộc cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hơn diễn ra trên khu vực và toàn cầu, những rủi ro trong nền kinh tế đang là sức ép rất lớn đối với từng quốc gia và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. F Kinh doanh quốc tế là toàn bộ các giao dịch, kinh doanh được thực hiện giữa các quốc gia nhằm thoả mãn các mục tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia và trong môi trường kinh doanh mới và xa lạ. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh không nên lấy kinh nghiệm kinh doanh nội địa để áp đặt hoàn toàn cho kinh doanh với nước ngoài. Muốn kinh doanh ở nước ngoài một cách hiệu quả, trước hết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh nơi mà doanh nghiệp muốn thâm nhập hoạt động. F Kinh doanh quốc tế được tiến hành bởi các nhà kinh doanh tư nhân và các doanh nghiệp Nhà nước nhằm đáp ứng các mục tiêu và mục đích của họ. Mục đích kinh doanh của tư nhân chủ yếu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc ổn dịnh lợi nhuận. Vì vậy sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh tư nhân trong hoạt động kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản vào nguồn lực ở nước ngoài, vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và khả năng cạnh tranh với các đối tác quốc tế. Còn kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, chính phủ có nhiều mục tiêu khác nhau như mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao...Do đó, kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, chính phủ có thể hoặc không hoàn toàn hướng tới lợi nhuận. Trên góc độ một doanh nghiệp (xí nghiệp, công ty , hãng ) mà xét, để đạt được bất kì mục đích nào của mình, doanh nghiệp cần phải cân nhắc, lựa chọn những hình thức kinh doanh quốc tế cho phù hợp. Sự lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp phụ thuộc vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp, vào môi trường và thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động hoặc muốn thâm nhập. Các điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế không chỉ ảnh hưởng đến việc lựa chọn các hình thức kinh doanh, mà còn ảnh hưởng đến các chức năng hoạt động của doanh nghiệp như chức năng sản xuất, marketing, tài chính, kế toán... Ngược lại, sự hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cũng có những tác động nhất định đối với môi trường nhằm hoà nhập với những thay đổi của môi trường. 1.2. Các hình thức kinh doanh quốc tế. K hi tiến hành kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp phải lựa chọn các hình thức kinh doanh phù hợp với môi trường và khả năng của mình, doanh nghiệp phải xem xét, cân nhắc tính đến các mục đích kinh doanh, các nguồn và khả năng của mình. Đồng thời, doanh nghiệp phải nghiên cứu đánh giá các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh (môi trường bên trong, môi trường bên ngoài). Các hình thức kinh doanh quốc tế chủ yếu gồm : 1.2.1. Xuất nhập khẩu hàng hoá. Đ ây là một trong những hình thức kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới. Hình thức kinh doanh xuất nhầp khẩu thường là hoạt động kinh doanh quốc tế cơ bản của một quốc gia, nó là chiếc chìa khoá mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế. F Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. F Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau : xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình (dịch vụ) ; xuất nhập khẩu trực tiếp do chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhiệm ; xuất nhập khẩu gián tiếp (hay uỷ thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Gắn liền với xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình ngày nay xuất nhập khẩu dịch vụ rất phát triển. 1.2.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Œ Cấp giấy phép : là hợp đồng thông qua đó một công ty (người cấp giấy phép) trao quyền sử dụng những tài sản vô hình cho một công ty khác (người được cấp giấy phép) trong một khoảng thời gian nhất định và người được cấp giấy phép thường phải trả tiền bản quyền cho người cấp giấy phép.  Đại lý đặc quyền : là hình thức hoạt động kinh doanh mà qua đó một công ty cho một đối tác độc lập quyền sử dụng nhãn hiệu mẫu mã và nó là một tài sản cần thiết cho việc kinh doanh của phía đối tác và công ty vẫn tiếp tục thực hiện sự giúp đỡ hoạt động kinh doanh của các đối tác ấy và công ty cũng nhận được một khoản tiền từ đối tác ấy. Ž Hợp đồng quản lý : là những hợp đồng thông qua đó một công ty thực hiện việc giúp đỡ một công ty khác bằng việc cung cấp những nhân viên quản lý nhằm hỗ trợ thực hiện những chức năng quản lý tổng quát hoặc chuyên môn sâu trong một khoảng thời gian đặc biệt để thu được một khoản tiền thù lao nhất định từ sự giúp đỡ đó.  Hợp đồng theo đơn đặt hàng : Đây là hợp đồng thường diễn ra đối với các dự án lớn và các sản phẩm gồm nhiều chi tiết, bộ phận phức tạp đến mức mà một công ty (hay doanh nghiệp) duy nhất khó có thể thực hiện được.  Hợp đồng xây dựng và chuyển giao : Hợp đồng này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp xây dựng. Dự án xây dựng và chuyển giao liên quan với một hợp đồng nhằm xây dựng những tiện nghi hoạt động, sau đó chuyển giao cho người chủ để thu được một khoản tiền thù lao khi những công trình này sẵn sàng đi vào hoạt động. Các doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng xây dựng và chuyển giao thường là những nhà sản xuất các thiết bị công nghiệp và họ sẽ cung cấp một thiết bị của mình cho dự án. Những doanh nghiệp này chủ yếu là những doanh nghiệp xây dựng, ngoài ra cũng có thể là những doanh nghiệp tư vấn, nhà sản xuất. Khách hàng của những dự án xây dựng và chuyển giao này thường là một cơ quan Nhà nước họ ra sắc lệnh buộc một sản phẩm nhất định nào đó phải được sản xuất ở địa phương và dưới sự bảo trợ của họ. ‘ Đầu tư nước ngoài : Đầu tư nước ngoài là một quá trình trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng nhau góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nào đó nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Nói cách khác, đầu tư nước ngoài là quá trình di chuyển vốn giữa các quốc gia nhằm tìm kiếm lợi ích thông qua các hoạt động sử dụng vốn ở nước ngoài. F Đầu tư trực tiếp là một bộ phận của đầu tư nước ngoài, nó được thực hiện khi sự điều khiển, quản lý gắn liền với quá trình đầu tư, tức gắn quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn của người đầu tư với nhau. Đây là hình thức cao nhất của kinh doanh quốc tế. Đầu tư trực tiếp có những đặc điểm chủ yếu sau. ỉ Chủ đầu tư có quyền điều khiển, quản lý đối với tài sản đầu tư. ỉLà hình thức chuyển giao lớn về vốn, công nghệ, nhân lực và trình độ quản lý, vì chủ yếu do các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện. ỉ Đưa các doanh nghiệp vươn tới thị trường nước ngoài. ỉ Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp ở nước ngoài lớn hơn xuất khẩu. ỉ Chủ đầu tư có thế sở hữu toàn bộ hay một bộ phận tài sản đầu tư... Hoạt động kinh doanh quốc tế thông qua đầu tư trực tiếp chính là việc thành lập các công ty liên doanh (liên doanh công ty với công ty hoặc chính phủ với công ty) hoặc thành lập ra các chi nhánh sở hữu hoàn toàn theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gọi là xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. F Cùng với đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các quốc gia và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có yếu tố quốc tế. Đầu tư gián tiếp cũng là một loại hình đầu tư nước ngoài mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn (hay tài sản) đầu tư. Người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý điều hành dự án đầu tư, họ thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay hoặc lợi tức cổ phần. Các doanh nghiệp và tư nhân tiến hành đầu tư gián tiếp thông qua hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường chứng khoán. Đầu tư gián tiếp đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với các hoạt động của doanh nghiệp, nhằm mở rộng và phát triển các hình thức và hoạt động kinh doanh quốc tế. Tuỳ thuộc vào môi trường kinh doanh cụ thể, căn cứ vào mục đích và khả năng sẵn có của mình mà doanh nghiệp đưa ra các quyết định lựa chọn đúng đắn các hình thức kinh doanh và khẳng định hình thức kinh doanh nào là thích hợp và là chủ yếu nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động của họ. 2. Xuất khẩu - vai trò của hoạt động xuất khẩu. 2.1. Khái niệm về xuất khẩu. X uất khẩu là quá trình tổ chức đưa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu là nguồn chính tăng thu ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và sản xuất kinh doanh, ngoài ra còn phục vụ cho mục đích chi tiêu khác mang tính chất quốc tế. F Hoạt động xuất khẩu là hoạt dộng giao dịch buôn bán giữa các bên có quốc tịch khác nhau. Thị trường của nó vô cùng lớn, phương thức thanh toán rất đa dạng, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mà chủ yếu là ngoại tệ mạnh... Mỗi quốc gia khác nhau lại có những tập quán buôn bán khác nhau và có luật xuất nhập khẩu không giống nhau ... F Hoạt động xuất khẩu là hình thức quan trọng của kinh doanh quốc tế đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển. Tuy hình thức cơ bản là trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó đã biểu hiện dưới các hình thức khác nhau. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi loại hình kinh tế và hàng hoá thì rất da dạng từ hàng hoá tiêu dùng đến những hàng hoá có kỹ thuật cao. 2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. L à một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh đối ngoại, xuất khẩu trở thành phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi rất nhiều điều kiện, những điều kiện chủ yếu có thể là : nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật. Song hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn, kỹ thuật và thừa lao động. Những yếu tố cơ bản này chưa đáp ứng được thì buộc phải nhập từ bên ngoài, nhưng điều quan trọng là phải có ngoại tệ. Trong điều kiện nền kinh tế nhỏ, công nghệ lạc hậu thì xuất khẩu chỉ trông chờ vào những sản phẩm sẵn có trong nước, chủ yếu là những mặt hàng nông lâm hải sản, những mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các đặc sản và các khoáng sản. Với điều kiện như vậy xuất khẩu những mặt hàng sẵn có trong nước là điều kiện cần thiết để có thể thu ngoại tệ. Thực tiễn đã cho thấy xuất khẩu là một trong những mũi nhọn có ý nghĩa quyết định tới quá trình phát triển kinh tế của một nước, điều đó được thể hiện; Œ Xuất khẩu tạo ra vốn chủ yếu cho nhập khẩu để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá với những bước đi phù hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có tiềm lực lớn, vốn lớn để nhập khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nguồn vốn nhập khẩu có thể huy động từ các hình thức như : ð Đầu tư nước ngoài. ð Vay nợ, viện trợ. ð Thu từ xuất khẩu. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng cũng phải trả dù bằng cách này hay cách khác. Nguồn vốn quan trọng nhất và cơ bản nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. ở các nước kém phát triển một trong những nguyên nhân chủ yếu là thiếu tiềm lực về vốn. Trong khi đó nguồn vay nước ngoài thường không ổn định, chỉ tăng lên khi nước chủ nhà có những chính sách ưu đãi khác hoặc có mối quan hệ chặt chẽ ...  Xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu kinh tế trên thế giới đã và đang có những thay đổi mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là tất yếu của các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế : C Một là : Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ các sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản vẫn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm. C Hai là : Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nó được thể hiện ở : ố Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt xuất khẩu thì các ngành như chế biến nguyên liệu bông, ngành may mặc ... cũng có cơ hội phát triển. ố Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất. ố Xuất khẩu là phương tiện cơ bản để tạo vốn, thu hút kỹ thuật, công nghệ mới từ nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực sản xuất mới. Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán là ngoại tệ với một hoặc cả hai bên, xuất khẩu làm tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia. Đặc biệt đối với nước nghèo đồng tiền có giá trị thấp thì đó là nhân tố có tác động rất tích cực tới cung cầu ngoại tệ tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Đồng thời nó cũng là nhân tố quyết định tới sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Thực tế cho thấy những nước phát triển là những nước có nền ngoại thương mạnh và năng động. Ž Xuất khẩu tác động trực tiếp tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân : Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng rất nhiều đến lĩnh vực của cuộc sống. Sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thu hút được hàng triệu lao động, tạo ra thu nhập ổn định. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu để phục vụ đời sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú hơn trong tiêu dùng của nhân dân.  Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Đồng thời nó cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. II. Môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. M ôi trường kinh doanh quốc tế là tổng thể các môi trường thành phần trong và ngoài nước như môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, địa lý, lịch sử, cạnh tranh, tài chính ... chúng tác động và chi phối mạnh mẽ đến những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh các mục đích, các hình thức hoạt động, các hoạt động chức năng của mình cho thích ứng nhằm nắm bắt được cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. F Môi trường kinh doanh quốc tế với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các môi trường thành phần là những bộ phận không tách rời, giữa chúng có những tác động qua lại lẫn nhau. Môi trường kinh doanh là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài nước có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chi phốii đến kết qủa kinh doanh của nó, tức là chi phối đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong kinh doanh. Chính vì vậy khi tiến hành hoạt động kinh doanh doanh nghiệp cần phải có những kiến thức cơ bản về địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, pháp luật ... Từ đó, tuỳ thuộc vào môi trường kinh doanh cụ thể doanh nghiệp tự điều chỉnh các hoạt động chức năng, biện pháp và hình thức hoạt động của chính mình sao cho phù hợp với môi trường ở đó doanh nghiệp đang hoạt động để tăng cơ hội, giảm thách thức, đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Khi xem xét, phân tích môi trường kinh doanh các nhà kinh doanh cần phải thống nhất một số quan điểm sau: è Thứ nhất, môi trường kinh doanh không phải là cố định mà luôn biến đổi. Vì vậy, khi phân tích đáng giá môi trường kinh doanh đòi hỏi phải đứng trên quan điểm động, phải tìm hiểu và nắm bắt những thông tin thường xuyên và kịp thời để có những hoạt động thích ứng, phù hợp. Một nhà kinh doanh cần phải dự đoán được những sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. è Thứ hai, môi trường kinh doanh là sự đan xen của các môi trường thành phần, các môi trường thành phần có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Phân tích đánh giá môi trường phải xem xét đánh giá một cách tổng thể trong mối tương quan giữa các môi trường thành phần. è Thứ ba, ngày nay các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh trong nước hoặc một số nước mà kinh doanh ở rất nhiều nước. Và cùng với xu thế hội nhập hoá thì các doanh nghiệp cần phải đánh giá phân tích môi trường kinh doanh cả môi trường trong nước và môi trường kinh doanh quốc tế nói chung. Khác với hoạt động kinh doanh trong nước, hoạt động kinh doanh quốc tế buộc các nhà quản lý, các doanh nghiệp phải làm việc trong môi trường kinh doanh mới và phức tạp hơn. Sự khác nhau giữa các nước về địa lý, lịch sử, văn hoá, kinh tế, chính trị, luật pháp là những nhân tố chủ yếu làm cho môi trường kinh doanh giữa các nước khác nhau. Quan hệ giữa mục đích kinh doanh, hình thức kinh doanh, hoạt động chức năng và các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện qua sơ đồ sau. Sơ đồ 01: KDQT- Hoạt động và ảnh hưởng ảnh hưởng môi trường bên ngoài - Địa lý - Lịch sử - Chính trị - Kinh tế - Văn hoá - Luật pháp hoạt động Mục tiêu - Phát triển việc bán hàng - Đạt được nguồn lực - Đa dạng hoá môi trường cạnh tranh - Tốc độ thay đổi sản phẩm - Qui mô sản xuất tối ưu - Số lượng người tiêu dùng - Số lượng hàng hoá được mua bởi mỗi khách hàng - Tính đồng nhất giữa các khách hàng - Sự cạnh tranh giữa người trong nước và người ngoài nước - Chi phí vận chuyển sản phẩm - Những khả năng đơn nhất của người cạnh tranh phương tiện hoạt động - Nhập khẩu - Xuất khẩu Chức năng - Vận chuyển - Sản xuất - Cấp giấy phép kinh doanh - Tiếp thị - Hợp đồng quản lý - Kế toán - Xây dựng và chuyển giao - Tài chính - Đầu tư trực tiếp - Nhân sự - Đầu tư gián tiếp Đứng trên các giác độ khác nhau người ta chia môi trường kinh doanh quốc tế thành các môi trường thành phần khác nhau. Nếu nhìn vào sơ đồ trên thì ta có thể chia môi trường kinh doanh quốc tế thành hai môi trường chủ yếu : Môi trường bên ngoài va môi trường cạnh tranh. a. Môi trường bên ngoài : M ôi trường bên ngoài là tổng thể các điều kiện bên ngoài của doanh nghiệp mà nó ảnh hưởng đến sự thành công trong doanh nghiệp của họ. Vì lý do đó những hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra trong khung cảnh lớn của môi trường quốc tế, những nhà quản lý của họ phải có những kiến thức thực tế về những khoa học xã hội cơ bản bao gồm : Địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, pháp lý, văn hoá... Œ Kiến thức về địa lý là rất quan trọng vì nó giúp cho các nhà quản lý xác định vị trí, số lượng, chất lượng nguồn tài nguyên của thế giới và khả năng khai thác của doanh nghiệp. Do sự mất cân đối trong việc phân phối các nguồn tài nguyên nên việc sản xuất các sản phẩm và dịch vụ khác nhau phải được thực hiện ở các nơi khác nhau trên thế giới.  Hiểu biết tốt về kiến thức lịch sử cho phép các nhà quản lý có được những ghi phép hệ thống và các việc đánh giá các ý tưởng, các thể chế. Xem lại quá khứ các nhà kinh doanh quốc tế sẽ hiểu rõ hơn các chức năng của hoạt động kinh doanh ở nước ngoài trong hiện tại. Như vậy lịch sử chính là sự tích luỹ những kinh nghiệm của con người, nó xác định cách sống hôm nay của chúng ta. Quá trình phát triển của kỹ thuật và tục lệ đã mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh. Ž Kiến thức chính trị đang và sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với việc định hướng kinh doanh toàn cầu. Khoa học chính trị mô tả mối quan hệ giữa các tổ chức kinh doanh và chính trị quốc gia. Nó cũng giúp giải thích những mẫu hình về cách cư xử của Chính phủ với các công ty kinh doanh trong những lĩnh vực mà lợi ích có thể mâu thuẫn. Sự lãnh đạo chính trị ở mọi quốc gia xem xét đến việc cho phép các doanh nghiệp quốc tế hoạt động hay không ? và nếu có thì hoạt động thế nào ?...  Luật pháp trong nước và quốc tế xác định cái mà nhà quản lý công ty được hay không được làm :  ảnh hưởng của các công ty quốc tế đối với nền kinh tế của nước mà công ty hoạt động và nước mình. ‚ Hệ quả của chính sách kinh tế của một nước đối với công ty kinh doanh quốc tế. Lý thuyết kinh tế cũng giải thích lý do một nước lại trao đổi sản phẩm và dịch vụ đối với nước khác. Lý do sự chuyển vốn và nhân lực từ nước này sang nước khác trong lúc hoạt động kinh doanh đang diễn ra. Tại sao đồng tiền của một nước lại có mức giá nào đó so với đồng tiền của nước khác. Kinh tế học cung cấp cho chúng ta một cái nền tảng để hiểu tại sao, ở đâu và khi nào một quốc gia có thể sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ rẻ hơn một nước khác.  Qua nghiên cứu về văn hoá, các nhà quản lý hiểu rõ hơn giá trị, thái độ và niềm tin của con người liên hệ đến họ và mục tiêu của họ. Như vậy sẽ cải thiện được khả năng của các nhà quản lý trong khi hoạt động ở các xã hội khác nhau, am hiểu về truyền thống văn hoá của các quốc gia khác nhau để có những chính sách sản phẩm cho phù hợp... b. Môi trường cạnh tranh. M ỗi doanh nghiệp và mỗi ngành công nghiệp đều có môi trường cạnh tranh khác nhau, nó có thể biến động rất nhiều từ nước này sang nước khác. Hệ qủa là một số doanh nghiệp có thể tận dụng những cơ hội ở nước ngoài tốt hơn những doanh nghiệp khác và một vài doanh nghiệp gặp phải vấn đề cạnh tranh quốc tế lớn hơn rất nhiều so với những doanh nghiệp chỉ hoạt động ở thị trường nội địa. Những dạng thích hợp nhất cho cơ hội kinh doanh quốc tế như hoạt động xuất khẩu nó có thể rất khác nhau giữa các doanh nghiệp và sản phẩm, cũng như giữa các quốc gia diễn ra việc kinh doanh ở nước ngoài. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. 2.1. Các nhân tố bên ngoài. 2.1.1. Nhân tố luật pháp. M ột trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp đó là hệ thống luật pháp. Vì vậy, hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi nhà quản lý phải quan tâm và nắm vững luật pháp : Luật quốc tế và luật của từng quốc gia mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động, cũng như mối quan hệ luật pháp tồn tại giữa các nước này cũng như giữa các nước trong khu vực khác nhau. Luật quốc tế và luật của từng quốc gia cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nói cách khác, luật pháp qui định và cho phép các lĩnh vực, những hoạt động và những hình thức kinh doanh nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện kinh doanh và những lĩnh vực nào, những hoạt động nào, những hình thức nào, những mặt hàng nào doanh nghiệp không được phép tiến hành hoặc được phép tiến hành nhưng có hạn chế ở quốc gia đó hay cũng như khu vực đó nói chung. F Mỗi một quốc gia có một hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế, nó gồm luật thương mại (luật xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ ...), luật đầu tư nước ngoài, luật thuế, pháp luật ngân hàng ... Giữa các nước thường tiến hành kí kết các hiệp định, hiệp ước và dần hình thành nên luật khu vực và luật quốc tế. Thực tế thế giới trong những năm qua đã chỉ ra rằng sự xuất hiện của các liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh thuế quan... đã xuất hiện những thoả thuận mới, có tính chất song phương hoặc đa phương, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh doanh buôn bán trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm chắc hệ thống luật pháp của từng quốc gia và các hiệp định giữa các nước mới cho phép doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh, hình thức kinh doanh, mặt hàng kinh doanh ... chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. F Pháp luật của một quốc gia cũng có liên hệ và ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh giữa các nước với nhau. Trong điều kiện này buộc các quốc gia phải điều chỉnh hoạt động của mình cho thích ứng, các doanh nghiệp phải phản ứng linh hoạt để đáp ứng nhanh với những qui định mới về luật ở các quốc gia mà mình đang hoạt động ở đó. 2.1.2. Nhân tố chính trị. N hân tố chính trị đã và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh quốc tế. Tính ổn định về chính trị của các quốc gia sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường nước ngoài. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có điều kiện để ổn định để phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội. Chính vì vậy, khi tham gia kinh doanh trên thị trường thế giới, doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở các quốc gia, ở các nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động. Sự ổn định chính trị được biểu hiện ở chỗ : thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân đồng tình hay không, hệ thống chính trị, đặc biệt là đảng cầm quyền có đủ uy tín và độ tin cậy đối với nhân dân và các doanh nghiệp, công ty ở trong và ngoài nước hay không... 2.1.3. Nhân tố kinh tế. H oạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp buộc phải có những kiến thức nhất định về kinh tế. Các kiến thức về kinh tế sẽ giúp các nhà quản lý, kinh doanh xác định được : một mặt, những ảnh hưởng của doanh nghiệp đổi với nền kinh tế nước chủ nhà và nước sở tại ; mặt khác, cũng thấy được ảnh hưởng của những chính sách kinh tế của một quốc gia đối với hoạt động của doanh nghiệp. F Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia nói riêng, của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nói chung có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Tính ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là các vấn đề mà các doanh nghiệp rất quan tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ngoài. F Nhân tố cơ bản tác động đến sự hoạt động của kinh tế thị trường là quyền tối cao của khách hàng. Theo P. Samuelson đấy là một “ông vua”, quyền tối cao của khách hàng là quyền tự do của người tiêu dùng, nó tác động đến sản xuất thông qua sự lựa chọn của họ. 2.1.4. Nhân tố văn hoá. V iệc buôn bán, kinh doanh của doanh nghiệp đều được điều chỉnh bởi con người. Vì vậy, doanh nghiệp phải cân nhắc sự khác nhau giữa những nhóm dân tộc và xã hội để dự đoán, điều hành các mối quan hệ và hoạt động của mình. Sự khác nhau về con người đã làm gia tăng những hoạt động kinh doanh khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó buộc các nhà quản lý, các nhà kinh doanh phải có sự am hiểu về văn hoá của nước sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế giới. F Văn hoá được hiểu như một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả các khả năng khác mà con người có được. Văn hoá qui định hành vi của mỗi con người, thông qua mối quan hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. F Do có sự khác nhau về nền văn hoá đang tồn tại giữa các quốc gia, cho nên các nhà kinh doanh phải sớm có những quyết định có hay không tham gia kinh doanh ở môi trường đó. Điều này trong một chừng mực nào đó tuỳ thuộc vào sự chấp nhận của doanh nghiệp đối với môi trường văn hoá nước ngoài. Nhân tố văn hoá nổi bật nhất là tập quán, lối sống, tôn giáo và ngôn ngữ. Các nhân tố này được coi là “hàng rào chắn” các hoạt động giao dịch kinh doanh. Mỗi quốc gia, thậm chí trong từng vùng quốc gia, các dân tộc khác nhau có tập quán (sản xuất, tiêu dùng, kinh doanh, giao tiếp...), lối sống và ngôn ngữ riêng, do đó các nhà kinh doanh cần phải biết rõ và hành động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới... F Thị hiếu tập quán của người tiêu dùng còn ảnh hưởng đến nhu cầu, vì mặc dù hàng hoá có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó được họ chấp nhận. Vì vậy, nếu nắm bắt được thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng thì doanh nghiệp kinh doanh có thể mở rộng khối lượng cầu một cách nhanh chóng. Chính thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng châu lục, từng dân tộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo. F Ngôn ngữ cũng là một yếu tố quan trọng trong nền văn hoá của từng quốc gia. Nó cung cấp cho các nhà quản lý kinh doanh một phương tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh quốc tế. Đối với một công ty kinh doanh quốc tế, hoạt động kinh doanh muốn mở rộng, trước hết đòi hỏi phải hiểu được ngôn ngữ. F Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động hàng ngày của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Bởi vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần phải hiểu biết các loại tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội, nơi mà doanh nghiệp tổ chức các hoạt động kinh doanh. Tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Chẳng h._.ạn : ngày nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm... 2.1.5. Nhân tố địa lý. M ỗi một nước khác nhau có vị trí địa lý khác nhau, mỗi nước hay mỗi khu vực có vị trí địa lý thuận lợi về mặt này hay mặt khác. Tuy nhiên cũng có nước có vị trí đặc biệt thuận lợi, chẳng hạn như Singapore. Song hầu như mỗi nước chỉ có một số mặt lợi thế nào đó. Chính vì vị trí địa lý khác nhau cho nên dẫn đến có lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối giữa các quốc gia, các khu vực trên toàn thế giới. Lợi thế về vị trí địa lý có thể là địa tô chênh lệch, sự giàu có hay nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên, điều kiện khí hậu, sự ảnh hưởng của thiên tai... Bởi vậy, khi tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế các nhà quản lý phải nắm chắc được vị trí địa lý của từng nước, từng khu vực mà mình đang và sẽ hoạt động, phải phân tích được nguồn tài nguyên, sự khai thác cùng với khả năng khai thác của từng nước và từng khu vực. Từ đó có những chính sách sản phẩm, hình thức kinh doanh phù hợp với từng khu vực địa lý. 2.1.6. Nhân tố lịch sử. L ịch sử là quá khứ, nhưng “ nếu ai vội quên đi quá khứ thì người đó sẽ phải chấp nhận quá khứ một lần nữa”. Lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau là không giống nhau, lịch sử là sự tích luỹ những kinh nghiệm của con người, xem xét lịch sử sẽ biết được các ý tưởng kinh doanh, triết lý kinh doanh, thói quen, tục lệ, sự trung thực hay không trung thực trong kinh doanh ... để từ đó lựa chọn được các quốc gia mà doanh nghiệp có thể kinh doanh, đặt mối quan hệ lâu dài hay tạm thời... 2.2. Các nhân tố thuộc về môi trường cạnh tranh. S ự khác nhau truyền thống giữa kinh doanh nội địa và kinh doanh quốc tế là ở chỗ kinh doanh quốc tế thường có khoảng cách địa lý lớn hơn, xa hơn. Điều đó làm cho công ty kinh doanh quốc tế luôn gặp phải khó khăn hơn, vì họ phải chi phí nhiều hơn cho hoạt động, khó khăn trong việc mở rộng các hình thức kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, ngày nay do sự phát triển nhanh chóng và hiện đại của thông tin và giao thông vận tải đã làm cho những khó khăn về khoảng cách và địa lý bị giảm dần. F Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một công ty. Sự can thiệp và giúp đỡ nhiều hay ít của chính phủ trong chừng mực nhất định đã thúc đẩy hay cản trở hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng thúc đẩy hay kìm hãm việc áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ ở doanh nghiệp. Việc áp dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học, công nghệ tiên tiến sẽ góp phần giúp doanh nghiệp giảm bớt những rủi ro trong các hoạt động kinh doanh quốc tế. Ngày nay, với bối cảnh của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh quốc tế đang tiếp tục mở rộng và phát triển. Trong điều kiện này, nhiều công ty có khả năng nắm bắt nhanh được những cơ hội kinh doanh ở nước ngoài hơn trước đây. Sự tác động mạnh mẽ của những xu hưởng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới đã và đang thúc đẩy hầu hết các công ty lớn của nhiều quốc gia tham gia mạnh mẽ vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Điều đó được giải thích bởi các lý do sau đây : Y Các sản phẩm mới đang được quốc tế hoá một cách nhanh chóng. Y Các công ty kinh doanh trong nước cũng buộc phải đối đầu với các nhà kinh doanh quốc tế. Y Các công ty có thể tiến hành sản xuất kinh doanh các sản phẩm của họ ở nhiều nước khác nhau. F Trong nền kinh tế thị trường, công cụ được các công ty và các nhà kinh doanh sử dụng rộng rãi trong phân tích môi trường cạnh tranh là mô hình của Micheal Porter. Theo ông môi trường cạnh tranh được hình thành bởi những nhân tố chủ yếu mà ông gọi là 5 lực lượng cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh. Bất kỳ doanh nghiệp công nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những quyết định lựa chọn phương hướng, nhiệm vụ phát triển của mình. 5 lực lượng cạnh tranh cơ bản đó là: Sơ đồ 02 : Mô hình 5 sức mạnh của Micheal Porter Sức ép của doanh nghiệp mới Sức ép của nhà cung ứng Sức ép của các doanh nghiệp hiện tại Sức ép của người tiêu dùng Sức ép của các sản phẩm thay thế Năm lực lượng cạnh này tồn tại trong một thể thống nhất tạo thành môi trường cạnh tranh, quyết định tính chất, qui mô của cạnh tranh và khả năng thu lợi nhuận của các doanh nghiệp. Œ Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trên thị trường là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thị trường bao gồm rất nhiều các doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh thích hợp với hoàn cảnh môi trường chung. Mức độ, qui mô cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang hoạt động phụ thuộc vào: ð Trình độ tập trung hoá sản xuất kinh doanh. ð Số lượng đối thủ cạnh tranh. ð Dung lượng thị trường và năng lực sản xuất.  Sự đe doạ của các đối thủ canh tranh tiềm ẩn sẽ nhảy vào thị trường. Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất và qui mô cạnh tranh trên thị trường do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém không thích nghi với môi trường đồng thời làm tăng khả năng của một số doanh nghiệp khác. Đó là qui luật khách quan. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tính toán cân nhắc đánh giá khả năng sản xuất của các đối thủ tiềm ẩn và có những quyết định chiến lược phù hợp trong sản xuất kinh doanh của mình. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm và không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ, phát huy lợi thế qui mô, hoàn thiện hệ thống phân phối sản phẩm ... Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường phụ thuộc chặt chẽ vào những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và mức độ hấp dẫn của thị trường đó. Mỗi doanh nghiệp đều có mức độ trở ngại khác nhau đối với các đối thủ tiềm ẩn muốn tham gia vào thị trường Ž Sức ép của những nhà cung ứng Những người cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuật rất lớn. có rất nhiều cách khác nhau mà những người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ có thể nâng giá hoặc giảm chất lượng những vật tư kỹ thuật mà họ cung ứng hoặc đồng thời thực hiện cả hai. Khi những nhà cung ứng thuộc về một vài doanh nghiệp lớn, nắm trong tay đại đa số nguồn vật tư thiết bị chủ yếu thì khả năng tác động của họ lớn lơn rất nhiều. Điều này có thể xảy ra nếu mức độ tập trung hoá trong nghành cung ứng cao hơn nghành sản xuất chế biến, hoặc là sự khan hiếm của các nguồn vật tư thay thế, tính chất và tầm quan trọng của nguồn vật tư .  Sức ép của khách hàng. Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn, tính tập trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trên thị trường, sản xuất sẽ tăng lên.  Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế. Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép của cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trên thị trường mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trên thị trường. Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Đối sách cơ bản của các doanh nghiệp và thực hiện chiến lược phân biệt sản phẩm nhằm tạo cho sản phẩm có chất lượng khác biệt hẳn sản phẩm thay thế hoặc làm tăng chi phí của khách hàng khi họ chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của các doanh nghiệp. Ngoài những nhân tố trên tác động ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh có thể còn là : tốc độ thay đổi sản phẩm ; qui mô sản xuất tối ưu ; số lượng người tiêu dùng ; chi phí vận chuyển sản phẩm .... III. Sự cần thiết phải tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh quốc tế. 1. Những xu thế biến đổi của môi trường kinh doanh toàn cầu hiện nay. 1.1. Biến đổi trong tư duy và triết lý kinh doanh toàn cầu. T hị trường toàn cầu là mảnh đất tốt cho sự hoạt động của các chủ thể kinh doanh quốc tế có tính cá thể, liên kết đa dạng, nhiều chiều và khác biệt về mức độ. Nền tảng của kiểu loại tư duy mới là kỹ thuật phân tích kinh doanh, tạo khả năng dự đoán các sự kiện kinh doanh tương lai khác một cách cơ bản với loại kỹ thuật mô tả trước đây, chỉ cho phép doanh gia hướng vào quá khứ. Con người với tiềm lực chất xám được coi là nguồn lực cơ bản để phát triển. Doanh nhân là lớp người được đề cao trong xã hội do họ có vai trò to lớn trong việc thay đổi cơ bản môi trường kinh doanh. Những chuẩn mực của các doanh nhân hiện đại như họ là những người cao vọng, dám chấp nhận rủi ro, có lòng tự tin và có đầu óc nhậy bén được coi là những cá tính quý hiếm - một loại tài sản vô hình quan trọng quyết định bản chất của cách ứng xử trong kinh doanh và sự sống còn của công ty trong dài hạn. Khai thác các mối liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau hoàn toàn giữa các quốc gia đang trở thành “chất đốt trong” cho sự vận hành của guồng máy kinh tế của các nước. Các nền kinh tế của các quốc gia hiện nay được “lớn lên” trong sự phụ thuộc lẫn nhau cao độ. Triết lý Phương Đông được dựa vào kinh doanh toàn cầu như là “kim chỉ Nam” có hiệu quả trong hoạt động của các công ty, các tập đoàn kinh doanh hiện nay. 1.2. Công nghệ và nghệ thuật kinh doanh là yếu tố thống trị thị trường. Thị trường thế giới là một tập hợp các mối quan hệ đa dạng, đan xen lẫn nhau giữa người bán và người mua. Trong một thị trường dày đặc những mối quan hệ. Như vậy, công nghệ là hình mẫu và nghệ thuật kinh doanh là ẩn dụ. Nếu một công ty hay một tập đoàn có công nghệ cao nhưng nghệ thuật kinh doanh không tinh xảo thì vẫn chưa phải là hình mẫu trong kỷ nguyên kinh doanh hiện đại. Doanh số, lợi nhuận - những tham số cơ bản đánh giá hiệu qủa kinh doanh, trong những trường hợp đó hiển nhiên không thể có những con số “đẹp”. Ngược lại, có nghệ thuật kinh doanh “sắc nét” nhưng công nghệ còn lạc hậu thì kinh doanh thiếu đi “cốt vật chất” quyết định sự tồn tại lâu bền của công ty trên thị trường. 1.3. Hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra có tính chất “gia tốc” và xuất hiện sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế. “ T rước mắt chúng ta đang diễn ra một cuộc cách tân công nghệ kỳ diệu và những biến đổi xã hội lớn lao”- trong cuốn sách Mười xu hướng vận động mới của nền kinh tế thế giới của tác giả John Naisbitt và Pitrica Aburdenne. Đây là nét mới của bộ mặt xã hội hiện đại... Nhật Bản sau thế chiến thứ hai, từ một nước bị tàn phá nặng nề trở thành một siêu cường trên thế giới. Mấy năm qua nền kinh tế Nhật Bản đã lặng lẽ đặt những bước chân khổng lồ lên toàn bộ nền kinh tế thế giới. Các nước Nics đang trở thành đối trọng quan trọng trong nền kinh tế thế giới với tham vọng lớn sánh vai với các trung tâm thế giới : Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhận Bản. Châu Âu đang tìm thấy chính mình với tỷ lệ hàng hoá chế biến xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới. Trung Quốc - người khổng lồ với 1/5 dân số thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng sản phẩm quốc nội những năm gần đây ở mức hai con số. Việt Nam - với một thành công lớn lao của công cuộc đổi mới, tốc độ tăng trưởng trong những năm gần đây đạt trên dưới 9%/năm... Tất cả các hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động, khẩn trương chưa từng thấy trên qui mô toàn cầu mà có thể diễn ra dưới đáy của đại dương hoặc cả trên khoảng không vũ trụ... 1.4. Mức độ nhận biết và khả năng phản ứng với cơ hội trên thị trường. H ầu hết các công ty muốn tồn tại trên thị trường phải tìm mọi cách để phát hiện ra các cơ hội kinh doanh và tìm cách phản ứng với cơ hội đó. Mức độ nhận biết cơ hội tuỳ thuộc vào kỹ năng, kỹ xảo phân tích và dự đoán thị trường. Các thế lực cạnh tranh, các mối đe doạ, thế mạnh, điểm yếu và cơ hội của từng công ty phải được thường xuyên khảo sát cẩn thận và đầy đủ. Nhưng nếu chỉ nhận biết cơ hội thì có nghĩa là mới dừng lại quan niệm : các doanh gia đều bình đẳng trước cơ hội mà việc phản ứng với cơ hội là nhân tố quyết định sự tồn tại của công ty trên thị trường. 1.5. Đạo đức kinh doanh đang được đề cập đến như một chuẩn mực của kinh doanh hiên đại. K hắp nơi trên thế giới đang vang lên tiếng kêu gọi quốc tế về bảo vệ giá trị của con người, đề cao các giá trị văn hoá dân tộc và nhân văn quốc gia, bảo vệ thuần phong mỹ tục của giống nòi, hướng con người đến cái “thánh thiện” cao cả. Mọi hoạt động kinh doanh, một mặt, phải tuôn theo tính khắt khe của “luật chơi” thị trường ; mặt khác, phải bảo vệ giá trị của con người, giữ gìn bản sắc dân tộc và truyền thống văn hoá của cộng đồng... Đạo đức kinh doanh còn thể hiện trong việc tôn trọng và chấp hành đúng nguyên tắc cùng có lợi. Đạo đức được đề cao trong xã hội kinh doanh hiện đại gắn liền với việc đề cao “chữ tín” trong kinh doanh. 1.6 Tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á. T ính đến tháng 01/1998 khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á khiến cho giá trị đồng tiền của các nước này bị mất giá nhiều so với đồng đôla Mỹ : Đồng bạt bị mất giá 112%, đồng ringit 84%, đồng Rupiah 248%, đồng Pêsô 70%, đồng đôla Singapore và đồng Yên Nhật khoảng 20%, đồng Won 100%. Điều này làm cho các nhà đầu tư Mỹ và Châu Âu là những người thường có cái nhìn toàn cục sẽ rút vốn của họ để chuyển sang các vùng khác ngoài Châu á, chẳng hạn sang Mỹ, Đông âu hoặc Mỹ LaTinh. Còn các nhà đầu tư Châu á sẽ chuyển vốn của mình sang các thị trường khác ngoài Đông Nam á là nơi ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hơn, chẳng hạn HôngKông, Trung Quốc, ấn Độ. Theo một số chuyên gia đánh giá thì cuộc khủng hoảng không đáng lo ngại mấy, vì đây sẽ là điều kiện tốt cho các nước này xuất khẩu, sản xuất sẽ tăng làm tiền đề cho nền kinh tế tăng trưởng. F Do các đồng tiền bị mất giá nên giá thành các hàng ngoại nhập dùng làm yếu tố đầu vào cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Đông Nam á trở nên đắt đỏ hơn. Điều đó dẫn đến mức giá của các hàng hoá nhu yếu phẩm sẽ tăng lên và lạm phát có thể xảy ra ở mức cao hơn bình thường ở tất cả các nước Đông Nam á. Lạm phát ở Thái Lan từ 5,8% lên 6,5% (tăng 0,7%), ở Singapore tăng 1,1%, ở Philipines tăng từ 5% lên 7,5%, ở Indonesia tăng từ 10% đến 12%, Trung Quốc và Hàn Quốc tăng 2%, Nhật Bản tăng từ 0,2% lên 0,8%. Với sự mất giá hơn 100% của các đồng tiền Đông á, khu vực tư nhân nói chung đã có nguy cơ lỗ nặng ở các khoản nợ nước ngoài và dẫn đến phải tuyên bố phá sản hàng loạt. F Mọi người đều nhận thấy rằng, tất cả các nền kinh tế Đông á hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng tiền tệ đều có tăng trưởng kinh tế trong năm 1997 và 1998 thấp hơn so với 1996. Trung bình tốc độ tăng trưởng các nền kinh tế Đông á trong năm 1997 là 5% so với 8,2% của năm 1996. Mức tăng trưởng của Thái Lan là xuống mức thấp nhất 0% của năm 1997 so với mức 8,3% của năm 1996 dự tính năm 1998 là 1%, Indonesia có mức tăng trưởng vào khoảng 5,9%, năm 1997 so với mức 7,8% của năm 1996 và đến năm 1998 chỉ số này sẽ chỉ còn 0,4%, còn Malaysia mức tăng trưởng có tụt chút ít, đạt 7% của năm 1997 so với mức 8,2% của năm 1996 và sẽ tụt xuống còn 2,5% năm 1998. Trong khu vực Đông nam á chỉ có Philipines là mức tăng trưởng của năm 1997 ít thay đổi so với năm 1996 (5% của năm 1997 so với 5,5% của năm 1996 và đến năm 1998 là 4% chỉ sụt đi chút ít nếu so với các nước khác), Singapore cũng là nước ít chịu sự khủng hoảng nên mức tăng trưởng của năm 1997 là 7,3% so với 8% của năm 1996. Tuy nhiên đến năm 1998 mức tăng trưởng này sẽ giảm nhiều và chỉ đạt 4,2%. Nhật bản, một nước có nền kinh tế mạnh nhất Châu á có mức tăng trưởng 0% so với 2,5% của năm 1996 và sẽ nhích lên 1% trong năm 1998. Hàn quốc có mức tăng trưởng là 6% của năm 1997 so với 6,9% trong năm 1996, nhưng sang năm 1998 nền kinh tế này dự kiến chỉ tăng 2,5%. F Hiện tại trong khu vực Đông bắc á có Trung quốc, Hồng kông, Đài loan là những nước ít có những biến động về tăng trưởng, Trung quốc hạ từ 9,8% trong năm 1996 xuống 8,8% trong năm 1997, Hồng kông sau khi chuyển về Trung quốc đạt mức 5,3% trong năm 1997 so với 4,9% năm 1996. F Khi tăng trưởng kinh tế có nguy cơ chậm lại do các vụ phá giá đồng tiến và sự sụp đổ của các thị trường chứng khoán, và khi các nước cắt giảm chi tiêu, nạn thất nghiệp tăng lên thì tất cả các yếu tố này sẽ khiến cho nhiệm vụ điều hành chính trị trở nên khó khăn hơn nhiều. Nếu như tình hình kinh tế không được cải thiện thì tình hình chính trị của các nước trong khu vực sẽ rất khó khăn, dân chúng tỏ ra không khoan nhường đối với các hoạt động điều hành kém hiệu quả của chính phủ và nạn tham nhũng. Điều đó buộc chính phủ phải cải tổ cơ cấu chính trị để lãnh đạo tốt hơn và củng cố nền tảng kinh tế ... dẫn đến môi trường kinh doanh ở khu vực này bị thay đổi rất lớn. 2. Thực trạng hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. T rong một thế giới vận động với tốc độ cao như vậy, nhìn lại việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, chúng ta không khỏi “chạnh lòng”. F Cho đến nay trên thị trường thế giới bước đầu xuất hiện một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam được coi là chủ lực như dầu mỏ, than đá, dệt may, giầy dép...và một số mặt hàng của các xí nghiệp liên doanh. Hàng công nghiệp của Việt Nam đã có mặt trên hầu hết các châu lục, tuy nhiên tỷ trọng còn rất nhỏ, song đó cũng là điểm mạnh đáng tự hào. Bởi vì Việt Nam đang chập chững bước đầu tiên hội nhập vào nền kinh tế thế giới. F Bên cạnh những điểm mạnh, thị trường hàng công nghiệp Việt Nam cũng biểu hiện những hạn chế sau đây : ố Thị trường hàng công nghiệp xuất khẩu còn quá nhỏ bé, manh mún, rời rạc và chưa ổn định. Hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khó có thể duy trì được thị phần nếu có sự cạnh tranh gay gắt về tất cả các loại hàng công nghiệp từ các nước khác, đặc biệt là hàng công nghiệp dệt từ Thái Lan,Trung Quốc. Sự yếu kém trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp xuất khẩu Việt Nam thể hiện : hàng công nghiệp Việt Nam vẫn chưa dược coi là ngang hàng, bằng vai với hàng hoá các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. ố Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam mặc dù có sự cải thiện đáng kể song tỷ lệ hàng nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu, một phần quan trọng là hàng dệt may, giầy dép và hàng công nghiệp thực phẩm dành để trả nợ nước ngoài. Cơ cấu xuất khẩu chưa được ổn định, có thể thay đổi khi có sự tác động của các loại nhân tố về thị trường, cạnh tranh hay có sự thay đổi trong thị hiếu người tiêu dùng ở các Châu lục khác nhau. ố Chất lượng hàng hoá công nghiệp nói chung vẫn chưa cao so với mặt hàng tương tự xuất khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước trong khu vực châu á. Giá cả hàng hoá còn khá cao vì chịu ảnh hưởng của các loại chi phí ; cả chi phí sản xuất và chi phí lưu thông. Chưa có mặt hàng công nghiệp xuất khẩu nào của Việt Nam có “danh tiếng” trên thị trường thế giới. ố Hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chịu sự cạnh tranh ráo riết của các loại hàng hoá tương tự từ các nước khác và về thực chất thì khả năng cạnh tranh về chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, thanh toán, vận tải hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chưa ngang bằng với các nước xuất khẩu các mặt hàng tương tự. ố Chưa có những hợp đồng lớn và dài hạn về hàng công nghiệp xuất khẩu. Các hợp đồng xuất khẩu nhỏ, rời rạc và có tính chất “vụ việc” vẫn là phổ biến. Kiểu làm ăn “chộp giật” vẫn còn tồn tại... 3. Thực trạng môi trường kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. M ôi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hơn 10 năm đổi mới đã có những thay đổi quan trọng theo hướng ngày càng mở rộng tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp, của các thành phần kinh tế khác nhau trong kinh doanh. Nhờ đó đã thúc đẩy quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp đang phát triển có hiệu quả hơn, cho đến nay đã có hàng nghìn doanh nghiệp trong đó có khoảng hơn 50% các doanh nghiệp làm ăn có lãi so với hơn 30% doanh nghiệp làm ăn có lãi trong những năm đầu mới mở cửa. Tuy tỷ lệ và mức lãi còn thấp. Nhưng đó cũng là một tiến bộ đáng ghi nhận, đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng khá, kìm chế được lạm phát, đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chuẩn bị bước sang giai đoạn đưa nước ta ra khỏi nước nghèo, kém phát triển. F Việc chủ động tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi ở các doanh nghiệp đã quyết định tối ưu 3 vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?. Nhờ đó mà hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển nhanh, có hiệu quả kinh tế cao. F Bên cạnh những tiến bộ trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi ở các doanh nghiệp hơn 10 năm đổi mới. Chúng ta thấy còn nhiều doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trở ngại, còn gần 50% doanh nghiệp kinh doanh chưa có lãi, thậm chí còn nhiều doanh nghiệp bị lỗ, phá sản và có nguy cơ phá sản. Nguyên nhân của tình hình này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động, trong đó có nguyên nhân môi trường kinh doanh chưa tốt. Chương II phân tích thực trạng môi trường kinh doanh của hoạt động xuất khẩu đá ốp lát ở công ty MIDECO I. Giới thiệu một số nét về công ty MIDECO. 1. Sự hình thành và phát triển của công ty MIDECO F Công ty phát triển khoáng sản (MIDECO ) được thành lập vào tháng 2/1989, trực thuộc tổng cục mỏ địa chất, sau đó được đăng ký lại theo thông báo số 131-TB ngày 29/08/1993 của Thủ tướng Chính phủ, quyết định số 255/CNNg-TCNSĐT-QĐ ngày 20/05/1993 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng. F Công ty có trách nhiệm thăm dò, khai thác, chế biến và kinh doanh các loại khoáng sản như thiếc, nikel, đồng, vàng và các loại đá ốp lát như đá granit, đá marble. F Công ty phát triển khoáng sản bao gồm các đơn vị thành viên là các xí nghiệp thăm dò địa chất, khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản, phạm vi hoạt động ở miền Bắc và Trung Việt Nam. Công ty có trụ sở đặt tại số 6- Phạm Ngũ Lão- Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế của công ty là Mineral Development Company - viết tắt là MIDECO. F Công ty chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty khoáng sản Việt Nam, đồng thời chịu sự quản lý Nhà nước của các Bộ, Uỷ ban Nhà nước khác về các vấn đề có liên quan theo qui định của pháp luật hiện hành. Công ty là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được sử dụng con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng. Công ty được bộ thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp số 1.01.1024 cho phép xuất nhập khẩu các loại sản phẩm kim loại và phi kim loại, vật tư máy móc phục vụ khai thác tuyển khoáng, chế biến kim loại và phi kim loại. Hiện nay công ty là một đối tác của Việt Nam với các công ty của Australia trong các liên doanh về đồng, vàng và nikel. 2. Các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của công ty. 2.1. Đặc điểm về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và quyền hạn của công ty. a, Nhiệm vụ. C ăn cứ vào chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước, vào kết quả điều tra, nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ các loại khoáng sản trên thế giới, xác định đúng đắn khả năng, tiềm năng, nhu cầu của các tổ chức, đơn vị sản xuất kinh doanh khoáng sản ở trong nước để xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước về các sản phẩm khoáng sản và tư liệu sản xuất, tư liêu tiêu dùng phục vụ cho sản xuất kinh doanh khoáng sản để xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu theo chương trình hàng năm đạt hiệu quả kinh tế. Công ty có nhiệm vụ chính sau : F Xây dựng và thực hiện các chính sách về tài chính, tín dụng, giá cả và đầu tư phát triển nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng hàng xuất khẩu. F Nghiên cứu luật pháp quốc tế, các thông lệ kinh doanh, nắm vững nhu cầu, thị hiếu, giá cả các loại sản phẩm khoáng sản, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng phục vụ sản xuất kinh doanh khoáng sản. F Nghiên cứu các đối tượng cạnh tranh để đưa ra các phương án xuất nhập khẩu dữ vững các thị trường có lợi nhất. F Thực hiện tốt nhất các chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, tài chính, lao động, tiền lương, quản lý và thực hiện phân phối theo lao động, không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, trình độ văn hoá, tay nghề cho cán bộ công nhân viên của công ty. b. Chức năng. C ăn cứ vào phương hướng, mục tiêu, chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước, căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu của khách hàng và khả năng, tiềm năng của các tổ chức kinh doanh khoáng sản. Công ty MIDECO có các chức năng cơ bản sau : F Tiến hành việc sản xuất kinh doanh mặt hàng đá ốp lát, thực hiện việc thăm dò, tìm kiếm các mỏ đá mới và đưa vào chế biến. F Thực hiện việc xuất khẩu khoáng sản ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là mặt hàng đá ốp lát. F Thực hiện kinh doanh hàng nhập khẩu: Nhằm thoả mãn tốt nhu cầu về sản xuất, công ty đã tiến hành việc nhập khẩu vật tư hàng hoá thiết bị, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý cho các đơn vị thành viên, thúc đấy hoạt động sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi trong vấn đề kinh doanh. F Hoạt động trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, công ty trực tiếp ký kết các chương trình hợp tác quốc tế và sản xuất kinh doanh khoáng sản, cung ứng và tiêu thụ hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng phục vụ cho sản xuất kinh doanh khoáng sản. Công ty đại diện cho phía Việt Nam thực hiện các phương án đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò, khai thác khoáng sản. c. Quyền hạn. C ông ty phát triển khoáng sản là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân nên có quyền hạn sau: F Quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản vốn, lao động hiện có, không ngừng tăng thêm giá trị tài sản cố định và làm đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. F Tìm nguồn tài chính và kỹ thuật đầu tư vào thăm dò, khai thác chế biến khoáng sản dưới các hình thức hợp tác liên doanh khác nhau phù hợp với luật công ty và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chịu trách nhiệm về việc thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội trong toàn công ty trước Bộ và Tổng công ty. F Được huy động vốn trong và ngoài nước phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh của công ty khi được phép của cơ quan cấp trên. Công ty có thể huy động một phần vốn cổ phần tư nhân và tập thể đóng góp vào các đề án sản xuất kinh doanh của công ty. F Tiếp xúc, đàm phán và ký kết hợp đồng với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, được cử người đi thăm quan, khảo sát, tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài và được mời các chuyên gia, cố vấn nước ngoài vào tham gia trong lĩnh vực đầu tư phát triển khai mỏ. F Công ty được phép lựa chọn ngân hàng thuận lợi để giao dịch, được mở các chi nhánh, cơ quan đại diện, cửa hàng, đại lý ở trong và ngoài nước. F Tham gia hội chợ, triển lãm, quảng cáo các mặt hàng kinh doanh của công ty. Đề xuất với cấp trên các ý kiến sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các qui chế, chính sách trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh khoáng sản. Công ty phát triển khoáng sản được phép tổ chức khai thác và kinh doanh đá ốp lát, đá khối, đá nguyên vật liệu xây dựng, thiếc, vonfran, vàng và các khoáng sản khác cùng các mặt hàng chuyên dùng trong khai thác và chế biến khoáng sản . d. Phạm vi hoạt động. M ặt hàng chủ yếu mà công ty MIDECO tiến hành khai chế biến và kinh doanh những năm qua là thiếc, vonfram, đá granite, đá marble... Nhưng trong năm gần đây công ty đã xác định mặt hàng đá ốp lát có một thị trường phong phú nhiều tiềm năng. Hơn nữa công ty đang được phép quản lý một số mỏ từ Miền Bắc đến Miền Nam Trung Bộ nên công ty đã tập trung đầu tư, nâng cấp nhà xưởng, máy móc để tập trung phát triển mặt hàng đá ốp lát. F Các mặt hàng mà công ty đang nhập khẩu chủ yếu là các thiết bị phục vụ khai thác mỏ như máy ủi, máy xúc, máy khoan, các máy móc phục vụ gia công chế biến đá như máy xẻ, máy đánh bóng, máy mài... cùng với các vật tư đi kèm. F Các mặt hàng mà công ty xuất khẩu là các mặt hàng đá ốp lát, đá khối xây dựng ... và một số khoáng sản khác. F Công ty trực tiếp quan hệ, giao dịch với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để ký các hợp đồng kinh tế, chuyển giao công nghệ, liên doanh liên kết, đầu tư phát triển các hợp đồng dịch vụ vận tải, giao nhận bảo hiểm. Kết hợp chặt chẽ với các đơn vị thành viên, các xí nghiệp trực thuộc để cùng xây dựng và thực hiện chiến lược thị trường, chiến lược sản xuất kinh doanh của công ty. F Trong quá trình hoạt động của mình, công ty có thể mở rộng phạm vi hoạt động không giới hạn địa bàn cũng như thành phần kinh tế. 2.2. Đặc điểm về bộ máy quản lý. a. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. C ơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty theo kiểu phân cấp quản lý. Đứng đầu công ty là Giám đốc, Giám đốc công ty do Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng bổ nhiệm. Giám đốc công ty tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty theo chế độ thủ trưởng và chịu trách nhiệm toàn bộ trước Tổng công ty và Bộ công nghiệp nặng cũng như tập thể CBCNV của công ty. Giúp việc cho Giám đốc có các Phó Giám đốc và trưởng các phòng ban do Giám đốc đề nghị và được cấp trên bổ nhiệm theo sự phân cấp của Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng. Cơ cấu tổ chức của công ty gồm có: Œ Bộ máy quản lý: F Giám đốc và các Phó Giám đốc. F Phòng kỹ thuật. F Phòng kinh doanh. F Phòng hành chính. F Phòng tài chính - kế toán.  Các chi nhánh. F Chi nhánh 1 của công ty tại số 3 Lê Lai - Đà Nẵng. F Chi nhánh 2 tại Quy Nhơn - Bình Định. F Chi nhánh 3 tại thị trấn Hát Lót - Sơn La. F Chi nhánh 4 tại huyện Võ Nhai - Bắc Thái. Ž Các xí nghiệp trực thuộc có: Xí nghiệp MIDECO Thanh Hoá. ._.00 m2 v Nội địa (cả nội bộ) : 31000 m2 F Đá tấm Marble : 40500 m2 Trong đó : v Xuất khẩu : 15000 m2 v Nội địa (cả nội bộ) : 25500 m2 F Đá chẻ : 2500 m2 F Đá đục phun lửa : 1500 m2 F Đá xây dựng : 55000 m3 Trong đó : v Đá hộc : 30000 m3 v Đá dăm : 25000 m3 Ž Tổng doanh thu tiêu thụ : 50822 triệu đồng Trong đó : v Xuất khẩu : 19557 triệu đồng v Nội địa : 27425 triệu đồng v Kinh doanh thương nghiệp : 1000 triệu đồng v ốp lát các công trình : 3200 triệu đồng  Doanh thu nội bộ : 5430 triệu đồng 2.2. Dự kiến thị trường tiêu thụ sản phẩm. T rong năm 1997 mục đích tăng cường xuất khẩu các sản phẩm đá ốp lát, nhất là đá tấm lớn sang các nước đã từng có mối quan hệ bạn hàng tốt với công ty như Hàn Quốc, đảo Reunon và các bạn hàng mới ở Châu á và Châu Mỹ ; Đá khối sang các nước như Thái Lan, Indonesia, Nhận Bản... Song mục tiêu của năm 1997 không hoàn thành. Phần lớn là do môi trường kinh doanh ở các nước bạn hàng của công ty thay đổi do khủng hoảng tài chính tiền tệ vào cuối năm 1997. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á đã làm cho đồng tiền của các nước trong khu vực bị giảm mạnh so với đồng đola Mĩ. Tính đến tháng 1-1998 đồng bạt bị mất giá 112%, đồng Won 100%, đồng đola Singapore và đồng yên Nhật giảm khoảng 20%... nên nó đã làm cho việc xuất khẩu của công ty sang khu vực này gặp nhiều khó khăn. Cho nên năm 1998, một mặt công ty vẫn tìm cách xuất khẩu sang thị trường này, mặt khác nghiên cứu tìm kiếm thị trường các nước Châu Mĩ và Châu âu. F ở trong nước lượng tiêu thụ sản phẩm của các công trình do các đối tác nước ngoài đầu tư vẫn có nhu cầu lớn, ngoài sản phẩm đá ốp lát công ty còn tăng cường hoạt động Marketing để sản xuất các mặt hàng khoáng sản khác, cố gắng đưa doanh thu xuất khẩu lên đến 1.500.000 USD, ngoài những công trình công ty đang thực hiện dở dang, năm 1998 phòng kinh doanh đã xúc tiến chào hàng và đưa ra danh mục các công trình làm cơ sở cho việc lập kế hoạch doanh thu năm 1998 toàn công ty. Œ Các tỉnh phía Bắc. (1) Khách sạn SAKURA v Năm 1997 đã thực hiện : 137600 USD v Năm 1998 : 200000 USD (2) Công trình LG Hải Phòng : 60000 USD (3) Công tình Đại sứ quán Nhật Bản : 180000 USD (4) Trung tâm thương mại Hải Phòng : 60000 USD (5) Opera Hilton Hotel : 250000 USD (6) Công trình Sun Red River : 300000 USD (7) Công trình Rose Garden : 40000 USD (8) Công trình Fortuna : 60000 USD (9) Công trình Mansion Giáp Bát : 20000 USD (10) Nhà ga T1 sân bay Nội Bài : 100000 USD  Các tỉnh phía Nam (1) Văn phòng 2 Chính Phủ - TPHCM : 580000 USD (2) Dinh Thống Nhất : 475000 USD 3. Các Tiềm năng của công ty MIDECO . Đ á ốp lát là một sản phẩm mới có, ngành sản xuất và kinh doanh đá ốp lát còn non trẻ và đang từng bước khởi sắc. Từ khi Nhà nước có chính sách mở cửa, tạo đà cho nền kinh tế nước nhà tăng trưởng, ngành công nghiệp chế biến đá ốp lát đã từng bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Công ty MIDECO là một trong những công ty của ngành công nghiệp này đã nắm bắt được thời cơ tạo ra những bước tiến khá cao trong nghành công nghiệp chế biến đá ốp lát. F Công ty đã đầu tư một cách có hiệu quả vào các yếu tố quan trọng như nghiên cứu thị trường, tiếp thị, tìm tòi và khai thác các mỏ đá. Đây là yếu tố quan trọng giúp công ty phát triển mạnh mẽ, chủ động đầu tư vào quá trình sản xuất, việc đầu tư có hiệu quả các máy móc thiết bị hiện đại của nước ngoài tạo cho sản phẩm của công ty có chất lượng cao, mẫu đẹp, tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường, sản phẩm của công ty đã có chỗ đứng trên trường quốc tế. Trong những năm tới công việc sản xuất kinh doanh của công ty có thể phát triển mạnh mẽ bởi lẽ công ty có nhiều tiềm năng trong việc sản xuất kinh doanh mặt hàng này. Những tiềm năng này được thể hiện như sau : Œ Về nguồn nguyên liệu : Đây là vấn đề quan trọng đối với công ty, công ty đã đầu tư vào thăm dò các mỏ đá được phát triển, các mỏ có trữ lượng lớn, chất lượng cao, mầu sắc đa dạng. Hiện tại công ty đang quản lý một số mỏ ở Miền Bắc và Trung Việt Nam. Đó là những mỏ có trữ lượng tương đối lớn, màu sắc đẹp đang được thị trường ưa chuộng. Tổng công suất các mỏ đá khối của MIDECO có thể đạt tới hơn 10.000 m3/ năm. Công ty cũng đã đầu tư nhiều vốn vào việc mua sắm máy móc thiết bị khai thác các mỏ đá, các máy móc hiện đại này có thể tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, kích thước phù hợp .  Về cơ sở sản xuất : ở Hà Nội nói riêng và các thành phố khác nói chung việc đòi hỏi vật liệu trang trí có chất lượng cao, mẫu mã đẹp là điều tất yếu. Đá ốp lát là loại vật liệu trang trí đang được sử dụng ngày càng nhiều, để tiến theo đà phát triển của xã hội đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, công ty đã đầu tư vào việc xây dựng, mở rộng sản xuất, đồng thời mua sắm các dây chuyền chế biến hiện đại với tổng số vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng. Các sản phẩm của công ty sản xuất ra đã có chất lượng cao, đa dạng, bảo đảm được độ bóng, độ bền, kích thước đá có thể đạt tới bề rộng 1,6 - 1,8 m. Do có ưu thế như vậy nên công ty đã tạo được uy tín trên thị trường và đã ký được những hợp đồng tiêu thụ lớn cả trong nước và ngoài nước. Ž Về đội ngũ cán bộ công nhân viên : Qua những năm hoạt động sản xuất kinh doanh công ty đã có được đội ngũ cán bộ kinh doanh và quản lý có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh, tay nghề công nhân được nâng cao. Đội ngũ cán bộ năng động, hiểu biết rộng nên đã có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng nước ngoài mở rộng thị trường sang nhiều khu vực. Đội ngũ công nhân của công ty cũng có trình độ tay nghề cao, đã tiếp xúc và sử dụng được các loại máy móc hiện đại, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Có thể nói nguồn nhân lực của công ty sẽ là một nguồn tài sản quý giá và đây là một lợi thế để cho công ty có thể phát triển sản xuất kinh doanh trong tương lai .  Về thị trường tiêu thụ sản phẩm : Nhu cầu về đá ốp lát ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung ngày càng tăng lên. Do đó nó sẽ là điều kiện tốt để công ty phát triển sản xuất. Công ty đã có mạng lưới tiêu thụ ở trong nước khá tốt, các sản phẩm của công ty đã quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam. Đối với thị trường nước ngoài công ty đã quan hệ với nhiều bạn hàng có tiềm năng lớn các bạn hàng truyền thống của công ty cũng luôn giữ được mối quan hệ buôn bán tốt. Sản phẩm của công ty cũng tạo được uy tín đối với các nhà nhập khẩu, đây là điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu cho những năm tới. Ngoài những tiềm năng lớn trên đây công ty MIDECO cũng có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh doanh như : F Vị trí của công ty nằm ngay tại Hà Nội là trung tâm giao dịch lớn của cả nước, là nơi khách hàng có nhiều thuận lợi để khảo sát tìm kiếm trước khi ký kết hợp đồng mua bán. F Giá xuất khẩu sản phẩm của công ty còn tương đối rẻ so với các nước khác, do đó sản phẩm của công ty cũng có lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm của các nước khác về giá thành . F Việc mở rộng quan hệ ngoại giao của Nhà nước với các nước khác cũng như việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế trong khu vực và toàn cầu, đặc biệt Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA trong thời gian tới sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất kinh doanh đá ốp lát của công ty. II. Những cơ hội và thách thức đối với công ty MIDECO . 1. Những cơ hội. T rong những năm qua, công cuộc đổi mới đã làm cho đời sống kinh tế Việt Nam khởi sắc và ngày càng năng động hơn. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ khoa học công nghệ đã được nâng cao đáng kể. Thị trường trong nước tăng nhanh, thị trường nước ngoài được mở rộng. Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực trong việc huy động các nguồn lực và phát huy lợi thế của đất nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài và tạo thuận lợi cho thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Vị thế của đất nước trên trường quốc tế được cải thiện và củng cố. Những thuận lợi ấy tạo nên cơ hội to lớn mà công ty phải biết nắm bắt. Sự thành công của công ty và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước phụ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội phát triển đang đến . 2. Những thách thức . T rong điều kiện của nền kinh tế thị trường ngày nay, công ty gặp phải những thách thức chủ yếu sau : Œ Đó là sự hội nhập vào đời sống kinh tế xã hội của khu vực và thế giới như : gia nhập ASEAN, ký hiệp định khung với EU, tham gia AFTA, chuẩn bị gia nhập WTO, triển khai quan hệ với Mỹ ... đòi hỏi phải phát triển thị trường trong nước, cải tiến hệ thống luật lệ và cơ chế hoạt động liên quan đến giao lưu quốc tế, chấp nhận cạnh tranh và mở rộng hợp tác quốc tế, do đó môi trường kinh doanh trong nước sẽ bị thay đổi.  Thách thức về sự tụt hậu kinh tế vẫn là thách thức lớn nhất. Năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế còn rất thấp kém. Thói quen sản xuất nhỏ, tình trạng manh mún, chia cắt rất đậm nét. Ž Nhiều chính sách kinh tế vĩ mô còn thiếu sót. Kinh nghiệm chỉ đạo điều hành hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường còn yếu kém. Trình độ cán bộ còn bất cập so với yêu cầu, tình trạng tham nhũng chưa bị ngăn chặn.  Việc mở rộng giao lưu với bên ngoài phải chú ý những thách thức với yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hoá, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội ... III. Một số ý kiến về tạo lập và phát triển môi trường kinh doanh xuất khẩu thuận lợi cho công ty MIDECO . T ừ thực tế sản xuất kinh doanh của công ty MIDECO, có thể đưa ra một số ý kiến về tạo lập và phát triển môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và công ty MIDECO nói riêng. Œ Môi trường luật pháp và chính sách. F Khi bước vào môi trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, nguyện vọng của các doanh nghiệp là muốn được mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước còn rất nhiều vấn đề chưa khai thông. Mới chỉ xét riêng về môi trường pháp luật đã thấy nhiều khó khăn nảy sinh : nước ta chưa có một khuôn khổ pháp luật đầy đủ và có hiệu lực để đảm bảo vững chắc về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp không đi quá đà hoặc e dè, lo sợ ; chúng ta vẫn chưa có luật ngân sách, luật kinh doanh, luật hành chính, luật kế toán, luật bản quyền... là những luật cần thiết để cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật. F Kinh doanh đúng pháp luật bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh đang là vấn đề thời sự đặt ra cho các nhà làm luật Việt Nam. Đành rằng các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và con người Việt Nam nói chung không thể ngày một ngày hai hình thành được ngay thói quen làm việc theo pháp luật, nhưng trước tiên bản thân hệ thống luật pháp phải được thực hiện nghiêm minh. Hiện nay trên thị trường, hiện tượng làm hàng giả, bắt chước nhãn hiệu mẫu mã của các hãng nổi tiếng đang làm tổn hại đến trật tự môi trường kinh doanh trong nước. Luật bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp đã có những vấn đề xử lý vi phạm như thế nào mới là quan trọng. Thiết nghĩ thực hiện tốt công việc này cũng là một cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn đầu tư vào để sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, từ đó thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển theo, công ty MIDECO có cơ hội cung cấp sản phẩm của mình. F Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã từng bước xoá bỏ, doanh nghiệp Nhà nước có nhiều quyền tự chủ trong các quyết định của mình hơn. Tuy nhiên, những ảnh hưởng trong quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với Nhà nước đối với việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết. F Doanh nghiệp Nhà nước là một tế bào của chế độ sở hữu toàn dân. Vì vậy, nó phải có nghĩa vụ đối với xã hội, kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp phải là bộ phận hữu cơ của kế hoạch Nhà nước. Thực tiễn 50 năm qua chứng minh rằng phương thức chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao đã kìm hãm sự phát triển, tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy việc đổi mới quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước với Nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc sau :  Xí nghiệp phải được toàn quyền quyết định trong chiến lược sản xuất kinh doanh. sản xuất cái gì?, như thế nào?, cho ai? Là do sự điều tiết của thị trường - một thực tế khách quan luôn biến động và tự điều chỉnh. Trên thực tế hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước còn quá lệ thuộc vào cơ quan chủ quản như : việc đầu tư mua sắm thiết bị (bằng tiền vay ngân hàng) ; việc thay đổi mặt hàng hay thay đổi hình thức kinh doanh phải mất một thời gian chờ đợi xin phép Cục, Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh mới được làm. Ai cũng biết thời cơ trong kinh doanh chỉ xuất hiện trong chốc lát, chậm một bước coi như thất bại. Trong lĩnh vực này doanh nghiệp Nhà nước luôn chậm chân hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. ‚ Sự can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn ở những biện pháp kinh tế, thông qua các đòn bẩy tài chính - tín dụng : nâng hoặc hạ lãi suất tín dụng, tăng hoặc giảm thuế, chính sách ưu đãi trong hàng rào thuế quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu .vv.. những biện pháp này được lựa chọn tuỳ theo đòi hỏi của tình hình kinh tế vĩ mô, nhằm tác động vào nhiều hướng phát triển của nền kinh tế hoặc điều chỉnh những mất cân đối lớn. Hiện nay các cơ quan Nhà nước đều có các cơ quan chức năng chuyên kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động của doanh nghiệp (trong đó chủ yếu là hoạt động kinh tế). Trước tiên cần phải khẳng định rằng Nhà nước sử dụng thanh tra như một phương tiện nhằm kiểm sóat hoạt động của các doanh nghiệp là hoàn toàn cần thiết và các doanh nghiệp cần phải tôn trọng và ủng hộ. Vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan thanh tra nên hiểu và thực hiện như thế nào cho đúng chức trách của mình và không gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Mục đích của công tác thanh tra là giúp doanh nghiệp chấn chỉnh hoạt động, tránh sai sót và đạt hiệu quả cao hơn. Bởi vì việc Nhà nước cho ra đời cả trăm công ty không khó, cái khó là giúp công ty khẳng định mình trên thương trường không phải chỉ vì lợi ích cục bộ của một công ty, mà còn vì người lao động, vì sự phát triển chung của cả cộng đồng. ƒ Sự can thiệp của Nhà nước về chế độ tiền lương và các chính sách xã hội. Theo cơ chế cũ, Nhà nước quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước thông qua việc xét duyệt quĩ tiền lương, tiền thưởng và biên chế cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. Việc duyệt quĩ tiền lương, tiền thưởng hàng năm từ duyệt định mức, mức chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm ... tức là Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động và phân phối của các đơn vị kinh tế quốc doanh. F Theo quyết định 217/HĐBT và điều lệ xí nghiệp quốc doanh của Hội đồng Bộ trưởng, các xí nghiệp sản xuất kinh doanh thực sự có quyền tự chủ trong mọi hoạt động kinh tế, trong đó có lĩnh vực lao động và tiền lương. Xí nghiệp quốc doanh được quyền tuyển dụng lao động theo chế độ hợp đồng, theo nhu cầu đòi hỏi của phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Thu nhập của người lao động phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và năng suất lao động của từng người. Nhà nước chỉ nên qui định mức lương tối thiểu, không khống chế mức thu nhập tối đa. Xí nghiệp có quyền sử dụng quĩ phúc lợi tập thể vào mục đích cải thiện đời sống tinh thần, vật chất cho người lao động, xí nghiệp có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội theo qui định của Nhà nước. F Quyền tự chủ của doanh nghiệp Nhà nước được mở rộng đã tạo ra sự kích thích bên trong cho các xí nghiệp, phát huy được tính năng động sáng tạo và tạo tiền đề cho sự cạnh tranh kinh tế lành mạnh. Như vậy, việc quản ký Nhà nước xét trên một phương diện đã được thay đổi và mang lại hiệu quả nhất định cho quản lý vĩ mô ở các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quản lý vĩ mô của Nhà nước vẫn còn nhiều thiếu sót, sơ hở tạo nên những rối loạn và làm cho hiệu quả kinh tế xã hội tổng thể còn thấp, thể hiện ở một số điểm dưới đây :  Chưa phân định rõ quyền sở hữu Nhà nước, quyền sử dụng và quyền quản lý của chủ doanh nghiệp và tập thể xí nghiệp về tài sản của Nhà nước. Do đó chưa gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người điều hành xí nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước. ‚ Cần thiết phải cải cách bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn. Sự phân quá nhiều cấp quản lý trên địa bàn đã làm hạn chế đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cùng ngành, cùng một chủ sở hữu dẫn đến không phát huy được nguồn lực, khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác sẽ yếu dần. ƒ Hiện nay các cơ quan chức năng của Nhà nước hầu như không kiểm soát nổi tình trạng hàng nhập lậu thuế từ nước ngoài. Hàng ngoại nhập chất lượng tốt, giá phải chăng (vì không phải đóng thuế) thả sức dồn ép đánh bật hàng trong nước ra khỏi thị trường. Nhà nước đã có biện pháp khuyến khích sản xuất trong nước bằng chính sách thuế quan ưu đãi như không đánh thuế nhập khẩu máy móc nguyên liệu thô ... Nhưng nếu hiện tượng hàng nhập lậu thuế không được ngăn chặn, các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sẽ khó mà phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. Điều này tất yếu hạn chế nhiều đến sự phát triển qui mô và số lượng các doanh nghiệp ở nước ta.  Môi trường chính trị. F Sự ổn định chính trị ở mỗi quốc gia là yếu tố đầu tiên đảm bảo cho sự phát triển về kinh tế. Một trong những lý do giải thích cho sự tăng trưởng và phát triển mạnh của nền kinh tế Việt Nam là môi trường chính trị ổn định, bộ máy pháp quyền của Nhà nước vững chắc, sẵn sàng đứng ra bảo vệ môi trường kinh doanh để sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường. F Trong vài năm gần đây, các doanh nghiệp nước ngoài xin đăng ký kinh doanh tại Việt Nam (tài chính, sản xuất, dịch vụ, môi giới,...) ngày càng đông. Phần lớn họ là những nhà kinh doanh vào Việt Nam với mục đích kinh doanh lành mạnh, đúng pháp luật, nhưng không trách khỏi một số phần tử lừa đảo. Vấn đề này đặt ra cho Nhà nước nên có một tổ chức tư vấn đặc trách hướng dẫn các doanh nghiệp trong buôn bán kinh doanh với các đối tác nước ngoài ; cung cấp đầy dủ những thông tin cần thiết về các đối tác nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước. F Đặc biệt với công ty MIDECO mới thành lập, kinh nghiệm trên thương trường còn rất ít và là một công ty nhỏ, mặt khác sản phẩm xuất khẩu của công ty lại có trọng lượng lớn do vậy việc vận chuyển là hết sức khó khăn. Nếu thiếu công tác tư vấn từ bên ngoài thì dễ dẫn đến thua thiệt. Ž Môi trường khoa học - công nghệ. F Sự tiến bộ của khoa học - công nghệ trên thế giới đã tác động hàng ngày, hàng giờ đến công việc kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Đứng trên góc độ của mỗi nhà sản xuất hàng hoá, tốc độ phát triển của khoa học công nghệ được xem như một động lực bắt buộc họ - những người sử dụng những thành tựu của khoa học để sản xuất những sản phẩm hàng hoá phục vụ cho xã hội, phải không ngừng cải tiến phương pháp quản lý, đẩy mạnh các hoạt động khuyến mại với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ để tiêu thụ hàng hoá, rút ngắn thời gian của chu trình sản xuất - tiêu thụ. Bởi vì, điều dễ hiểu là khoa học công nghệ phát triển, tuổi thọ của máy móc thiết bị và sản phẩm cũng bị rút ngắn. Nếu các nhà sản xuất không sử dụng hết công suất thiết bị thì sẽ rơi vào hao mòn vô hình - một loại hao mòn chỉ có ở thời đại mà khoa học kỹ thuật đã trở thành yếu tố của lực lượng sản xuất. ở công ty MIDECO mấy năm gần đây, do nhu cầu đòi hỏi nên đã nhập máy móc thiết bị, gần đây nhất công ty đã nhập một dây chuyền sản xuất của ý. Do vậy, ban quản lý công ty phải có chính sách và biện pháp để sử dụng hết công suất của máy, khấu hao phải hợp lý (cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình), đặc biệt là khấu hao vô hình, nó rất khó tính toán, cho nên phải tính toán thận trọng tránh tình trạng “lãi giả lỗ thật”. F Thông tin là một bộ phận hợp thành của khoa học công nghệ. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, các doanh nghiệp đã nhận thức và coi trọng vai trò của thông tin kinh tế. Vấn đề quan trọng là xử lý và sử dụng thông tin như thế nào cho chính xác để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sử dụng các thông tin có ích và loại trừ những thông tin thất thiệt, Nhà nước nên thành lập các công ty tư vấn chuyên trách cho các doanh nghiệp, làm tốt công việc này sẽ tránh cho các doanh nghiệp những sai lầm đáng tiếc thường xảy ra trong nền kinh tế thị trường.  Môi trường kinh tế. F Sức mua là biểu hiện của môi trường kinh tế, nó tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của công ty MIDECO. F Với bối cảnh của nền kinh tế trong nước và khu vực hiện nay. Trong nước thì gần như chủ yếu là các công trình lớn của Nhà nước, các công trình của chủ đầu tư nước ngoài tiêu dùng sản phẩm của công ty, còn hầu hết dân chúng một khối lượng khách hàng khổng lồ thì gần như chưa tiêu dùng sản phẩm của công ty mà chủ yếu tiêu dùng các sản phẩm đá khác. Một mặt, do giá thành của sản phẩm công ty khá cao, bậc trung lưu ở Việt Nam cũng chưa giám sử dụng. Mặt khác, vấn đề xây nhà ở của dân còn đang có nhiều lo ngại, người dân lo sợ bị quy hoạch cho nên không giám xây dựng những nhà ở kiên cố, kiến trúc đẹp... Còn trong khu vực và trên thế giới, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á đã làm cho giá trị đồng tiền giảm mạnh từ đó làm cho nền kinh tế bị đình trệ, việc nhập khẩu hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của các đơn vị đang xuất khẩu sang thị trường đó. F Trong bối cảnh hiện nay công ty MIDECO nên có chính sách nghiên cứu mở rộng thị trường sang các khu vực châu Mỹ, châu Âu - là những khu vực có tiềm năng kinh tế lớn, bên cạnh đó có thể chế tác ra các sản phẩm đá phục vụ cho giới trung lưu trong nước.  Môi trường địa lý. Nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, với sự khai thác ồ ạt như hiện nay thì đây cũng là vấn đề đặt ra cho toàn xã hội, Nhà nước cần phải có biện pháp để khắc phục tình trạng này. Trong cơ chế thị trường thì những sản phẩm có triển vọng, mang lại lợi nhuận cao sẽ không tránh khỏi sự cạnh tranh trong tương lai, sản phẩm đá ốp lát mới mẻ này là một ví dụ. Do vậy công ty cần phải nghiên cứu, đánh giá trữ lượng thực chất của các mỏ để có chính sách khai thác cho hợp lý và hiệu quả, dự kiến được những biện pháp đối phó với sự cạnh tranh trong tương lai. ‘ Cần phát triển hệ thống thông tin liên lạc phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp. Để kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế phát triển, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, thông tin về công nghệ, thông tin về người mua và bán, thông tin về các đối thủ cạnh tranh, thông tin về tình hình cung cầu hàng hoá, dịch vụ, thông tin về giá cả, thông tin về tỷ giá... không những thế các doanh nghiệp còn rất cần những thông tin về những thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, biết được thông tin về các thay đổi chính sách của Nhà nước ... Nhu cầu thực tế to lớn của các doanh nghiệp đòi hỏi phải phát triển hệ thống thông tin liên lạc bằng nhiều hình thức khác nhau từ việc phát triển báo chí, truyền thanh, truyền hình đến phát triển các hoạt động bưu chính viễn thông. Trong kinh doanh nếu biết mình, biết người và nhất là biết được các đối thủ cạnh tranh thì sẽ có chính sách để thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách phát triển quan hệ hợp tác mạnh mẽ, chặt chẽ để hỗ trợ trong kinh doanh. Kinh nghiệm thành công của nhiều xí nghiệp cho thấy nắm chắc được các thông tin cần thiết và biết xử lý các thông tin kịp thời đúng đắn trong kinh doanh là một yếu tố, một điều kiện rất quan trọng để thắng lợi trong cạnh tranh và kinh doanh đạt lợi nhuận cao. Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng những thông tin quí thì các đối thủ canh tranh lại rất bí mật, đó là bí mật nhà nghề, bí mật về bí quyết kinh doanh, bí mật về công nghệ.... Bởi vậy, một vấn đề đặt ra cho công ty MIDECO là phải nắm bắt và xử lý tất cả các thông tin có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. ’ Phát triển công tác đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên hiện có, đào tạo mới một số cán bộ, công nhân viên có chất lượng cao cho doanh nghiệp. Để kinh doanh đạt lợi nhuận cao, không còn con đường nào khác, các doanh nghiệp phải sản xuất nhanh, sản xuất nhiều, sản xuất có chất lượng tốt và sản xuất rẻ. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp chỉ có thể đạt được điều đó khi hàm lượng chất xám, hàm lượng khoa học, công nghệ trong giá trị của sản phẩm được nâng cao hay nói cách khác áp dụng khoa học - công nghệ, phương pháp và phương tiện hiện đại, tiên tiến, phù hợp trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý. Nhưng để tiếp thu, sử dụng và quản lý được công nghệ, phương pháp và phương tiện hiện đại, tiên tiến, phù hợp phải có người lao động đạt trình độ cao, đặc biệt là đội ngũ chủ doanh nghiệp, các chuyên gia đầu ngành, công nhân lành nghề trong từng doanh nghiệp, đây là đội ngũ lao động có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nhu cầu đó cần phải thoả mãn bằng nhiều cách và do nhiều nguồn đầu tư khác nhau, trong đó có cả của Nhà nước, của doanh nghiệp, của người lao động. Đầu tư cho đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo mới đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là nhu cầu cấp bách và cơ bản lâu dài của các cơ quan Nhà nước, đây là người tổ chức và quyết định. Trong đó các trường đại học, cao đẳng, trung học, dạy nghề có vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ các khâu của quá trình đào tạo, từ khâu tuyển sinh đến đào tạo và kết thúc quá trình đạo tạo. Về trường đại học cần nhấn mạnh vai trò quyết định trong việc xác định mục tiêu, cơ cấu, kiến thức, qui trình đào tạo, nội dung, hình thức và phương pháp đào tạo. Muốn có chất lượng đào tạo cao phải giải quyết những vấn đề một cách đồng bộ, khi chất lượng đào tạo đã được nâng cao các doanh nghiệp nói chung và công ty MIDECO nói riêng sẽ có điều kiện để tuyển chọn được những cán bộ, công nhân giỏi về trình độ và tay nghề... “ Công ty phải chủ động sáng tạo trong việc tạo ra môi trường hoạt động kinh doanh thuận lợi cho mình. Trong đó phải nói đến việc tạo môi trường đầu ra và đầu vào, đẩy nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ, tổ chức lại sản xuất và quản lý ngày càng hợp lý hơn, xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chuyên môn và công nhân lành nghề... Công ty có vai trò quyết định trong việc tạo môi trường cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Vai trò quyết định của công ty thể hiện trên hai mặt, thứ nhất là biết khai thác và sử dụng hiệu quả những điều kiện, yếu tố của môi trường bên ngoài, mặt thứ hai là công ty chủ động tạo ra những điều kiện, yếu tố do chính bản thân mình để phát triển. Để làm được những điều đó công ty cần có các giải pháp : C Một là : Công ty cần nghiên cứu thị trường tiêu thụ : Sự tồn tại của công ty là do thị trường tiêu thụ quyết định, công ty cần phgải xác định rõ về : Đ Nhu cầu của thị trường hiện tại. Đ Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai. Đ Khả năng chiếm lĩnh thị trường. Đ Khả năng cạnh tranh thị trường. Trên cơ sở phân tích thị trường, công ty cần xác định được qui mô sản xuất hàng năm. Trong dự báo cần phải tính đến các yếu tố : Đ ảnh hưởng của giá cả đối với từng thị trường. Đ ảnh hưởng của thu nhập đối với từng thị trường. Đ Các ảnh hưởng khác, sự biến đổi của nhu cầu thị trường. Đ Mức độ ảnh hưởng đối với sản phẩm đá ốp lát. C Hai là : Hình thành và xác định rõ ý đồ kinh doanh : Đó là xuất phát từ một số nhu cầu mà công ty có thể thoả mãn hoặc một năng lực độc đáo riêng của công ty. Khi dự tính được những nhu cầu và năng lực, như vậy vị trí của công ty được so sánh, công ty đưa ra những biện pháp khác nhau để thoả mãn nhu cầu và so sánh với khả năng của những doanh nghiệp cạnh tranh... C Ba là : Tạo sự tín nhiệm đối với công ty. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường công ty cần quan tâm đến uy tín và ảnh hưởng của công ty mình trên thị trường. Có thể coi việc xây dựng tín nhiệm là một trong những bí quyêt để công ty thành đạt. Trên thị trường sự tín nhiệm đối với công ty gồm : Đ Tín nhiệm về chất lượng của sản phẩm. Đ Tín nhiệm về tác phong kinh doanh. Đ Tín nhiệm về sự phục vụ của công ty. C Bốn là : Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh : Nghiệp vụ kinh doanh là toàn bộ những biện pháp và phương pháp giao dịch nhằm kích thích nhu cầu thị trường trong khi tiêu thụ hoá, đảm bảo tiêu thụ nhanh và thoả mãn nhu cầu thị trường. Nếu áp dụng các biện pháp thích đáng và hợp lý trong nghiệp vụ kinh doanh thì sẽ đạt được hiệu quả trong tiêu thụ sản phẩm. Có rất nhiều biện pháp để nâng cao nghiệp vụ kinh doanh. Đối với mặt hàng đá ốp lát có thể sử dụng những biện pháp sau: Đ Sử dụng hệ thống cửa hàng để tiêu thụ sản phẩm. Đ Tiêu thụ sản phẩm thông qua trưng bày mẫu. Đ Tiêu thụ sản phẩm thông qua quảng cáo. ... Công ty muốn thành đạt cần áp dụng những biện pháp nghiệp vụ kinh doanh phù hợp với điều kiện cụ thể của công ty và phù hợp với hoàn cảnh thị trường, cùng một thời điểm phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau trong tiêu thụ mới đạt kết quả cao. C Năm là : Tăng cường mở rộng mối quan hệ - cầu nối giữa công ty và xã hội: Mặt hàng đá ốp lát là loại hàng hoá dùng để trang trí nội, ngoại thất công trình làm cho vẻ đẹp của công trình được nâng cao. Trong điều kiện cạnh tranh công ty cần phải có mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, tạo ra những khách hàng truyền thống . C Sáu là : Sử dụng tối ưu cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty. Nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Đây là phần năng lực chủ quan của công ty quyết định sự tồn tại và chiến lược kinh doanh lâu dài của công ty. Công ty cần có biện pháp trong khai thác nguyên vật liệu, sử dụng lao động có tay nghề, có năng suất, sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến cùng với tổ chức quản lý tối ưu tạo điều kiện để công ty làm ra những sản phẩm có chất lượng cao có uy tín trên thị trường. Với mặt hàng đá ốp lát công ty cần phải có biện pháp và xây dựng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm để phù hợp với nhu cầu của từng thị trường. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0016.doc
Tài liệu liên quan