Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2010

Lời nói đầu Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã từng bước thực hiện chính sách cải cách và đổi mới toàn diện nền kinh tế quốc dân. Theo nhận xét chung của các chuyên gia kinh tế thì Việt Nam đã có bước phát triển khởi đầu tốt đẹp, thành công lớn nhất là chúng ta đã bảo đảm được an ninh lương thực, từng bước hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt được rất đáng kể trong kế hoạch năm năm 1991- 1995 là 8,2% một năm, năm 1996 là 9,3%, năm 1997 là 8,2%, tuy

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có sự giảm xuống 5,8% vào năm 1998 và 4,8% năm 1999, nhưng lại có xu hướng tăng lên trong năm 2000 là 6,7%. Mặc dù vậy, sư phát triển kinh tế diễn ra không đồng đều giữa các khu vực và các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là sự phát triển chênh lệch giữa đồng bằng và miền núi. Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng và các thành phố lớn, do đó sự tụt hậu của các tỉnh miền núi ngày càng lớn. Trong số các tỉnh miền núi thì Bắc Kạn là một tỉnh vừa được tách ra từ hai tỉnh Cao Bằng và Bắc Thái, cho nên để bắt nhịp với tốc độ tănh trưởng và phát triển của cả nước thì Bắc Kạn cần phải có sự lựa chọn đường lối phát triển kinh tế thích hợp. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2010". Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm đưa ra những phương hướng cụ thể phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của một tỉnh miền núi, để từ đó có những giải pháp thiết thực góp phần thực hiện thành công mục tiêu mà Đại hội Đảng IX đề ra là tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,5%. Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp như qui luật biện chứng, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp, lịch sử và lôgíc, tư duy cụ thể và trừu tượng, quan sát và thực nghiệm cùng với phương pháp đánh giá hoạt động kinh tế và phân tích thống kê. Nội dung chủ yếu của đề tài bao gồm 3 phần: Phần I: Những vấn đề cơ bản về tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phần II: Phân tích thực trạng tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ năm 1997 đến năm 2000. Phần III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2010. Đề tài này đựơc hoàn thiện trong một thời gian ngắn, hơn nữa trình độ và năng lực bản thân còn nhiều hạn chế cho nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô và bạn đọc. Qua đây em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo T.S Phan Kim Chiến và tập thể anh chị cán bộ viên chức sở KH - ĐT tỉnh Bắc Kạn đã tận tuỵ quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này. phần i Những vấn Đề cơ bản về tăng trưởng và phát triển Kinh tế - xã hội I. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế 1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế: 1.1. Tăng trưởng kinh tế: Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng qui mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng. Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự lớn mạnh của nền kinh tế chỉ đơn thuần về mặt số lượng; đây là sự biến đổi có ý nghĩa tích cực, mặc dù nó cũng giúp cho xã hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt ra của công dân, của xã hội. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế của thời kì sau so với thời kì trước: Yo: Tổng sản lượng thời kì trước Y1: Tổng sản lượng thời kì sau Mức tăng trưởng tuyệt đổi : DY = Y1 - Yo. Mức Tăng trưởng tương đổi: = Y1/ Yo. 1.2. Phát triển kinh tế (PTKT): Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế. Như vậy, đã có phát triển kinh tế là bao hàm nội dung của sự tăng trưởng kinh tế, nhưng nó được tăng trưởng theo một cách vượt trội so với sự đổi mới về khoa học công nghệ, do năng suất xã hội cao hơn hẳn và có cơ cấu kinh tế hợp lí và hiệu quả hơn hẳn. Do đó, khái niệm phát triển kinh tế bao gồm : + Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. + Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội là hai mặt vừa phụ thuộc lại vừa độc lập tương đối của lượng và chất. + Sự phát triển là một quá trình tiến hóa theo thời gian do những nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nước. + Kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự biến đổi kinh tế từ thấp đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng. 1.3. Phát triển kinh tế bền vững: Đây là khái niệm đang còn tiếp tục tranh cãi, tuy nhiên theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển thì: Phát triển kinh tế bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương đến các nhu cầu của các thế hệ tương lai. Về mặt nội dung, phát triển kinh tế bền vững là sự phát triển kinh tế phải đáp ứng yêu cầu sau: + Kinh tế phải phát triển liên tục + Kinh tế phải phát triển với tốc độ cao + Đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn thương đến các thế hệ tương lai. 2. Những quan điểm cơ bản về tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: 2.1. Quan niệm nhấn mạnh vào tăng trưởng: Quan điểm này cho rằng tăng thu nhập là quan trọng nhất, nó như đầu tàu, kéo theo việc giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế và xã hội. Thực tế cho thấy những nước theo quan điểm này đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, không ngừng tăng thu nhập. Song cũng cho thấy những hạn chế cơ bản sau: + Sự tăng trưởng kinh tế quá mức nhanh chóng vì những động cơ có lợi ích cục bộ trước mắt đã dẫn đến sự khai thác bừa bãi không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế, khiến cho nguồn tài nguyên bị kiệt quệ và môi trường sinh thái bị phá huỷ nặng nề. + Cùng với sự tăng trưởng là sự bất bình đẳng về kinh tế và chính trị xuất hiện, tạo ra những mâu thuẫn và xung đột găy gắt: Xung đột giữa khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp; xung đột giữa giai cấp chủ và thợ; gắn với nạn thất nghiệp tràn lan; xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; xảy ra mâu thuẫn về lợi ích kinh tế - xã hội do quá trình phát triển kinh tế không đều tạo nên. + Tăng trưởng đưa lại những giá trị mới, song nó cũng phá huỷ và hạ thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp cần phải bảo tồn và phát huy như: nền giáo dục gia đình, các giá trị tinh thần, đạo đức, thuần phong mỹ tục, chuẩn mực của dân tộc. Đồng thời với việc làm giàu bằng bất cứ giá nào thì tội ác cũng phát triển; các băng đảng lũng đoạn, sản xuất hàng giả, buôn lậu chất ma tuý với qui mô quốc tế sẽ gia tăng. + Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng còn đưa lại những diễn biến khó lường trước, cả mặt tốt và không tốt, nên đời sống kinh tế xã hội thường bị đảo lộn, mất ổn định, khó có thể lường trước được hậu quả. 2.2. Quan điểm nhấn mạnh vào sự bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội: Sự phát triển kinh tế đựợc đầu tư dàn đều cho các ngành, các vùng và sự phân phối được tiến hành theo nguyên tắc bình quân. Đại bộ phận dân cư đều được chăm sóc về văn hóa, giáo dục, y tế của Nhà nước, hạn chế tối đa sự bất bình đẳng trong xã hội. Hạn chế của việc lựa chọn quan điểm này là nguồn lực hạn chế lại bị phân phối dàn trải nên không thể tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao và việc phân phối đồng đều cũng không tạo ra được động lực thúc đẩy người lao động. 2.3. Quan điểm phát triển toàn diện: Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên, vừa nhấn mạnh về số lượng vừa chú ý về chất lượng của sự phát triển. Theo quan điểm này tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết. II . Các đại lượng đo lường sự tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự tăng lên về sản lượng hằng năm do nền kinh tế tạo ra. Do vậy thước đo của sự tăng trưởng là các đại lượng sau: Tổng sản phẩm trong nước (GDP); tổng sản phẩm quốc dân (GNP); sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP); thu nhập quốc dân sử dụng (NDI) và thu nhập bình quân dầu người. 1. Tổng sản phẩm trong nước (Tổng sản phẩm quốc nội - GDP): GDP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Đại lượng này thường được tiếp cận theo các cách khác nhau: 1.1. Về phương diện sản xuất: Tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước GDP = Giá trị tăng = Giá trị sản lượng - Chi phí các yếu tố trung gian (Y) (GO) (IC) 1.2. Về phương diện tiêu dùng : GDP = C + I + G + (X - M) Trong đó: C: Tiêu dùng các hộ gia đình G: Các khoản chi tiêu của chính phủ I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp (X - M): Xuất khẩu ròng trong năm 1.3. Về phương diện thu nhập: GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại. GDP = Cp + Ip + T Trong đó: Cp: các khoản chi tiêu mà các hộ gia đình được quyền tiêu dùng Ip: Các khoản mà doanh nghiệp tiết kiệm được dùng để đầu tư GDP theo cách xác định trên đã thể hiện một thước đo cho sự tăng trưởng kinh tế do các hoạt động kinh tế trong nước tạo ra, không phân biệt sở hữu trong hay ngoài nước với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản xuất của nền kinh tế một nước. 2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): GNP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong một năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện trong nước hay ngoài nước. Như vậy GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước thực sự thu nhập được. GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài Với ý nghĩa là thước đo tổng thu nhập của nền kinh tế, sự tăng thêm GNP thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hoạt động kinh tế đem lại. GNP thực tế là GNP được tính theo giá trị cố định nhằm phản ảnh đúng sản lượng gia tăng hàng năm loại trừ những sai lệch do sự biến động giá cả (lạm phát) tạo ra, khi tính GNP theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa. Hệ số giảm phát là tỷ lệ GNP danh nghĩa và GNP thực tế ở cùng một thời điểm. Dùng hệ số giảm phát để điều chỉnh GNP danh nghĩa ở thời điểm gốc, để xác định mức tăng trưởng thực tế và tốc độ tăng trưởng qua các thời điểm. 3. Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP): NNP là giá trị còn lại của GNP, sau khi đã trừ đi giá trị khấu hao tài sản cố định (Dp). NNP = GNP - Dp NNP phản ánh phần của cải thực sự mới được tạo ra hàng năm. 4. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): NDP là phần mà nhân dân nhận được và có thể tiêu dùng, là phần thu nhập ròng sau khi trừ đi thuế (trực thu và thuế gián thu) (Ti+Td) cộng với trợ cấp (Sd): NDI = NNP - (Ti+Td) + Sd Mục đích đưa ra các thước đo là để tiếp cận tới các trạng thái phát triển của nền kinh tế, mỗi thước đo đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Mặc dù đó là các thước đo phổ biến nhất hiện nay, nhưng đó chỉ là những con số xấp xỉ về các trạng thái và tốc độ biến đối trong phát triển kinh tế, vì bản thân các thước đo đó chưa thể phản ánh hết được các sự kiện phát triển cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Chẳng hạn như các sản phẩm tự túc, công việc nội trợ gia đình, thời gian nghỉ ngơi, sự tự do, thoải mái trong đời sống sinh hoạt, sự tổn hại do bị ô nhiễm môi trường thì được tính bằng cách nào. 5. Thu nhập bình quân đầu người : Điều gì sẽ thể hiện khi so sánh GNP của các nước có dân số tương tự nhau như ở bảng 1.1: Bảng 1.1: Thu nhập của một số nước năm 1997 STT Tên nước Dân số (tr.người) GNP(Tỉ USD) GNP/Người(USD) 1 2 3 4 5 6 Anh Pháp Thái Lan Ai Cập Êtiôpia Việt Nam 59 59 61 60 60 77 1220,2 1526,0 169,6 71,2 6,5 24,5 20710 26050 2800 1180 110 320 Nguồn: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới của Ngân hàng thế giới - 1998. Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy những nước có dân số ngang nhau (trừ Việt Nam) nhưng những nước giàu như Anh, Pháp, thì có GNP và GNP/người lớn hơn rất nhiều so với các nước nghèo. Điều này nói lên rằng người dân Anh, Pháp có nhiều khả năng sống sung sướng hơn những người dân ở các nước có mức thu nhập thấp như Ai cập, Êtiopia và Việt Nam. Mỗi liên hệ GNP và dân số nói lên rằng muốn nâng cao phúc lợi vật chất cho nhân dân của một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế mà còn phải kìm hãm tốc độ tăng dân số. Do vậy, thu nhập bình quân đầu người là một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên nó vẫn chưa thể hiện mặt chất của sự tăng trưởng, như là sự tự do hạnh phúc của mọi người, sự văn minh của xã hội, tức là sự phát triển của xã hội. Cho nên để nói lên sự phát triển người ta dùng hệ thống các chỉ số. III. Các chỉ số phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội. 1. Các chỉ số xã hội của sự phát triển: Để nói lên sự tiến bộ của xã hội do tăng trưởng đưa lại, người ta thường dùng các chỉ số sau xoay quanh sự biến đổi của con người. 1.1. Tuổi thọ bình quân trong dân số: Sự tăng lên của tuổi thọ bình quân trong dân số ở một thời kỳ nhất định phản ánh một cách tổng hợp về tình hình sức khoẻ của dân cư trong một nước. Trong đó nó bao hàm sự văn minh trong đời sống của mức sinh hoạt vật chất và tinh thần được nâng cao. ở các nước kém phát triển đời sống thấp, thường có tuổi thọ bình quân dưới 50 tuổi, còn các nứơc phát triển chỉ số đó đều trên 70 tuổi. 1.2. Mức tăng dân số hàng năm: Đây là một chỉ số đi liền với chỉ số tăng thu nhập bình quân đầu người. Xã hội loài người phát triển đã minh chứng rằng mức tăng dân số cao luôn luôn đi với sự nghèo đói và lạc hậu. Các nước phát triển đều có mức tăng dân số tự nhiên đều dưới 2% một năm, còn các nước kém phát triển đều ở mức trên 2% một năm . 1.3. Số calo/người/ngày: Chỉ số này phản ánh các cung ứng các loại nhu cầu thiết yếu nhất đối với mọi người dân, về lương thực và thực phẩm hàng ngày được qui đổi thành calo. Nó cho thấy một nền kinh tế giải quyết được nhu cầu cơ bản như thế nào. 1.4. Tỉ lệ người biết chữ trong dân số Cùng với chỉ số này, còn dùng chỉ số tỉ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi đi học, hay trình độ phổ cập văn hoá của người lao động trong dân số. Các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển và sự biến đổi về chất của xã hội. Xã hội hiện đại đã coi việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu tư hàng đầu cho phát triển kinh tế trong thời gian dài hạn. Tỉ lệ trẻ em đi học và người biết chữ cao, đồng nghĩa với sự văn minh xã hội và nó thường đi đôi với nền kinh tế có mức tăng trưởng cao. Do vậy, nó là một chỉ số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia . 1.5. Các chỉ số về phát triển kinh tế - xã hội: - Ngoài các chỉ số nêu trên người ta còn dùng các chỉ số đánh giá sự phát triển xã hội ở mặt bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ như: Số giường bệnh, số bệnh viện, bệnh viện an dưỡng, số bác sĩ, y sĩ bình quân cho một vạn dân. Về giáo dục và văn hóa có tổng số các nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ, số lớp và số trường học, viện nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà bảo tàng, thư viện tính bình quân cho ngàn hoặc triệu dân. - Sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm cũng là một tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ của xã hội hiện đại. Người ta dùng đồ thị Lorenz và hệ số Gini để biểu thị. Đường bình đẳng tuyệt đối Đường cong Lorenz Đường cong của bất bình đẳng tuyệt đối % của dân số cộng dồn % của thu nhập cộng dồn Sơ đồ 1.1: Đường cong Lorenz A B Để nghiên cứu mức chênh lệch trong phân phối thu nhập người ta thường chia dân số của một nước ra làm 10 nhóm người (gọi là 10 bậc), mỗi nhóm có 10% dân số; hoặc chia ra 5 nhóm (5 bậc ), mỗi nhóm 20% dân số từ thu nhập thấp nhất lên thu nhập cao nhất. Nếu như trong xã hội bình đẳng tuyệt đối thì cứ 20% dân số sẽ nhận được 20% thu nhập, có nghĩa là không có người giàu người nghèo. Còn trong xã hội bất bình, đường cong Lorent sẽ cho ta biết rằng 20% dân số có thu nhập thấp nhất và 20% dân số có thu nhập cao nhất sẽ nhận được bao nhiêu % tổng thu nhập. Khi thu nhập của nhóm người nghèo giảm đi và thu nhập của nhóm người giàu tăng lên thì đường cong Lorent càng cách xa đường 450 và ngược lại . Nếu phần diện tích được giới hạn bởi đường 450 và đường cong Lorent được kí hiệu là A và phần còn lại của tam giác vuông được giới hạn bởi đường cong Lorent và 2 đường vuông góc kí hiệu là B thì hệ số Gini được tính: Diện tích (A) Diện tích (B) Hệ số Gini = Có thể thấy rằng : Hệ số Gini nhận giá trị từ 0 tới 1 Hệ số Gini = 0: Xã hội hoàn toàn bình đẳng Hệ số Gini = 1: Xã hội hoàn toàn bất bình đẳng Dựa vào những số liệu thu thập của Ngân hàng thế giới (WB) thì trong thực tế giá trị của hệ số Gini biến đối trong phạm vi hẹp hơn: Từ 0,2 đến 0,6. Theo nhận xét của WB thì những nước có thu nhập thấp, hệ số Gini biến động từ 0,3 đến 0,5; đối với những nước có thu nhập trung bình từ 0,4 đến 0,6 và đối với nước có thu nhập cao từ 0,2 đến 0,4. Tuy nhiên hệ số Gini mới chỉ lượng hoá được mức độ bất bình đẳng về phân phối thu nhập, còn tiêu thức về sự độc lập hay phụ thuộc về kinh tế và chính trị của quốc gia, sự tự do dân chủ công dân, sự tiến bộ trong thể chế chính trị, xã hội... thì cũng chưa thể lượng hóa hết được . 2. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế của một nước, theo cách hiểu thông thường là tổng thể các mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố kinh tế và trong từng yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Với quan niệm này, phải hiểu cơ cấu không chỉ là qui định về số lượng, chất lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống, mà chính là quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống, còn các quan hệ về số lượng, tỷ lệ chỉ được xem như là các biểu hiện của các mối quan hệ mà thôi . Sự phát triển kinh tế - xã hội còn biểu hiện trong biến đổi của các ngành, các lĩnh vực sản xuất và các khu vực xã hội theo các chỉ số sau: 2.1. Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội: Chỉ số này phản ánh tỉ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ lệ công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao trong GDP, còn tỉ lệ nông nghiệp thì giảm tương đối . 2.2. Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X - M) Tỉ lệ của giá trị sản lượng xuất khẩu thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên. 2.3. Chỉ số về tiết kiệm - đầu tư (I) Tỉ lệ tiết kiệm đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thể hiện rõ hơn về khả năng tăng trưởng nền kinh tế trong tương lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Những nước có tỉ lệ đầu tư cao (từ 20%-30% GNP) thường là các nước có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên tỉ lệ này còn phụ thuộc vào qui mô của GNP và tỉ lệ giành cho người tiêu dùng I = GNP - C + X - M 2.4. Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị Sự biến đổi rõ nét ở bộ mặt xã hội của quá trình phát triển là mức độ thành thị hóa các khu vực trong nước. Chỉ số này được biểu hiện ở tỉ lệ lao động và dân cư sống ở thành thị trong tổng số lao động và dân số. Sự tăng lên của dân cư hoặc lao động và làm việc ở thành thị là một tiến bộ do công nghiệp hóa đưa lại, nó nói lên sự văn minh trong đời sống của nhân dân trong nước . 2.5. Chỉ số về liên kết kinh tế : Chỉ số này biểi hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lưu kinh tế giữa các khu vực trong nước, sự chặt chẽ của mối liên hệ giữa các ngành và các khu vực trong nước. Sự chặt chẽ của mối liên kết được đánh giá thông qua trao đổi các yếu tố đầu vào - đầu ra trong các ma trận liên ngành, liên vùng. Điều đó thể hiện sự tiến bộ của nền kinh tế trong nước bằng việc đáp ứng ngày càng nhiều yếu tố sản xuất do trong nước khai thác. Dựa trên các tiêu thức nêu trên mà liên hiệp quốc và Ngân hàng thế giới thường sắp xếp các nước có mức độ tiến bộ, phát triển khác nhau; trong đó quan trọng nhất vẫn là mức thu nhập tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người trong năm. Căn cứ vào đây người ta sắp xếp các nấc thang phát triển khác nhau giữa các nước. IV. Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế 1. Các nhân tố kinh tế : Đây là lượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản lượng đầu ra. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số: Y = F(Xi) Trong đó: Y là sản lượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu vào thể hiện các nhân tố đều chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung - cầu. Một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cung, một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng cung - cầu do giá cả thị trường điều tiết sẽ tác động trở lại các nhân tố trên và dẫn tới kết quả của sự sản xuất, đó là sản lượng của nền kinh tế. - Mức thu nhập - Giá tiêu dùng - Các chính sách kinh tế - Vốn sản xuất - Lao động - Tài nguyên - Khoa học - công nghệ - Quản lý tổ chức - Qui mô sản xuất... - ................... S -Cung -Cầu D Q QQ P S D Q0 Tổng sản phẩm quốc nội P0 Biến số đầu vào Sự cân bằng của thị trường Biến số đầu ra E Sơ đồ 1.2: Sơ đồ mối quan hệ các nhân tố kinh tế của sự tăng trưởng Trên sơ đồ 1.2, các biến số đóng vai trò của các nhân tố quyết định tổng mức cung (S), mà sự biến đổi vật chất và giá trị của nó tạo thành tổng sản lượng của nền kinh tế. Đó là các yếu tố sản xuất. Còn các yếu tố quyết định đến tổng mức cầu (D) thực chất đó là các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản lượng thông qua sự cân bằng về cung - cầu (E) Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của sự tăng trưởng là xác định nhân tố nào là giới hạn của sự tăng trưởng, giới hạn này do cung hay do cầu? Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và kinh tế học nói chung như Adam Smith, Jean Baptiste Say, David Ricardo cho đến Alfred Marshall và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lý thuyết dựa trên quan điểm nghiêng về cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn nhất định (ngắn hạn) sự khan hiếm của tài nguyên (nguồn đầu vào) hay sự thiếu cung, luôn luôn là giới hạn của sự tăng trưởng, nhất là khi sức sản xuất còn thấp. Còn theo trường phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát là Keynes thì mức sản lượng và việc làm là do cầu quyết định. Điều này được lý giải sản lượng của nền kinh tế luôn ở dưới mức tiềm năng, tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm năng, công nhân thất nghiệp ở mức tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc chưa tận dụng hết... Đó là do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, năng suất luôn được nâng cao. Do đó cung không phải là vấn đề giới hạn của sự gia tăng sản lượng, mà ở đây nó phụ thuộc vào cầu. Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn những nước quá nghèo, chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của nhân dân. Song lại có những nước quá giàu đã đáp ứng được nhu cầu của đất nước và đang mở rộng thị trường ra khỏi biên giới để nhằm đẩy mạnh tăng trưởng. Vì vậy mỗi quan điểm trên đều có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng biệt của mỗi quốc gia . Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển, cung vẫn chưa đáp ứng đựơc cầu, sự gia tăng sản lượng phải bao gồm sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai và nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ ... Y = F( K,L,R,T...) Trong đó: K: là vốn L: là lao động R: là đất đai và tài nguyên T: là tiến bộ của kĩ thuật và công nghệ Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc vào sản lượng các yếu tố đầu vào trong điều kiện trình độ kĩ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi yếu tố có vai trò nhất định, do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi nơi, mỗi lúc quyết định: 1.1. Nguồn vốn: 1.1.1. Vốn sản xuất và vốn đầu tư 1.1.1.1. Vốn sản xuất: Là một bộ phận của tài sản quốc dân bao gồm : - Tài nguyên thiên nhiên - Tài sản được sản xuất ra - Nguồn nhân lực Tài sản được sản xuất ra bao gồm toàn bộ của cải vật chất được tích luỹ lại qua quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Những tài sản này được chia ra làm 9 loại: 1 Công xưởng nhà máy 2 Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng 3 Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải 4 Cơ sở hạ tầng 5 Tồn kho của tất cả hàng hóa 6 Các công trình công cộng 7 Các công trình kiến trúc quốc gia 8 Nhà ở 9 Các cơ sở quân sự Theo chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế thì 4 nhóm cuối là: các công trình công cộng, các công trình kiến trúc quốc gia, nhà ở, các cơ sở quân sự không tham gia trực tiếp vào các quá trình sản xuất. Nhóm thứ hai bao gồm những tài sản còn lại: công xưởng nhà máy; trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng; máy móc thiết bị - phương tiện vận tải; cơ sở hạ tầng; tồn kho của tất cả hàng hoá là những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất được gọi là tài sản sản xuất. Trong đó 4 loại tái sản đầu được gọi là vốn cố định, loại thứ 5 là tài sản tồn kho 1.1.1.2. Vốn đầu tư và hình thức đầu tư Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu về tài sản ngày càng tăng thêm về tài sản cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư được chia làm 2 loại: đầu tư cho tái sản sản xuất và đầu tư cho tài sản phi sản xuất. Vốn đầu tư cho tài sản sản xuất gọi là vốn sản xuất, đó là chi phí để thay thế tài sản cố định bị thải loại để tăng tài sản cố định mới và để tăng tài sản tồn kho. Như vậy hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hóa vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới 2 hình thức: - Đầu tư trực tiếp :là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động và quản lí đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể dưới các hình thức hợp đồng: Hợp đồng, liên doanh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. - Đầu tư gián tiếp: Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như xã hội, nhưng ngời có vốn không tham gia trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư, dưới hình thức: cổ phiếu, tín phiếu ... Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 phương thức đầu tư mới được áp dụng ở Việt Nam: + B - T - O: Phương thức Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh + B - O - T: Phương thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao + B - T: phương thức Xây dựng - Chuyển giao (B - Build, T - Transfer, O - Operate) Cả 3 phương thức đầu tư trên là những hợp đồng kí giữa Chính phủ với các nhà đầu tư nhằm áp dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng. 1.1.2. Các nguồn hình thành vốn đầu tư : 1.1.2.1. Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư Toàn bộ thu nhập của một nước (GNP) trong quá trình sử dụng được chia làm 3 quĩ lớn: quĩ bù đắp, quĩ tích luỹ vốn và quĩ tiêu dùng. Quĩ bù đắp và quĩ tích luỹ là nguồn để hình thành vốn đầu tư, trong đó quĩ đầu tư là bộ phận quan trọng nhất. Toàn bộ quĩ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp thì qui mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển kinh tế ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều đó đặt ra cần thiết phải có nguồn hỗ trợ vốn từ nước ngoài : 1.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư trong nước . * Tiết kiệm của Chính phủ (Sg) : Là tiết kiệm của ngân sách nhà nước (Sgh) và tiết kiệm của các công ty Nhà nước (Sge) . * Tiết kiệm của các công ty (Se): được xác định trên cơ sở doanh thu và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh. * Tiết kiệm của dân cư (Sh): Phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu hộ gia đình . 1.1.2.3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài * Viện trợ phát triển kinh tế (ODA): ODA được gọi là nguồn vốn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước hay địa phương ) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này. Nội dung viện trợ ODA bao gồm - Viện trợ không hoàn lại : Thường chiếm 25% tổng vốn ODA - Hợp tác kĩ thuật - Cho vay ưu đãi, bao gồm: + Cho vay không lãi + Cho vay với lãi suất ưu đãi từ : 0,5 - 5% /năm, trả vồn sau 3 - 10 năm, hoàn vốn trong thời gian 10 - 15 năm. * Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO): Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo : Cung cấp thuốc men cho cá trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai. Hiện nay, loại viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú và tiền mặt . * Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp vốn, mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kĩ thuật và tìm thị trường tiêu thụ. Mặt khác FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do đó thu hút và khai thác tốt nguồn vốn này sẽ giảm nợ nước ngoài đối với các nước đang phát triển . 1.1.3. Tác động của vốn đến tăng trưởng kinh tế : Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đối trong chi tiêu, do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu dịch chuyển: Trên sơ đồ 1.3 mô tả đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1. Do đó làm cho mức sản lượn._.g cũng biến động từ P0 đến P1. Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, có nghĩa là có thêm các nhà máy thiết bị, phương tiện vận tải... mới được đưa vào sản xuất làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đối này tác động đến tổng mức cung. Trên sơ đồ 1.4 mô tả vốn sản xuất sẽ làm tăng tổng cung chuyển dịch từ AS0 đến AS1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá giảm từ P0 đến P1 . GDP AD0 AD1 AS GDP P Y0 Y1 P1 P0 AD AS0 AS1 Y0 Y1 P P0 P1 Sơ đồ 1.3 Sơ đồ 1.4 Tác động vốn đầu tư Tác động của vốn sản xuất xuất đến tăng trưởng đến tăng trưởng 1.2. Lao động với phát triển kinh tế : 1.2.1. Nguồn lao động và các nhân tố ảnh hưởng 1.2.1.1. Nguồn nhân lực và nguồn lao động Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo qui định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động là một bộ phận của dân số có khả năng lao động bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động đang làm việc thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân . DÂN Số Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi lao động Không có khả năng Có khả năng Đang làm việc Không làm việc lao động lao động thường xuyên thường xuyên Nguồn lao động 1.2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng lao động: * Dân số: Được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và cơ cấu của nguồn lao động. * Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Đây là số % của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nói lên tình trạng số người trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang việc nội trợ hoặc đang trong tình trạng khác . * Thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp: Tổng số người thất nghiệp 100% Nguồn lao động Tỷ lệ thất nghiệp = Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm, nó sẽ ảnh hưởng đến số người đang làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế . ở các nước đang phát triển, số ngời làm việc trong khu vực nông thôn hoặc khu vực thành thị không chính thức tuy có việc làm nhưng với năng suất thấp, thời gian làm việc không đầy đủ mà phần lớn mà là chia việc để làm, do vậy để biểu thị loại thất nghiệp này người ta gọi là thất nghiệp trá hình . * Thời gian lao động : thường được tính bằng số ngày làm việc trong một năm, số giờ làm việc trong tuần hoặc số giờ làm việc trong ngày... Xu hướng chung là thời gian làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng cao. 1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hởng đến chất lượng lao động : Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác cần được xem xét đến chất lượng lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn. 1.2.2. Vai trò của lao động với việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.2.2.1. Đặc điểm lao động ở các nước đang phát triển . * Số lượng lao động tăng nhanh. * Phần lớn lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp. * Hầu hết người lao động chưa được sử dụng. 1.2.2.2. Vai trò của lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế: Lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. * Lao động với sự tăng trưởng kinh tế: Một mặt, lao động tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu về số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khoẻ. Người lao động và sự kết hợp giữa lao động với các yếu tố đầu vào khác để làm tăng mức sản lượng đầu ra Mặt khác, lao động lại thể hiện tập trung qua mức tiền lương của người lao động. Khi tiền lương của người lao động tăng có nghĩa là chi phí sản xuất tăng phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của người tiêu dùng cũng tăng lên. 1.3. Tài nguyên và môi trường với sự tăng trưởng kinh tế 1.3.1. Phân loại tài nguyên Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất . * Theo công dụng bao gồm: - Nguồn năng lượng - Các loại khoáng sản - Nguồn tài nguyên rừng - Nguồn đất đai - Nguồn nước - Biển và thuỷ sản - Khí hậu. * Theo khả năng tái sinh, bao gồm: - Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua hoạt động của con người: Nguồn tài nguyên rừng và các loại động thực vật. - Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: Nguồn năng lượng mặt trời, thuỷ triều, sức gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí. - Tài ngyuên không có khả năng tái sinh bao gồm những tài nguyên có qui mô không đổi như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng hết dần như các loại khoáng sản, dầu khí. 1.3.2. Vai trò của nguồn tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế. * Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản phẩm có được từ nguồn tài nguyên chưa qua sơ chế hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến . * Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích luỹ vốn và phát triển ổn định. Việc tích luỹ vốn đối với hầu hết các nước đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài, liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên với những nước đã được thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên lớn, đa dạng có thể rút ngắn quá trình tích luỹ vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hoá nền kinh tế tạo nguồn vốn tích ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sự giàu có về tài nguyên, là cơ sở để phát triển nhiều ngành kinh tế, ít bị phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, vốn là một yếu tố không ổn định trên thị trường thế giới. Điều này cho phép những nước có nguồn tài nguyên phong phú có thể tăng trưởng trong những điều kiện ổn định.Trong khi những nước ít may mắn hơn về tài nguyên phải căng thẳng để điều chỉnh sự lên xuống về giá cả khi phải nhập khẩu các nguồn nguyên liệu. 1.4. Khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Cách mạng khoa học kĩ thuật làm thay đổi sâu sắc phương thức lao động của con người. Loài người đã trải qua hàng nghìn năm trong giai đoạn thứ nhất của nền văn minh, giai đoạn của nền nông nghiệp thủ công với công cụ lao động chủ yếu công cụ thô sơ sử dụng nguồn năng lượng của cơ thể và xúc vật. Giai đoạn thứ hai của nền văn minh nhân loại là giai đoạn của nền sản xuất cơ khí hoá. Sự phát triển của giai đoạn này gắn liền với những thành tựu khoa học kĩ thuật giúp cho con người khai thác, sử dụng các nguồn năng lượng to lớn trong thiên nhiên vào các hoạt động sản xuất (tự động hoá các vận động cơ giới bằng các nguồn năng lượng). Đó là đặc trưng chủ yếu của công cụ lao động trong giai đoạn văn minh cơ khí hoá Ngày nay với máy tính điện tử, với các thiết bị điều khiển tự động, với các rô bốt thông minh, loài người đang tiến tới giai đoạn thứ ba của nền văn minh nhân loại, đó là tự động hoá quá trình hoạt động kinh tế với sự giúp đỡ của tin học. * Cách mạng khoa học kĩ thuật đưa văn minh đến cho cuộc sống con người: Cách mạng công nghệ không ngừng cải thiện lao động của con người từ lao động chân tay với việc áp dụng ngày càng phổ cập kĩ thuật cơ giới hoá và tự động hoá, đến việc lao động trí óc với việc thâm nhập ngày càng rộng rãi các máy tính và các phương tiện thông tin viễn thông vào mọi lĩnh vực hoạt động xã hội . Cách mạng công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến lối sống con người. Các dụng cụ gia đình dần dần được tự động hoá và điện tử hoá, các dịch vụ gia đình được cung ứng tiện lợi, đã làm giảm nhẹ rất nhiều công việc nội trợ của phụ nữ, để họ giành nhiều thời gian cho công việc khác như giáo dục con cái, học tập, giải trí, sinh hoạt xã hội ... Với các phương tiện nghe nhìn và thông tin hiện đại đang hình thành một kết cấu hạ tầng văn hoá mới, có thể giao tiếp truyền đạt đi khắp nơi trên thế giới . * Cách mạng khoa học kĩ thuật tác động đến quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Những vấn đề như : Năng lượng, môi trường, nguyên liệu sản xuất, dân số lương thực thực phẩm, các căn bệnh dịch hiểm nghèo không còn là vấn đề của từng quốc gia mà ngày càng có tính toàn cầu. Để khai thác vũ trụ, nam cực, đại dượng, chế ngự bầu khí quyển... cần phải có sự nỗ lực chung của nhiều nước. Cách mạng khoa học kĩ thuật đã mở ra những khả năng to lớn, để khai thác những khả năng to lớn này các nước cần phải hợp tác với nhau, thể hiện sự gia tăng về phân công lao động, chuyển giao công nghệ quan hệ xuất - nhập khẩu nhằm phát huy thế mạnh của từng nước trên thị trường quốc tế. * Cách mạng khoa học - kĩ thuật với sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: Trước đây tồn tại một thời gian quan điểm sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tài nguyên, vốn sản xuất và lao động, đó là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều rộng . Từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX khi bước vào giai đoạn 2 của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 2, đứng trước vấn đề môi trường và sự cạn kiệt tài nguyên thì những yếu tố khoa học công nghệ trở nên quan trọng. Đặc điểm của yếu tố này là khó xác định sự đóng góp trực tiếp, nhưng nó thể hiện qua việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố khai thác: tăng lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng suất máy móc, thiết bị . Đây là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều sâu. Quan điểm này được thể hiện qua hàm sản xuất của Cobb - Douglas: Y= T.La .Kb.Rg. Trong đó: Y: Kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP) a, b, g : Tỉ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào T: Khoa học - công nghệ; L: Lao động; K : Vốn; R: Tài nguyên Hàm sản xuất này phân biệt 2 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: Thứ nhất là những yếu tố này tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm: K, L, R. Thứ hai là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố trên, đó là T. Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố kinh tế khác tác động tới tổng mức cung, như lợi thế do qui mô sản xuất, chất lượng lao động, khả năng tổ chức quản lý. 2. Các nhân tố phi kinh tế : Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế, ngoài những tiêu chuẩn thông thường để đánh giá sự tiến bộ xã hội, về địa vị của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể trong cộng đồng xã hội. Điều đó đôi khi trở thành mục tiêu của các quốc gia dân tộc, tạo ra một động lực mạnh hơn cả những thế lực kinh tế thông thường, hoặc chi phối và làm biến dạng những qui luật của các mối quan hệ kinh tế vốn có. Đương nhiên các tác động đó cùng chiều thì tạo ra sự thúc đẩy ,ngược lại thì sẽ cản trở, xung đột. Các nguồn lực không trực tiếp nhằm mục tiêu kinh tế nhưng gián tiếp có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gọi là các nhân tố phi kinh tế. Nó có đặc điểm : - Không thể lượng hoá được các ảnh hưởng của nó. - Phạm vi ảnh hưởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách tách biệt rõ rệt được và không có ranh giới rõ ràng. 2.1. Cơ cấu dân tộc. Đề cập các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể chia theo chủng tộc (sắc tộc , bộ tộc) theo khu vực sinh sống lâu đời tạo nên những khác biệt nhất định (miền núi, miền thảo nguyên, miền đồng bằng...) theo tỉ trọng số lượng trong tổng số dân số (thiểu số, đa số ...). Do điều kiện sống khác nhau đã tạo nên sự khác biệt về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất và về địa lí, vị trí kinh tế - xã hội trong cộng đồng. Sự phát triển tổng thể kinh tế có thể đem lại những biến đổi kinh tế có lợi cho dân tộc này nhưng bất lợi cho dân tộc khác. Đó là những nguyên nhân nảy sinh ra xung đột giữa các dân tộc. Do vậy lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng nó đảm bảo được bản sắc, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục sự xung đột và sự mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế 2.2. Cơ cấu tôn giáo. Vấn đề tôn giáo đi đôi với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người có thể theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lí tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lí -xã hội riêng của dân tộc. Nhưng ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi của sự phát triển của xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung thường có ảnh hưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nên có chính sách đúng đắn của Chính phủ. 2.3. Đặc điểm văn hoá - xã hội. Đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến nhiều quá trình phát triển của đất nước. Nói đến văn hoá dân tộc là một khái niệm rất rộng, bao hàm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông, đến các tích luỹ tinh hoa của nhân loại về khoa học nghệ thuật văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những tập tục tốt đẹp... đã xây dựng được, mà mọi người thừa nhận từ lâu đời. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng của lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ quản lí kinh tế - xã hội. Vì thế trình độ văn hoá cao là mục tiêu của sự phát triển. Để phát triển lâu dài và ổn định, đầu tư cho phát triển văn hoá được coi là đầu tư cần thiết nhất và đi trước một bước so với đầu tư sản xuất . 2.4. Các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội : Đây cũng là một nhân tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó thể hiện như một lực lượng đại diện ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thông qua các mục tiêu phát triển dự kiến, các nguyên tắc quản lí kinh tế -xã hội, các luật pháp, các chế độ, chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ kinh tế cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị, xã hội. Một thể chế phù hợp với phát triển hiện đại phải thể hiện ở các mặt: + Phải có tính năng động, linh hoạt, mềm dẻo luôn thích nghi được với những biến động phức tạp do tình hình thế giới và trong nước khó lường trước. + Phải đảm bảo sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột có thể xảy ra trong quá trình phát triển . + Phải tạo cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả, nhằm tranh thủ được vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới, là cơ sở của sự tăng tốc trong quá trình phát triển. + Tạo ra một sự kích thích mạnh mẽ mọi tiềm lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu . + Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lí , có trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng những thành công các kĩ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nước, cũng như đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Dù quan trọng đến đâu, thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, tức là tạo ra những điều kiện thuận lợi để hướng các hoạt động theo hướng có lợi và hạn chế các mặt bất lợi. v. Các mô hình tăng trưởng kinh tế. Các mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế thông qua các biến số kinh tế và các mối liên hệ giữa chúng. Mục đích của các mô hình kinh tế này là mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông qua môi liên hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng trong quá trình phát triển sau khi đã tước bỏ đi sự phức tạp không cần thiết. Những diễn đạt này có thể dưới dạng lời văn, sơ đồ hoặc toán học: 1. Mô hình kinh tế cổ điển về tăng trưởng kinh tế : 1.1. Xuất phát điểm của mô hình : Tác phẩm "Của cải của các nước" của Adam Smith (1723 - 1790) được coi điểm mốc đánh dấu sự ra đời của khoa học kinh tế và bản thân ông cũng được coi là người sáng lập ra kinh tế học . Nội dung cơ bản của tác phẩm này là : - Học thuyết về "Giá trị lao động", ông cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiên bạc là nguồn gốc cơ bản để tạo ra mọi của cải cho đất nước. - Học thuyết "Bàn tay vô hình ", theo ông người lao động biết rõ nhất cái gì có lợi cho họ, do vậy nếu không bị Chính phủ kiểm soát thì người lao động sẽ được mọi lợi nhuận thúc đẩy sản xuất hàng hoá và dịch vụ cần thiết, thông qua thị trường tự do này lợi ích cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã hội. - Ông đưa ra lí thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc "Ai có gì được nấy", tư bản có vốn được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì được địa tô, công nhân có sức lao động thì sẽ được nhận tiền công. Ông cho rằng nguyên tắc này là phân phối công bằng hợp lí. 1.2. Các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ giữa chúng: Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David Ricardo (1772 - 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Theo Ricardo thì nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất và các yếu tố cơ bản nhất là đất đai, lao động và vốn; trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kĩ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỉ lệ cố định, không thay đổi. Trong 3 yếu tố kể trên, đất đai là yếu tố quan trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn của sự tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương thực thực phẩm sẽ tăng lên. Mà lương thực thực phẩm là bộ phận quan trọng nhất để đảm bảo đời sống của gia đình công nhân. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng phải tăng theo tương ứng, lợi nhuận của các nhà tư bản có xu hướng giảm xuống. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì khi lợi nhuận hạ xuống quá thấp không thể bù đắp được mọi rủi ro trong kinh doanh sẽ làm nền kinh tế trở nên bế tắc. Điều này chỉ có thể giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng hoá công nghiệp để mua lương thực, thực phẩm từ nước ngoài rẻ hơn, hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp . Như vậy lập luận của Ricardo là: Tăng trưởng là kết quả của tích luỹ, tích luỹ là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí này lại phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn của sự tăng trưởng. Y K, L R R0 Sơ đồ1.5: Đường tăng trưởng của Ricardo: Đất đai là giới hạn của sự tăng trưởng 1.3. Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với sự phát triển: Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trường tự do được một bàn tay vô hình dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội .Thị trường với với sự linh hoạt của giá cả và tiền công có khả năng tự điều tiết những mất cân đối của nền kinh tế để xác lập những cân đối mới, đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ. Đây là quan niệm "cung tạo nên cầu " Còn các chính sách kinh tế không có tác động quan trọng đối với sự hoạt động của nền kinh tế, đôi khi còn hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Đối với những khoản chi tiêu của chính là chi tiêu "không sinh lời ", còn các khoản thu đều làm giảm lợi nhuận, từ đó làm giảm tích luỹ. 2. Mô hình của K.Marx về tăng trưởng kinh tế : 2.1. Các yếu tố tăng trưởng kinh tế : Theo K.Marx các yếu tố quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động và tiền vốn, tiến bộ kĩ thuật. Trong đó ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư . K.Marx cho rằng sức lao động đối với nhà tư bản là một hàng hoá đặc biệt và được các nhà tư bản mua bán trên thị trờng và được tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Mục đích của các nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư, cho nên họ tìm mọi cách tăng giờ làm của công nhân, giảm tiền công của công nhân, hoặc nâng cao năng suất lao động bằng cải tiến kĩ thuật. Hai phương pháp trên là giới hạn cho nên để tăng giá trị thặng dư nhà tư bản chủ yếu dựa vào cải tiến kĩ thuật. Vì vậy các nhà tư bản tiết kiệm phần lợi nhuận để tăng thên vốn đầu tư bằng cách chia lợi nhuận làm 2 phần: một phần giành cho tiêu dùng nhà tư bản, một phần để tích luỹ phát triển sản xuất . 2.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng. K.Marx chia nền kinh tế ra làm 2 khu vực: khu vực sản xuất vật chất và khu vực sản xuất phi vật chất. Trong đó chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội, vì vậy tổng sản phẩm xã hội chỉ toàn bộ sản phẩm sản xuất trong một thời gian nhất định, về mặt hiện vật bao gồm: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, về giá trị bao gồm: tư bản bất biến, tư bản khả biến và tư bản thặng dư (C+V+m). Còn thu nhập quốc dân bao gồm tư bản khả biến và giá trị thặng dư (V+m). 2.3. Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế với phát triển: Marx bác bỏ lí thuyết cổ điển "cung tạo nên cầu" và dự đoán về tình trạng bế tắc của sự tăng trởng do sự hạn chế đất đai gây ra . Theo ông nguyên tắc cơ bản của sự vận động trên và hàng hoá trên thị trường là phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và hiện vật . Lưu thông hàng hoá phải đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng hàng hoá mua và bán. Nếu khối lượng cần bán và sức mua không phù hợp sẽ dẫn đến khoảng cách, nếu khoảng cách này lớn sẽ gây khủng hoảng, mà trong xã hội tư bản thường là xảy ra khủng hoảng thừa. Do vậy vai trò đặc biệt của chính sách phát triển kinh tế là nâng cao mức cầu hiện có. 3. Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế : 3.1. Nội dung cơ bản : Cuối thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kĩ thuật, hàng loạt các phát minh và các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Điều này đã ảnh hưởng đến trào lưu phát triển kinh tế. Sự phát triển của trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alpred Marshall (1842-1924) tác phẩm chính của ông là "Các nguyên lí của kinh tế học" xuất bản 1980. * Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển : - Bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng, nhất định đòi hỏi những tỉ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được công nhân, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. - Tiến bộ khoa học kĩ thuật là yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế . * Những quan điểm giống cổ điển : Nền kinh tế có 2 đường tổng cung : AS - LR phản ánh sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, còn AS - SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy, các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn đạt được sự cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng ( Xem sơ đồ 1.6) Cũng giống như các nhà kinh tế cổ điển, các nhà tân kinh tế cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có sự biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế của Chính phủ không thể dựa vào sản lượng, nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá của nền kinh tế, do đó vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế. 3.2. Hàm sản xuất Cobb - Douglas: Các nhà kinh tế tân cổ điển cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự gia tăng của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: Vốn, lao động, tài nguyên và khoa học - công nghệ. Y = F(K, L, R, T) Trong đó: Y: Đầu ra (GDP) K: Vốn sản xuất L: Số lượng lao động R: Nguồn tài nguyên T: Khoa học công nghệ Hàm Cobb - Douglas có dạng: Y = T. Ka Lb Rg ở đây a, b, g là các số luỹ thừa, phản ánh tỉ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào. Sau khi biến đổi Cobb - Douglas thiết lập đợc mối quan hệ theo tốc độ tăng trởng của các biến số g = t + ak + al + gr Trong đó: g: tốc độ tăng trưởng của GDP k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào t: Phần còn lại, phản ánh tác động của khoa học - công nghệ. Như vậy hàm sản xuất của Cobb - Douglas cho biết 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yêú tố này là sự khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cho rằng khoa học công nghệ là quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế. AS - SR AS - LR PL PL0 Y0 GDP AD Sơ đồ 1.6 : Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế luôn đạt sản lượng tiềm năng (Y0 = Y*). 4. Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế : 4.1. Nội dung cơ bản của mô hình * Sự cân bằng của nền kinh tế : AS - SR PL PL0 Y0 Y* GDP AS - LR * Keynes có thể đạt được và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lượng nào đó, dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người, tại nơi mà những khoản đầu tư mới cho chỉ tiêu cho đầu tư được hình thành từ các khoản tiết kiệm đang được đa vào hệ thống. Sơ đồ 1.7: Keynes cho rằng nền kinh tế có thể đạt được mức cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng (Yo < Y*). Keynes cũng cho rằng có hai con đường tổng cung: AS - LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng, mà thông thường sản lượng đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn sản lượng tiềm năng (Y0 < Y*). * Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng. Theo ông thu nhập của các cá nhân sử dụng để cho tiêu dùng và tích luỹ. Nhưng có xu hướng chung là khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng giảm và xu hướng trung bình tăng. Việc xu hướng tiêu dùng giảm làm cho cầu giảm và đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế. Vì vậy ông khuyên nên phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội. *Vai trò của chính sách kinh tế với phát triển Ông cho rằng Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế để làm dịu khủng hoảng và thất nghiệp, đồng thời nâng cao khả năng tiêu dùng của xã hội . Trước hết ông đề nghị sử dụng ngân sách Nhà nớc để kích thích đầu tư thông qua đơn đặt hàng của Nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Để kích thích đầu tư có hiệu quả phải giảm lãi suất và tăng lợi nhuận, đồng thời thực hiện lạm phát có mức độ. Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái Nhà nước, qua đó để bổ xung cho ngân sách .Ông tán thành đầu tư cho Chính phủ vào công trình công cộng và các biện pháp khác như một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm . 4.2. Mô hình Harrod - Dmar : Nếu gọi đầu ra là Y, tỉ lệ tăng trưởng của đầu ra là g : g = DY/Yt Nếu gọi s là tỉ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là s: s = St/ Yt Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết, đầu tư luôn bằng tiết kiệm (St = It). Đầu tư chính là cơ sở tạo ra vốn sản xuất, do đó It = Kt + n Nếu gọi k là tỉ số gia tăng giữa vốn và đầu ra, ta sẽ có DY It . DY It It Yt It . Yt Yt DY = = : Vì k = DKt + n / DY hay k = It/ DY Do đó ta có: g = s/k ở đây k = s/g được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra). Hệ số này nói lên rằng : Vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân và của các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư . Mô hình Harrod - Domar sự tăng trưởng là do kết quả của sự tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế .Theo Harrod - Domar chính đầu tư phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế . 5. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại: Dựa vào lí thuyết của Keynes, Chính phủ các nước đã sử dụng chính sách kinh tế của Nhà nước để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức sản lượng tiềm năng. Nhưng sau một thời gian áp dụng lí thuyết này các nước có xu hướng nhấn mạnh vai trò của chính sách kinh tế, do đó lại hạn chế mức độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại lớn cho quá trình tăng trưởng và phát triển. Trong bối cảnh đó một trường phái kinh tế mới ra đời, các nhà kinh tế của trờng phái này ủng hộ xây dựng nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế và nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp chính là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết của Keynes, mà đại diện tiêu biểu là P.A Samuelson trong tác phẩm "Kinh tế học". Nội dung cơ bản của thuyết này là : 5.1. Sự cân bằng của nền kinh tế : Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô hình của Keynes, nghĩa là sự cân bằng kinh tế không nhất thiết phải đạt tới sản lượng tiềm năng, mà thường dưới mức sản lượng tiềm năng, trong điều kiện hoạt động bình thường nền kinh tế vẫn còn thất nghiệp và lạm phát . Nhà nước cần xác định được tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức độ lạm phát có thể chấp nhận được để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, còn các tổ chức kinh doanh sẽ cố gắng sản xuất để đạt được mức sản lượng càng gần mức sản lượng tiềm năng càng tốt . 5.2. Các yếu tố tác động đến cân bằng kinh tế Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (K), tài nguyên thiên nhiên (R), và khoa học công nghệ (T) Y = F(L,K,R,T) và thống nhất với việc phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về ._.ệp quốc doanh cần được sắp xếp lại và củng cố các doanh nghiệp chủ đạo đồng thời sớm chuẩn bị hình thành các cụm công nghiệp ở các vùng có điều kiện tự nhiên như khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản, khai thác và chế biến gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ.... - Thực hiện chiến lược tạo vốn cho phát triển công nghiệp, trên cơ sở mở rộng các hình thức hợp tác liên doanh liên kết với bên ngoài, có các cơ chế khuyến khích nhằm huy động mạnh các nguồn vốn trong dân, trong các thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp. - Phát triển công nghiệp gắn đô thị nhỏ nông thôn, khuyến khích các ngành nghề truyền thống như: sản xuất đồ mộc dân dụng, chế biến thực phẩm... để phục vụ nhu cầu tại chỗ và xuất khẩu, thu hút thêm lao động, tăng thêm thu nhập góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. - Công nghiệp khai khoáng và công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nhất là gỗ, đá xây dựng... phải trở thành khâu đột phá trên con đường phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn. - Bắc Kạn có đến 42 mỏ chì, kẽm tập trung ở huyện Chợ Đồn và các khoáng sản khác như vàng, atimon... trải dọc theo Sông Cầu từ Ngân Sơn đến Na Rì, mỏ thiếc ở Chợ Đồn, sắt và măng gan ở Ngân Sơn, Ba Bể ngoài ra còn có đá quý ribi, Saphia. Trong giai đoạn 2001 - 2005 cần tập trung vốn thăm dò khai thác có hiệu quả. + Phát triển sản xuất vật liệu xây dựng nhằm tận dụng tốt tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và lao động để tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn và đa dạng, từng bước đáp ứng nhu cầu về xây dựng, tiến tới giao lưu với các tỉnh trong nước và xuất khẩu, trú trọng phát tẻiển các chủng loại vật liệu xay dựng mà tỉnh có thế mạnh trong sản xuất như: gỗ, đá xây dựng, gạch ngói các loại.... ngoài tiêu thụ trong tỉnh còn có thể xuất ra thị trường ngoài tỉnh, góp phần tăng tích luỹ địa phương và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tổ chức sắp xếp lại sản xuất vật liệu xây dựng ở ngoài quốc doanh, đặc biệt là cơ sở sản xuất vôi và đá xây dựng ở các huyện có núi đá vôi nhằm tăng thêm sản xuất cho xã hội, đồng thời quản lý tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nước và môi trường sinh thái. + Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản: Bắc Kạn có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả. Trước mắt cần tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa phục vụ vùng đô thị và khu công nghiệp nhỏ. Vì vậy nhu cầu thị trường về các loại sản phẩm chế biến nông lâm sản của Bắc Kạn là rất lớn. Tuy nhiên các cơ sở chế biến ở tỉnh còn ít, chưa tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất nông lâm nghiệp phát triển, cho nên xu hướng chung của Bắc Kạn cần tập trung bào hai ngành chế biến: chế biến lâm sản như sản xuất giấy, gỗ gia dụng, xử lý các loại đặc sản của rừng... chế biến nông sản như là chế biến chè, bảo quản hoa quả tươi, chế biến nước giải khát từ hoa quả, chế biến thức ăn gia súc, sơ chế thịt, da, sữa cung cấp cho các Xí nghiệp công nghệ cao. 3.4. Phương hướng phát triển ngành dịch vụ: Các ngành thuộc khối dịch vụ giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Khối sản xuất phát triển đòi hỏi khối dịch vụ phát triển theo và ngược lại, khối dịch vụ phát triển nhanh càng kích thích và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của khối sản xuất.Theo các nhà kinh tế thì giữa khối sản xuất và khối dịch vụ có mối quan hệ hữu cơ, nếu khối sản xuất tăng trưởng 1% thì khối dịch vụ phải tăng từ 1 - 1,5%. Hiện nay khối dịch vụ Bắc Kạn còn đang ở điểm xuất phát thấp. Trong thời gian xu hướng chung của cả nước, Bắc Kạn đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, sự phân công và hợp tác diễn ra mạnh mẽ, tạo điều kiện thúc đẩy đồng thời đòi hỏi khối dịch vụ phải phát triển rất nhanh mới đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, đặc biệt là các ngành thương mại, vận tải, thông tin liên lạc, tài chính, ngân hàng, du lịch ... do vậy khối dịch vụ phải tăng trưởng nhanh trong đoạn 2001 - 2005 để có tỷ trọng của khối dịch vụ trong GDP vào năm 2010 sẽ tăng gấp 2 lần hiện nay. * Về ngành thương mại: - Tận dụng những lợi thế của tỉnh để phát triển về thương mại, khắc phục những khó khăn, yếu kém, tận dụng triệt để thời cơ để hoàn thành mục tiêu chung của tỉnh đến năm 2010. - Mục tiêu phấn đấu của ngành là từng bước ổn định và phát triển thị trường, mở rộng giao lưu hàng hoá trên tất cả các vùng trong tỉnh, đặc biệt là cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng thiết yếu cho đồng bào miền núi, vùng cao và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, tăng nhanh sức mua xã hội mở rộng quan hệ giao với các địa phương trong cả nước, xác định nguồn hàng và đối tác xuất khẩu. Phát triển dịch vụ du lịch, trước mắt là dịch vụ phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp và phục vụ đời sống. Khai thác tốt tiềm năng du lịch một cách có hiệu quả trên cơ sở giữn gìn được bản sắc văn hoá truyền thống và tạo ra sản phẩm du lịch có tính độc đáo, có sức thu hút và hấp dẫn. Hướng phấn đấu của toàn ngành từ nay đến năm 2010 là mỗi năm tăng bình quân 20% tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội, đảm bảo kế hoạch dự trữ hàng thiết yếu từ 10 - 15%, tăng cường thêm các mặt thêm các mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho nhân dân các dân tộc như nhóm vật liệu xây dựng và các mặt hàng về lương thực, dụng cụ gia đình, phương tiện đi lại, xăng dầu, chất đốt, điện tử... gắn mua với bán trên từng địa bàn để tiêu thụ nông sản, hàng hoá cho nhân dân, lấy vai trò quốc doanh làm chủ đạo, kết hợp với khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường nông thôn, miền núi, đặt biệt là bán lẻ hàng tiêu dùng và thu gom nông sản phẩm. Mở rộng mạng lưới cung ứng để có thêm nhiều đại lý ở các xã và cụm xã, hình thành các trợ sẽ là hình thức trao đổi thích hợp và phổ biến, đây không phải chỉ là nơi trao đổi hàng hoá mà còn là nơi diễn ra các các hoạt động văn hoá truyền thống. Các trung tâm thương mại lớn do thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán quản lý, còn ở các xã, phường thfi thương nghiệp quốc doanh chỉ phục vụ theo phương thức lưu động ở quy mô nhỏ. Hiện nay đã có 16 cụm thương nghiệp xã được xây dựng, trong giai đoạn tới một số cụm thương nghiệp xã cần được xây dựng và đi vào hoạt động phục vụ cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là ở các huyện Ba Bể, Ngân Sơn, Bạch Thông. - Thương nghiệp quốc doanh phải đảm bảo cung ứng các mặt hàng chính sách, đảm bảo 100% cho vùng cao, vùng sâu, vùng xa được cung ứng đầy đủ, thường xuyên các mặt hàng thiết yếu như: muối, dầu hoả, sách vở học sinh, thuốc chữa bệnh cho đồng bào. - Sắp xếp lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh theo hướng mỗi huyện có từ 3 cửa hàng thương nghiệp chuyên cung ứng chính sách xã hội, nghiên cứu tổ chức các hợp tác xã mua bán ở các xã hoặc cụm xã theo mô hình kinh doanh tổng hợp công nông thương tính theo thời vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá dưới hình thức đóng góp cổ phần tự quản. Để làm được các vấn đề trên, Bắc Kạn cần tập trung vào xây dựng thị xã Bắc Kạn trở thành một trung tâm thương mại dịch vụ, tiền tệ của tỉnh, để lưu thông hàng hoá với các tỉnh ngoài đồng thời phân phối hàng hoá tới các trung tâm huyện. * Về phát triển du lịch: Trong công tác quy hoạch cần gắn du lịch, Bắc Kạn với mạng lưới du lịch của vùng đông bắc và cả nước. Tổ chức các tuyến du lịch dọc theo quốc lộ 3 từ Cao Bằng đi qua Bắc Kạn rồi đến Thái Nguyên và các tỉnh khác xa hơn. Hướng chủ yếu là xây dựng một số cụm du lịch có đủ sức thu hút khách và cạnh tranh được với các vùng du lịch lân cận đem lại hiệu quả cao về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Trong giai đoạn 2001 - 2005 tập trung quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Hồ Ba Bể để tổ chức hợp lý các tuyến nội tỉnh, liên tỉnh như Núi Cốc - Ba Bể gắn với du lịch Pắc Bó Cao Bằng. Các cơ sở lưu trú (khách sạn, nhà nghỉ) cần được xây dựng mang tính truyền thống, phát huy bản sắc dân tộc. * Về phát triển các dịch vụ khác: - Phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng, luồng tiền tệ ra vào của Bắc Kạn trong thời kỳ đến năm 2010 là đáng kể. Điều này đòi hỏi lĩnh vực tài chính ngân hàng phải phát triển đáp ứng nhu cầu đòi hỏi và phát triển kinh tế xã hội, lĩnh vực tài chính ngân hàng phải tăng cường tạo các nguồn thu trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, chống thất thu thuế và đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế có vốn đều có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật của Nhà nước, phải tạo được thị trường vốn, mở rộng hình thức thu hút nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân và các tổ chức kinh tế, tăng thêm các điểm giao dịch thu hút vốn, cho vay vốn và thu đổi ngoại tệ. Mở rộng hình thức bảo hiểm và giảm các thủ tục phiền hà không cần thiết, thu hút được nhiều người mua bảo hiểm. Đặc biệt hệ thống ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng chính sách phục vụ người nghèo phải thực sự hoạt động có hiệu quả để tích cực xoá đói giảm nghèo trong 94 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh, tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn sản xuất và ổn định cuộc sống lâu dài. - Phát triển dịch vụ vận tải, thông tin, bưu chính viễn thông: Phát triển vận tải để mở rộng quy mô và phạm vi vận tải liên tỉnh, nội tỉnh. Đa dạng hoá các hình thức và các thành phần kinh tế tham gia lĩnh vực vận tải nhất là vận tải cung ứng các mặt hành chính sách, đưa khách đi tham quan các danh lam thắng cảnh, vận tải từ thị xã, thị trấn, thị tứ đến trung tâm cụm xã. Đẩy mạnh phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông bao gồm cả thông tin nội tỉnh, nội huyện, thông tin liên tỉnh và quốc tế nhằm đáp ứng các nhu cầu về thông tin bưu điện cho nhân dân, cho khách du lịch, cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước. Phát triển dịch vụ thông tin, nhất là thông tin kinh tế (giá cả thị trường, sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá... ) đến tận tay người sản xuất kinh doanh. Mở rộng hình thức tư vấn kinh tế, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, tư vấn tìm các đối tác và tìm bạn hàng trong việc đầu tư và tìm kiếm thị trường, phát triển dịch vụ sửa chữa dân dụng đến tận các hộ gia đình. 3.5. Phát triển các lĩnh vực xã hội: Phương hướng phát triển các lĩnh vực xã hội là hướng tới văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ được các truyền thống và bản sắc dân tộc. Các lĩnh vực xã hội trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nhằm tăng thể chất cho mọi người dân, phát triển các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình đáp ứng yêu cầu xã hội ngày càng cao. Giải quyết cơ bản việc làm, tăng thu nhập, tăng số hộ giàu, giảm hộ nghèo, xoá cơ bản hộ đói. Kinh tế tỉnh Bắc Kạn hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ lệ hộ đói còn khá cao (khoảng trên 15%) đặt biệt là vùng sâu, vùng xa. Còn 15 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm, chưa có trường học, cuộc sống du canh du cư còn bạn đồng hành của nhiều dân tộc thiểu số vùng cao. Bên cạnh trình độ dân trí thấp, phong tục lạc hậu ở các vùng khai thác khoáng sản tự do, người lao động bị bóc lột và bạc đãi. Tuy vậy cũng có một bộ phận dân cư có đời sống khá lên do biết tận dụng các lợi thế, có vốn và sức lao động phần lớn tập trung vào các vùng thị trấn, thị xã gần đường giao thông, sự phân hoá giàu nghèo đã bắt đầu có xu hướng giãn ra ngày càng xa, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa cuộc sống của người vùng thấp và người vùng cao, vùng sâu, vùng xa, là vấn đề Đảng đặt ra cho việc phát triển Bắc Kạn cần sớm được tháo gỡ. Phương hướng cụ thể là: - Giải quyết việc làm: Trước mắt là tận dụng và tranh thủ số vốn vay từ quỹ "Quốc gia hỗ trợ và giải quyết việc làm" đưa vào thực tế phát triển các mô hình sản xuất theo kinh tế cá thể , hợp tác xã... Hiện nay còn 25% lao động chưa có việc làm, phấn đấu trong giai đoạn 2001 - 2005 giảm tỷ lệ này xuống còn 15% và cho đến năm 2010 còn 10% lao động chưa có việc làm. Hệ thống ngân hàng và chính quyền các cấp cần tạo điều kiện giúp đỡ các hộ còn nhiều khó khăn vay vốn và có xu hướng phát triển hợp lý, tích cực nêu cao tinh thần "thanh niên lập nghiệp" làm giàu cho địa phương với phương châm "ly nông bất ly thôn" đa dạng hoá các ngành nghề thủ công mỹ nghệ tại chỗ ở nông thôn để thu hút lao động chưa có việc làm. Bên cạnh đó phải tăng cường hiệu quả của mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, nâng cao hiểu biết cho người lao động để tiếp thu khoa học công nghệ mới, nâng thời gian lao động ở nông thôn lên 90%. - Thực hiện xoá đói giảm nghèo kết hợp với định canh định cư, phần lớn các hộ đói nghèo sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trình độ học vấn thấp và có ít đất canh tác. Trên toàn tỉnh còn 37 điểm với 679 hộ và 4.455 nhân khẩu sông du canh du cư. ổn định công tác định canh định cư, xoá đói giảm nghèo: Thông qua việc rà soát, điều chỉnh quỹ đất vùng thấp, giao đất giao rừng cho đồng bào vùng cao, tập trung vào xã đặc biệt khó khăn. Phấn đấu đến năm 2005 tỷ lệ đạt 80% và năm 2010 đạt 100 khu rừng nào cũng có chủ thực sự, phấn đấu năm 2005 đạt 100% số hộ định canh định cư được ổn định. - Phòng chống tệ nạn xã hội: Cùng với phát triển kinh tế thì tệ nạn xã hội cũng xuất hiện, Bắc Kạn là một tỉnh rộng, dân cư thưa thớt nên việc quản lý gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Trong giai đoạn 2001 - 2005 có nguy cơ gia tăng các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, buôn lậu ... Vì vậy phương hướng chung là hạn chế tới mức tối đa các tệ nạn xã hội bằng việc tích cực thực hiện nghị quyết 06 của Chính phủ về việc phòng chống tệ nạn xã hội. II. Một số giải pháp nhằm thực hiện việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh bắc kạn đến năm 2010 1. Huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Để thực hiện nhữnh mục tiêu đã nêu trong phương án 2 giai đoạn 2001 - 2010 bình quân nhu cầu vốn đầu tư hàng năm là 340 tỷ đồng. Đây là một số vốn rất lớn, vượt quá khả năng kinh tế của tỉnh, đề nghị Trung ương tạo điều kiện, hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, giúp đỡ tìm thị trường và đối tác đầu tư để thực hiện phương án này. Trong điều kiện thu trên địa bàn chưa đủ chi thường xuyên thì vốn đấu tư cho phát triển trở thành một vấn đề đặc biệt quan tâm để có giải pháp cho phù hợp. - Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng là việc cần làm ngay và nó phải đi trước việc đầu tư cho các ngành kinh tế trong tỉnh. Về phía địa phương, có thể tăng thu, tiết kiệm chi hàng năm để tập trung vốn đấu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng khoảng 20%/năm. Phần còn lại đề nghị TW hỗ trợ thêm từ ngân sách Nhà nước, từ việc xây dựng các dự án có tính khả thi cao để tranh thủ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và các nguồn vốn từ bên ngoài. - Coi trọng việc huy động mọi khả năng về nguồn vốn trong dân để phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực hành tiết kiệm để tạo tích luỹ, huy động nguồn vốn nhàn rỗi và tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có chính sách đẩy mạnh hơn quá trình tích luỹ, tập trung các nguồn vốn vào các ngành mũi nhọn và khu vực trọng điểm tạo sức bật cho toàn bộ nền kinh tế của tỉnh. Với phương thức huy động tối đa mọi nguồn vốn trong nhân dân vào việc phát triển kinh tế là hướng rất quan trọng nhưng thực tế Bắc Kạn là một tỉnh nghèo nên phải tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức xây dựng các dự án đầu tư nhằm thu hút vốn nước ngoài, trước mắt khuyến khích nước ngoài đầu tư vào công nghiệp chế biến nông lâm sản, đầu tư khai thác một số khoáng sản (nhưng phải chú ý vấn đề môi trường). Vốn vay ODA nên tập trung vào giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, thuỷ lợi, hệ thống điện, cấp thoát nước, các công trình về cơ sở hạ tầng công cộng... - Vốn đầu tư có thể được huy động từ các nguồn sau: + Vốn ngân sách Nhà nước (kể cả vốn của các chính phủ và tổ chức quốc tế tài trợ). + Vốn vay tín dụng. + Vốn huy động từ các tổ chức và cộng đồng dân cư. + ....vv 2. Phát triển nguồn nhân lực: Lao động là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ phát triển chung của nền kinh tế. Bắc Kạn là tỉnh có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào,phần lớn là lao động nông nghiệp. Nắm trong tình trạng các ngành nghề chậm phát triển nên lao động nông nghiệp nói riêng và lao động nói chung chưa qua đào tạo do đó kỹ năng lao động rất hạn chế, khó đáp ứng được yêu cẩu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để đáp ứng được nhu cầu về lao động tỉnh cần có chính sách đào tạo nguồn nhân lực để: - Phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp cận được với khoa học và công nghệ tiên tiến, từ đó có cơ sở để mở rộng thị trường. - Phát triển kinh tế - xã hội giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở vùng cao, vùng đồng bào các dân tộc. - Phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Để thực hiện được mục tiêu trên, Bắc Kạn cần thực hiện phát triển nguồn nhân lực theo hướng: Nâng cao dân trí và trình độ học vấn cho toàn bộ dân số trong tỉnh, bằng các hình thức thông tin đại chúng, các hoạt động văn hoá, thông tin tuyên truyền... (Cụ thể như: các cháu học sinh các xã đặc biệt khó khăn đến trường học sẽ được miễn học phí, được cấp sách giáo khoa...) Đào tạo tay nghề cho người lao động bằng nhiều cách: thông qua đào tạo ở các trường lóp như trường đại học, cao đẳng, trường dạy nghề và các trường hướng nghiệp. Chú ý thực hiện xã hội hoá giáo dục bằng nhiều hình thức để đảm bảo cho người lao động được tiếp cận được với công nghệ tiên tiến. Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp và đào tạo việc làm cho người lao động để thu hút lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp. Nghiên cứu cải thiện cơ sở hạ tầng để thu hút vốn đầu tư nhằm mở rộng thêm ngành để phát triển kinh tế địa phương và giải quyết lao động. Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí để mở lớp dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc nhằm khai thác tiềm năng tại chỗ. Đề nghị Nhà nước hỗ trợ thêm cho tỉnh kinh phí để mở trường dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc nhằm khai thác tiềm năng tại chỗ. Ưu tiên đào tạo cán bộ là người dân tộc. Có chính sách thoả đáng nhằm thu hút cán bộ kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề... về tỉnh công tác và tham gia phát triển kinh tế. Chính sách phát triển nguồn nhân lực cần tập trung vào: - Nâng cao thể lực của nguồn nhân lực, thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân và công tác kế hoạch hoá gia đình, cải thiện vệ sinh và môi trường sống. Do đặc thù của tỉnh là địa bàn dàn trải nên việc bảo vệ môi trường sống, cung cấp nước sạch và xử lý nước thải có ý nghĩa rất quan trọng. - Nâng cao trình độ học vấn: Tập trung xoá mù chữ cho đồng bào các dân tộc ít người và các vùng khó khăn. - Mở rộng đào tạo và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động. - Triển khai có trọng điểm chương trình xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt công tác định canh định cư. Từng bước xây dựng trung tâm cụm xã, ổn định đời sống dân cư, hạn chế đến mức thấp nhất dân di cư tự do, thực hiện định canh định cư. 3. Thực hiện chính sách về chuyển giao khoa học - Công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật: Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội phải thật sự dựa vào khoa học và công nghệ. Đây là công cụ chủ yếu để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Vì vậy cần đẩy nhanh việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong mọi lĩnh vực từ sản xuất, dịch vụ đến quản lý. Định hướng phát triển khoa học - công nghệ cần hướng vào. - Cải tạo những khâu cơ bản trong công nghệ và kỹ thuật sản xuất, loại bỏ những phần đã lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên vật liệu và gây ô nhiễm môi trường. Từng bước đồng bộ hoá công nghệ tiên tiến vào những ngành chế biến nông sản thực phẩm, vật liệu xây dựng... nhằm tạo ra những sản phẩm mũi nhọn xuất khẩu như: chè, hồi, tinh dầu, đồ gỗ, trang trí nội thất, sứ cách điện và xây dựng, khai thác và chế biến đá quý và các khoáng sản phi kim loại. Cần đặc biệt trú trọng đến công nghệ và thiết bị ít hoặc không gây ô nhiễm môi trường. - ứng dụng công nghệ sinh học vào quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, kinh doanh trên đất dốc, nuôi thuỷ sản nước ngọt... Thay thế dần các giống cũ bằng các giống cây trồng vật nuôi có năng xuất cao, thích hợp với điều kiện ngoại cảnh, thích hợp với từng vùng núi sinh thái trong tỉnh. Phát triển hệ canh tác trên cơ sở nông lâm kết hợp với nhiều hình thức đa dạng như trồng rừng trên đỉnh đồi, trên sườn dốc.... để hạn chế xói mòn và rửa trôi đất. Khai thác gắn với bảo vệ tài nguyên giữ gìn môi trường sinh thái là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững trước mắt cũng như lâu dài. - Xây dựng các chính sách để bảo vệ tài nguyên và cảnh quan thiên nhiên, khai thác có kế hoạch và bước đi thận trọng để tránh phá vỡ cảnh quan, gây ô nhiềm môi trường. - Chú trọng phát triển vốn rừng (rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng, rừng kinh tế.... ). Có kế hoạch cải tạo đất, chống xói mòn rửa trôi, bạc màu, đặc biệt là vấn đề chống thoái hoá tài nguyên đất và bảo vệ nguồn nước. - Duy trì và phát triển cảnh quan tự nhiên nhằm giữ vững cân bằng sinh thái. Tỉnh cần chuẩn bị các nguồn lực để đào tạo các đội ngũ cán bộ quản lý và khai thác tài nguyên, môi trường. 4. Thực hiện chính sách đất đai và các chính sách khuyến khích mô hình sản xuất tiên tiến đạt hiệu quả cao. Thực hiện việc giao đất giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử đất, gắn với công tác định canh định cư, tạo điều kiện cho đồng bào có đất sản xuất và ổn định cuộc sống: - Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, nơi có dự án bảo vệ rừng và trồng rừng, hộ nông dân được nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh kết hợp trồng bổ sung được giao đất để trồng rừng và rừng sản xuất theo quy định tại Quyết định số 661/199/QĐ- TTg ngày 29 /7/1998 của Thủ Tướng Chính phủ về "mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 rừng". Mức diện tích giáo khoán tuỳ theo điều kiện cụ thể ở mỗi nơi mỗi địa phương mà Tỉnh quyết định. - ở những nơi đất hoang hoá còn có thể khai thác để phát triển sản xuất nông lâm nghiệp thì Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư khai hoang, phục hoá giao đất giao cho hộ ssản xuất. - Chính sách đất đai có liên quan đến ruộng lúa nước, rừng núi, trình độ canh tác và hiệu quả sản xuất. Nếu chỉ "giao khoán" mà buông lỏng trong việc quản lý trong việc sở hữu và sở dụng đất thì chắc chắn chính sách đất đai sẽ không phục vụ đúng yêu cầu ổn định sản xuất và đời sống nhân dân. Do trình độ sản xuất của đồng bảo dân tộc còn ở mức thấp kém, cho nên khi giao quyền sử dụng đất cho đồng bào phải gắn liền với công tác khuyến nông, khuyến lâm, định cach định cư. Có như vậy mới giúp được đồng bào sản xuất đúng hướng và đất đai khai thác tốt hơn. Quan điểm của Đảng ta là chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Phát triển kinh tế theo xu hướng tích cực, tăng nhanh tỷ trọng các ngành CN và dịch vụ ( rất chú trọn và quy mô vừa và nhỏ, CN- tiểu thủ công nghiệp địa phương, các hộ gia đình làm gia công,...) Chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa cũng phải theo cơ chế thị trường đó là một đòi hỏi khách quan và chỉ như thế thì nông nghiệp mới phát triển được. Do vậy, tỉnh sẽ đi sâu vào nghiên cứu để xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh tiên tiến, đạt hiệu quả và bền vững như: - Mô hình đồi rừng, thế mạnh của các tỉnh miền núi phía bắc. - Mô hình kinh tế trang trại, kinh doanh tổng hợp nông lâm nghiệp đối với từng vùng và tiểu vùng. - Mô hình hợp tác trong sản xuất nông nghiệp. - Mô hình cơ sở chế biến gắn với vùng nguyên liệu. - Mô hình liên kết giữa nghiên cứu ứng dụng và đưa tiến bộ KHKT vào sản xuất. - Mô hình liên kết kinh doanh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 5. Thực hiện chính sách về thị trường Tìm kiếm để xâm nhập vào thị trường, mở rộng thị trường là điều kiện hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh đã có quan hệ hàng hoá với các tỉnh trong vùng, với thủ đô Hà Nội, với Cảng Hải Phòng và một số mặt hàng có thị trường trong nước. Chính sách thị trường hướng vào việc thúc đẩy sự gắn kết giữa thị trường trong tỉnh với thị trường ngoài tỉnh. Phát triển thị trường trên cơ sở phát triển kinh tế hàng hoá, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đối với các tầng lớp dân cư, các đơn vị kinh tế trên địa bàn tỉnh. Cần tiếp tục ổn định và mở rộng quan hệ thông qua các hợp đồng liên kết sản xuất và mua bán hàng hoá. Phát huy lợi thế của tỉnh để tăng khối lượng và nâng cao chất lượng các mặt hàng truyền thống như: Chè, sản phẩm chế biến từ gỗ và lâm sản... Có chính sách khen thưởng cụ thể cho việc tìm kiếm, tạo lập và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đặc biệt quan tâm đến thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa và vùng cao. Xúc tiến việc hợp tác trong xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển ngành du lịch với các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng. Cụ thể hơn là việc phát triển giao thông vận tải và mạng lưới các HTX mua bán, đặc biệt chú trọng các vùng giao lưu còn khó khăn như các xã vùng cao, đồng bào dân tộc thiểu số. Kèm theo đó là việc phát triển các dịch vụ thông tin kinh tế nhằm nắm bắt và dự báo tình hình thị trường trong nước, trong vùng và trong khu vực có liên quan đến khả năng sản xuất và cung cấp các mặt hàng chủ lực của tỉnh như: các sản phẩm chế biến và khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt là các mặt hàng gỗ và mặt hàng lâm sản... 6. Phát triển kinh tế - xã hội vùng cao gắn với chương trình định canh định cư và chương trình xoá đói giảm nghèo. Phát triển kinh tế xã hội vùng cao, ổn định công tác định canh định cư gắn với chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua việc ra soát, điều chỉnh quỹ đất vùng thấp, giao đất giao rừng cho đồng bào vùng cao, tập trung vào các xã đặc biệt khó khăn. Phấn đấu đến năm 2005 đạt tỷ lệ 80% và năm 2010 đạt 100% khu rừng nào cũng có chủ thực sự. Năm 2010, cơ bản không còn hộ đói, không có hộ nghèo và chấm dứt tình trạng đốt phá rừng làm nương rẫy. Công tác định canh định cư: Bắc Kạn có 122 xã, phường, thị trấn thì có 100 xã thuộc vùng cao (chiếm 82% số xã toàn tỉnh), trong đó có 84 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. ở đây mức sống thấp, dân trí lạc hậu, phương thức sản xuất kém, cơ sở vật chất thiếu thốn. Hướng chủ yếu là tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng, xây dựng các trung tâm cụm xã làm nòng cốt để phân bố lại dân cư gắn với chương trình xoá đói giảm nghèo. Các trung tâm cụm xã sẽ là những hạt nhân tổ chức ổn định cuộc sống cho đồng bào các dân tộc. Cố gắng ổn định sản xuất và đời sống, hướng dẫn đồng bào thực hiện bảo vệ và phát triển rừng. 7. Phát triển kinh tế kết hợp với bảo đảm an ninh quốc phòng: Thực hiện phát triển kinh tế - xã hội giữ vững quốc phòng an ninh là yêu cầu tất yếu khách quan, có tính quy luật lịch sử và là một quan điểm có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng. Xét về tổng thể lợi ích chung thì hai nhiệm vụ xây dựng tinh tế và củng cố an ninh - quốc phòng phải thống nhất trong một mục tiêu chung. Nếu xem nhẹ và tách rời một trong hai nhiệm vụ trên sẽ không đảm bảo được các mục tiêu phát triển Bắc Kạn nói riêng và của cả nước nói chung. Hai nhiệm vụ cần được phát triển một cách hài hoà, nếu coi nhẹ một mặt nào tất yếu sẽ dẫn tới việc phát triển mất cân đối và ảnh hưởng đến mục tiêu chung về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. An ninh quốc phòng được hiểu một cách toàn diện bao gồm; an ninh chính trị, kinh tế - xã hội trong toàn tỉnh. Quan điểm này đã và đang được quán triệt trong tất cả các khâu, từ việc xác định chiến lược đến các bước triển khai quy hoạch tổng thể và bố trí từng ngành, từng công trình kinh tế - văn hoá - xã hội trên các địa bàn, nhất là tại các vùng đồng bào dân tộc sinh sống để tạo nên một sức mạnh tổng hợp trên địa bàn toàn tỉnh. Bắc Kạn là tỉnh miền núi cao thuộc vùng Đông bắc, là căn cứ cách mạng, nơi có nhiều đồng bào các dân tộc cùng chung sống nên việc đảm bảo an ninh quốc phòng phải được đặt ra trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trước hết để đảm bảo cộng đồng dân cư trong tỉnh. Bắc Kạn có vị trí là nước đệm để đi lên Cao Bằng và về Hà Nội giao lưu với các tỉnh miền núi, biên giới phía bắc. Các tỉnh này lại là cửa ngõ giao lưu với Trung Quốc. Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng đông bắc, tỉnh Bắc Kạn được xác định là tỉnh có vị trí quan trọng về an ninh - quốc phòng. Đảm bảo an ninh quốc phòng không những bảo vệ rừng núi có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên quý mà còn đảm bảo an ninh cho các xí nghiệp, các cơ quan trong tỉnh và cộng đồng dân cư đóng trên địa bàn. Vì vậy tỉnh sẽ phối hợp chặt chẽ với các quân khu để xây dựng các phương án đảm bảo an ninh - quốc phòng gắn liền với việc phát triển kinh tế địa phương. Kết luận Tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội là một quá trình liên tục, lâu dài, nó luôn gắn bó với lịch sử phát triển của loài người. Mỗi quốc gia, mỗi khu vực ở vào thời điểm nhất định có mục tiêu riêng, nhưng mong muốn chung là đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Để đạt được những mong muốn đó phải biết kết hợp những nguyên lý cơ bản của sự phát triển kinh tế với những vấn đề được đặt ra trong thực tiễn của đất nước, từ đó hoạch định ra đường lối phát triển đúng đắn, thích hợp cho từng giai đoạn, từng khu vực. Bắc Kạn là một tỉnh miềm núi mới được thành lập, kinh tế còn yếu kếm về nhiều mặt. Vì vậy cần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới để tránh không bị tụt hậu quá xa về kinh tế so với cả nước. Điều này đòi hỏi các cấp lãnh đạo của tỉnh phải nỗ lực cố gắng hoạch định đường lối phát triển đúng đắn. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tăng trưởng và phát triển kinh tế, sau quá trình phân tích tình hình thực trạng nền kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ năm 1997 đến năm 2000, đề tài đã đóng góp một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh. Em mong rằng những ý kiến đóng góp của mình được xem xét và ghi nhận, đồng thời cũng hy vọng Bắc Kạn sẽ không ngừng khẳng định vai trò của một tỉnh miền núi và đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29022.doc