Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam

Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã mang lại cho nền kinh tế nước ta những bước chuyển biến mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn trong những năm qua. Kinh tế tăng trưởng khá, lạm pháp được đẩy lùi, đời sống kinh tế của đông đảo quần chúng nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên để duy trì được nhịp độ phát triển đó tránh nguy cơ tụt hậu, tiếp tục sự nghiệp công nghiệp ho

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á, hiện đại hoá, hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, đòi hỏi phải có một khối lượng vốn lớn, các doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Để đạt được điều đó, vấn đề đặt ra là: "Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, cải tiến từng bộ phận tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý". Đây là những yêu cầu để thực hiện "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp" mà báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng chưa phù hợp với tình hình mới, đôi khi giữa các văn bản này còn nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn. Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng là những vấn đề chưa được quan tâm nghiên cứu và xem xét một cách toàn diện. Do đó, việc nghiên cứu để từng bước hoàn thiện lĩnh vực này là việc làm quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài:" Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam" làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính, cũng như thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua, Khoá luận sẽ rút ra những kết luận và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Khoá luận chỉ tập trung làm rõ một số khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng cho thuê tài chính, đồng thời nêu ra thực trạng pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu. Khoá luận được hoàn thành dựa trên, phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, Khoá luận chủ yếu vận dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra. 5. Kết cấu khoá luận. Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận được cấu trúc bao gồm ba chương, như sau: Chương I: Khái quát về cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê tài chính. Chương II: Các quy định pháp lý cơ bản về Hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam. Chương III: Pháp luật về hợp đồng cho thuê Tài chính ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện. Do hạn chế về khuôn khổ khoá luận, thời lượng, nguồn tài liệu cũng như khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Chương I: Khái quát về cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê tài chính I.1. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính. I.1.1. Khái niệm: Hoạt động cho thuê tài sản (Lease) đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử (cách đây khoảng 4.000 năm) và được sử dụng phổ biến để đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Trong một giao dịch cho thuê, bên cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một thời gian nhất định còn bên thuê phải trả tiền thuê. Người ta gọi phương thức cho thuê này là cho thuê truyền thống. Trong suốt thời hạn hợp đồng, quyền sở hữu tài sản không chuyển cho bên thuê nhưng bên thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản đó như của chính mình. Hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện trước tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1952 do Công ty tư nhân United Stales Corporation sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Năm 1960, lần đầu tiên một hợp đồng cho thuê tài chính được ký tại Anh với giá 18.000 Bảng. Cũng năm này, phương thức cho thuê tài chính đã được ghi vào Luật Thương mại của Pháp dưới tên gọi "Credit Bail"(1) Trường Đại học Luật HN, giáo trình luật Ngân hàng, nhà XB Công an Nhân dân, năm 1998 . Giao dịch cho thuê tài chính hình thành giữa ba bên: Bên cho thuê, bên thuê và nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Bên cho thuê trở thành chủ sở hữu tài sản và bên thuê thuê lại theo thời hạn thoả thuận. Cho thuê tài chính được sử dụng như một phương thức tài trợ vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động cho thuê tài chính có thể được nhìn nhận trên hai phương diện kinh tế và pháp lý, cụ thể là: - Dưới góc độ kinh tế, cho thuê tài chính là hình thức thuê có tính chất "tiền tệ". Xét về bản chất kinh tế, cho thuê tài chính là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hoặc dài hạn dành cho doanh nghiệp. Bởi vì khoản tiền mà bên cho thuê bỏ ra để mua tài sản cho thuê chính là một khoản tín dụng mà bên cho thuê cấp cho bên thuê. - Dưới góc độ pháp lý, cho thuê tài chính biểu hiện một loại quan hệ pháp lý phát sinh từ một hợp đồng cho vay. Việc ký một hợp đồng cho thuê tài chính tương tự như việc đi vay. Ngay khi bắt đầu thời hạn thuê, bên thuê lập tức có một tài sản bởi họ không phải trả tiền cho tài sản thuê. Điều này cũng có nghĩa là bên thuê đã vay được một khoản tiền đủ để mua tài sản nhưng với cam kết sẽ trả khoản vay này hàng kỳ bao gồm tiền gốc và lãi vay (tiền thuê) cho người cho vay. Chính vì vậy, về mặt lưu chuyển các luồng tiền mặt, phương thức cho thuê và đi vay là giống nhau. Trong cả hai trường hợp, bên thuê đều có một khoản tài sản cả dưới dạng tiền lúc ban đầu và phải trả nó về sau. Sự khác biệt của phương thức cho thuê tài chính so với phương thức vay chính là lý do lý giải sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp cho thuê tài chính trên thế giới. Ưu điểm của cho thuê tài chính thể hiện ở những lợi ích hơn hẳn phương thức vay mà nó dành cho cả bên thuê lẫn bên cho thuê như: - Đối với bên cho thuê: Bên cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản cho thuê. Do vậy, trong trường hợp bên thuê không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thuê (như không trả tiền thuê, cho thuê lại tài sản thuê mà không được sự đồng ý của bên cho thuê…), thì bên cho thuê có quyền thu hồi ngay tài sản cho thuê. Mặt khác, tài sản thuê không thuộc sở hữu của bên thuê, do đó, bên cho thuê bớt rủi ro trong trường hợp bên thuê phá sản hoặc vỡ nợ vì tài sản thuê này không đưa vào bảng tài sản thanh lý của bên thuê. - Đối với bên thuê: Khi tham gia vào giao dịch cho thuê tài chính, bên thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba cho việc thuê. Ngoài ra, trong quá trình thuê, bên thuê không phải chịu một số rằng buộc như khi áp dụng với hợp đồng vay chẳng hạn như phải kinh doanh có lãi, có phương án khả thi trong việc sử dụng vốn vay… Hiện nay, trong một số bài nghiên cứu có sử dụng thuật ngữ "Thuê mua". Theo đó, "Thuê mua" được hiểu là hình thức thuê mà mọi rủi ro do bên thuê phải gánh chịu, bên cho thuê vẫn giữ quyền sở hữu, cuối thời hạn thuê, bên thuê độc quyền sở hữu đối với tài sản thuê. Ví dụ, "Thuê mua máy bay" là hình thức thuê máy bay mà bên thuê phải trả trước đến 15% giá trị máy bay, hàng kỳ trả tiền thuê máy bay (thường từ 10 - 12 năm đối với máy bay phản lực, 7 - 10 năm đối với máy bay cánh quạt), cuối thời hạn thuê bên thuê trả nốt tiền và nhận quyền sở hữu đối với máy bay. Như vậy, xét về bản chất "Thuê mua" cũng là một hình thức của cho thuê tài chính. Nếu trong giao dịch cho thuê tài chính, bên thuê có thể được mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng thuê và những thoả thuận này phải được các bên ghi vào hợp đồng. Còn trong giao dịch "thuê mua", việc nhận quyền sở hữu đối với tài sản thuê vào cuối thời gian thuê là quyền của bên thuê. ở Việt Nam, khái niệm cho thuê tài chính lần đầu tiên được đề cập trong Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ban hành theo Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ (sau đây gọi là Nghị định 64). Trong một số văn bản pháp lý trước đây, còn có thêm thuật ngữ "Tín dụng thuê mua" (Thí dụ, tại Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 149/QĐ - NH 5 ngày 27/5/1995 về việc ban hành Thể lệ Tín dụng Thuê mua (sau đây gọi là Quyết định số 149). "Tín dụng thuê mua" được định nghĩa là: :hoạt động thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê". Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua". Xét về bản chất, tín dụng thuê mua cũng như cho thuê tài chính. Luật các Tổ chức Tín dụng được Quốc hội Khoá X, Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 (sau đây gọi là Luật Các Tổ chức Tín dụng) đã chính thức quy định về cho thuê tài chính tại Khoản 11 Điều 20 như sau: "cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương huỷ hợp đồng". Nghị định 64 gần đây đã bị thay thế bởi Nghị định 16 của Chính phủ ngày 2/5/2001 quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính (sau đây gọi là Nghị định 16). Tuy nhiên, trong bài Khoá luận này, người viết vẫn đề cập tới các quy định của Nghị định 64 trên cơ sở so sánh với Nghị định 16. Điều 1 Nghị định 16 quy định: "1. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. 2. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng". Như vậy, chúng ta đã thống nhất sử dụng thuật ngữ "cho thuê tài chính" trong các văn bản pháp luật như đã nói ở trên. 1.1.2. Đặc điểm Từ khái niệm "cho thuê tài chính" nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính là: Thứ nhất: tài sản thuê và Nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn mà không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên cho thuê. Chính vì đặc điểm này mà bên cho thuê không chịu trách nhiệm về việc tài sản không được giao hoặc không giao đúng với các điều kiện do bên thuê thoả thuận với bên cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16). Thứ hai: thời hạn thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản và không thể bị huỷ ngang theo ý chí của một bên. Đặc điểm này nêu bật rõ những lợi ích mà cho thuê tài chính mang lại không chỉ riêng cho các chủ thể tham gia hợp đồng mà cho cả nền kinh tế. Thứ ba: Phần lớn những chi phí cho việc vận hành, bảo dưỡng, bảo hiểm tài sản được chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê. Theo quy định tại Khoản 5, 6 Điều 26 Nghị định 16: "Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc mất mát, hư hỏng đối với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê. Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê. Không được tẩy xoá, làm hỏng ký hiệu sở hữu gắn trên tài sản thuê". Chính từ những đặc điểm nêu trên, có thể phân biệt cho thuê tài chính với phương thức thuê vận hành. Tiêu chí Cho thuê tài chính Thuê vận hành Thời hạn thuê Trung và dài hạn, chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê Thời hạn thuê ngắn Huỷ ngang Không được phép huỷ ngang theo ý chí của 1 bên Được phép huỷ ngang nhưng phải thông báo trước một thời gian Trách nhiệm bảo dưỡng, bảo hiểm Thuộc về bên thuê Thuộc về bên cho thuê Chuyển quyền sở hữu Hai bên thoả thuận khi kết thúc hợp đồng Tài sản trở lại bên cho thuê Trách nhiệm về rủi ro Bên thuê phải chịu kể cả những rủi ro không phải do lỗi của mình gây ra Bên cho thuê phải chịu, trừ trường hợp do lỗi của bên thuê gây ra Việc một giao dịch được phân loại là cho thuê tài chính hay không phụ thuộc vào bản chất của giao dịch chứ không phụ thuộc vào loại hợp đồng. Một giao dịch được coi là cho thuê tài chính nếu nó chuyển giao gần như tất các rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu cho bên thuê. Loại thuê này thường không thể huỷ bỏ và đảm bảo cho bên cho thuê việc hoàn vốn và lợi nhuận đối với số tiền đã cho vay để dùng vào việc mua tài sản. Đồng thời, thông thường bên thuê sẽ nhận lại thiết bị khi hết hạn hợp đồng thuê sau khi trả một khoản tiền mang tính chất tượng trưng hay đã sử dụng thiết bị trong phần lớn thời gian hữu dụng. Bởi vậy, bên thuê tuy không phải chủ sở hữu về mặt pháp lý của thiết bị trong thời hạn thuê, nhưng bên thuê thực sự chịu mọi rủi ro và hướng mọi lợi ích kinh tế của quyền sở hữu. Bên cho thuê tuy là chủ sở hữu của thiết bị lại ở một vị thế tương đương với một nhà đầu tư tài chính chứ không phải là một chủ sở hữu. 1.2. Lợi ích của cho thuê tài chính. Tham giao vào một giao dịch cho thuê tài chính thường bao gồm bên cho thuê, bên thuê và nhà sản xuất hay nhà cung ứng. Lợi ích của cho thuê tài chính đem lại cho các bên tham gia nói riêng và nền kinh tế nói chung là: 1.2.1. Đối với bên cho thuê: - Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Vì trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản luôn thuộc về bên cho thuê. Do đó, nếu có những đe doạ đối với sự an toàn của tài sản thuê (chẳng hạn bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải thể…), bên cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức. Mặt khác, trong cho thuê tài chính, vốn tài trợ được thể hiện bằng hiện vật (tài sản thuê) nên không bị ảnh hưởng của lạm phát. Bên cho thuê cũng không phải chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản do tác động của điều kiện khách quan; - Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay được sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng, vì dưới hình thức này, bên cho thuê trực tiếp mua máy móc thiết bị từ nhà cung cấp (thường là sau khi người đi thuê đã lựa chọn) và do đó người đi thuê không có cơ hội sử dụng được tài trợ vào mục đích khác. Qua đó, bên cho thuê đảm bảo được khả năng thu hồi nợ từ người đi thuê. - Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng hoá việc sử dụng vốn, đồng thời mở rộng mối quan hệ kinh doanh đa phương. - Cho thuê tài chính giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh; Trong thời gian tài trợ, vốn của người cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản cho thuê, số tiền này sẽ được thu hồi dần và cho phép người cho thuê có thể sử dụng vốn đó để tái đầu tư vào những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận và giữ vững được nhịp độ hoạt động của mình. - Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh. Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách là nhà tài trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không nhất thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật, nghiệp vụ. Hơn nữa, độ an toàn cho vốn đầu tư cao, nên nhìn chung thủ tục tài trợ thường đơn giản, nhanh gọn hơn so với trường hợp cho vay. 1.2.2. Đối với bên thuê. - Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất của doanh nghiệp có thể được đặt ra vào bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số các doanh nghiệp. Loại doanh nghiệp có quy mô tài sản cố định từ 1 tỷ - 10 tỷ đồng chiếm 58%, phần còn lại chiếm 25% có quy mô dưới 1 tỷ đồng, những doanh nghiệp này thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu đi vay theo các thể thức tín dụng thông thường lại thiếu tài sản thế chấp. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn mua được máy móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất và sau một số năm có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định. Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có một nhu cầu rất lớn về đầu tư, từ việc đầu tư một nhà máy mới với dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh cho tới việc đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy móc, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc…có trình độ trung bình khá trở lên so với thế giới. Trong một số ngành không nhất thiết phải có ngay các công nghệ hiện đại, bởi Việt Nam có lợi thế trong các ngành có lực lượng lao động cao nhờ tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá lao rộng rẻ. Ưu thế của tín dụng cho thuê tài chính có thể giải quyết tốt nhu cầu này. - Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các Tổ chức tài chính cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành lập, chưa có uy tín với các Tổ chức tài chính thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro nên thường bị các tổ chức này từ chối cho vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho thuê tài chính là bên cho thuê nắm quyền sở hữu đối với tài sản thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, các Công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi vị thế tài chính, uy tín của họ có những hạn chế. Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính là các loại tài sản thiết bị nên các Công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới hoạt động rộng rãi, có nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), có đội ngũ cán bộ hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp cho các doanh nghiệp các loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho các doanh nghiệp so với trường hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời, thông qua cho thuê tài chính mà doanh nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhượng các máy móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều này phải đi đôi với việc phát triển một thị trường công nghệ cũ và mới thông qua các trung gian là các Công ty cho thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị, công nghệ nên các Công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trường khác nhau. - Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng. Mặt khác, nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có nhu cầu về thiết bị và tài sản thì vẫn có thể thực hiện được thông qua mua tài sản cố định. - Cho thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tăng vốn khác, cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều kiện tài trợ cũng đơn giản hơn. Do bên thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản thiết bị, hay đàm phán, thoả thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu Công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả thuận nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi khả năng tài chính, uy tín của họ có những hạn chế. Hiện nay, các Công ty cho thuê tài chính có xu hướng hoạt động chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê, thường tổ chức cung ứng các loại thiết bị theo phương thức khép kín, thiết bị thường bị gắn liền với phụ tùng, linh kiện, kỹ năng quản trị, sản phẩm cho khách hàng. Điều này giúp bên thuê nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh doanh. - Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới. Trong điều kiện bùng nổ công nghệ hiện nay, việc thay đổi thiết bị, máy móc theo kịp đà phát triển của công nghệ mới, góp phần sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhưng đây cũng là một khó khăn đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia đang phát triển hoặc đối với các doanh nghiệp phải tự xuất vốn hay vay vốn để đầu tư. Cho thuê tài chính có thể góp phần vào việc giải bài toán về vốn và công nghệ này. - Thông qua cho thuê tài chính, việc thay đổi công nghệ của doanh nghiệp diễn ra có ưu thế hơn so với các hình thức tài trợ khác (do đặc điểm của nó là tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, nên mọi rủi ro về mặt pháp lý và những rủi ro hao mòn vô hình đều thuộc về phía bên cho thuê. Bên cho thuê thường phải sử dụng những khả năng chuyên biệt về nghiệp vụ cho thuê tài chính để khắc phục những rủi ro này). - Cho thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp Việt Nam có thể huy động được vốn nước ngoài thông qua các Công ty cho thuê tài chính quốc tế hay các Công ty liên doanh cho thuê tài chính hoạt động ở Việt Nam. Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn quốc tế thấp hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc thiết bị, các doanh nghiệp có thể nhận được vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với thị trường vốn bằng đồng Việt Nam. - Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hoãn thuế. Các Khoản tiền thuê phải trả hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó chúng làm giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó, khoản chi phí này được nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp và nhân với lãi suất cho vay của ngân hàng sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do hoãn thuế bởi cho thuê tài chính đem lại cho doanh nghiệp. - Số tiền thuê mà bên thuê phải trả được tính vào chi phí kinh doanh. Do đó, chúng làm giảm số thuế mà họ phải trả. Sau khi hợp đồng cho thuê kết thúc, nếu bên thuê được quyền chọn mua tài sản thì giá mua thường thấp hơn so với giá trị còn lại của tài sản. 1.2.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi chào bán sản phẩm của mình trên thị trường đều mong muốn bên mua sẽ trả đủ tiền để nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) có vốn lưu động, tạo cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng trên thực tế, không phải tất cả các chủ thể muốn mua thiết bị đều có đủ khả năng về tài chính hoặc trong trường hợp có doanh nghiệp đủ khả năng về tài chính nhưng họ không muốn đầu tư số tiền này để làm vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh). Chính vì vậy, thông qua hợp đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê trong hợp đồng này sẽ mua tài sản thuê để cho thuê và hoãn trả toàn bộ số tiền tương ứng với giá trị tài sản. - Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) sẽ tìm hiểu được nhu cầu thiết yếu của bản thân người sử dụng thiết bị, từ đó có kế hoạch đầu tư đúng đắn. - Thông qua cho thuê tài chính, các nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) có thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới hay nhận được lời khuyên nên áp dụng trình độ công nghệ ở mức nào cho phù hợp với doanh nghiệp, thị trường và môi trường kinh tế vĩ mô. 1.2.4. Đối với nền kinh tế. Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể có liên quan mà hình thức này còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Điều này thể hiện: - Cho thuê tài chính là hình thức thu hút vốn đầu tư trung, dài hạn cho nền kinh tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức khác nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và nhất là các Tổ chức tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt động cho thuê tài chính đã huy động được những nguồn vốn nhãn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm chí thu hút vốn đầu tư các lĩnh vực đầu tư khác. Mặt khác, trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp cho quốc gia thu hút các nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các loại máy móc tài sản cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài này không làm tăng Khoản nợ nước ngoài của quốc gia nhận được tài sản cho thuê. - Cho thuê tài chính thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tài chính. ở rất nhiều quốc gia, sự phát triển của cho thuê tài chính đã dẫn tới việc giảm các chi phí, đồng thời tăng các nguồn vốn cho hoạt động đầu tư; - Cho thuê tài chính là nhân tố tác động tích cực cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp này đều không đáp ứng được một số điều kiện nhất định khi có ý định vay tín dụng tại ngân hàng. Đồng thời, nó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả đối với các nước có nền kinh tế phát triển cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp…cho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng, cập nhật khoa học công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các quốc gia chậm phát triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là trong thời đại ngày nay, việc đầu tư công nghệ hiện đại một cách kịp thời nhanh chóng đối với các nền kinh tế chậm phát triển gặp rất nhiều khó khăn. Nếu có chính sách đúng đắn, hoạt động cho thuê tài chính có thể đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ nhanh chóng. Bên cạnh những lợi thế, cho thuê tài chính cũng có những hạn chế nhất định. Điều này lý giải tại sao hoạt động cho thuê tài chính không thể thay thế hoàn toàn cho các hoạt động tín dụng khác với tư cách là một kênh cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Những hạn chế đó là: - Đối với bên thuê: Vào giai đoạn cuối của hợp đồng thuê, mặc dù bên thuê đã trả gần như đủ số tiền thuê nhưng bên thuê vẫn chưa được sử dụng tài sản vào mục đích khác. Hơn nữa, bên thuê có thể phải chịu những rằng buộc bởi một số biện pháp bảo đảm đối với tài sản thuê như: không cho người khác thuê lại khi chưa có sự đồng ý của bên cho thuê hoặc phải chịu sự kiểm tra bất cứ khi nào theo yêu cầu của bên cho thuê. - Đối với bên cho thuê, rủi ro có thể xảy ra như: rủi ro về tài chính, khi mà bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn hoặc tiền thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc; hoặc rủi ro liên quan đến tài sản thuê, khi mà tài sản cho thuê không thu hồi về không thể cho thuê tiếp hay không bán được chúng; tài sản do nhà nhà sản xuất giao cho bên cho thuê không đúng theo hợp đồng, tài sản không được phép kinh doanh; hoặc rủi ro sự thay đổi về luật pháp, do sự biến động của thị trường bởi khủng hoảng kinh tế.(2) Đoàn Thanh Hà, Cho thuê tài chính - giải pháp về vốn để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp 11/2000 I.3. Các phương thức cho thuê tài chính - Cho thuê giáp lưng (Under Lease). Một trong những đặc điểm của cho thuê tài chính là các bên không được huỷ ngang hợp đồng trước thời hạn. Do đó, nếu sau khi ký hợp đồng, bên thuê không có nhu cầu sử dụng tài sản nữa và thời hạn thuê vẫn chưa hết thì họ sẽ ở trong tình trạng bất lợi. Để khắc phục tình trạng này, bên thuê có thể tìm một bên thuê thứ hai để cho thuê lại tài sản. Bên thuê thứ hai sẽ trả tiền thuê cho bên thuê thứ nhất đồng thời có mọi quyền lợi, nghĩa vụ khác trong việc sử dụng tài sản thuê. Tuy nhiên, vì hợp đồng ký giữa bên cho thuê và bên thuê thứ nhất vẫn có hiệu lực nên bên thuê thứ nhất vẫn có nghĩa vụ trả tiền thuê cho bên cho thuê và phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra đối với tài sản. Việc cho thuê lại chỉ được tiến hành nếu có sự đồng ý của bên cho thuê. Pháp luật Việt Nam quy định, bên thuê không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản (điểm a Khoản 2 Điều 63 Luật Các Tổ chức Tín dụng). Cho thuê bắc cầu: Là trường hợp người cho thuê đi vay để mua tài sản rồi cho thuê, loại cho thuê này thường áp dụng cho các dự án đầu tư lớn. - Bán và tái thuê (Sale and Lease - back). Hình thức bán và tái thuê được doanh nghiệp sử dụng khi doanh nghiệp khó khăn về vốn lưu động nhưng lại không thể vay hoặc bán đứt tài sản, thiết bị đang sử dụng đi được. Trong giao dịch này, doanh nghiệp bán một tài sản, thiết bị cho Công ty cho thuê tài chính và ngay lúc đó thuê lại chính tài sản, thiết bị này từ Công ty. Lúc này, doanh nghiệp sẽ có vốn để tiếp tục sản xuất. Cho đến cuối thời hạn thuê, khi đã trả hết tiền thuê, doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền chọn mua (nếu có) và các tài sản, thiết bị này trở lại quyền sở hữu của doanh nghiệp. Như vậy, bản chất của thoả thuận bán và tái thuê là: người thuê giữ lại quyền sử dụng trong khi chuyển giao quyền sở hữu. Hình thức này đã được ghi nhận tại Khoản 3,._. Điều 16, Nghị định 16: Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (gọi tắt là mua và cho thuê lại). Theo hình thức này, Công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác thuộc sở hữu của bên thuê và bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình. - Thuê qua biên giới (Cross - border Lease) Các bên tham gia quan hệ thuê qua biên giới cũng giống như các bên trong hình thức thuê bắc cầu. Tài sản cho thuê qua biên giới thường đòi hỏi vốn lớn, có giá trị cao như máy bay, tàu vận tải biển nhưng nó khác với thuế bắc cầu là các bên trong quan hệ thuê qua biên giới như bên cho thuê, bên thuê có trụ sở và quốc tịch ở các nước khác nhau. Lợi thế của hình thức này là các bên được hưởng lợi từ việc miễn thuế hoặc do chính sách thuế khác nhau của từng nước, như bên cho thuê không phải nộp thuế xuất khẩu do xuất khẩu được hàng hoá, bên thuê do nhập thiết bị phục vụ sản xuất nên được miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT (như ở Việt Nam hiện nay). Do được hưởng lợi từ thuế, bên thuê sẽ có lợi của việc giảm tiền thuê, nhờ đó sẽ giảm tiền khấu hao tài sản của chính tài sản thuê. - Cho thuê vận hành: Cho thuê vận hành (cho thuê hoạt động) là hình thức cho thuê tài sản, theo đó bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê(3) Theo quyết định 731/ 2004/ QĐ - NHNN ngày 15/6/2004 về việc ban hành quy chế tạm thời cho thuê vận hành của Công ty cho thuê tài chính. . Thông qua việc giao kết các hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ này sẽ bao gồm những nội dung gì? Có khác so với hợp đồng thuê thông thường không?…Phần tiếp theo của khoá luận sẽ nghiên cứu những khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng cho thuê tài chính trên cơ sở đó có sự so sánh với hợp đồng thuê thông thường và nêu ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện chế định này. I.4. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính. II.4.1. Khái niệm. Các nước trên thế giới có hoạt động cho thuê tài chính phát triển không sử dụng khái niệm về hợp đồng cho thuê tài chính, thay vào đó, họ đưa ra khái niệm về hợp đồng thuê mua. Ví dụ: - ở ý - Hợp đồng thuê mua là hợp đồng giao kết giữa người đi thuê và bên cho thuê về việc cho thuê các loại thiết bị do bên cho thuê mua hoặc sản xuất, nội dung của hợp đồng phải phù hợp với giải trình của bên đi thuê và có hiệu lực trong một thời hạn nhất định. Cuối thời hạn thuê, người đi thuê có quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá định trước. - ở Tây Ban Nha - Hợp đồng thuê mua là loại hợp đồng với mục đích nhượng lại quyền sử dụng động sản hay bất động sản của bên cho thuê theo sự xác định của người đi thuê theo hợp đồng. Hợp đồng này phải cho phép bên thuê có quyền mua tài sản đã thuê vào cuối giai đoạn thuê mua. ở nước ta hiện nay, khái niệm hợp đồng cho thuê tài chính có thể được hiểu trên hai phương diện: Thứ nhất: Trên phương diện lý thuyết, hợp đồng cho thuê tài chính được định nghĩa là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê (Công ty tài chính hoặc Công ty cho thuê tài chính) với bên thuê (tổ chức và cá nhân kinh doanh), theo đó bên cho thuê cung cấp tài sản thuê cho bên thuê sử dụng trong một thời hạn nhất định theo yêu cầu của bên thuê, với điều kiện trả tiền thuê và thoả thuận thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê khi hợp đồng thuê đáo hạn. Thứ hai: Trên phương diện pháp lý, Điều 13 Quyết định 149 định nghĩa, "Hợp đồng tín dụng thuê mua là một hợp đồng được giao kết giữa Tổ chức tín dụng và bên thuê và là cơ sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức tín dụng và bên thuê trong một giao dịch tín dụng thuê mua". Khái niệm này không nêu được bản chất của hợp đồng tín dụng thuê mua là hợp đồng kinh tế hay dân sự. Đến Nghị định 64, Hợp đồng cho thuê tài chính được hiểu là "một loại hợp đồng kinh tế giữa bên cho thuê và bên thuê về việc thuê một hoặc một số máy móc, thiết bị, động sản khác trong một thời gian nhất định (thời hạn cho thuê) theo những điều kiện quy định tại Điều 3 Nghị định 64 (Điều 18)". Điều 17 Nghị định 16 Quy định: "Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả thuận (bằng văn bản) giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác theo những quy định tại Điều 1 của Nghị định này, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng phải ghi rõ việc xử lý khi hợp đồng chấm dứt trước hạn. Bên cho thuê và bên thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng (trừ những trường hợp nêu tại Điều 27 Nghị định 16)". Khác với Nghị định 64, Nghị định 16 không khẳng định hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng kinh tế hay dân sự. Cũng giống với trường hợp hợp đồng tín dụng, việc xác định một hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng kinh tế hay dân sự và thường căn cứ vào chủ thể và mục đích của hợp đồng. Nghĩa là: - Hợp đồng cho thuê tài chính được coi là hợp đồng kinh tế khi nó được giao kết giữa Công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê là chủ thể kinh doanh và việc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính là nhằm mục đích kinh doanh; - Hợp đồng cho thuê tài chính được coi là hợp đồng dân sự khi nó được giao kết giữa Công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê không phải là chủ thể kinh doanh hoặc là chủ thể kinh doanh nhưng việc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính không nhằm mục đích kinh doanh. Vì là một dạng của giao dịch kinh tế (dân sự), nên trước hết hợp đồng cho thuê tài chính phải tuân thủ các điều kiện chung về một giao dịch có hiệu lực pháp luật. Điều 131 Bộ Luật Dân sự Việt Nam (có hiệu lực từ 1996) quy định về điều kiện một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật. Theo đó, một giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật khi: (i) người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; (ii) mục đích và nội dung giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội, (iii) người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; (iv) hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy, trước hết hợp đồng cho thuê tài chính phải tuân thủ các điều kiện chung về một giao dịch có hiệu lực pháp luật (như đã nêu trên). Ngoài ra, giao dịch cho thuê tài chính còn phải tuân thủ những điều kiện riêng cụ thể là: - Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên; - Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại; - Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Quy định này đã gặp nhiều khó khăn cho các Công ty cho thuê tài chính vì có những tài sản có giá trị lớn, có khả năng chuyển nhượng dễ dàng và là tài sản có nhu cầu sử dụng của nhiều tổ chức kinh tế nhưng mỗi chủ thể chỉ cần sử dụng trong thời gian ngắn. Trong trường hợp có nhu cầu thuê tài sản có giá trị lớn với thời gian ngắn mà các đối tượng đó không thể tham gia vào quan hệ thuê thì sẽ làm mất đi thị phần đáng kể của thị trường cho thuê tài chính. Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi, có thể đặt ra một số khả năng cho các chủ thể lựa chọn. Trong trường hợp có nhiều bên thuê có khả năng về cùng loại tài sản nhưng không có nhu cầu sử dụng thường xuyên, Công ty cho thuê tài chính có thể đồng thời giao kết với nhiều bên thuê về tài sản. Đương nhiên, cách thức này sẽ có khó khăn nhất định khi xử lý tài sản hết thời hạn thuê. Vấn đề này có thể giải quyết trong điều Khoản xử lý tài sản bằng cách quy định các bên thoả thuận bán lại tài sản cho một chủ thể với giá danh nghĩa hoặc tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê. Trường hợp không giao kết được hợp đồng theo phương thức nêu trên, bên cho thuê có thể được phép cho thuê với thời gian ngắn đối với nhiều chủ thể có cùng nhu cầu nhưng số tiền thuê phải trả cao hơn so với quan hệ thuê thông thường (có thể cao hơn 200% so với quan hệ thuê thông thường). Biện pháp này vừa tạo điều kiện cho bên thuê cơ hội tốt nhất trong kinh doanh đồng thời cũng giúp cho bên thuê nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư (thực hiện khấu hao nhanh tài sản). - Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Quy định này có điểm không phù hợp với thực tế áp dụng là đối với những quan hệ cho thuê không có các biện pháp bảo đảm, bên thuê phải góp vốn để mua tài sản theo tỉ lệ nhất định, thậm chí có trường hợp góp đến 50% giá trị tài sản. Việc bên thuê phải góp vốn để mua tài sản thuê là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ quy định này gắn trách nhiệm bảo quản và sử dụng tài sản trong quá trình sử dụng của bên thuê. Thế nhưng, nếu xác định tổng số tiền thuê phải trả như trên, bên thuê phải trả tới 1,5 lần tổng số giá trị tài sản. Nếu chiểu theo quy định của pháp luật trong những trường hợp này không thể áp dụng được. Theo chúng tôi, nên quy định tổng số tiền thuê phải trả ít nhất tương đương với giá trị đầu tư của Công ty cho thuê vào tài sản tại thời điểm chuyển giao tài sản cho bên thuê. Nếu quy định như vậy, nghĩa vụ trả tiền thuê của bên thuê tài sản luôn tương ứng với phần tín dụng được cung cấp bởi các Công ty cho thuê tài chính. Theo quy định tại Nghị định 16, điều kiện xác định một giao dịch được coi là cho thuê tài chính nếu: - Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. - Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng (Khoản 2 Điều 1 Nghị định 16). Như vậy, Nghị định 16 không quy định điều kiện xác định một giao dịch cho thuê tài chính khi "Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê". Theo chúng tôi, pháp luật cần phải bổ sung quy định về thời hạn cho thuê đối với tài sản thuê, bởi lẽ, nếu không quy định điều kiện này có thể dẫn tới tính không đồng nhất với nội dung khái niệm "cho thuê tài chính" đã nêu ra - Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn. II.4.2. Đặc điểm. - Đặc điểm đặc trưng của hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng thanh toán trọn vẹn và không thể bị huỷ ngang. Với một hợp đồng thuê tài sản thông thường, khi không có nhu cầu thuê tiếp, bên thuê có thể trả lại tài sản thuê và kết thúc thời hạn. Với hợp đồng cho thuê tài chính, điều này không thể xảy ra vì tài sản thuê thường có giá trị lớn mà thời gian khấu hao tài sản dài. Nếu như một trong các bên đơn phương huỷ bỏ cam kết của mình sẽ gây trở ngại và khó khăn lớn cho bên kia. Giả sử bên cho thuê đòi thu hồi thiết bị trong khi bên thuê đang tiến hành sản xuất kinh doanh có lãi, điều này sẽ gây ra những thiệt hại không thể lường trước cho bên thuê. Ngược lại, trong trường hợp bên thuê yêu cầu bên cho thuê nhận lại tài sản thuê trước khi hợp đồng cho thuê tài chính hết hiệu lực, việc này cũng sẽ gây ra những hậu quả là bên cho thuê khó có thể tìm ngay ra người có nhu cầu thiết bị đó. Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng: tính chất không huỷ ngang của hợp đồng cho thuê tài chính không hề ngăn cản việc bên cho thuê thu hồi tài sản thuê trước ngày đáo hạn và đòi bên thuê phải trả toàn bộ số tiền thuê theo hợp đồng trong trường hợp bên thuê có hành vi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng đã ký. Đặc điểm này do tính chất của giao dịch cho thuê tài chính quyết định là trong mọi trường hợp sự an toàn đối với vốn đầu tư phải luôn được đảm bảo. - Trong suốt thời gian thuê, bên cho thuê dành cho bên thuê quyền chiếm hữu và sử dụng (khai thác) tài sản thuê. Đổi lại, bên thuê phải trả cho bên cho thuê tiền thuê tài sản theo định kỳ. Tuy nhiên, quyền sở hữu cụ thể là việc định đoạt đối với tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê. Trong hợp đồng cho thuê tài chính mọi rủi ro cũng như chi phí cho việc sửa chữa và bảo dưỡng tài sản thuê được chuyển giao cho bên thuê, nếu bên thuê vi phạm những yêu cầu này, bên cho thuê có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo Điểm b Khoản 1 Điều 62 Luật Các tổ chức Tín dụng. Đặc điểm này giúp ta phân biệt rõ ràng giữa hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng thuê tài sản thông thường. Trong quan hệ hợp đồng thuê tài sản thông thường, bên cho thuê cũng chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho bên thuê, nhưng toàn bộ chi phí về bảo dưỡng và sửa chữa vẫn thuộc về bên cho thuê. Bên thuê cũng có thể tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lý (Khoản 2 Điều 484 Bộ Luật Dân sự). - Trong hợp đồng cho thuê tài chính, quyền tự định đoạt của chủ tài sản (bên cho thuê) có thể bị hạn chế do bên thuê có quyền lựa chọn mua tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê, nhưng điều khoản này bắt buộc phải được thoả thuận trong hợp đồng (Khoản 2 Điều 17 Nghị định 16). Đặc điểm này cũng cho phép phân biệt hợp đồng cho thuê tài chính với hợp đồng cho thuê tài sản thông thường, bởi lẽ, trong hợp đồng cho thuê tài sản thông thường, bên cho thuê với tư cách là chủ tài sản có toàn quyền quyết định trong việc bán lại tài sản thuê hoặc cho thuê tiếp hay khi hợp đồng thuê kết thúc mà không cần phải thoả thuận trước điều Khoản này trong hợp đồng. II.4.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính. Như đã nêu ở phần trên, hợp đồng cho thuê tài chính ngoài việc tuân thủ những quy định mang tính nguyên tắc chung để có thể xác định một giao dịch là cho thuê tài chính còn phải đảm bảo các yêu cầu được quy định tại Điều 19 Nghị định 64, đó là: - Được lập thành văn bản; - Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể đã không được thực hiện đúng theo các yêu cầu trên đây thì hợp đồng sẽ vô hiệu. Khoản 2, 3 Điều 17 Nghị định 16 khẳng định: hợp đồng cho thuê tài chính phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Bên thuê và bên cho thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng cho thuê tài chính (trừ những trường hợp do pháp luật quy định). Như vậy, trong thời gian tới các hợp đồng cho thuê tài chính sau khi được giao kết sẽ không phải làm thủ tục đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng nơi Công ty cho thuê tài chính đặt trụ sở theo quy định của pháp luật. Quy định hợp đồng phải đăng ký là thủ tục hành chính rườm rà. Quy định này đã gây ra không ít khó khăn (ví dụ như việc nhũng nhiễu của một số nhân viên Ngân hàng Nhà nước khi Công ty cho thuê tài chính đến đăng ký hợp đồng) trong quá trình Công ty cho thuê tài chính tiến hành giao kết hợp đồng với khách hàng. Chính vì lẽ đó, Nghị định 16 mới đây đã bỏ quy định hợp đồng cho thuê tài chính phải đăng ký và chỉ quy định: Tài sản cho thuê tài chính phải đăng ký tại Trung tâm giao dịch bảo đảm (Điều 19). 1.5. Phân loại hợp đồng cho thuê tài chính: Về bản chất, HĐCTTC được hiểu đơn thuần là hợp đồng cho thuê vốn, tuy nhiên hoạt động CTTC ngày càng đa dạng và phong phú, nên cần phân loại HĐCTTC để từ đó nhìn nhận rõ hơn bản chất kinh tế của nó, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để thiết lập các loại HĐCTTC nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư. Hiện nay, dựa trên các tiêu chí khác nhau, có rất nhiều cách phân loại HĐCTTC. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến cách phân loại phổ biến và là cơ sở để áp dụng hình thức CTTC đó ở Việt Nam. Căn cứ vào các bên tham gia HĐCTTC: * HĐCTTC có sự tham gia của hai bên: Theo phương thức này bên cho thuê sử dụng thiết bị họ đã có sẵn để trực tiếp tài trợ cho bên thuê. Trong trường hợp này bên cho thuê đồng thời là bên cung ứng, thường là nhà sản xuất và là Công ty cho thuê tài chính sử dụng chính tài sản của mình để tài trợ chô bên thuê. Trước thời điểm khởi đầu của sự thoả thuận CTTC, bên cho thuê đã nắm quyền sở hữu tài sản thuê. Nhìn chung, phương thức này thường được sử dụng và thực hiện dưới HĐCTTC có đối tượng là bất động sản. Đối với phương thức cho thuê này có những đặc điểm đặc trưng là: HĐCTTC thường được sử dụng bởi các Công ty xây dựng bất động sản và các Công ty sản xuất máy móc thiết bị thông qua việc đầu tư xây dựng cao ốc, văn phòng….sau đó ký kết hợp đồng cho thuê với khách hàng. Chủ thể tham gia trong quan hệ này chỉ có hai bên. Bên cho thuê (đồng thời là nhà cung ứng) và bên thuê. Trong phương thức này cho phép bên cho thuê có thể mua lại thiết bị khi chúng lạc hậu. Về cơ bản, phương thức tài trợ này thường được các nhà sản xuất sử dụng để đẩy mạnh việc tiêu thụ do họ sản xuất ra, mặt khác nhờ đó họ luôn cập nhật những công nghệ mới để chế tạo các máy móc thiết bị nên các nhà sản xuất có thể sẵn sàng mua lại những trang thiết bị đã lạc hậu về mặt công nghệ để tiếp tục cung cấp những máy móc công nghệ hiện đại do họ chế tạo ra. Với những phương thức giao dịch này, việc tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác nước ngoài sẽ giải quyết được vấn đề máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại cho đất nước và tránh cho Việt Nam không trở thành nơi phế thải của các máy móc thiết bị sau thời gian sử dụng nhất định. * HĐCTTC có sự tham gia của 3 bên: Bên cho thuê, bên thuê và nhà cung ứng. ở đây bên thuê có quyền lựa chọn tài sản với bên cung ứng phù hợp với yêu cầu của mình. Đây là loại HĐCTTC được áp dụng phổ biến nhất và có các ưu điểm sau: (i) Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa nhà cung ứng và bên thuê. Hai bên phải cùng chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng hoạt động của tài sản, cũng như việc bảo hành, bảo dưỡng tài sản. Như vậy, bên cho thuê rút bỏ gánh nặng về tình trạng hoạt động của tài sản; (ii) Bên cho thuê không phải mua tài sản trước, do vậy vòng quay vốn sẽ nhanh hơn, vì không phải dự trữ hàng tồn kho, hơn nữa bên cho thuê cũng có thể tài trợ cho nhiều đối tượng mà không phụ thuộc vào sản phẩm bên thuê yêu cầu. (iii) Bên cho thuê không phải trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó chuyển giao cho bên thuê và như vậy sẽ hạn chế được rủi ro liên quan đến việc nhận hàng của bên thuê nếu có sự nhầm lẫn về mặt kỹ thuật có thể xảy ra. Hiện nay, trên thế giới phương thức này được áp dụng phổ biến (chiếm 80%). Theo chúng tôi phương thức tài trợ này phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tránh được những rủi ro cho bên thuê (bởi lẽ khả năng chuyên môn của bên cho thuê không thể hoàn hảo trên mọi lĩnh vực để thẩm định tài sản thuê hoặc sản xuất, cung ứng tài sản theo yêu cầu của khách hàng). Căn cứ vào tổng số tiền thuê theo hợp đồng. * HĐCTTC hoàn trả toàn bộ: Trong giao dịch này, tổng số tiền thuê mà bên cho thuê nhận được trong thời hạn cơ bản của hợp đồng đủ bù đắp toàn bộ chi phí mua sắm tài sản, lãi suất vốn tài trợ, các chi phí quản lý cho bên thuê. Với phương thức giao dịch này mang lại những tiện tích cho cả hai bên (cho thuê và đi theo) nên nó được áp dụng rất phổ biến. Theo thống kê của cơ quan thuế Hoa Kỳ, số lượng hợp đồng theo phương thức này chiếm 90%(4) Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản, tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua. NXB trẻ TPHCM, 1996 . Phương thức cho thuê tài chính này cũng được áp dụng phổ biến ở Việt Nam. * HĐCTTC hoàn trả từng phần: Tức là sau khi kết thúc thời hạn cho thuê, tổng số tiền thu được chưa đủ bù đắp chi phí để thu hôi đủ vốn và đem lại lợi nhuận, người cho thuê cần phải cho thuê tiếp bằng hợp đồng mới. Với phương thức giao dịch này, người thuê có quyền lựa chọn mua tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê tài sản thêm một thời gian khi kết thúc thời hạn của hợp đồng. Như vậy, ta có thể rút ra một số đặc trưng của HĐCTTC hoàn trả từng phần như sau: - Trong thời hạn thuê các bên không có quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không có sự nhất trí chung. - Hết thời hạn thuê các bên có quyền tự do lựa chọn tiếp tục thuê tài sản đó thêm một thời gian hay mua chúng theo một giá cả hợp lý. Trường hợp tiếp tục thuê thì bên thuê có quyền huỷ ngang hợp đồng như thuê vận hành. - Do tính chất của hình cho thuê này, bên cho thuê thường tăng tốc độ khấu hao, tức là tăng tiền thuê trong thời hạn cơ bản. Đối với hợp đồng thuê lại này khi kết thúc thời hạn cơ bản thì tiền thuê cao hơn, bên thuê cũng có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc kết thúc hợp đồng. - Tiền thu hồi vốn cao trong giai đoạn đầu được đưa vào quỹ phòng ngừa rủi ro(5) Tác giả "như trên" . Căn cứ vào tính chất của giao dịch CTTC: * Loại hợp đồng tiếp cận từ phương diện người cho thuê sử dụng sẵn máy móc thiết bị của họ để cho thuê. Trên thực tế, nhiều nhà sản xuất ở các nước phát triển được thực hiện loại cho thuê này như một giải pháp mở rộng doanh số bán hàng. + HĐCTTC liên kết: Là loại hợp đồng gồm nhiều bên cùng tài trợ cho một bên thuê. Trong trường hợp này do một người cho thuê không đủ vốn để tài trợ hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn với một khách hàng, nên họ liên kết với nhau để CTTC. Đối với loại hợp đồng này, tài sản cho thuê thường có giá trị lớn. Với phương thức cho thuê liên kết, pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện, đó là hình thức cho thuê hợp vốn với quy định tại Thông tư số 08/TT - NHNN ngày 09/06/2001 về hướng dẫn thực hiện NĐ 16/CP (mục 2.2), nhưng những rủi ro đối với loại hợp đồng này là không nhỏ. Để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra, pháp luật Việt Nam đã có quy định đó là giới hạn cho thuê đối với 1 khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của Công ty cho thuê tài chính. + Hợp đồng cho thuê bắc cầu: Là trường hợp người cho thuê đi vay để mua tài sản rồi cho thuê, loại cho thuê này thường áp dụng cho những dự án đầu tư lớn. Đây không phải là phương thức cùng tài trợ mà người cho thuê vẫn phải là trái chủ trong quan hệ cho thuê, còn người cho vay là trái chủ của người cho thuê trong quan hệ cho vay. Trong quá trình thực hiện HĐCTTC người cho vay được hoàn trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê và thường là do bên thuê trực tiếp chuyển trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê, sau khi thanh toán hết các món nợ vay, bên cho thuê được hưởng những khoản tiền thuê còn lại. Hình thức cho thuê này mở rộng khả năng tài trợ khỏi phạm vi nguồn vốn của người cho thuê. * Loại hợp đồng tiếp cận từ phương diện người thuê. - Hợp đồng bán rồi thuê lại: Các doanh nghiệp có thể bán tài sản của họ cho các Công ty CTTC sau đó thuê lại. Đây là trường hợp mà doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản cố định hiện có trong hoạt động sản xuất kinh doanh song lại không đủ uy tín để vay vốn ngân hàng, trong trường hợp này họ buộc phải bán một phần tài sản cố định cho ngân hàng hoặc Công ty CTTC, sau đó thuê lại tài sản đó để sử dụng, và như vậy sẽ có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Đặc trưng chủ yếu của loại hợp đồng này là bên thuê giữ lại quyền sử dụng tài sản và chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê, đồng thời nhận tiền bán tài sản, nhưng tài sản đem bán phải còn giá trị sử dụng hữu ích và giá trị của tài sản đó tuỳ thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản đó trên thị trường tại thời điểm diễn ra hoạt động mua bán. Với đặc thù là các loại hình doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phương thức giao dịch này đáp ứng được nguồn vốn lưu động cho nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam khi nguồn vốn kinh doanh còn hạn chế, cơ chế vay vốn Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn. Phương thức cho thuê này được ghi nhận trong khoản 3, điều 16, NĐ 16/ CP tiếp cận dưới phương diện bên cho thuê nên sử dụng thuật ngữ "mua và cho thuê lại". - Hợp đồng cho thuê giáp lưng: Với sự cho phép của người cho thuê, người thuê có thể cho người khác thuê tiếp. Loại hợp đồng cho thuê này được áp dụng trong những trường hợp bên thuê thứ hai cần tài sản muốn đi thuê nhưng không thực hiện trực tiếp từ những người cho thuê chuyên nghiệp - bên Công ty CTTC, do hoạt động yếu kém, do không đảm bảo uy tín hoặc đơn giản chỉ vì doanh nghiệp đó chưa được người cho thuê biết đến. Ví dụ như Công ty CTTC nước ngoài thường chỉ chấp nhận tài trợ cho những Công ty lớn của Việt Nam (bên thứ nhất). Hình thức cho thuê này cũng có thể áp dụng trong trường hợp bên thuê thứ nhất khi đã thực hiện một phần hợp đồng, không còn nhu cầu thuê, do đó họ phải tìm đến bên thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng với sự chấp thuận của người cho thuê. Phương thức này giúp bên thuê thứ nhất không bỏ phí tài sản thuê, đồng thời có thể kiếm lời từ bên thuê thứ hai. Bù lại bên đi thuê thứ nhất vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm đối với những rủi ro thiệt hại liên quan đến tài sản thuê vì họ là người trực tiếp ký hợp đồng với bên cho thuê ban đầu. Mặc dù, kể từ thời điểm hợp đồng thuê mới lại được ký kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ và tài sản được chuyển giao sang bên thứ hai. - Hợp đồng cho thuê trả góp: Đây là phương thức tài trợ khá đặc biệt của CTTC. Thực chất là hình thức mua trả góp tài sản trong khoảng thời gian từ 1 đến 5 năm, được áp dụng đối với người mua có tài sản thế chấp và cả người không có thế chấp. Theo phương thức này, hợp đồng CTTC có hiệu lực và người mua thường phải trả ngay cho nhà tài trợ một khoản tiền chiếm từ 25% - 30% giá trị tài sản và vào thời điểm kết thúc hợp đồng chủ tài sản sẽ chuyển giao quyền sử dụng cho người thuê, hình thức tài trợ này giúp cho bên cung ứng bán được tài sản của mình và tạo cho bên thuê có ngay tài sản để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải trả ngay những khoản tiền đó. Nhưng bên cạnh đó, cũng có những bất lợi trong phương thức này đó là tỷ lệ lãi suất thực tế quá cao (thường lên tới 15%/ năm) và nguy cơ mất quyền sở hữu tài sản vào thời điểm kết thúc hợp đồng nếu không thực hiện đúng tiến độ thanh toán. Như vậy, phương thức tài trợ vốn thông qua hình thức cho thuê tài chính có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Các chủ thể tham gia trong hợp đồng cho thuê tài chính có thể lựa chọn cho mình một phương thức phù hợp để đạt được mục đích hoạt động kinh doanh của mình. Chương II: Các quy định pháp lý cơ bản về Hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam II.1. Chủ thể của hợp đồng cho thuê tài chính. Chủ thể của mỗi quan hệ hợp đồng là những bên tham gia quan hệ hợp đồng. Các chủ thể trong quan hệ hợp đồng đều đóng vai trò quan trọng và nó góp phần vào việc xác định loại hợp đồng và từ đó phần nào xác định được nội dung công việc của loại hợp đồng cũng như cơ quan có thẩm quyền giải quyết khi có tranh chấp hợp đồng. Chủ thể trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính khác so với chủ thể trong quan hệ hợp đồng thuê tài sản thông thường và trong quan hệ hợp đồng tín dụng. Sự khác biệt này không chỉ về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng, mà còn về số lượng các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài sản thông thường và quan hệ hợp đồng tín dụng thường chỉ bao gồm hai chủ thể bên cho thuê và bên thuê. Còn trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính, ngoài hai chủ thể cơ bản của hợp đồng thuê còn xuất hiện một chủ thể thứ ba trong quan hệ đó là nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Thực chất, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính chỉ gồm hai bên: bên cho thuê và bên thuê. Nhưng thông thường khi hai bên thoả thuận xong về các điều Khoản và đối tượng của hợp đồng thuê sẽ làm xuất hiện bên thứ ba là nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), và khi đó bên thứ ba sẽ có trách nhiệm cung cấp đúng, đầy đủ các yêu cầu về máy móc thiết bị của bên thuê. Có thể nói rằng: Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại "hợp đồng tín dụng đặc biệt" vì khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thường xuất hiện ba chủ thể. Ngoài ra, trong một số trường hợp, tham gia vào quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính có thể chỉ gồm hai bên chủ thể (ví dụ, hình thức thuê trực tiếp, hình thức bán và tái thuê…) và có thể có 4 bên hoặc nhiều hơn nữa (ví dụ, hình thức thuê liên kết, thuê đòn bẩy…) Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét từng chủ thể trong một quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính thông thường. II.1.1. Bên cho thuê. Theo thông lệ quốc tế, việc cho thuê thường do các Công ty tài chính thực hiện. Các Công ty này có thể là Công ty độc lập hoặc là Công ty thành viên của một tập đoàn tài chính - ngân hàng. ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật hiện hành thì bên cho thuê là Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam (Khoản 1 Điều 7 Nghị định 16). Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức sau; - Công ty cho thuê tài chính Nhà nước; - Công ty cho thuê tài chính cổ phần; - Công ty cho thuê tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng. - Công ty cho thuê tài chính liên doanh (được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam bao gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh); -Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài (được thành lập bằng vốn góp của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam). Để được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, các Công ty cho thuê tài chính phải thoả mãn những điều kiện sau (Điều 8 Nghị định 16): - Có nhu cầu hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn xin hoạt động; - Có đủ vốn pháp định: Theo quy định tại Nghị định 82/1998/NĐ - CP ngày 3/10/1998, mức vốn pháp định của Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam là 55 tỷ đồng (VND) và vốn pháp định của Công ty cho thuê tài chính có vốn nước ngoài là 5 triệu đô la Mỹ. Theo thống kê, hiện nay có 6 Công ty cho thuê tài chính có số vốn điều lệ bằng mức vốn pháp định và ba Công ty cho thuê tài chính có số vốn điều lệ lớn hơn mức vốn pháp định. - Thành viên sáng lập là các tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính; - Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp với hoạt động của Công ty cho thuê tài chính; - Có dự thảo điều lệ về tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của._.ợp đồng thuê. Ngoài ra còn phải thanh toán cho bên cho thuê toàn bộ những chi phí liên quan như chi phí pháp lý, chi phí thu hồi và cất giữ tài sản thuê, chi phí sửa và bảo dưỡng cần để bảo đảm thiết bị luôn ở trong trạng thái tốt, có thể sử dụng được. Các quy định này nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi cho bên cho thuê trong việc thu hồi vốn đầu tư vì số tiền mua tài sản chính là tổng giá trị đầu tư. Giá trị này (cộng lãi) được thu hồi thông qua tiền thuê. Do đó, nếu hợp đồng chấm dứt trước thời hạn thì bên thuê vẫn có nghĩa vụ thanh toán trọn vẹn hợp đồng. Để đảm bảo quyền bình đẳng trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính, pháp luật hiện hành không chỉ dừng lại ở việc quy định các biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích của bên cho thuê mà còn đặt ra một số quy định nhằm bảo vệ bên thuê trong quan hệ hợp đồng. - Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định 16, Điều 31.2 Thông tư 08, bên thuê cũng có thể chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu: + Tài sản thuê không được giao đúng hạn do lỗi của bên cho thuê (có thể do lỗi của bên cho thuê khi không thực hiện đúng hạn hợp đồng bán hoặc không thanh toán đúng hạn cho Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Theo chúng tôi, trong trường hợp này, pháp luật nên quy định bên thuê có quyền lựa chọn các giải pháp: Yêu cầu hợp đồng thuê phải được thực hiện đầy đủ và phải trả tiền phạt để trang trải thiệt hại do việc chậm trễ hoặc yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng thuê và bên cho thuê phải bồi thường bất kỳ thiệt hại hay mất mát nào mà bên thuê phải chịu do lỗi của bên cho thuê không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng thuê. + Bên cho thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng, thì theo quy định của pháp luật, bên cho thuê sẽ phải bồi thường mọi thiệt hại có thể xảy ra cho bên thuê. - Pháp luật hiện hành không quy định trường hợp tài sản thuê không được giao do lỗi của nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Về điểm này theo chúng tôi, pháp luật nên cho phép bên thuê là một bên có quyền và nghĩa vụ liên quan trong hợp đồng mua bán tài sản giữa bên cho thuê và nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) Theo cách đó, bên thuê có thể sẽ có quyền hành động trực tiếp chống lại Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết thiết bị) để buộc Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) phải thực hiện một cách thoả đáng nghĩa vụ của mình và nhận được từ Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) tiền bồi thường các thiệt hại do lỗi của Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) tiền bồi thường các thiệt hại do lỗi của Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) mà không làm ảnh hưởng tới các quyền của bên cho thuê đối với bên thuê hay Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Việc đưa quyền này vào quy chế được áp dụng là để thừa nhận quyền lợi của bên thuê trong việc chuyển giao đúng hạn tài sản cho thuê. Nếu thiếu quy định này thì bên thuê không có quyền hành động pháp lý trực tiếp chống lại Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) vì nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) chỉ bị ràng buộc hợp đồng (hợp đồng mua bán tài sản) đối với bên cho thuê. Quyền của bên cho thuê (chủ sở hữu tài sản) kiện nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi có lỗi vẫn được bảo lưu. c. Hợp đồng thuê chấm dứt trước khi kết thúc thời hạn thuê trong trường hợp tài sản thuê bị mất, hư hỏng không thể khắc phục, sửa chữa được (khoản 3, Điều 27, Nghị định 16). Trong trường hợp này, bên cho thuê phải hoàn trả lại cho bên thuê số tiền bảo hiểm tài sản khi bên thuê đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên cho thuê và khi bên cho thuê đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán. d. Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước khi kết t húc thời hạn cho thuê trong trường hợp bên cho thuê chấp thuận để bên thuê thanh toán toàn bộ tiền thuê trước thời hạn ghi tại hợp đồng cho thuê tài chính. II.5.2. Giải quyết tranh chấp. Tranh chấp là hiện tượng pháp lý phát sinh khi có những mâu thuẫn hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể trong quan hệ pháp luật. Như đã đề nghị đến ở các phần trên, theo quy định của pháp luật hiện hành, chúng ta không thể xác định được hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng kinh tế hay dân sự. Chính vì điều này, tôi có thể khẳng định rằng: việc xác định bản chất pháp lý của hợp đồng cho thuê tài chính giống như việc xác định bản chất của hợp đồng tín dụng. Theo đó: + Hợp đồng cho thuê tài chính được coi là hợp đồng nếu nó được giao kết giữa công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê là chủ thể kinh doanh và việc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính là nhằm mục đích kinh doanh. Căn cứ vào Điều 12 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1994) và Pháp lệnh trọng tài Thương mại năm 2003 thì Toà án kinh tế và trọng tài kinh tế, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng cho thuê tài chính. + Hợp đồng cho thuê tài chính được coi là hợp đồng dân sự nếu nó được giao kết giữa công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê không phải là chủ thể kinh doanh hoặc là chủ thể kinh doanh nhưng việc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính chỉ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Khi đó, các tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết theo trình tự tố tụng được quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (có hiệu lực từ ngày 1/1/1990). Tóm lại, trong nội dụng của phần này, khoá luận chỉ tập trung nêu ra một số khía cạnh pháp lý cơ bản của hợp đồng cho thuê tài chính, trên cơ sở đó so sánh với hợp đồng thuê tài sản thông thường. Các quy định hiện hành còn nhiều điểm hạn chế khi quy định về chế định này. Vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần có kế hoạch sửa đổi bổ sung kịp thời cho phù hợp hơn với tình hình cho thuê tài chính ở Việt Nam. Chương III. thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở việt nam III.1. Thực trạng quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính. Hiện nay, cơ sở pháp lý để các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính là dựa trên các văn bản sau: - Bộ luật dân sự năm 1995 Luật Các tổ chức Tín dụng năm 1997 - Luật của quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 20/2004/QH 11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng. - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 - Nghị định 16/2001/NĐCP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính - Thông tư số 08/2001/TT - NHNN ngày 6/9/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 16/2001/NĐ - CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. - Quyết định của Thống đốc NHNN Việt Nam số 731 /2004/QĐ - NHNN ngày 15 tháng 6 năm 2004 ban hành quy chế tạm thời về hoạt động cho thuê vận hành của các Công ty cho thuê tài chính. - Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay, chúng ta đã có một số văn bản cụ thể điều chỉnh quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính. Tuy nhiên, trong số các văn bản đã nêu khía cạnh pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính được đề cập đến rất ít. Chính điều này đã gây không ít khó khăn không chỉ riêng đối với các Công ty cho thuê tài chính mà ngay cả đối với người thuê. Bởi vì, các chủ thể luôn lo sợ khi quyền lợi của họ có thể bị xâm phạm nhưng không có môi trường pháp lý đảm bảo cho các quyền này. Có thể nêu ra một dẫn chứng cụ thể như sau: Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính được xác định là hợp đồng kinh tế (như đã đề cập đến ở phần trên) . Khi đó, các quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế sẽ được áp dụng. Nhưng chúng ta nhận thấy rằng, một số các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót mà vào năm 1989 các nhà soạn thảo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không thể lường trước được sự phức tạp của vấn đề này. Điều này có thể lý giải: Do Pháp lệnh hợp đồng kinh tế xây dựng vào thời điểm mà nền kinh tế nước ta đang chuyển mình sang kinh tế thị trường, các mối quan hệ xã hội chưa thật sự ổn định, một số quan hệ xã hội còn chưa phát sinh. Có thể nêu ra một số hạn chế, thiếu sót của Pháp lệnh này: + Các văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế chưa quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế. Trong lúc đó các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế là cơ sở không thể thiếu để quy định sự vô hiệu của hợp đồng kinh tế và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. + Về chủ thể của hợp đồng kinh tế: Trong nền kinh tế nhiều thành phần, các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế đều tự nguyện, bình đẳng, tự chịu trách nhiệm và không trái pháp luật, do vậy nên mở rộng phạm vi chủ thể của hợp đồng kinh tế. Không nên bó hẹp, buộc một trong các bên giao kết phải là pháp nhân để tránh những phiền phức, phi lý. + Về hợp đồng kinh tế vô hiệu: Không nên quy định, trước khi xét hợp đồng kinh tế đó có vô hiệu hay không, phải xét nó có phải là hợp đồng kinh tế hay không. Và như vậy, chúng ta sẽ bổ sung thêm các điều kiện hợp đồng kinh tế vô hiệu: hơp đồng vi phạm về hình thức, hoặc thiếu những điều khoản chủ yếu của hợp đồng. + Về xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu: bổ sung nguyên tắc lỗi trong xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Bên nào có lỗi trong việc giao kết hợp đồng kinh tế vô hiệu thì phải chịu bồi thường thiệt hại xảy ra cho bên cùng giao kết. + Về thời hạn các bên tranh chấp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết: nên quy định là 6 tháng, kể từ ngày phát hiện vi phạm hoặc kể từ ngày hết thời hạn thực hiện hợp đồng. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết là Toà án nhân dân, Trọng tài kinh tế khi cơ quan này thành lập và đi vào hoạt động và Trung tâm Trọng tài quốc tế thuộc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. + Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa phân biệt hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối (có thể bị tuyên bố vô hiệu, có thể không bị tuyên bố vô hiệu, trong lúc đó sự phân biệt này là cần thiết để từ đó xử lý đối với mỗi loại hợp đồng vô hiệu khách quan và công bằng hơn (chẳng hạn, hợp đồng vô hiệu tương đối chỉ có thể bị tuyên vô hiệu theo yêu cầu của các bên tham gia quan hệ hợp đồng). Như vậy, văn bản pháp lý quan trọng nhất khi các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính (nếu là hợp đồng kinh tế) lại có nhiều điểm hạn chế như đã nêu. Chính điều này đã và đang gây ra nhiều trở ngại lớn trong việc thúc đẩy việc phát triển thị trường cho thuê tài chính ở nước ta. Bởi lẽ những lợi ích mà nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại là rất lớn, nó làm giảm những khó khăn về vốn đầu tư dài hạn vào máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận với thiết bị và công nghệ hiện đại; cho thuê tài chính đang tỏ ra rất thích hợp với các doanh nghiệp trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây truyền công nghệ sản xuất, các doanh nghiệp mới thành lập. Bộ luật Dân sự năm 1995 đã khắc phục một phần những điểm hạn chế, thiết sót, bất cập của chế định Hợp đồng kinh tế về hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu. Bộ luật Dân sự quy định rõ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thông qua việc quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Trong số các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực cho thuê tài chính (Luật Các tổ chức Tín dụng, và Nghị định 16) hiện nay chưa thống nhất về khái niệm "cho thuê tài chính". - Theo khoản 11 Điều 20 Luật Các tổ chức Tín dụng quy định: "cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng". - Điều 1 Nghị định 16 quy định: "cho tuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê lại theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính". Khái niệm "cho thuê tài chính" trong Luật Các tổ chức Tín dụng đã không nêu rõ được bản chất, đặc điểm của cho thuê tài chính. Bên cạnh đó, tại khái niệm cho thuê tài chính trong Luật Các tổ chức Tín dụng, nhà làm luật xác định bên cho thuê là "các tổ chức tín dụng". Cũng tại Khoản 1 Điều 19 Luật Các tổ chức Tín dụng quy định: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được tành lập theo quy định của Luật này về các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Quy định này cho chúng ta thấy, bên cho thuê có thể thực hiện một số dịch vụ ngân hàng với nội dung "nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán" và điều này dường như đã mâu thuẫn với Điều 2 Nghị định 16 khi khẳng định: "Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng". Theo đó, Công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân (điểm a Khoản 1 Điều 16 Nghị định 16) nhưng không được cung ứng các dụch vụ thanh toán như quy định tại Luật Các tổ chức Tín dụng. Từ những phân tích nêu trên, theo chúng tôi pháp luật nên quy định thống nhất nội hàm khái niệm "cho thuê tài chính", điều này rất có ý nghĩa khi nghiên cứu về lĩnh vực này. Chúng tôi đồng ý với quy định về nội hàm khái niệm "cho thuê tài chính" mà Nghi định 16 đã đưa ra. Ngoài ra các văn bản pháp luật nêu trên chưa cụ thể hoá được hết các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động cho thuê tài chính. Có thể nêu ra một vài ví dụ như sau: - Luật Các tổ chức Tín dụng và Nghị định 16 đều không có những quy định nghi nhận quyền và nghĩa vụ của nhà sản xuất (nhà cung cấp thiết bị). Cho dù trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính, nhà sản xuất không tham gia trực tiếp vào việc giao kết hợp đồng mà chỉ có trách nhiệm cung cấp đúng các yêu cầu về máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Điều này là cần thiết khi nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, các hợp đồng cho thuê tài chính không chỉ được giao kết giữa các chủ thể ở trong nước mà còn có sự tham gia các chủ thể người nước ngoài. Chính vì điều này, để bảo vệ quyền lợi của bên trong quan hệ hợp đồng, phát luật nên quy định trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc cung cấp thiết bị cho bên thuê. - Các quy định của pháp luật hiện hành chưa nghi nhận cách thức xử lý hợp đồng khi kết thúc hợp đồng theo thoả thuận. Theo quy định của pháp luật, khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính (Khoản 2 Điều 1 Nghị định16). III.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính. Trong thời gian tới, để khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính phát triển rộng khắp, chúng ta phải có những chính sách rõ ràng, cụ thể đối với lĩnh vực này. Điều này là hoàn toàn thiết yếu khi cơ sở hạ tầng của các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh đang từng bước xuống cấp. Do đó, cho thuê tài chính đã và đang là phương thức vay vốn trung và dài hạn (dưới dạng máy móc thiết bị) rất có hiệu quả đối với các doanh nghiệp nói trên. Chính vì điều này, các quy định của pháp luật phải ngày càng hoàn thiện hơn nữa để tạo ra một "hành lang" pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia. Trong phạm vi bài Khoá luận, chúng tôi chỉ đưa ra một số kiến nghị và đề xuất giải pháp hoàn thiện về khung pháp lý đối với hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng. Thứ nhất: Trong thời gian tới, chúng ta phải xây dựng một văn bản hoàn chỉnh quy định về quan hệ cho thuê tài chính (xây dựng Luật về hợp đồng cho thuê tài chính). Văn bản này sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể an tâm khi giao kết hợp đồng cho thuê tài chính, vì họ tin rằng quyền và nghĩa vụ của mình sẽ luôn luôn được bảo đảm, đồng thời, đây còn là công cụ pháp lý hữu hiệu để Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, mà Đảng và Nhà nước ta đã giao phó. Thứ hai: Từ phân tích ở mục III.1, pháp luật cần quy định thống nhất cách dùng khái niệm "cho thuê tài chính". Điều này sẽ góp phần giúp mọi người hiểu rõ được bản chất cũng như các đặc điểm của cho thuê tài chính. Thứ ba: Từ phân tích ở mục II.1, pháp luật cần cụ thể hoá các mối quan hệ giữa nhà sản xuất với bên cho thuê hoặc giữa nhà sản xuất với bên thuê trong các quy định của pháp luật. Theo chúng tôi, pháp luật cần quy định trách nhiệm của nhà sản xuất trong trường hợp tài sản thuê không giao đúng hạn theo thoả thuận trong họp đồng. Theo đó, nhà sản xuất ngoài việc phải chịu trách nhiệm trước bên cho thuê (theo hợp đồng mua bán tài sản) mà còn phải chịu trách nhiệm trước bên thuê. Bởi nếu tà sản thuê không giao đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của bên thuê. Thứ 4: Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành nghiệp vụ cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng. Điều này là cần thiết, vì trong thời gian tới, khi pháp luật đã mở rộng về mặt chủ thể (bên thuê có thể là cá nhân) thì phải có hướng dẫn cụ thể về hợp đồng được giao kết giữa Công ty cho thuê tài chính và cá nhân là kinh tế hay dân sự? Hợp đồng cho thuê tài chính theo các quy định tại Nghị định 16 có giống với Hợp đồng tín dụng được quy định trong Luật Các tổ chức Tín dụng không? Thứ năm: Từ phân tích II.2, các quy định điều kiện về chủ thể (bên thuê) trong việc tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính cho thuê phải được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật. Các điều kiện đó có thể là: Đối với pháp luật: + Phải được thành lập và hoạt động hợp pháp; + Có tình trạng tài chính lành mạnh; + Có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc nhằm hiện đại hoá và hợp lý hoá sản xuất; + Có những đảm bảo thích hợp cho tài sản thuê, khi Công ty cho thuê tài chính yêu cầu (tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…). Đối với cá nhân: Ngoài những điều kiện nêu trên, cá nhân phải có hộ khẩu thường trú được pháp luật thừa nhận. Các quy định này rất có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền lợi của bên cho thuê khi mà họ chỉ nắm trong tay quyền sở hữu tài sản thuê về mặt pháp lý trong suốt thời hạn thuê. Thứ sáu: Nghị định 16 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định 64, song Nghị định 16 cũng cần quy định các điều kiện để xác định một giao dịch được goi là giao dịch cho thuê tài chính. Cụ thể, phải bổ sung quy định về "thời hạn cho thuê". Theo chúng tôi, quy định về thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê (Khoản 3, Điều3 Nghị định 64) là hơi "cứng nhắc", đặc biệt, đối với những tài sản có giá trị lớn, thời gian khấu hao tài sản dài nhưng bên thuê chỉ muốn thuê trong một thời gian ngắn để đạt được mục đích và nhu cầu của mình. Chính vì vậy, pháp luật nên quy định: Thời hạn cho thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê", còn việc quy định thời hạn cụ thể đối với từng loại đối tượng của hợp đồng thuê do các bên thoả thuận và nghi vào hợp đồng. Thứ bảy: Mở rộng thêm về đối tượng (bất động sản) của hợp đồng cho thuê tài chính. Chúng ta không nên dừng lại ở viêc quy định: tài sản cho thuê chỉ là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Phần kết luận Nghiên cứu những khía cạnh pháp lý về cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng là việc làm rất cần thiết để tạo ra một "hành lang" pháp lý an toàn, có hiệu quả. Điều này có ý nghĩa to lớn, vì cho thuê tài chính là giải pháp hữu hiệu nhất trong việc tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn, hoạt động của các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới , đầu tư máy móc thiết bị hiện đại nhằm cơ cấu lại hay mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Điều này phù hợp với đường lối, chính sách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hiện nay, thị trường Việt Nam đang đặt ra một số thuận lợi và thách thức cho hoạt động cho thuê tài chính. Hy vọng trong thời gian tới, chúng ta có kế hoạch xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng. Để tiếp tục đổi mới những quy định pháp luật hiện hành cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, trong phạm vi Khoá luận, chúng tôi đã cố gắng nghiên cứu có tính chất tổng quát, hệ thống các quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính nhằm làm rõ thêm một số quy định hiện đang còn tranh luận và đề xuất thêm một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính. Do hạn chế và khuôn khổ Khoá luận, thời lượng nguồn tài liệu cũng như khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng. Phụ lục hợp đồng A. Các bên tham gia hợp đồng cho thuê tài chính: - Tên, địa chỉ Công ty cho thuê tài chính (bên cho thuê tài chính). - Tên, địa chỉ kinh doanh của bên thuê. - Tên, địa chỉ của đơn vị. người bảo lãnh (nếu có) B. Hợp đồng cho thuê tài chính phải đảm bảo đầy đủ các nội dung chủ yếu sau: 1. Các bên tham gia hợp đồng (như nội dung quy định tại phần A của phụ này). 2. Mô tả tài sản cho thuê: Tên và chủng loại tài sản, suất xứ, hãng sản xuất, số serry, số đăng ký, giá trị của tài sản trên thị trường lúc ký hợp đồng. 3. Các quy định về lắp đặt, sử dụng và bảo trì tài sản cho thuê. 4. Thời gian thuê, thời điểmbắt đầu và kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính. 5. Cơ sở để tính toán tiền thuê. 6. Phương thức và lịch trình thanh toán tiền thuê. 7. Lãi suất nợ quá hạn tính trên các khoản thanh toán nợ qúa hạn. 8. Các quy định về: quyền lựa chọn mua, tiền ký quỹ, các điều kiện về bảo lãnh, cầm cố, sử lý tranh chấp, tăng giảm tiền thuê, thay đổi lịch trình thanh toán. 9. Phương thức xử lý nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng. C. Các cam kết: 1. Bên thuê cam kết. - Các thông tin tại bên thuê phải chính xác, đầy đủ. - Xác nhận về hiện trạng và khả năng sử dụng của tài sản thuê khi nhận tài sản thuê. - Thanh toán đúng hạn các khoản phải thanh toán theo đúng quy định tại hợp đồng. - Thanh toán các khoản phí, thuế liên quan đến việc nhập khẩu, đăng ký, bảo hiểm tài sản thuê trong thời hạn thuê. - Bảo trì và vận hành tài sản thuê theo đúng quy trình kỹ thuật, thay thế tất cả các bộ phận mất mát hay hỏng hóc. - Không thay đổi, sửa đổi tài sản thuê nếu không được bên cho thuê chấp thuận bằng văn bản. - Cho phép đại diện của bên cho thuê kiểm tra tài sản thuê vào bất kỳ thời điểm nào. - Cung cấp đều đặn các báo cáo tài chính và các thông tin cần thiết khác cho bên cho thuê. - Bồi thường cho bên cho thuê mọi mất mát, hư hỏng của tài sản thuê xảy ra do lỗi của bên thuê. - Không bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố, thế nợ bằng tài sản thuê. - Đính và duy trì ký hiệu sở hữu, nhận dạng tài sản của bên cho thuê trên tài sản. - Không tự ý di dời tài sản thuê khỏi điểm lắp đặt ban đầu. 2. Bên cho thuê cam kết. - Trao quyền sử dụng tài sản thuê cho bên thuê trong suốt thời hạn thuê với điều kiện bên thuê thực hiện đúng các cam kết tại hợp đồng. D. Quyền sở hữu: Quyền sở hữu tài sản thuê thuộc về bên cho thuê trong suốt thời hạn thuê, không có điều khoản nào trong Hợp đồng cho thuê tài chính được hiểu là có quyền chuyển nhượng, quyền sở hữu cho bên thuê trước khi thời hạn cho thuê chấm dứt. E. Tổn thất tài sản thuê: Bên thuê phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên cho thuê về bất kỳ mất mát, hư hỏng nào đối với tài sản thuê. Tiền bảo hiểm tài sản do Công ty bảo hiểm chi trả thuộc về bên cho thuê. F. Chấm dứt hợp đồng: Trong các trường hợp sau, bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính theo các quy định của pháp luật và thoả thuận tại hợp đồng, bên cho thuê phải thông báo trước bằng văn bản 15 ngày cho bên thuê về việc chấm dứt hợp đồng: 1. Bên thuê không thanh toán đầy đủ, đúng hạn tiền thuê. 2. Bên thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng. 3. Bên thuê hoặc bên bảo lãnh mất khả năng thanh toán. 4. Tài sản cho thuê bị hư hại không thể sửa chữa được. 5. Có chứng cứ cho thấy thông tin do bên thuê cung cấp chobên cho thuê theo các quy định của pháp luật và thoả thuận tại hợp đồng là sai sự thật. G. Xử lý hợp đồng chấm dứt trước thời hạn: Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng trước thời hạn do các lý do tại khoản F trên đây bên thuê phải: 1. Thanh toán ngay cho bên cho thuê tất cả các khoản tiền thuê còn thiếu hoặc phải giao trả ngay tài sản thuê cho bên cho thuê. 2. Thanh toán cho bên cho thuê mọi chi phí pháp lý và chi phí khác đến việc thu hồi, cất giữ, sửa chữa và bảo dưỡng tài sản thuê. 3. Thanh toán mọi chi phí về thuế liên quan đến các khoản thu của bên cho thuê theo khoản E và F. Mục lục Phần mở đầu 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Kết cấu của khoá luận 2 Chương I: Khái quát về cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê tài chính 3 I.1. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính 3 I.1.1. Khái niệm 3 I.1.2. Đặc điểm 6 I.2. Lợi ích của cho thuê tài chính 9 I.2.1. Đối với bên cho thuê 9 I.2.2. Đối với bên thuê 10 I.2.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) 13 I.2.4. Đối với nền kinh tế 14 I.3. Các phương thức cho thuê tài chính 15 1.4. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính 17 I.4.1. Khái niệm 17 I.4.2. Đặc điểm 22 I.4.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng 23 1.5. Phân loại hợp đồng cho thuê tài chính 24 Chương II: Các quy định pháp lý cơ bản về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam 30 II.1. Chủ thể của hợp đồng cho thuê tài chính 30 II.1.1. Bên cho thuê 31 II.1.2. Bên thuê 33 II1.3. Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) 37 II.2. Quyền nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng cho thuê tài chính 37 II.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê 39 II.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê 40 II.2.3. Quyền và nghĩa vụ của Nhà sản xuất 42 II.3. Đối tượng của hợp đồng cho thuê tài chính 42 II.4. Phương thức giao kết, thanh toán hợp đồng 44 II.4.1. Phương thức giao kết 44 II.4.2. Phương thức thanh toán 47 II.5. Chấm dứt và giải quyết tranh chấp hợp đồng 48 II.5.1. Chấm dứt hợp đồng 48 II.5.2. Giải quyết tranh chấp 54 Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam 55 III.1. Thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính 55 III.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính 59 Kết luận 63 Phụ lục hợp đồng 64 Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo 1. Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992. 2. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995. 3. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997. 4. Luật các tín dụng năm 1997. 5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004. 6. Nghị định 16/CP ngày 02/5/2001 quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. 7. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà nội - 1997. 8. Trường đại học kinh tế Quốc dân, Những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thuê mua ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Vũ Quốc Trung, Luận án thạc sỹ khoa học kinh tế, Hà nội 1997. 9. Trường Đại học Quốc gia Hà nội - Khoa Luật, Một số nội dung cơ bản của hợp đồng thuê múa (Leasing), Đặng Văn Chiến, Luận văn tốt nghiệp, Hà nội 8/1997. 10. Trường Đại học Tổng hợp Hà nội, Một số vấn đề pháp lý cơ bản trong cơ chế thuê mua, Đinh Thị Thu Hằng, Luận văn tốt nghiệp, Hà nội - 1995. 11. Đoàn Thanh Hà - Cho thuê tài chính giải pháp về vốn để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp: Tạp chí tài chính tháng 11/2001. 12. Báo cáo khả thi về việc thiết lập nghiệp vụ tài trợ thuê mua thiết bị máy móc tại Việt Nam. 13. Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản, tìm hiểu và sử dụng thị trường thuê mua; NXB trẻ, TPHCM 1996. 14. Đoàn Thanh Hà, đi tìm lời giải cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay; Tạp chí Tài chính tháng 10/2001. 15. Nhà xuất bản Trẻ, Tìm hiểu và sử dụng hợp đồng tín dụng thuê mua, Trần Tô Từ, năm 1995. 16. Lý Quốc Hùng, Thuê tài chính: các hình thức, lợi ích và quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. 17. Mạnh Tuấn, Cho thuê tài chính - Những thuận lợi và trở ngại về môi trường pháp lý, trang 10, Thời báo kinh tế Việt Nam số 11/1998. 18. Ths. Phạm Giang Thu, Về hoạt động cho thuê tài chính, Tạp chí luật học, trang 35,38,1999. 19. Ths. Vũ Hà Cường, Cho thuê tài chính ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, trang 10, Tạp chí Khoa học, Công nghệ, Môi trường, số 4/2001. 20. Tài liệu của Công ty tài chính (IFC) năm 1993 về tín dụng thuê mua. 21. Báo cáo sơ két hoạt động của các Công ty cho thuê tài chính, 16/5/2000. 22. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật Ngân hàng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 1998. 23. Nguyễn Hữu Thanh về qui định đăng ký tài sản cho thuê tài chính, tạp chí Ngân hàng tháng 6/2002. 24. Lê Thị Nhàn, một số vấn đề pháp lý về Hợp đồng cho thuê tài chính ở ViệtNam; Luận văn Thạc sỹ Luật học, năm 2002. Lời cảm ơn Em xin gửi tới cô giáo hướng dẫn khoa học Tiến sỹ Lê Thị Thu Thuỷ lòng biết ơn sâu sắc và sự tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện bản Khoá luận này. Em cùng xin gửi lời biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, đã hết lòng giảng dạy và truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt bày tỏ lòng nhớ ơn sâu sắc công lao của cha mẹ và bạn bè đã khuyến khích, động viên, tạo điều kiện cho em hoàn thành được bản Khoá luận này. Nguyễn Ngọc Chiểu Danh mục các từ viết tắt BLDS : Bộ luận dân sự CTTC : Cho thuê tài chính HĐCTTC : Hợp đồng cho thuê tài chính NHNN : Ngân hàng nàh nước NĐ : Nghị định TCTD : Tổ chức tín dụng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33926.doc
Tài liệu liên quan