Một số vấn đề về chất lượng tín dụng

Lời nói đầu Nghị quyết Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra sức mạnh mới thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Với định hướng chiến lược đổi mới nền kinh tế từ cơ chế bao chế sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đây là bước đột phá tư duy kinh tế nhằm khơi dậy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường tạo ra tốc độ phát triển mới cho nền kinh tế

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về chất lượng tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta. Tiến trình đổi mới nền kinh tế đã tác động mạnh mẽ vào hệ thống Ngân hàng. Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Hoạt động tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương mại và trung gian tài chính cho khách hàng, được coi là nghiệp vụ then chốt cấp vốn cho nền kinh tế, tạo nguồn thu nhập chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và trung gian tài chính. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng tín dụng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại và trung gian tài chính đối với các thành phần kinh tế là vấn đề cần được quan tâm. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã chọn đề tài “ Một số vấn đề về chất lượng tín dụng”. Nội dung I .Những vấn đề chung về hoạt động tín dụng Khái niệm Tín dụng là quan hệ vay mượn sử dụng vốn của lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Quan hệ tín dụng khác quan hệ mua bán. Trong quan hệ tín dụng chỉ sự vận động của quyền sử dụng không có sự vận động của quyền sở hữu, còn trong quan hệ mua bán có cả sự vận động của quyền sử dụng và quyền sở hữu. Sự hoàn trả trong quan hệ mua bán chỉ xảy ra trong một số trường hợp đặc biệt còn trong quan hệ tín dụng có sự hoàn trả cả vốn lẫn lãi. Trong quan hệ mua bán giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị còn trong quan hệ tín dụng tiền lãi không phải là giá trị của số tiền cho vay mà nó phản ánh giá trị của một số vốn trong khoảng thời gian nhất định. Trong quan hệ tín dụng phải có sự tin tưởng nếu không sẽ xảy ra rủi ro tín dụng. 2.Lịch sử hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng Quan hệ tín dụng hình thành và phát triển gắn với quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá Trong giai đoạn sản xuất hàng hoá chưa phát triển: Tư liệu sản xuất tập trung chủ yếu trong giai cấp thống trị còn người nông dân, thợ thủ công thì không đủ ăn từ đó làm nảy sinh quan hệ vay mượn. Quan hệ vay mượn thời kỳ này có lãi suất rất cao gọi là tín dụng nặng lãi. Giai đoạn nền sản xuất hàng hoá phát triển: Quyền sở hữu đã đa dạng hoá, lúc này trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhu cầu một bên “ thừa” vốn muốn cho vay và một bên “ thiếu” vốn phải đi vay từ đó quan hệ tín dung ra đời. Quan hệ tín dụng ra đời thực hiện chức năng phân phối, huy động và tập trung vốn để cho vay, thực hiện giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với hoạt động kinh tế quốc dân. Làm cho quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng trở thành một trong những chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước và tạo cửa ngõ phát triển cho hoạt động tài chính. 3. Phân loại và đặc điểm các loại hình tín dụng 3.1. Tín dụng thương mại *Khái niệm: Tín dụng thương mại là quan hệ mua bán chịu hàng hoá giữa những người sản xuất và kinh doanh hàng hoá với nhau. * Đối tượng: Đối tượng của quan hệ này là hàng hoá. * Chủ thể: Chủ thể thực hiện quan hệ là những người sản xuất và kinh doanh hàng hoá.Quan hệ tín dụng thương mại ra đời và rất phát triển trong kinh tế thị trường vì luôn luôn có sự không ăn khớp về tuần hoàn và luân chuyển vốn của các doanh nghiệp. Người sản xuất sẵn sàng có hàng nhưng chưa có tiền còn người kinh doanh có tiền nhưng chưa có hàng. *Công cụ: Công cụ của quan hệ tín dụng thương mại là thương phiếu Thương phiếu bao gồm hối phiếu và kỳ phiếu thương mại. Hối phiếu do người bán chịu phát hành còn kỳ phiếu do người mua chịu phát hành. Bản chất của thương phiếu là giấy cam kết trả tiền của người mua chịu trả cho người bán chịu. Đặc điểm của thương phiếu – Có tính trìu tượng: Trên thương phiếu không ghi rõ nguồn gốc, mục đích của khoản nợ mà chỉ ghi nghĩa vụ tài chính. Tính trìu tượng của thương phiếu đã gạt bỏ mọi sự khác nhau giữa các loại hàng hóa. –Tính bắt buộc: Thương phiếu được pháp luật thừa nhận và sẵn sàng can thiệp, việc can thiệp luôn theo hướng bảo vệ lợi ích cho người bán chịu. - Được lưu thông như tiền: Dùng để thanh toán chi trả công nợ hoặc chiết khấu. * Ưu điểm của tín dụng thương mại Rút ngắn được chu kỳ sản xuất kinh doanh, khắc phục ứ đọng vốn. Tiết kiệm được tiền mặt và chi phí lưu thông tiền tệ vì một bộ phận tiền tệ được thay thế bằngthương phiếu. * Nhược điểm của tín dụng thương mại Đối tượng của tín dụng thương mại là hàng hoá do đó nó bị giới hạn bởi quy mô, giá trị sử dụng và hướng sử dụng của hàng hoá. Quy mô của tín dụng thương mại phụ thuộc vào số vốn cụ thể của người sản xuất, mỗi hàng hoá chỉ có một hoặc vài giá trị cụ thể, hướng vận động của hàng hoá là một chiều. Vì tín dụng có tính chất trừu tượng nên khả năng kiểm soát của Nhà nước bị hạn chế. 3.2. Tín dụng Ngân hàng * Khái niệm : Tín dụng Ngân hàng là quan hệ giữa Ngân hàng với phần còn lại của nên kinh tế trong đó Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. * Đối tượng: Đối tượng của tín dụng Ngân hành là tiền tệ. * Chủ thể: Chủ thể của tín dụng Ngân hàng là Ngân hàng và chủ thể còn lại của nền kinh tế. * Các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín dụng. Hình thức tín dụng truyền thống của Ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên, nhiên, vật liệu, sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. Các Ngân hàng thương mại lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng, mua các tài sản để cho thuê ….Các hình thức tín dụng này, một mặt mang lại thu nhập mặt khác chứa đựng rủi ro cho Ngân hàng. Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các Ngân hàng bên cạnh việc phải xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, phải không ngừng đa dạng hoá các nghiệp vụ tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. 3.2.1. Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua hoặc mang đến Ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, Ngân hàng có thể phát tiền cho người bán và nắm giữ thương phiếu. Đến hạn, Ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền. Số tiền Ngân hàng ứng trước cho người bán phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ phí chiết khấu. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa Ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng, Ngân hang thường kí với khách hợp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên Ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu, và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho Ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao. Hơn nữa, Ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có tính thanh khoản cao. 3.2.2. Nghiệp vụ cho vay. 3.2.2.1. Nghiệp vụ thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin Ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ séc…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả song trong hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi Ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả: Lãi = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phụ thuộc vào thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng phiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình thanh toán: nhanh, chủ động, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. 3.2.2.2. Cho vay trực tiếp từng lần. Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của Ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu hay mở rộng sản xuất mới vay Ngân hàng, tức là vốn Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình Ngân hàng phương án sử dụng vốn. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau bằng các hồ sơ. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, Ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, Ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, Ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể tính cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. 3.2.2.3. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp Ngân hàng qui định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức, tuy nhiên đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, Ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này Ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, Ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên Ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu ngày không giảm sút. 3.2.2.4. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn.Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để Ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả Ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến Ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng đều là đối tượng được Ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng. 3.2.2.5. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía Ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho Ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho Ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của Ngân hàng. 3.2.2.6. Cho vay gián tiếp Phần lớn cho vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp lại một phần chi phí của trung gian, Ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian tài chính. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mụch đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa Ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay. Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của Ngân hàng. Tuy nhiên nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu Ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. 3.2.3. Cho thuê tài sản Cho thuê của Ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho Ngân hàng phải thu gần đủ hoặc đủ giá trị của cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Cho thuê giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ Ngân hàng phải xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải trả cả gốc và lãi dưới hình thức tìn thuê hàng kì. Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê có nhiều đặc điểm khác biệt so với cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải bảo đảm về chất lượng của tài sản đó. Cho thuê không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao… nên cho thuê rủi ro rất cao đối với Ngân hàng. Ngân hàng có thể lập phòng cho thuê hoặc công ty cho thuê để thực hiện và quản lý hoạt động cho thuê. 3.2.4. Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Bảo lãnh thường có ba bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh; khách hàng của Ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba. Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy, bảo lãnh được coi là tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi Ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay. Bảo lãnh của Ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của Ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa Ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Ngân hàng cũng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Phí bảo lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí, Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phải kí quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho Ngân hàng với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán… Thông qua các nghiệp vụ tín dụng gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê, Ngân hàng góp phần tài trợ nhu cầu vốn của khách hàng. Các nghiệp vụ tín dụng đa dạng nhằm phù hợp với quá trình luân chuyển vốn và chu kì thu nhập của khách hàng. *Ưu điểm của tín dụng Ngân hàng: Tín dụng Ngân hàng khắc phục được nhược điểm của tín dụng thương mại. Tín dụng Ngân hàng vận động theo nhiều chiều khác nhau. Vì các doanh nghiệp muốn vay tiền phải trình báo tất cả các thông tin cần thiết do đó việc thanh tra kiểm soát rất rõ ràng. Quy mô của tín dụng Ngân hàng không phụ thuộc vào nguồn vốn của Ngân hàng vì Ngân hàng có thể đi vay các chủ thể khác trong nền kinh tế. *Nhược điểm của tín dụng Ngân hàng. Vì đối tượng của nó là tiền do đó rủi ro tín dụng rất lớn. Sự sụp đổ của Ngân hàng sẽ gây ra sự sụp đổ của nền kinh tế. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng có thể là nguyên nhân khách quan như lũ lụt, hạn hán, sự thay đổi chính sách của nhà nước cũng có thể là do nguyên nhân từ phía khác hàng, khách hàng là người kém năng lực, có đầu óc tổ chức kinh doanh tồi... nhưng cũng có thể nguyên nhân từ phía Ngân hàng như công nghệ Ngân hàng, trình độ cán bộ công nhân viên Ngân hàng.... Chính vì vậy để hạn chế rủi ro tín dụng cần thực hiện ba nguyên tắc: Cho vay có mục đích, có kế hoạch Cho vay có giá trị tài sản tương đương làm bảo đảm. Cho vay phải trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. 3.3. Tín dụng Nhà nước *Khái niệm: Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với dân cư và chủ thể kinh tế khác trong đó Nhà nước là người đi vay tiền. * Đối tượng: Đối tượng của tín dụng Nhà nước là tiền tệ. * Chủ thể : Chủ thể của tín dụng Nhà nước là nhà nước và các thành phần còn lại của nền kinh tế. * Công cụ: Công cụ của tín dụng Nhà nước là chứng khoán Nhà nước. Chứng khoán Nhà nước bao gồm: Trái phiếu chính phủ: Do trung ương phát hành, có thời hạn trên 5 năm. Trái phiếu địa phương: Do chính quyền Nhà nước ở điạ phương phát hành được sự cho phép của Ngân hàng trung ương có thời hạn trên 5 năm. Trái phiếu của một số ngành đặc biệt: Do các ngành này phát hành được sự uỷ nhiệm của Nhà nước, có thời hạn trên 5 năm. Tín phiếu kho bạc: Do bộ tài chính phát hành ra mà cơ quan trực tiếp là kho bạc Nhà nước, có thời hạn dưới 1 năm. Tất cả các loại chứng khoán Nhà nước đều có một mục đích là thu hút vốn nhằm bù đắp cho chi tiêu ngân sách Nhà nước. *Ưu điểm của tín dụng Nhà nước: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngân sách Nhà nước, khắc phục tình trạng bội chi ngân sách. Nhà nước không bao giờ phải trả nợ vì Nhà nước thanh toán công trái bằng cách phát hành công trái đợt sau với quy mô lớn hơn đợt trước. 3.4. Tín dụng thuê mua: *Khái niệm: Tín dụng thuê mua là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất và kinh doanh thể hiện dưới hình thức cho thuê tài sản cố định. * Đối tượng: Đối tượng của tín dụng thuê mua là tài sản cố định. * Chủ thể: Chủ thể của tín dụng thuê mua là công ty tài chính và người sản xuất kinh doanh. Công ty tài chính là một thể chế phi ngân hàng. Quan hệ tín dụng thuê mua thường diễn ra: -Cho thuê khai thác, vận hành, kỹ thuật. -Cho thuê tài chính *Ưu điểm của tín dụng thuê mua: Tín dụng thuê mua tạo điều kiện để có thể công nghiêp hoá, nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh ngay cả khi chưa có vốn. Tiết kiệm vốn 3.5. Tín dụng tiêu dùng * Khái niêm: Tín dụng tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính và người tiêu dùng thực hiện thông qua phương thức bán trả góp. *Đối tượng: Đối tượng của tín dụng tiêu dùng là hàng hoá tiêudùng. * Chủ thể: Chủ thể của tín dụng tiêu dùng là công ty tài chính và người tiêu dùng. * Ưu điểm của tín dụng tiêu dùng: -Tiêu thụ hàng hoá ứ đọng, châm luân chuyển, hàng hóa hết mốt. -Thu hồi vốn nhanh. -Nâng cao mức sống dân chúng. *Nhược điểm của tín dụng tiêu dùng: -Kích thích tâm lý tiêu dùng quá mức. 3.6. Tín dụng quốc tế: * Khái niệm: Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng mà phạm vi của nó vượt qua phạm vi biên giới của một quốc gia. *Đối tượng: Đối tượng của tín dụng quốc tế là hàng hoá xuất nhập khẩu *Chủ thể: Chủ thể của tín dụng quốc tế là các doanh nghiệp của các quốc gia khác nhau. *Ưu điểm của tín dụng quốc tế: Hỗ trợ cho các nguồn vốn ở trong nước, tạo điều kiện cho các nước phát triển trong điều kiện vốn quốc gia không cho phép. Luồng di chuyển của vốn: + Luồng vốn đi vào sẽ tạo ra “ cú huých” để cho nước đó có khả năng công nghiệp hoá, đầu tư sản xuất...khi mà nước đó không đủ khả năng. Luồng vốn đi vào chủ yếu là FDI và FIDI. Khi tiếp nhận luồng vốn đi vào phải chú ý sức ép về mặt chính trị và các yếu tố xã hội. + Luồng vốn đi ra sẽ tạo điều kiện xuất khẩu vốn, đầu tư và tìm kiếm thị trường. Khi xuất khẩu vốn chú ý hiện tượng “chảy máu vàng”. *Các hình thức của tín dụng quốc tế: 3.6.1. Tín dụng thương mại quốc tế: Khái niệm: Tín dụng thương mại quốc tế là quan hệ tín dụng được hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá giữa các nhà xuất nhập khẩu với nhau. Tín dụng thương mại quốc tế có hai loại chủ yếu sau: +Tín dụng cấp cho nhà nhập khẩu: Đây là loại tín dụng do nhà xuất khẩu cấp cho nhà nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá hay còn gọi là tín dụng xuất khẩu. Có hai cách để nhà xuất khẩu cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu: Cấp tín dụng bằng cách chấp nhận hối phiếu, tức là người nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu do người xuất khẩu ký phát cho họ.Chỉ khi người nhập khẩu chấp nhận trả tiền vào hối phiếu thì nhà xuất khẩu mới trao cho nhà nhập khẩu bộ chứng từ hàng hoá qua ngân hàng hoặc trực tiếp cho nhà nhập khẩu. Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản là người xuất khẩu và người nhập khẩu ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hoá, trong đó quy định quyền bên bán được mở một tài khoản để ghi nợ bên mua sau mỗi lần giao hàng. Theo kỳ hạn nhất định đã ký kết trong hợp đồng, người mua phải thanh toán hết nợ đó cho bên bán. +Tín dụng cấp cho nhà xuất khẩu: Đây là loại tín dụng do người nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu để nhập khẩu hàng hoá được thuận lợi, hay còn gọi là tín dụng nhập khẩu. Loại tín dụng này được thực hiện bằng cách người nhập khẩu ứng trước tiền hàng cho người xuất khẩu để nhập khẩu hàng hóa, ứng trước tiền hàng có thể vì hai lý do: ứng trước tiền hàng có tính chất tín dụng, loại này diễn ra trong trường hợp người xuất khẩu thiếu vốn để thực hiện hợp đồng cung cấp hàng hoá cho người nhập khẩu. ứng trước tiền hàng có tính chất như một khoản tiền đặt cọc, loại này nhằm bắt buộc người nhập khẩu phải thực hiện đầy đủ các nội dung theo hợp đồng thương mại đã ký. 3.6.2. Tín dụng ngân hàng quốc tế: Khái niệm: Tín dụng ngân hàng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các nhà xuất nhập khẩu hàng hoá.Tín dụng Ngân hàng quốc tế có hai loại: + Tín dụng Ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu Ngân hàng cho người xuất khẩu vay bằng cách chiết khấu hối phiếu chưa đến hạn trả tiền. Số tiền được vay bằng số tiền được ghi trên hối phiếu sau khi đã trừ đi phần lợi tức chiết khấu của Ngân hàng. Thời hạn cho vay của loại này bằng thời hạn còn lại chưa đến hạn trả tiền của hối phiếu. Người trả tiền vay của loại cho vay này là người có nghĩa vụ trả tiền cho hối phiếu. Ngân hàng cũng có thể cho vay người xuất khẩu căn cứ vào số hàng hoá chuẩn bị xuất khẩu hay chứng từ hàng hoá đang trên đường đi. + Tín dụng Ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu Ngân hàng cấp tín dụng cho người nhập khẩu chủ yếu bằng cách chấp nhận hối phiếu. Để đảm bảo chắc chắn khả năng chi trả hối phiếu, người xuất khẩu thường yêu cầu người nhập khẩu phải dùng một Ngân hàng chấp nhận hối phiếu do họ ký phát. Trong trường hợp này, người xuất khẩu chuyển thẳng hối phiếu đến Ngân hàng cấp tín dụng cho người nhập khẩu để chấp nhận trả tiền, mà không phải chuyển cho người nhập khẩu. Nghiệp vụ chấp nhận này của Ngân hàng là một nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng phải sử dụng vốn của mình, chịu mọi rủi ro của hối phiếu. Nếu người nhập khẩu chuyển vốn đến cho Ngân hàng để chấp nhận hối phiếu thì họ chỉ phải trả phí chấp nhận, nếu Ngân hàng dùng vốn của mình để chấp nhận hối phiếu thì người nhập khẩu còn phải trả lợi tức vốn vay cho Ngân hàng. 3.6.3. Tín dụng hỗn hợp: Khái niệm: Tín dụng hỗn hợp là quan hệ tín dụng giữa các công ty phi chính phủ, chính phủ, liên chính phủ như WB, IMF,… Đối tượng: Đối tượng của quan hệ tín dụng này là các chương trình phát triển kinhtế-xã hội, phát triển về mặt nhân lực… Đăc điểm: +Nguồn vốn rất lớn. +Thời gian dài thường là 50 năm. +Lãi suất thấp, nhiều dự án không phải trả cả vốn lẫn lãi. II. Chất lượng tín dụng 1.Khái niệm Chất lượng tín dụng là kết quả tính tổng hoà những thành tựu hoạt động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân, của Ngân hàng và của khách hàng. Chất lượng tín dụng được hiểu đúng theo nghĩa là vốn vay Ngân hàng đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho doanh nghiệp, và được doanh nghiệp đưa vào phát triển kinh doanh, dịch vụ,… để tạo được số tiền lớn hơn hoàn trả được Ngân hàng đủ cả gốc lẫn lãi, trang trải đủ chi phí và có lợi nhuận. 2.Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng 2.1. Chất lượng tín dụng xét từ góc độ Ngân hàng. Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi cho vay Ngân hàng phải thực hiện theo Luật Ngân hàng và văn bản chế độ hiện hành của ngành. Xác định đối tượng cho vay và thẩm định khách hàng trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và tìm hiểu tình hình sản xuất- kinh doanh, khả năng tài chính và mục đích sử dụng vốn vay, cơ sở hoàn trả vốn vay để đảm bảo khoản vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn. Hạn chế tới thức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là nguyên tắc cơ bản nhất đối với các Ngân hàng. Chất lượng tín dụng được thể hiện qua nhiều tiêu thức khác nhưng nhìn chung chất lượng tín dụng được đánh giá qua hai nhóm chỉ tiêu cơ bản sau *Nhóm chỉ tiêu định tính Được thể hiện qua các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng: Cho vay phải tuân thủ ba quy tắc: + Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. + Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. + Được đảm bảo tiền vay phải được thực hiện theo quy định của Chính phủ và của thống đốc Ngân hàng Trung ương. Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như: Lập hồ sơ cho vay, có phương án sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả, có tải sản thế chấp hợp pháp… kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong và sau khi vay. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ tương đồng lẫn nhau. *Nhóm chỉ tiêu định lượng Chất lượng tính dụng thể hiện ở chỉ tiêu tổng mức đầu tư cho nền kinh tế ngày càng phát triển, tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng giảm, cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn hợp lý phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhưng các chỉ tiêu này phải phản ánh trung thực chất lượng hoạt động tín dụng, có nghĩa là khong cho vay đảo nợ, không gia hạn nợ khi không có vật tư, hàng hoá đảm bảo nợ vay, gia hạn nợ không đúng chế độ. Phải thường xuyên đánh giá tình hình tài chính của khách hàng để từ đó theo dõi hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả vốn vay của doanh nghiệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0958.doc
Tài liệu liên quan