Một số vấn đề về công tác thu bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Gia Lộc

Mở đầu Từ hàng chục năm nay, chính sách BHXH đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng BHXH, và gia đình họ khi gặp rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Với bản chất nhân văn, nhân đạo sâu sắc, chăm lo nâng đỡ, bảo vệ cả vòng quay khép kín của cả một đời người, BHXH chính là xương sống của hệ thống an sinh xã hội, thể hiện trình độ văn minh củ

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về công tác thu bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Gia Lộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a mỗi quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế kinh tế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết. Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời vừa là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện là cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Công tác thu BHXH đóng vai trò rất quan trọng với tất cả hệ thống BHXH vì thu BHXH là cơ sở tạo nên nguồn quỹ BHXH, nhằm thực hiện các mục đích chi trả các chế độ cho người lao động, chi sự nghiệp quản lý BHXH. Trong quá trình thực tập tại cơ quan BHXH huyện Gia Lộc, được tìm hiểu về công tác thu BHXH kết hợp với lý thuyết đã được học ở trường em mong muốn được tìm hiểu và nghiên cứu quá trình thực hiện thu BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc, vì thông qua đó em có thể thấy được quy trình thu BHXH, những ưu điểm và những mặt còn tồn tại trong công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những nhược điểm và phát huy những ưu điểm để hoàn thiện công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc. Chính vì vậy, em chọn đề tài: “Một số vấn đề về công tác thu bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Gia Lộc” để nghiên cứu. Kết cấu đề tài gồm những nội dung sau: Chương I: Khái quát chung về BHXH và công tác thu BHXH Chương II: Công tác thu quỹ BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc Chương III: Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc Cuối cùng em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Th.s Nguyễn Thị Lệ Huyền cùng lãnh đạo và cán bộ trong cơ quan BHXH huyện Gia Lộc đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài của mình. Do thời gian có hạn, kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên không tránh khỏi những khiếm khuyết kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, lãnh đạo và cán bộ trong cơ quan BHXH huyện Gia Lộc. Chương I Khái quát chung về BHXH và công tác thu BHXH I. Khái quát chung về BHXH. 1. Sự cần thiết, đối tượng, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH 1.1 Sự cần thiết khách quan của BHXH. Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Muốn thoả mãn những yêu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết, lao động giúp con người tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình lao động dù rất chú ý đề phòng thì con người vẫn có lúc gặp những rủi ro bất ngờ xảy ra như tai nạn lao động. Còn những biến cố khác gặp trong cuộc sống của con người như ốm đau, bệnh tật, thai sản, già yếu hầu như là không thể tránh khỏi, đó là tác động của quy luật tự nhiên. Như vậy, thực tế trong quá trình lao động không phải con người chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và có cuộc sống bình thường. Khi các biến cố xảy ra ít nhiều làm mất khả năng lao động, thu nhập vì thế cũng giảm hoặc mất theo. Nhưng những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mất đi, trái lại có cái còn tăng thêm, thậm trí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, thai sản, tai nạn, thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng, già yếu gánh nặng gia đình được đảm bảo khi không may lao động chính qua đời…Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người đã tìm cách giải quyết khó khăn khi rủi ro xảy ra như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc sự cứu trợ của Nhà nước… Nói chung sự hỗ trợ lẫn nhau mang tính chất tự phát và thực hiện trong phạm vi cộng đồng nhỏ, thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ biến. Trong khi giới chủ thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ, thì người lao động chỉ được trả công lao động, nếu họ nghỉ làm vì bất cứ lý do gì như ốm đau, tai nạn, thai sản, già yếu thì họ sẽ không được nhận bất cứ một khoản thu nhập nào. Giới chủ không chịu trách nhiệm gì về những biến cố xảy ra với người lao động, ý thức được những bất lợi có thể xảy ra đe doạ cuộc sống, người lao động liên kết đấu tranh đòi giới chủ phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ khi họ không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản…Cuối cùng, giới chủ cũng phải cam kết đảm bảo cho người lao động có thu nhập nhất định để trang trải những thiết yếu khi không may họ gặp rủi ro làm suy giảm hoặc mất khả năng lao động. Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải chi ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh đòi giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền này hình thành quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia và được bổ sung từ NSNN khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Như vậy, giới chủ không phải trả một khoản tiền quá lớn, và việc kinh doanh của họ không bị đảo lộn vì những cuộc đấu tranh của người lao động. Người lao động cũng chắc chắn có một khoản thu nhập khi không may suy giảm hoặc mất khả năng lao động, Nhà nước được ổn định về kinh tế- chính trị- xã hội. Nhà nước ngoài là bên thứ ba tham gia đóng góp vào nguồn quỹ thì còn là chủ thể quản lý, định hướng phát triển cho chính sách trên. Tất cả những vấn đề nói trên được thế giới quan niệm là BHXH cho người lao động. Như vậy, BHXH ra đời vì lợi ích của tất cả mọi người lao động, sử dụng lao động và Nhà nước. Nó ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tế và ngày càng phát triển của nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. BHXH là một chính sách mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, sự tồn tại rộng rãi và lâu dài đã minh chứng đây là một chính sách cần thiết cho mọi xã hội. 1.2 Bản chất của BHXH. Nói tới BHXH, có nhiều khái niệm khác nhau. Nhưng có một khái niệm chung nhất về BHXH như sau: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung sau đây: Thứ nhất, BHXH là nhu cầu khách quan đa dạng và phức tạp của xã hội nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thêu mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. BHXH nhằm đảm bảo an toàn về kinh tế, giữ cho cuộc sống ổn định, an toàn, tránh được đói nghèo sa sút khi bị mất nguồn thu nhập trong cuộc sống. Theo tổ chức lao động thì BHXH đảm bảo đảm trợ cấp cho 9 chế độ được nêu trong công ước 102 (6/1952) chế độ này hình thành hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế-xã hội mà mỗi nước tham gia công ước thực hiện khuyến nghị đó ở mỗi mức độ khác nhau. Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa trên cơ sở kinh tế – xã hội, tài chính, thu nhập, tiền lương, tuổi thọ bình quân, xác suất rủi ro. Vậy có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH. Thứ hai, BHXH là mối quan hệ giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên được BHXH và bên BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đầy đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó, bảo vệ và phát triển nguồn lao động xã hội, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì lợi ích con người trong hoàn cảnh khó khăn, vì an toàn xã hội và có ý nghĩa xã hội lâu dài. Thứ ba, những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… hoặc có những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản…Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Quỹ BHXH sẽ trợ cấp cho những gặp biến cố đó. BHXH cũng có thể coi là sự san sẻ rủi ro, sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi người lao động. Thứ tư, về mặt kinh tế phần thu nhập của người lao động giảm hoặc mất khi gặp phải những biến cố, rủi ro thì họ sẽ bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu ngoài ra còn có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Như vậy BHXH là sự đảm bảo kinh tế cho người lao động. Thứ năm, mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được tổ chức ILO cụ thể hoá như sau: - Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. - Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật. - Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Như vậy, BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị nhất định và phải dựa trên nền tảng cụ thể. BHXH không phải là một loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà nó là sự bảo hiểm đặt trong mối quan hệ nhất định trong cộng đồng mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là nhu cầu của mỗi con người. Về mặt lợi ích xã hội thì BHXH góp phần đảm bảo ổn định tình hình chính trị trật tự an toàn xã hội, giáo dục cho họ ý thức tiết kiệm và lợi ích. Đó là những lợi ích lâu dài của xã hội. 1.3 Đối tượng của BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH. Cần phân biệt đối tượng này với đối tượng tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện chính sách BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công ăn lương. ở Việt Nam BHXH là chính sách của Đảng, Nhà nước do đó đối tượng tham gia của BHXH là những đối tượng được điều chỉnh theo Luật Lao động và Điều lệ BHXH của Chính phủ. Đó là các đối tượng làm công ăn lương trong các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình, họ đóng BHXH với tỷ lệ phần trăm nhất định theo lương của từng người cộng thêm với sự tham gia của người chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài các đối tượng đó thì đối tượng thuộc diện ưu đãi xã hội, đối tượng có công với tổ quốc cũng là đối tượng tham gia BHXH. Đối tượng được hưởng BHXH rất đa dạng đó có thể là bản thân người tham gia trong trường hợp ốm đau hay không may gặp rủi ro trong quá trình lao động, lao động nữ sinh đẻ, lao động hết tuổi lao động hoặc có thể là những người thân trong gia đình của người tham gia nếu người tham gia không may bị chết. 1.4 Chức năng của BHXH. Thứ nhất, đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế, bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo điều kiện của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng theo quy định. Khi người lao động đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ (đóng BHXH theo luật định) thì họ có quyền nhận trợ cấp BHXH khi phát sinh những rủi ro ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tuổi già hoặc chết… đã làm thu nhập của họ giảm hoặc mất hẳn. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. Thứ hai, tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH bao gồm những người lao động và người sử dụng lao động, họ thuộc tất cả những ngành nghề lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH, quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số người tham gia BHXH. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thứ ba, góp phần tạo ra tinh thần san sẻ, tương trợ nhóm người lao động. Người lao động hàng tháng chỉ phải trích một tỷ lệ nhỏ từ thu nhập đóng cho quỹ BHXH, nhưng với số đông người tham gia sẽ có một nguồn tiền đủ lớn để trang trải cho những người không may gặp rủi ro. Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả tiền lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế, cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. Thứ tư, BHXH gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nhất định về tiền lương, tiền công, thời gian lao động… Thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai đều nhờ có BHXH mà có lợi và được bảo vệ. Bởi vì thông qua quỹ tiền tệ tập trung mà người lao động và chủ sử dụng lao động đóng góp thì rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải đảm bảo cuộc sống ổn định và giới chủ cũng thấy mình có lợi, tránh được những xáo trộn ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh vì phải chi ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn do rủi ro xảy ra đối với người lao động. Từ đó giúp họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, nguồn quỹ BHXH nhàn rỗi được đem đi đầu tư sinh lợi vừa góp phần tăng sự tích luỹ cho nguồn quỹ vừa là nguồn đầu tư cho nền kinh tế đang lớn mạnh rất cần nguồn vốn. BHXH chính là góp phần ổn định, tạo sự phát triển bền vững cho từng doanh nghiệp, góp phần xoá đói giảm nghèo, và là nền tảng vững chắc cho sự ổn định chính trị xã hội, phát triển kinh tế. 1.5 Tính chất của BHXH. BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy có một số tính chất cơ bản sau đây: Thứ nhất, đó là tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp những biến cố rủi ro, khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế… Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở lên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ-thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính chất khách quan trong đời sống kinh tế – xã hội của mỗi nước. Thứ hai, BHXH có tính chất ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội mà mỗi nước triển khai BHXH vào mỗi thời điểm nhất định, những nước có nền kinh tế phát triển sản xuất hàng hoá ra đời sớm thì BHXH cũng ra đời sớm hơn. Mặt khác, mỗi quốc gia thực hiện BHXH khác nhau về số lượng các chế độ cũng như quy định cụ thể trong từng chế độ. Việc trợ cấp BHXH cho các chế độ có lúc nhiều, lúc ít, có lúc dồn dập và có lúc lại không có. Thứ ba, BHXH vừa mang tính kinh tế, tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ. Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất rủi ro phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất phần đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho người lao động bị mất, giảm khả năng lao động. Với Nhà nước BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quôc dân. BHXH là bộ phận của hệ thống an sinh xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người trong xã hội có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm BHXH cho mọi người lao động và gia đình họ. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá của nó ngày càng cao. II. Những quan điểm cơ bản về BHXH và sơ lược lịch sử phát triển của BHXH 1. Quan điểm cơ bản về BHXH. Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế xã hội của nước mình. Đồng thời, phải nhận thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây: a. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng của chính sách xã hội. Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. ở nước ta BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội… Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là một động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. b. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp và quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng pháp luật quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn đinh và phát triển kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Chủ sử dụng ngoài việc trả lương theo thoả thuận cho người lao động còn phải có trách nhiệm BHXH cho họ để đảm bảo cuộc sống ổn định cho người lao động. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. c. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và lịch sử mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông. d. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố. - Tình trạng mất khả năng lao động. - Tiền lương lúc đang đi làm. - Tuổi thọ bình quân của người lao động. - Điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho người lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện những công việc hoặc định mức công việc nào đó. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương mà lao động trước đó tạo ra được. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại sẽ lợi dụng BHXH để được nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Và như vậy thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro, qua rủi ro của mình dàn trải hết cho người khác. Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích bản chất và phương thức BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức tối thiểu. e. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH. BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Nếu không có sự can thiệp và quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ. Đặc biệt, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo trợ cấp đến việc xét trợ cấp… Vì vậy Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới hạn mức độ và phạm vi. Có thể khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách. Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô hình về đảm bảo vật chất cho BHXH do NSNN cung cấp thì vai trò quản lý Nhà nước là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử lao động, người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia quản lý. Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ xã hội trực tiếp điều hành. 2. Sơ lược lịch sử phát triển của BHXH. 2.1 Trên thế giới BHXH ra đời vào những năm của thế kỷ XIV, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Sự hình thành BHXH gắn với quá trình phát triển của của cách mạng Công nghiệp, khi mà người nông dân thoát khỏi Nông nghiệp và các hình thức sản xuất tự cung tự cấp để trở thành người làm công ăn lương và lấy tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Vì vậy, khi mà họ nghỉ việc do ốm đau, thai sản, tuổi già… thì cuộc sống lập tức bị đe doạ và vấn đề này trở thành một yêu cầu, đòi hỏi Chính phủ các nước giải quyết. Năm 1850 ở các bang Đức đã hình thành quỹ bảo hiểm ốm đau do công nhân tự nguyện đóng tiền để được bảo hiểm. Từ năm 1883, ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành Luật BHYT. Năm 1884, các hiệp hội giới chủ thiết lập và quản lý quỹ rủi ro nghề nghiệp. Năm 1889, mở sang hình thức bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm bệnh tật đồng thời có sự quản lý và tài trợ của chính quyền đặc biệt có sự đóng góp của giới chủ. Lúc này BHXH có một đặc điểm mới: Việc đóng góp phí là do ba bên và yêu cầu tham gia bắt buộc đối với người lao động trong doanh nghiệp. Đến đây BHXH đã thực sự hình thành và gần hoàn thiện như ngày nay. ở Đức BHXH đã thể hiện được tính ưu việt và tác dụng to lớn của mình, chính vì vậy nó nhanh chóng hình thành và phát triển rộng rãi ở các nước Châu Âu. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nhiều nước ở Châu Phi, Châu á và vùng Caribe sau khi dành được độc lập cũng xây dựng một hệ thống BHXH. BHXH là một trong những loại hình BHXH ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình BHXH khác, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối. Hiện nay, BHXH được áp dụng trên 100 nước. Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10/12/1948 có ghi “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 4/6/1952 tổ chức Lao động Quốc tế ILO đã ký công ước Giơnevơ (Công ước số 102 về BHXH cho người lao động) đã khẳng định tính tất yếu phải tiến hành BHXH cho người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên, các nước chỉ tiến hành BHXH cho những người được bảo hiểm còn về mức thu và trợ cấp cụ thể tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội, truyền thống sử dụng lao động, tuổi lao động, tuổi nghỉ hưu, chế độ thếu khoá và nhiều yếu tố khác quyết định. Ví dụ:Tình hình thực hiện BHXH ở một số nước như sau: a. ở nước Pháp - Đối tượng tham gia: BHXH ở Pháp có mầm mống từ thế kỷ 19 cùng với sự cứu trợ cộng đồng tương hỗ. Hiện nay đối tượng tham gia là những người lao động có thu nhập trong tất cả các thành phần kinh tế. - Quỹ BHXH: Nguồn quỹ BHXH được xác định theo một cơ chế hết sức phức tạp. Cụ thể như sau: + Quỹ trợ cấp hưu trí, goá bụa, trợ cấp gia đình: Nguồn tài trợ này cũng chủ yếu là từ các khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Đối với trợ cấp hưu trí người sử dụng lao động đóng bằng 9,8%, người lao động đóng 6,55% tiền lương tổng cộng là 16,35%. Đối với trợ cấp gia đình người lao động, người sử dụng lao động phải đóng góp toàn bộ với tỷ lệ 5,4% lương của người lao động. b. ở một số nước Đông á - ở Thái lan, trợ cấp BHXH bao gồm: Thương tật, ốm đau, thai sản, mất khẳ năng lao động, tử tuất, tuổi già và thất nghiệp. Việc đóng BHXH theo cơ chế người lao động nộp 1/3 trên thu nhập, giới chủ nộp 1/3 và Nhà nước 1/3. - ở Nhật Bản: Sự đóng góp vào quỹ BHXH cũng tương đối cao. Người lao động phải đóng từ 3,5% đến 4,6% thu nhập hàng tháng, giới chủ đóng 25,5% đến 30,5% còn Nhà nước trợ cấp theo nhu cầu thiều hụt. - ở Hàn quốc: Đối tượng tham gia là những người lao động thường xuyên ký hợp đông với các doanh nghiệp, các viên chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, văn hoá giáo dục. Tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động tương tự như ở Nhật Bản, phần tài trợ của Nhà nước là đáp ứng chi phí quản lý hành chính và chi phí dài hạn cho 1/3 số người dân (có thu nhập thấp). 2.2 ở Việt Nam ở Việt Nam, sau cách mạng Tháng tám thành công, trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước như: - Sắc lệnh 105/SL ngày 14/03/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa nhất định về BHXH ở nước ta sau ngày độc lập và là cơ sở để ban hành Điều lệ BHXH sau này. Mặc dù trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, hàng loạt các sắc lệnh về BHXH ra đời đã phần nào thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Bác Hồ đối với người lao động. Qua đó khẳng định thêm phần quan trọng của BHXH trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Cơ sở pháp lý tiếp theo đó là Hiến pháp năm 1959 của nước t._.a đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 tiếp sau đó là Điều lệ Đãi ngộ quân nhân (ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964). Có thể nói đây là các văn bản pháp luật đầy đủ và toàn diện nhất về BHXH ở nước ta cho đến thời kỳ này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Bác Hồ đối với người lao động. Việc chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra bước ngoặt lớn với ngành Lao động – Thương binh và xã hội nói chung và lĩnh vực BHXH nói riêng. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 dưới sự lãnh đạo và sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ lao động thương binh và xã hội đã cho triển khai cải cách hệ thống BHXH. Dấu ấn quan trọng của giai đoạn này là sự ra đời Nghị định 43/CP của Chính phủ (ngày 22/6/1993) về chế độ BHXH đối với người lao động trong thành phần kinh tế. Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP (ngày 26/1/1995) về Điều lệ BHXH với người lao động trong các thành phần kinh tế, Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân và Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH. BHXH Việt nam được thành lập theo Nghị định 19/CP là cơ quan có tư cách pháp nhân trực thuộc Chính phủ, được tổ chức theo ngành dọc từ TW đến địa phương để thực hiện các nghiệp vụ về BHXH. Các hoạt động nghiệp vụ này đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Hội đồng quản lý và của Tổng giám đốc. Tuy vậy, từ trước tới nay tất cả những quy định về BHXH mới chỉ dừng lại ở mức độ Nghị định mà chưa có Luật về BHXH. Nhưng chính sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức người, sức của cho thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước và xây dựng tổ quốc giàu đẹp như ngày nay. III. Công tác thu BHXH. 1. Quỹ BHXH. 1.1 Nguồn hình thành quỹ BHXH. Quỹ BHXH là tập hợp những khoản đóng góp bằng tiền của người tham gia BHXH, quỹ được hình thành một cách tập trung dùng để chi trả cho người được tham gia bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ngoài chi trả trợ cấp quỹ BHXH còn chi cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp. Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với sự nghiệp BHXH. Do đó, nguồn hình thành quỹ bao giờ cũng được quan tâm đúng mức nhằm đảm bảo chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH và đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả. Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau: a. Sự đóng góp của người lao động. Đây là một khoản thu chủ yếu cho quỹ BHXH. Người tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ mới được hưởng BHXH. Người lao động tham gia đóng góp cho quỹ là để bảo hiểm cho mình, vừa thực hiện nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất người lao động đã dàn trải rủi ro theo thời gian. Khoản tiền này đóng góp sẽ tồn tích lại để người lao động hưởng trợ cấp nếu biến cố xảy ra làm giảm hoặc mất khả năng lao động. Sự đóng góp này thông thường dựa vào tiền lương nhận được của người lao động. b. Sự đóng góp của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động, đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của người sử dụng lao động. ở đây người sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xảy ra rủi ro đối với người lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thường. Phần đóng góp này thông thường dựa trên quỹ lương đơn vị. d. Khoản hỗ trợ thêm của Nhà nước. Việc hỗ trợ của Nhà nước chủ yếu là để đảm bảo cho các hoạt động BHXH diễn ra đều đặn, tránh sự xáo trộn lớn. Bảng 1 Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới Đơn vị: % Nước Người SDLĐ Người lao động Nhà nước Đức 16,3 - 22,6 14,8 – 18,8 Bù thiếu Malaixia 12,75 9,5 ốm đau, thai sản Pháp 19,68 11,82 Bù thiếu Philipin 6,85- 8,05 2,85 – 9,25 Bù thiếu (Nguồn: Trung tâm nghiên cứu BHXH Việt Nam) e. Các nguồn thu khác Lợi nhuận do hoạt động đầu tư của quỹ BHXH, lợi nhuận do các tổ chức nộp phạt và các khoản thu khác của quỹ BHXH… * ở nước ta, từ năm 1962 đến năm 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp phần còn lại do NSNN tài trợ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường chính phủ ban hành Nghị định 43/CP và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng góp 15% so với tổng quỹ lương mà người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó có 10% chi trả cho chế độ tử tuất, hưu trí và 5% chi trả cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi cho chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. - Nhà nước hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động - Các nguồn khác. 1.2 Mục đích sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH sử dụng chủ yếu 2 mục đích sau: - Dùng chi trả và trợ cấp chế độ BHXH. - Chi phí sự nghiệp quản lý BHXH Việc phân chia sử dụng quỹ cho hai nội dung trên tuỳ thuộc vào mỗi nước sao cho quỹ được sử dụng có hiệu quả nhất và đem lại càng nhiều lợi ích cho người lao động càng tốt. Nội dung quan trọng nhất của việc sử dụng quỹ là chi trả các chế độ BHXH. Nguồn quỹ phải được đảm bảo vững chắc và đều đặn, phải luôn có lượng dự trữ để có thể ứng phó với những tình huống đột xuất có thể xảy ra như dịch bệnh, số người thôi việc, về hưu lớn trong năm có nhu cầu lĩnh trợ cấp một lần… Trong trường hợp lạm phát nguồn thu phải được điều chỉnh thích hợp, vì thế nguồn thu của BHXH được tính theo tỷ lệ so với tiền lương là hết sức hợp lý và tiện lợi, đảm bảo ổn định về nguồn quỹ của BHXH. 1.3 Hệ thống các chế độ BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng BHXH cho từng trường hợp cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới các dạng văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư điều lệ… Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6/1952 tại Giơnevơ: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp tàn phế Trợ cấp cho người còn sống 9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ 3, 4, 5, 8, 9. Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây: - Các chế độ được xây dựng theo pháp luật của mỗi nước - Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính - Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH - Mức chi trả BHXH còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định. - Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội. Hệ thống các chế độ BHXH ở Việt Nam: Theo Nghị định 218/CP ra đời 1961 hệ thống các chế độ BHXH ở Việt Nam bao gồm 6 chế độ sau đây: Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thai sản Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp hưu trí Trợ cấp mất sức lao động Trợ cấp tử tuất 6 chế độ này được thực hiện từ năm 1961 đến năm 1993. Từ năm 1993 trở lại đây theo tinh thần Nghị định 43/CP ra đời 1993 Nghị định 12/CP ra đời 1995 hệ thống các chế độ BHXH ở Việt Nam bao gồm 5 chế độ ở trên trừ chế độ mất sức lao động. Tuy nhiên theo Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam cho nên tạm thời lúc này là thêm chế độ BHYT. Ngoài ra, BHXH Việt Nam còn thực hiện thêm chế độ dưỡng sức (điều sức) 2. Vai trò của công tác thu BHXH. Tham gia BHXH là một nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động nhằm thực hiện quyền lợi của người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động. Chính sách BHXH hiện nay đang thực hiện nhằm đạt tới mục tiêu là tạo nên một quỹ BHXH độc lập với NSNN, thực hiện đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ cho người lao động. Để có thể hoàn thành được nhiệm vụ này thì công tác thu phải làm tốt bởi có thu thì mới có chi. Vậy, công tác thu BHXH đóng vai trò rất quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển nguồn quỹ cụ thể là: - Số lượng đối tượng thu là rất lớn, vì BHXH thực hiện dưới hình thức bắt buộc là chủ yếu, ngoài ra đối tượng lại gia tăng không ngừng theo thời gian do đó công tác quản lý là rất phức tạp. - Khối lượng công việc rất lớn và gia tăng theo thời gian, do khối lượng công việc lớn và việc thu phí theo tính chất định kỳ lặp đi lặp lại. Phải theo dõi kết quả đóng BHXH từng cơ quan, đơn vị theo từng tháng, từng thời kỳ để từ đó ghi nhận kết quả đóng BHXH từng cá nhân, kiểm tra mức lương làm cắn cứ đóng BHXH. - Phần lớn đối tượng tác nghiệp thường là tiền mặt và dễ dẫn đến sai phạm đạo đức nghề nghiệp của cán bộ BHXH. Do vậy, đòi hỏi phải thiết kế quy trình quản lý công tác thu phí và chuyển tiền mặt thật chặt chẽ và không được để xảy ra sai sót. - Chính khối lượng công việc lớn, đối tượng lớn nên chi phí cho công tác thu cũng rất lớn do việc chuẩn bị về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Vậy việc thu BHXH là một nhiệm vụ quan trọng, là nguồn thu chủ yếu cho quỹ BHXH ở tất cả các quốc gia. Nhưng đây cũng là một nhiệm vụ đầy khó khăn. Vấn đề đặt ra là phải thiết kế được quy trình thu BHXH thật khoa học, chặt chẽ để có thể thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và hạn chế gian lận. 3. Đối tượng thu BHXH. ở Việt Nam, những quy định về đối tượng thu BHXH thể hiện ở trong các văn bản như: Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ BHXH và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/1/2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP. a. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc Theo quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 177/BHXH ngày 30/12/1996 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam ) đối tượng thu BHXH là người sử dụng lao động và người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, điều dưỡng, công tác trong ngoài nước vẫn thuộc danh sách trả lương hoặc tiền công của các cơ quan đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau đây: - Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn bao gồm cả người lao động làm việc theo hợp đồng dưới ba tháng nhưng sau đó được tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng mới, những người được cử đi học, thực tập, điều dưỡng công tác trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công trong các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức sau: + Doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp Nhà nước bao gồm: doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích, doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang. + Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. + Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo Luật doanh nghiệp bao gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. + Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. + Hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác. + Các cơ quan hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội khác, lực lượng vũ trang, kể cả các đơn vị, tổ chức được phép hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp Đảng, đoàn thể, các hội quần chúng tự trang trải về tài chính. + Cơ sở bán công, dân lập tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác. + Trạm y tế xã, phường, thị trấn + Cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác + Các tổ chức khác có sử dụng lao động là những tổ chức chưa có quy định như trên - Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quy định trên làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn ba tháng, khi hết hạn hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới với doanh nghiệp tổ chức cá nhân đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc. - Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo luật hợp tác xã. - Cán bộ, công chức, viên chức theo pháp lệnh công chức. - Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng lương và hưởng sinh hoạt phí theo Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân kèm theo Nghị định 45/CP của Chính phủ ngày 15/7/1995. - Cán bộ xã phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí được quy định tại điều 3 Nghị định 09/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/1/1998, điều 7 Nghị định số 40/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/6/1999 và điều 1 Nghị định 46/1999/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ. - Người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài quy định tại Nghị định 152/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/9/1999. - Đối tượng tự đóng BHXH theo quy định tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP của Chính phủ và đối tượng quy định tại khoản b điểm 9 mục II Thông tư số 07/2003/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. b. Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc - Người lao động Việt Nam làm việc trong danh sách lao động thường xuyên, lao động từ đủ hợp đồng ba tháng trở lên làm việc trong: + Các doanh nghiệp nhà nước kể các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang + Các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị – xã hội + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp trung tâm bao gồm: Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có vốn 100% đầu tư nước ngoài, các cơ quan tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết tham gia có quy định khác + Các tổ chức đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên - Cán bộ công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm trong các cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, cán bộ xã, phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí hàng tháng theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP, người làm việc trong các cơ quan dân cử từ TW đến cấp xã phường. - Đại biểu hội đồng nhân dân đương nhiệm các cấp không thuộc biên chế nhà nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hàng tháng Các đối tượng quy định nêu trên trong thời gian đi học ngắn hạn hoặc dài hạn trong nước vẫn thuộc đối tượng tham gia BHYT bắt buộc - Người có công với cách mạng theo Nghị định số 28/CP năm 1995 của Chính phủ - Thân nhân sĩ quan tại ngũ theo quy định tại Nghị định số 63/2002/NĐ-CP - Lưu học sinh nước ngoài học tại Việt Nam quy định tại thông tư liên bộ số 68LB/TC-KH năm 1996 của Bộ Tài chính – Kế hoạch và đầu tư - Các đối tượng bảo trợ xã hội được nhà nước cấp kinh phí thông qua BHXH - Người nghèo được khám chữa bệnh theo quy định tại Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ - Người đang hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng 4. Căn cứ xác định mức đóng BHXH. Tiền lương là cấp, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp (phụ cấp chức vụ, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho ngừơi lao động nhưng mức đóng của cho từng người không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Đối với lao động đi làm việc có thời gian ở nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 05/LB-TBXH ngày 16/1/1996 của Liên bộ tài chính- Lao động Thương binh xã hội kể từ tháng 1/1996 tổ chức hợp tác đưa người đi làm việc ở nước ngoài hàng tháng phải đóng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu do Chính phủ Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Cách xác định tổng quỹ tiền lương. Cộng tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của từng người lại sẽ được tổng quỹ tiền lương của đơn vị làm căn cứ đóng BHXH. Như vậy, muốn biết tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của cả đơn vị, nhất thiết phải lập danh sách người lao động thuộc diện đóng BHXH gồm các tiêu thức sau: - Số thứ tự. - Họ và tên, năm sinh. - Nghề nghiệp, cấp bậc, chức vụ. - Hệ số bậc lương. - Mức lương. - Các khoản phụ cấp. - Tiền lương làm căn cứ đóng. Cách xác định mức đóng BHXH của từng người và của cả đơn vị khi đã có danh sách lao động và tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, ta chỉ việc lấy tiền lương làm căn cứ đóng của từng người nhân với 20% sẽ được mức đóng của mỗi người. Mức đóng của cả đơn vị sẽ bằng tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH nhân với 20% hoặc bằng số tiền đóng BHXH của từng người cộng lại. 5. Phương thức thu BHXH. Thu phí BHXH thông qua người sử dụng lao động - Theo phương thức này người sử dụng lao động đóng vai trò trung gian hay cầu nối giữa cơ quan BHXH và người lao động thực hiện việc chuyển phí BHXH của người lao động trong cơ quan BHXH. Phương thức này áp dụng rất rộng rãi trong nhiều hệ thống BHXH trên thế giới. - Phương thức này có hạn chế: + Hiệu quả thu phí phụ thuộc phần lớn vào ý thức chấp hành pháp luật của người sử dụng lao động + Trong công tác thu hay xảy ra tình trạng sai phạm từ phía đơn vị sử dụng lao động hay phí BHXH phải nộp bị chiếm dụng sử dụng sai mục đích + Trong trường hợp có sai phạm của đơn vị sử dụng lao động thì quyền lợi của người lao động không được đảm bảo Vì vậy, khi áp dụng phương pháp này cần thiết kế quy trình thu để đảm bảo được trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động trong việc thu phí 6. Phân cấp quản lý thu BHXH Sơ đồ 1: Ban quản lý thu BHXH Việt Nam Phòng quản lý thu BHXH tỉnh thành phố Bộ phận quản lý thu BHXH quận huyện Bộ máy quản lý thu - Cấp TW: Có nhiệm vụ quản lý chung công tác thu trong toàn hệ thống gọi là ban quản lý thu BHXH Việt Nam. - Cấp khu vực: Phòng quản lý thu BHXH của khu vực (tỉnh, thành phố) có trách nhiệm thu BHXH của những đơn vị sau: + Các tổ chức, các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của khu vực + Các đơn vị TW đóng trên địa bàn của khu vực + Các đơn vị, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc công ty liên doanh + Các đơn vị có đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài + Các đơn vị có số lượng lao động lớn - Cấp địa phương: Bộ phận quản lý thu của BHXH quận, huyện có trách nhiệm thu BHXH của các đơn vị sau: + Các đơn vị, các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của huyện + Các đơn vị có số lượng lao động không lớn + Thu BHXH của cán bộ xã phường, thị trấn + Những đơn vị thuộc quyền quản lý thu của BHXH tỉnh nhưng uỷ quyền cho BHXH huyện 7. Quy trình thu BHXH. Quy trình thu BHXH được thể hiện ở các bước sau: Bước 1: Lập và giao kế hoạch thu Kế hoạch thu là cơ sở để tổ chức thực hiện và quản lý công tác thu BHXH ở từng đơn vị BHXH nói riêng và trên toàn hệ thống BHXH Việt Nam nói nói chung. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để chúng ta tổ chức thực hiện và quản lý các mặt công tác khác của BHXH như hoạch định phương hướng phát triển lâu dài, hoàn chỉnh hệ thống chế độ chính sách, quản lý bảo tồn và phát triển quỹ BHXH… Kế hoạch lập ra càng rà sát, càng phù hợp với thực tiễn bao nhiêu thì trong công tác tổ chức thực hiện và điều hành quản lý công tác thu BHXH càng chủ động và hoàn thiện bấy nhiêu. Vì vậy, bước này rất quan trọng và thực hiện thường xuyên hàng năm ở tất cả các đơn vị BHXH từ TW đến địa phương. - BHXH huyện căn cứ vào danh sách lao động, quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị và đối tượng tham gia BHXH, BHYT do BHXH huyện quản lý, thực hiện kiểm tra, đối chiếu, tổng hợp và lập 02 bản kế hoạch thu BHXH, BHYT năm sau (theo mẫu số 4-KHT) 01 bản lưu tại BHXH huyện, 01 bản gửi BHXH tỉnh trước ngày 20/10. - BHXH tỉnh căn cứ danh sách lao động, quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị do BHXH tỉnh trực tiếp thu, thực hiện kiểm tra, đối chiếu, lập kế hoạch thu BHXH, BHYT năm sau (theo mẫu số 4-KHT). Đồng thời tổng hợp kế hoạch thu BHXH, BHYT của BHXH các huyện lập 02 bản (theo mẫu số 5-KHT), 01 bản lưu lại tỉnh, 01 bản gửi BHXH Việt Nam. - BHXH Việt Nam căn cứ vào tình hình thực hiện kế hoạch năm của BHXH các địa phương và tình hình phát triển kinh tế xã hội, căn cứ vào kế hoạch thu BHXH, BHYT do BHXH các tỉnh lập, giao số kiểm tra về thu BHXH, BHYT cho BHXH các tỉnh trước ngày 15/11 hàng năm. - Căn cứ số kiểm tra của BHXH Việt Nam giao, BHXH tỉnh đối chiếu với tình hình thực tế trên địa bàn nếu chưa phù hợp thì phản ảnh với BHXH Việt Nam để được xem xét điều chỉnh. - BHXH Việt Nam tổng hợp số thu BHXH, BHYT trên toàn quốc trình Hội đồng Quản lý BHXH Việt Nam phê duyệt để giao dự toán thu BHXH, BHYT cho BHXH tỉnh trong tháng 1 năm sau. - BHXH tỉnh, căn cứ dự toán thu BHXH, BHYT của BHXH Việt Nam giao, tiến hành phân bổ dự toán thu BHXH, BHYT cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước ngày 15/01 của năm kế hoạch. Bước 2: Xác định đối tượng tham gia BHXH và xác định mức thu BHXH. Việc xác định đối tượng tham gia BHXH có tầm quan trọng đặt biệt vì mỗi đối tượng lại có quy định mức đóng khác nhau. Việc xác định mức thu được gắn kết đồng thời với việc xác định đối tượng bởi vì khi xác định đối tượng thì có thể đưa ra được mức thu tương ứng với đối tượng đó. Bước 3: Tổ chức thu và đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH Đây là bước quan trọng nhất của nghiệp vụ BHXH vì có thu nhập được tiền BHXH vào khoản thu BHXH của BHXH Việt Nam thì quỹ BHXH mới hình thành và tồn tại, việc thu và ghi sổ BHXH cho người lao động được tiến hành ở tất cả các tỉnh, huyện một cách thường xuyên theo trình tự sau: - Hàng tháng, căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH do các đơn vị sử dụng lao động và danh sách lao động điều chỉnh tăng, giảm nộp BHXH lập hàng quý, BHXH tỉnh huyện đôn đốc và tổ chức thu BHXH theo quy định, chậm nhất vào kỳ lương cuối trong tháng. - Chậm nhất vào ngày 10 tháng đầu quý sau, BHXH tỉnh, huyện cùng các đơn vị sử dụng lao động kiểm tra lập bảng đối chiếu nộp BHXH của các quý trước. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và phải nộp thì nộp tiếp vào đầu quý sau (nếu chênh lệch thiếu) hoặc coi như đã nộp trước cho tháng đầu quý sau (nếu chênh lệch thừa) - Căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH, danh sách lao động điều chỉnh tăng giảm mức nộp BHXH và số tiền BHXH các đơn vị sử dụng lao động đã góp, cơ quan BHXH tiến hành kiểm tra, đối chiếu mức nộp BHXH của từng người lao động trước khi ghi vào sổ BHXH Bước 4: Chuyển tiền về BHXH cấp trên - Thu BHXH, BHYT bằng hình thức chuyển khoản, trường hợp cá biệt phải thu bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải nộp tiền vào ngân hàng ngay trong ngày. - BHXH huyện chuyển tiền thu BHXH, BHYT về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh vào ngày 10 và ngày 25 hàng tháng. Riêng tháng cuối năm chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH, BHYT của huyện về BHXH tỉnh trước 24 giờ ngày 31/12. - Hàng tháng BHXH tỉnh chuyển tiền thu BHXH, BHYT về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam vào ngày 10, 20 và ngày cuối tháng. Nếu số dư trên tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh quá 5 tỷ đồng, thì BHXH tỉnh phải chuyển bổ sung ngay về BHXH Việt Nam. Riêng tháng cuối năm chuyển hết số tiền thu BHXH, BHYT về BHXH Việt Nam trước 24 giờ ngày 31/12. Bước 5: Thống kê số liệu và lập báo cáo gửi lên cơ quan BHXH cấp trên. Bước này được thực hiện ở tất cả các BHXH tỉnh và huyện một cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy, các số liệu thống kê về công tác thu BHXH do chúng ta cung cấp mới thực sự đảm bảo được tính chính xác và kịp thời, góp phần phục vụ cho công tác quản lý của BHXH cấp dưới được tốt. Để thực hiện được tốt đòi hỏi các cơ quan BHXH cấp dưới phải được tổ chức thu thập thông tin, tổng hợp số liệu về thu BHXH qua đó gửi báo cáo nhanh (10 ngày một lần), báo cáo hàng tháng, hàng quý cho cơ quan BHXH cấp trên. - BHXH huyện gửi báo cáo tháng trước ngày 22 hàng tháng, báo cáo quý trước ngày 15 tháng đầu quý sau; báo cáo năm ngày 20/1 năm sau cho BHXH tỉnh. - BHXH tỉnh gửi báo cáo tháng trước ngày 25 hàng tháng, báo cáo quý trước ngày 25 tháng đầu quý sau; báo cáo năm ngày 31/1 năm sau cho BHXH Việt Nam. - BHXH Việt Nam định kỳ hàng quý, năm báo cáo tình hình số liệu thu BHXH, BHYT, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, phiếu KCB với Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền. Sơ đồ 2: Sơ đồ tổng quát thu BHXH. 6 - BCT 6 - BCT 8 - BCT 5 - KHT 7 - BCT 4 - KHT Ban thu BHXH Việt Nam BHXH (6) Huyện (1) (9) (7) (2) (5) BHXH Tỉnh (9) (8) (3) (4) BHXH VN (1) (2) (3): Lập kế hoạch thu BHXH. (4) (5): Duyệt và giao kế hoạch thu. (6) (7) (8): Thực hiện kế hoạch. (9): Thông tin về tiến độ, tình hình công tác thu BHXH. Sơ đồ 3: Quy trình quản lý thu BHXH Đơn vị sử dụng lao động C46-BH S03-BH 2-TBH BHXH VN S53-BH 6-BCT Sổ theo dõi cấp sổ, Phiếu KCB 7-BCT các huyện gửi tỉnh 7-BCT 8-BCT Chứng từ nộp tiền (TK 512) C45-BH Chứng từ do BHXH lập C47-BH (1) (2) (3) (4) (5) (11) (5) (6) (7) (11) (8) (9) (10) (10) Đường đối chiếu. Đường dẫn. Giải thích sơ đồ: (1): Chứng từ đơn vị lập gửi cơ quan BHXH. (2): Cơ quan BHXH gửi trả chứng từ cho đơn vị (3): Cơ quan BHXH ghi sổ chi tiết. (4), (5): Đơn vị và cơ quan BHXH đối chiếu và xác nhận số liệu trên biên bản. (6): Tổng hợp các biên bản đã đối chiếu với đơn vị sử dụng lao động. (7): Lập báo cáo tổng hợp các đơn vị trên địa bàn. (8): Lập biên bản thẩm định. (9): Đối chiếu với sổ theo dõi S03-BH. (10): Tổng hợp thu BHXH theo mức đóng, khối các loại quản lý toàn tỉnh gửi BHXH Việt Nam. (11): Tổng hợp số liệu lập theo mẫu 6-BTC. Chương II. Công tác thu quỹ BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc I. Khái quát chung về cơ quan BHXH huyện Gia Lộc. 1. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan BHXH huyện Gia Lộc Từ ngày 01/04/1993 thực hiện theo Nghị định 42/CP của Chính phủ nhằm thống nhất sự nghiệp BHXH vào một đầu mối áp dụng cho mọi thành phần kinh tế và nhất là từ ngày 1/1/1995 BHXH thực hiện theo Luật lao động trên cơ sở Điều lệ BHXH ban hành Nghị định 12/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, BHXH Việt Nam được thành lập là lúc chuyển đổi toàn diện cả về tổ chức bộ máy quản lý đến cơ chế chính sách phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần. Cùng với sự ra đời của BHXH Việt Nam, ngày 16/2/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 12/CP và Điều lệ BHXH nhằm hướng dẫn thi hành các chính sách của BHXH được thiết lập từ TW đến các quận, huyện. Theo Quyết định số 127/QĐ-TCCB ngày 17/3/1995 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về việc thành lập BHXH huyện Gia Lộc. Từ năm 1995 đến năm 1997, BHXH huyện Gia Lộc trực thuộc BHXH tỉnh Hải Hưng và có trụ sở tại thị trấn Gia Lộc – Huyện Gia Lộc. Ngày 1/1/1997 theo Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh trong đó có tỉnh Hải Hưng tại kỳ họp lần thứ 10 Quốc hội khóa IX từ 15/10/1996 đến 12/11/1996, tỉnh Hải Hưng được tách thành tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên. Căn cứ vào: Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam; quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 của Thủ tướng chính phủ; Nghị quyết kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh; ý kiến của Thủ tướng chính phủ tại công văn số 4045/CCHC ngày 13/8/1997 của văn phòng Chính phủ về việc chia tách BHXH ở các tỉnh mới chia, ngày 19/9/1997 Tổng giám đốc BHXH ra Quyết định số 1599 BHXH/ QĐ-TCCB về việc thành lập BHXH tỉnh Hải Dương và số 1600/ QĐ- TCCB về việc thành lập BHXH tỉnh Hưng Yên. BHXH huyện Gia Lộc có tư cách pháp nhân hạch toán cấp 3, có con dấu tài khoản riêng và có trụ sở tại thị trấn Gia Lộc- huyện Gia Lộc. a. Vị trí và chức năng của BHXH huyện Gia Lộc. - BHXH huyện Gia Lộc là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh Hải Dương đặt tại huyện, nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam, có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Gia Lộc. - BHXH huyện Gia Lộc chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc BHXH tỉnh Hải Dương, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của UBND huyện Gia Lộc. - BHXH huyện Gia Lộc có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại huyện Gia Lộc, có con dấu và tài khoản riêng. b. Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH huyện Gia Lộc. - Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện. - Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH, đôn đốc theo dõi tham gia việc thu nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn huyện hoặc trực tiếp thu BHXH theo phân cấp của BHXH Việt Nam và BHXH tỉnh. - Tiếp n._. các buổi họp xã viên, các buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm học… Mặc dù, số người tham gia BHYT tự nguyện năm sau cao hơn năm trước nhưng ở huyện Gia Lộc học sinh tham gia BHYT chỉ đạt 35%, hội đoàn thể tham gia chỉ đạt 25% đây là một con số còn ít ỏi so với tiềm năng. Đặc biệt đối với khối học sinh thì số lượng học sinh tham gia bảo hiểm thân thể nhiều gấp đôi số học sinh tham gia BHYT, sở dĩ như vậy là vì: - thứ nhất, mức đóng bảo hiểm thân thể ít hơn mức đóng BHYT. - Thứ hai, nhận thức của các bậc phụ huynh về ý nghĩa của BHYT còn hạn chế, họ nghĩ đóng bảo hiểm thân thể nếu chẳng may bị tai nạn xảy ra với con mình thì sẽ nhận được một khoản bồi thường lớn hơn số tiền mà họ đóng. Còn đóng BHYT thì mỗi khi con ốm chỉ được mấy viên thuốc, mà thủ tục khám chữa bệnh lại rườm rà. - Thứ ba, mua bảo hiểm thân thể là của Bảo Việt, Bảo Việt đã có chính sách ưu đãi đối với các trường mà học sinh mua bảo hiểm thân thể đạt tỷ lệ cao như ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày khai giảng năm học mới Bảo Việt đã đến chúc mừng tặng hoa tặng quà…Chính vì vây, các giáo viên thường động viên các bậc phụ huynh nếu không có điều kiện thì ít nhất cũng nên mua bảo hiểm thân thể cho các em còn nếu có điều kiện thì nên mua cả hai loại hình bảo hiểm. Do đó, số phụ huynh chọn mua bảo hiểm thân thể cho các em lớn hơn mua BHYT. b. Kết quả thu BHYT tự nguyện theo khối Bảng 12 Kết quả thu BHYT tự nguyện theo khối tại BHXH huyện Gia Lộc (2003-2005) Khối 2003 2004 2005 Số người tham gia (Người) Số thu BHYT tự nguyện (Triệu đồng) Số người tham gia (Người) Số thu BHYT tự nguyện (Triệu đồng) Số người tham gia (Người) Số thu BHYT tự nguyện (Triệu đồng) Hộ gia đình 35 2,52 75 5,40 466 33,55 Hội đoàn thể 117 8,42 288 20,75 636 45,8 Học sinh 293 10,55 1 767 63,61 4 346 156,46 Thân nhân người lao động 0 0 0 0 17 1,22 (Nguồn: BHXH huyện Gia Lộc) Qua bảng trên ta thấy: Số người tham gia BHYT tự nguyện chủ yếu là đối tượng học sinh và số học sinh tham gia ngày càng tăng nếu như năm 2003 có 293 học sinh tham gia thì năm 2005 đã có 4 346 học sinh tham gia gấp 14,8 lần điều đó chứng tỏ nhận thức của các bậc phụ huynh ngày càng thấy được ý nghĩa của BHYT đối với con em họ. Tương tự các hộ gia đình, các hội đoàn thể số người tham gia BHYT tự nguyện cũng tăng qua ba năm. Đặc biệt đối với hộ gia đình năm 2005 số người tham gia BHYT tự nguyện tăng gấp 13,3 lần năm 2003. Đối với hội đoàn thể năm 2005 số người tham gia BHYT tự nguyện tăng gấp 5,4 lần năm 2003. Điều đó chứng tỏ nhận thức của người dân về ý nghĩa của BHYT ngày càng nâng cao và hiệu quả công tác tuyên truyền của cán bộ trong cơ quan BHXH huyện Gia Lộc. Theo Quyết định 1055/QĐ-BHXH-TN của Tổng giám đốc BHXH Việt nam về việc duyệt mức đóng BHYT tự nguyện, theo Quyết định này thì đối với hộ gia đình, hội đoàn thể ở khu vực nông thôn là 72 000 đồng/người/năm còn đối với học sinh ở khu vực nông thôn mức đóng là 36000 đồng/người/năm. Nhưng năm đến bắt đầu 1/1/2006 thực hiện Quyết định số 4405/QĐ-BHXH ngày 24/10/2005 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về việc mức đóng BHYT tự nguyện, theo Quyết định này thì đối với hộ gia đình, hội đoàn thể, thân nhân người lao động ở khu vực nông thôn là 100000 đồng/người/năm còn đối với học sinh mức đóng là 45 000 đồng/người/năm. Bắt đầu từ năm 2004 thực hiện công văn số 1246/BHXH-TN ngày 22/4/2004 về việc thực hiện BHYT tự nguyện cho thân nhân người lao động. Nếu như năm 2004 tại BHXH huyện Gia Lộc chưa triển khai được BHYT tự nguyện cho thân nhân người lao động thì đến năm 2005 số đối tượng này tham gia là 17 người đây là con số còn khiêm tốn nhưng cũng là kết quả đáng khích lệ. 2.3 Thực trạng quản lý thu BHXH tại BHXH huyện Gia Lộc. a. Kết quả cấp sổ BHXH Đây là việc làm thường xuyên, liên tục, chứng nhận việc thu nộp BHXH của người lao động đồng thời là cơ sở để giải quyết chế độ chính sách BHXH khi người lao động bị ốm đau, thai sản, nghỉ hưởng chế độ BHXH. BHXH huyện Gia Lộc thực hiện và hướng dẫn các đơn vị làm tốt công tác cấp sổ, quản lý sổ BHXH tại cơ quan và các đơn vị tham gia BHXH. Thực trạng do nhiều nguyên nhân nên khi triển khai cấp và ghi sổ BHXH, còn một số sổ BHXH chưa được xác nhận hết thời gian công tác chủ yếu là cán bộ xã và giáo viên các trường tiểu học có thời gian làm giáo viên dạy vỡ lòng. Năm qua BHXH huyện Gia Lộc đã chủ động tham mưu với lãnh đạo cấp uỷ và chính quyền địa phương, phối hợp với các đơn vị hướng dẫn tìm kiếm bổ sung chứng lý làm cơ sở xác định thời gian công tác tham gia BHXH, tháo gỡ khó khăn để hoàn thành công tác ghi sổ BHXH, giải quyết chế độ BHXH cho người lao động Bảng 13 Kết quả công tác cấp sổ BHXH tại BHXH huyện Gia Lộc (2001-2005) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 Số sổ BHXH 95 150 380 350 256 (Nguồn: BHXH huyện Gia Lộc) Trong những năm qua BHXH huyện Gia Lộc đã cơ bản cấp xong sổ cho người lao động tham gia BHXH. Năm 2003 là năm cấp nhiều sổ nhất cho người lao động vì năm 2003 là năm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng khi có Nghị định số 01/2003/NĐ-CP của Chính phủ. Trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện các cán bộ trong cơ quan đặc biệt là cán bộ phòng thu luôn luôn đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm của các huyện khác, đồng thời có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan với đơn vị sử dụng lao động từng bước hoàn chỉnh đưa công tác cấp, quản lý, ghi sổ BHXH cho người lao động vào nề nếp, khoa học theo đúng quy định của BHXH Việt Nam. Năm 2005 công tác cấp và chốt sổ BHXH đã cải tiến nề lối làm việc để việc cấp sổ được thuận lợi nhanh chóng giúp các đơn vị quản lý lao động tốt hơn, mặt khác tạo lòng tin và khuyến khích người lao động tích cực tham gia BHXH. b. Tình hình nợ đọng BHXH tại cơ quan BHXH huyện Gia Lộc. Bảng 14 Tình hình nợ đọng BHXH tại BHXH huyện Gia Lộc (2001-2005) Năm Số tiền nợ đọng (Triệu đồng) Số tiền BHXH phải thu (Triệu đồng) Số tiền BHXH đã thu (Triệu đồng) Tỷ lệ nợ đọng (%) 2001 143,15 4 337 4380 3,3 2002 120,75 4 830 5036 2,5 2003 267,65 7 648 8060 3,5 2004 195,45 8 500 9116 2,3 2005 215,00 11 945 12720 1,8 (Nguồn: BHXH huyện Gia Lộc) Qua bảng trên ta thấy: - Năm 2001 và năm 2003 tỷ lệ nợ đọng BHXH ở BHXH huyện Gia Lộc là lớn nhất (trên 3%). Năm 2005 tỷ lệ nợ đọng là nhỏ nhất. Số tiền nợ đọng chủ yếu tập trung vào khối NCL- khối này chủ yếu là giáo viên mầm non, thu nhập của các cô là do các cháu đóng góp nên việc đóng góp của các cháu còn chậm thậm trí là không đóng góp, hơn nữa trên thực tế thì các cô tự đóng cả 23% tiền lương hàng tháng trích cho BHXH, chỉ có một số trường thì UBND xã sẽ đóng cho các cô 17% còn lại các cô sẽ đóng 6%. Mặt khác lương của các cô giáo mầm non ở nông thôn lại thấp khoảng 350000 đồng/tháng nếu trích 23% tiền lương (80 500 đồng) đóng BHXH là tương đối lớn số tiền còn lại chưa đảm bảo cuộc sống sinh hoạt, vì vậy khối này số tiền nợ đọng BHXH là lớn nhất. - Nhìn vào bảng trên ta thấy các năm qua số tiền BHXH đã thu lớn hơn số tiền BHXH phải thu, số tiền thừa ra lớn hơn so với số tiền còn nợ đọng (trừ năm 2001) như vậy, tính cho toàn bộ các đơn vị tham gia BHXH thì không có nợ đọng. Đó cũng là sự cố gắng của cán bộ công nhân viên trong cơ quan đặc biệt là cán bộ phòng thu luôn luôn có chiến dịch đốc thu, tuyên truyền về chính sách BHXH cho người lao động… - Năm 2003 tỷ lệ nợ đọng là cao nhất vì năm 2003 là năm mà Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP về việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc cho nên việc khai báo tăng số người tham gia BHXH còn chậm ở các đơn vị sử dụng lao động. 2.4 Đánh giá về công tác thu BHXH tại BHXH huyện Gia Lộc a. Kết quả đã đạt được - BHXH huyện Gia Lộc coi công tác thu BHXH là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, thực hiện tốt công tác thu BHHX, BHYT là đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời là cơ sở để giải quyết chế độ, chính sách cho người tham gia BHXH, BHYT và người hưởng chính sách cho người lao động tham gia BHXH, BHYT trên địa bàn huyện. - BHXH huyện Gia Lộc chỉ đạo và thực hiện thu đúng, thu đủ, kịp thời theo số phải thu BHXH, BHYT và coi trọng việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH nên số lao động và số tiền thu BHXH, BHYT tăng cao hơn năm trước, được đối tượng đồng tình hưởng ứng tham gia - BHXH huyện Gia Lộc bằng nhiều biện pháp tuyên truyền chính sách BHXH, BHYT cho người lao động nắm được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách BHXH, BHYT đồng thời phối hợp với các đơn vị tìm cách tháo gỡ khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. * Có được kết quả như vậy là do: - Có sự quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Gia Lộc, sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH tỉnh Hải Dương, sự phối kết hợp của các ngành, chính quyền các địa phương, đơn vị, trường học, đặc biệt là hội phụ nữ, hội nông dân, hội chữ thập đỏ và một số trường học tích cực trong việc tuyên truyền và thực hiện chế độ BHXH, BHYT tự nguyện. - Hệ thống văn bản chỉ đạo của Đảng, chính quyền, công văn hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH,BHYT của các ngành khá đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyên truyền, triển khai và tổ chức thực hiện chế độ BHXH, BHYT trên địa bàn huyện. - Các cán bộ bảo hiểm ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc luôn đoàn kết nhận thức rõ ràng nhiệm vụ thu là nhiệm vụ trọng tâm, là nhiệm vụ tiên quyết cho các nhiệm vụ tiếp theo. Với lòng nhiệt huyết yêu nghề hết lòng phục vụ người lao động đến đăng ký tham gia BHXH, cũng như giải quyết các chế độ, giải thích cho người lao động hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của họ, thái độ phục vụ nhiệt tình cùng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ có kinh nghiệm làm việc đã làm cho người lao động nhân thức rõ hơn về trách nhiệm và quyền lợi của họ trong việc tham gia đóng BHXH. b. Những mặt tồn tại - Năm 2005 có nhiều đơn vị, DN NQD, công ty TNHH, HTX dịch vụ, đơn vị đã coi đây là lá bùa hộ mệnh, là phao cứu sinh cho những người nghèo tham gia BHXH, BHYT song còn 8 DN, công ty TNHH, 2 đơn vị dịch vụ HTX điện, 25 đơn vị dịch vụ HTX nông nghiệp chưa thực hiện chế độ BHXH, BHYT cho người lao động. - Huyện Gia Lộc là một huyện nông nghiệp nên các hội đoàn thể là rất nhiều như: Hội nông dân tập thể, hội phụ nữ, hội người cao tuổi, hội người mù… đặc biệt số lao động trong hội nông dân tập thể là rất lớn đây là một tiềm năng để triển khai BHYT tự nguyện cho người lao động. Tuy nhiên, số đối tượng này tham gia BHYT tự nguyện chưa cao số người tham gia chỉ chiếm 25% so với tổng số người trong hội. Điều đó chứng tỏ nhận thức của họ về ý nghĩa của BHYT là chưa cao. Nguyên nhân của tồn tại: - Công tác tuyên truyền về chế độ BHYT tự nguyện rộng khắp nhưng chưa sâu và mang tính thuyết phục, thu nhập của người dân còn hạn chế. Mặt khác một số chính quyền xã thị trấn, đơn vị, trường học chỉ đạo chưa sát sao về việc tuyên truyền, vận động người dân, học sinh tích cực tham gia BHYT nên kết quả thu BHYT tự nguyện còn thấp. - Số cán bộ bảo hiểm ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc còn ít nên thiếu cán bộ xuống các xã, thị trấn, trường học tuyên truyền về BHYT tự nguyện cho người dân và các bậc phụ huynh, chủ yếu là tuyên truyền qua hệ thống thông tin đại chúng của huyện nhà do đó chất lượng tuyên truyền là chưa cao. - Có những người sử dụng lao động hiểu biết pháp lụât, có khả năng tài chính nhưng lại thiếu trách nhiệm, cố tình lách luật và tìm mọi cách tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc chiếm dụng tiền đóng BHXH. Bên cạnh đó có những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thua lỗ không đủ khả năng để đóng BHXH. CHương III Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH huyện Gia Lộc I. Phương hướng phát triển của BHXH huyện Gia Lộc trong thời gian tới. Năm 2006 là năm thực hiện thành công NQTW Đảng khoá IX, chào mừng Đại hội Đảng các cơ sở tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Thực hiện tốt công tác BHXH, BHYT góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây nước Việt Nam phát triển, có một xã hội công bằng dân chủ văn minh. BHXH huyện Gia Lộc thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp với mục tiêu hoàn thành kế hoạch được giao, cơ quan BHXH đã đưa ra phương hướng hoạt động trong năm 2006 là: - Quán triệt cán bộ công chức, viên chức xác định tư tưởng vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách BHXH Việt Nam. Cán bộ công chức chấp hành tốt pháp lệnh công chức, có lối sống giản dị, khiêm tốn lịch sự đoàn kết dân chủ trong cơ quan, phối hợp với công đoàn phát động thi đua thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của cấp trên và cấp uỷ, chính quyền địa phương giao. - Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ, tổ chức tốt công tác thu BHXH đạt 100% kế hoạch được giao,thu đúng, thu đủ, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm, hoàn thành kế hoạch năm 2006. Chính vì vậy, cơ quan BHXH huyện Gia Lộc cần phải bám sát cơ sở, nhất là các tháng đầu, quý đầu để đôn đốc và tuyên truyền hướng dẫn các chủ sử dụng lao động biết được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện BHXH theo quy định, nếu thấy cơ sở còn khó khăn phải phối hợp cụ thể với đơn vị để giải quyết khó khăn, đối với các đơn vị có số nợ lớn hoặc dây dưa kéo dài thì giám đốc hoặc phó giám đốc BHXH sẽ tiếp cận và bàn biện pháp giải quyết hoặc đề nghị các cấp các ngành liên quan hỗ trợ. Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách BHXH đến với chủ doanh nghiệp cũng như những người lao động trong doanh nghiệp. Giải thích cho họ hiểu về quyền lợi của mình khi tham gia BHXH, như giúp họ ổn định cuộc sống, có thu nhập khi về già, được trợ cấp khi ốm đau. - Phối hợp chặt chẽ với UBND các xã- thị trấn, các ngành công an, ngân hàng tổ chức chi trả đảm bảo an toàn nhanh chóng đến tay đối tượng với số tiền dự kiến là 45 000 triệu đồng. - Công tác BHYT tự nguyện: Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách BHYT tự nguyện như tuyên truyền trực tiếp tại các buổi họp của xã, thị trấn. Trong dịp nghỉ hè, phối hợp với trường chính trị ngành giáo dục đào tạo, thông qua các lớp học chính trị, quản lý nhà nước, BHXH tranh thủ báo cáo tuyên truyền về chính sách BHXH, BHYT đặc biệt là BHYT học sinh, góp phần nâng cao nhận thức của thầy cô về mục đích ý nghĩa tính ưu việt bản chất nhân đạo, công đồng của BHYT học sinh.Từ đó đội ngũ này tích cực tuyên truyền, vận động phụ huynh tham gia. Vào dịp triển khai BHYT học sinh, BHXH cần phối hợp với ngành giáo dục đào tạo cùng hệ thống thông tin đại chúng, phát thanh truyền hình mở đợt tuyên truyền trọng điểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành triển khai BHYT học sinh đầu năm đạt kết quả cao. Triển khai BHYT tự nguyện đối với đối tượng là Ban chấp hành hội, đoàn thể, học sinh đảm bảo ít nhất có 50% số học sinh, 100% thân nhân cán bộ, giao viên, người lao động tại các doanh nghiệp tham gia BHYT. - Công tác chính sách: Tăng cường công tác quản lý hồ sơ và đối tượng hưởng BHXH, nâng cao chất lượng công tác, thái độ tiếp khách với tinh thần phục vụ chu đáo và tận tình. - Thực hiện chi đúng, chi đủ, chi theo dự toán được duyệt không chi vượt quá hạn mức, mọi chi tiêu đều đảm bảo chứng từ hợp pháp. - Giải quyết kịp thời các chế độ BHXH theo đúng quy định của Nhà nước cho người lao động, kịp thời điều chỉnh mức lương hưu cho đối tượng hưu trí khi có hướng dẫn của Chính phủ. - Giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu tố theo đúng pháp luật quy định. - Công tác giám định: Nâng cao chất lượng công tác giám định và thực hiện chi trả trực tiếp tại huyện thuận lợi, nhanh chóng. Thực hiện tốt việc giám định chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT đảm bảo đúng chế độ BHXH Việt Nam quy định. Chuyển giao khám chữa bệnh ngoại trú cho đối tượng có thẻ BHYT ở 3 xã, thị trấn là Thị trấn Gia Lộc, xã Gia Khánh, Xã Phương Hưng. - Các mặt công tác khác: Xây dựng chi bộ Đảng và công đoàn vững mạnh, phát huy tinh thần đoàn kết trong tập thể cán bộ công chức, chống biểu hiện tham nhũng, thực hiện tiết kiệm. Phát động tốt các đợt thi đua chào mừng các ngày lễ lớn trong năm 2006, phấn đấu trở thành đơn vị vững mạnh toàn diện. - Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra của nhà nước về thực hiện chính sách BHXH, Bộ luật lao động của các đơn vị trên địa bàn huyện. II. Một số kiến nghị nhằm khắc phục khó khăn và thúc đẩy công tác thu BHXH ở BHXH huyện Gia Lộc. 1. Kiến nghị chung về chính sách BHXH. 1.1 Về mặt quản lý nhà nước a. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đến sự nghiệp BHXH. Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế, xã hội đều cần đến sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. BHXH thực hiện chính sách nhân đạo nhân văn, bảo vệ các thành viên trong xã hội khi gặp rủi ro do đó suy cho cùng mục tiêu của ngành bảo hiểm chính là mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt BHXH Việt Nam là một ngành mới thành lập, các chế độ, chính sách về BHXH chưa được hoàn chỉnh, cơ chế quản lý tài chính BHXH còn nhiều vấn đề chưa hợp lý. Tất cả những vấn đề đó BHXH Việt Nam cần sự chỉ đạo thường xuyên của Đảng và Nhà nước. b. Nhà nước tạo mọi điều kiện phát triển và tăng trưởng kinh tế tiến tới tạo tiền đề cho BHXH ngày càng phát triển. Cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế nước ta là một nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên và liên tục trong suốt thời kỳ quá độ với những hình thức và bước đi phù hợp với quy luật khách quan. Nước ta từ khi bước sang cơ chế phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng và khai thác mọi tiềm năng sẵn có để phát triển lực lượng sản xuất là một chủ trương lâu dài.Chính vì vậy, Nhà nước đã tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh như tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ thêm vốn, công nghệ… giúp các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động vào làm việc. Đây là điều kiện thuận lợi để BHXH Việt Nam nói chung và BHXH huyện Gia Lộc nói riêng tăng số người tham gia BHXH đồng thời tăng thu BHXH. Song vấn đề Nhà nước phải duy trì được sự phát triển ổn định, các doanh nghiệp ăn nên làm ra và thu nhập của người lao động được đảm bảo. 1.2 Phải tạo sự thông thoáng trong việc triển khai các loại hình BHXH BHXH Việt Nam đang thực hiện BHXH cho các đối tượng là công chức, viên chức, các cán bộ xã phường, các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, văn hoá… như trong Nghị định 01/2003/NĐ-CP của Chính phủ. Mỗi loại hình được điều chỉnh mức đóng và mức hưởng khác nhau nên khi thực hiện nảy sinh nhiều vấn đề vướng mắc vì mỗi người có thể thay đổi môi trường làm việc trong quá trình đóng BHXH. Mặt khác theo đề án xây dựng luật BHXH còn thêm BHXH tự nguyện để thực hiện công bằng trong chính sách BHXH, mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng chế độ BHXH. Vì vậy, các nhà làm luật phải cân nhắc điều chỉnh phù hợp tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho việc đóng và hưởng BHXH. 1.3 Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật Vấn đề chuẩn hoá các quy định pháp luật về BHXH thành một luật riêng không phải là yêu cầu hiện nay mới đặt ra, bởi lẽ pháp luật về BHXH đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật. Mặc dù Bộ luật lao động đã dành hẳn một chương cho BHXH nhưng đó là những quy định khung chưa cụ thể. Do càng ngày đối tượng tham gia BHXH được mở rộng không chỉ là đối tượng điều chỉnh trong Bộ luật lao động. BHXH ở nước ta ra đời muộn lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh và đang khôi phục nền kinh tế để tiến lên xây dựng XHCN. Vì vậy BHXH ở nước ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về BHXH. Quốc hội và Uỷ ban thường vụ quốc hội sớm thông qua Luật BHXH. Đây là chính sách rất lớn, rất nhạy cảm, có ảnh hưởng lâu dài vì vậy cần lấy ý kiến của các cử tri, những người tham gia BHXH. Việc hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về BHXH phải đảm bảo được chất lượng và phải đảm bảo được tính khả thi của các văn bản. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản để điều chỉnh các quan hệ về lao động và BHXH. Vì vậy trong luật cần quy định rõ về nghĩa vụ của chủ sử dụng lao động và cơ quan BHXH trong việc thu nộp BHXH cho người lao động đồng thời chú trọng tới các hình thức xử phạt nghiêm minh 1.4 Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Mục đích nâng cao nhận thức đầy đủ về ỹ nghĩa trách nhiệm và quyền lợi của mọi người lao động và chủ sử dụng lao động về chính sách, chế độ BHXH. Vì vậy công tác thông tin tuyên truyền là một giải pháp quan trọng trong việc phát triển sự nghiệp BHXH. Cần tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách BHXH đến với những chủ doanh nghiệp cũng như những người lao động trong doanh nghiệp. Giải thích cho họ hiểu về quyền lợi của mình khi tham gia BHXH như giúp họ ổn định cuộc sống, có thu nhập khi về già, được trợ cấp khi ốm đau. Việc làm này sẽ làm cho họ thay đổi tâm lý nặng nề là bắt buộc phải đóng BHXH, từ đó họ sẽ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH. Thực hiện công tác thông tin tuyên truyền cần có hình thức như tuyên truyền bằng sách báo, các cuộc thi tìm hiểu về BHXH, tài trợ cho các quỹ nghèo vượt khó, quỹ bão lụt…Các biện pháp áp dụng phải phù hợp vào điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Trong công tác BHYT tự nguyện phải đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền chính sách BHYT như tuyên truyền trực tiếp tại các buổi họp xã phường, các buổi họp phụ huynh học sinh… 2. Kiến nghị đối với công tác thu quỹ BHXH 2.1 Mở rộng nguồn thu BHXH Mặc dù hiện nay đối tượng tham gia BHXH đã được mở rộng để mọi thành phần kinh tế đều tham gia bởi việc thực hiện rộng rãi các chính sách đảm bảo xã hội cho mọi người dân góp phần ổn định cho xã hội tạo sự công bằng cho xã hội và phát triển ngành BHXH, việc làm này góp phần rất lớn trong việc tăng thu quỹ BHXH và nguyên tắc lấy số đông bù số ít càng được phát huy hơn. Các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chiếm khoảng 10% lực lượng lao động đây là một con số rất khiêm tốn. Vì vậy với các đối tượng chưa được tham gia BHXH bắt buộc cần áp dụng hình thức BHXH tự nguyện đặc biệt là đối với nông dân vì 80% số dân sống bằng nghề nông đây là một bộ phận của lực lượng lao động lớn tạo ra giá trị sản xuất. Tuy nhiên muốn triển khai hình thức BHXH tự nguyện cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện họ có quyền tự chọn mức phí phù hợp với khả năng thu nhập của họ. Vì vậy việc giải quyết các chế độ cũng phải phù hợp với mức đóng của họ. Trong trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện không có khả năng đóng BHXH do các nguyên nhân khách quan thì tuỳ vào thời gian đã đóng BHXH của họ mà có thể xét được hưởng trợ cấp một lần hoặc là được bảo lưu tiền đóng bảo hiểm trong một thời gian nào đó. Quỹ BHXH tự nguyện phải hoàn toàn độc lập cân đối thu chi. Nghĩa là có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít. Nhưng việc mở rộng loại hình BHXH tự nguyện cần phải tuyên truyền nhiều cho người lao động hiểu rằng đây là một chính sách hữu ích với họ phù hợp với khả năng đóng phí của mỗi người. 2.2 Đưa tin học vào công tác quản lý thu BHXH Hiện nay đối tượng tham gia BHXH ngày một đông và đa dạng vì vậy cơ quan BHXH phải quản lý một lượng đối tượng khổng lồ. Để tránh sai sót và đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý thu cần đưa tin học vào công tác quản lý. Hiện nay, công nghệ thông tin đang được áp dụng mạnh mẽ vào công tác quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành BHXH cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mức độ sử dụng còn đơn giản. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan BHXH đều đã có máy tính nhưng số lượng chưa nhiều số lượng cán bộ biết sử dụng máy tính thành thạo còn ít. Mặc dù đã có hệ thống phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm nhưng các cán bộ chưa khai thác được hết tác dụng của phần mềm. Chính vì vậy những năm tiếp theo, Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành BHXH để họ có đủ điều kiện đưa tin học vào trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua sắm máy tính, mở lớp đào tạo cán bộ bảo hiểm về kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác phần mềm chuyên ngành. Đây là một việc làm rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu của mỗi cơ quan BHXH. 2.3 chống thất thu nợ đọng BHXH Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở có sự đóng góp của người lao động và của người sử dụng lao động. Tham gia vào quá trình hình thành quỹ BHXH còn có Nhà nước, một nguồn thu quan trọng khác của quỹ BHXH là đầu tư sinh lời để tăng trưỡng quỹ. Ngoài ra còn có khoản thu khác từ phần nộp phạt do nộp chậm BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp nhằm tăng cường chặt chẽ và hiệu lực quản lý quỹ BHXH.Vì vậy, bổ sung hoàn thiện công tác thu quỹ BHXH là một việc làm hết sức quan trọng đối với quỹ BHXH. Để thực hiện tốt công tác thu quỹ BHXH đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có chế ưu đãi đối với họ như phương tiện đi lại, chi phí đi công tác… thực hiện tốt những điều này góp phần khuyến khích cán bộ tích cực trong công tác tuyên truyền vận động đôn đốc thu với các đơn vị. Đối với khối giáo viên mầm non: để hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH và đảm bảo đời sống cho các cô giáo, BHXH huyện Gia Lộc cần phối hợp với UBND các xã, thị trấn trong huyện để UBND các xã, thị trấn hỗ trợ các cô trong việc đóng BHXH. Đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền BHXH thì phải có biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Bởi vì các biện pháp xử phạt đã áp dụng từ trước tới nay chưa đủ mạnh để răn đe. Chúng ta không dừng ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ BHXH vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt. Vì Nghị định 113 cho phép phạt tiền đến 20 triệu đồng, nhưng con số này nhiều doanh nghiệp vẫn sẵn sàng nộp. Chính vì vậy, chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì họ không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. 2.4 Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra Thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật và các quy định của Nhà nước đối với từng đơn vị tham gia BHXH, đồng thời thanh tra kiểm tra các công việc của bản thân các cán bộ trong ngành có thực hiện tốt công việc của mình hay không là yêu cầu cần thiết. Vì trong thực tế còn tình trạng việc các cán bộ thu ghi chép không đầy đủ theo biểu mẫu, quản lý hồ sơ không đúng quy định, hàng quý không thực hiện đối chiếu số thu với các đơn vị sử dụng lao động...Vì vậy cần phải quản lý chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng, kể cả đối tượng tham gia, đối tượng đang hưởng và đối tượng đã cắt chế độ BHXH nhằm tránh các hiện tượng tiêu cực như tham ô, móc ngoặc gây thất thoát kinh phí. Thanh tra kiểm tra việc đóng góp trích nộp BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp nhằm phát hiện ra những đối tượng gian lận hay trốn đóng BHXH cho người lao động mà doanh nghiệp sử dụng để từ đó có biện pháp phạt thích đáng đem lại nguồn thu cho quỹ, quyền lợi cho người lao động đồng thời thực hiện công bằng cho xã hội. Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục bổ sung, tăng cường bộ máy kiểm tra, đồng thời tiếp tục bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra để nâng cao chất lượng, năng lực cán bộ kiểm tra làm công tác kiểm tra. Kết Luận Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành một nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ che trở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam nói chung, BHXH tỉnh Hải Dương, BHXH huyện Gia Lộc nói riêng, đẩy mạnh công tác thu là một trong những nhiệm vụ mang tính trọng tâm, lâu dài của ngành. BHXH huyện Gia Lộc những năm vừa qua luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ được cấp TW giao, luôn thực hiện đúng các văn bản pháp quy về BHXH, thực hiện đúng các chế độ BHXH đối với người lao động đảm bảo quyền lợi cho họ. Số thu BHXH ở BHXH huyện Gia Lộc những năm gần đây năm sau luôn cao hơn năm trước, hoàn thành kế hoạch và vượt mức kế hoạch mà BHXH tỉnh Hải Dương giao cho.Trong thời gian tới BHXH huyện Gia Lộc không ngừng mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi thành phần kinh tế đặc biệt là hai khối xã - thị trấn và khối HTX. Chính vì vậy, BHXH huyện Gia Lộc cần tích cực tuyên truyền sâu rộng chính sách BHXH, BHYT đặc biệt là BHYT tự nguyện tới toàn thể nhân dân, học sinh để toàn dân hiểu được sự cần thiết về BHYT để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, học sinh tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010 theo tinh thần NQTW Đảng khoá IX đã đề ra. Trong những năm tiếp theo BHXH huyện Gia Lộc tiếp tục phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ mà BHXH tỉnh Hải Dương giao phó. Để hoàn thành kế hoạch thu BHXH huyện Gia Lộc có các biện pháp cần thiết đôn đốc nhắc nhở các đơn vị tham gia BHXH cho người lao động. Mặt khác, BHXH huyện Gia Lộc mong thường xuyên được sự quan tâm lãnh đạo của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Gia Lộc, sự quan tâm chỉ đạo của BHXH tỉnh Hải Dương, sự phối kết hợp của các ngành, chính quyền các địa phương, đơn vị, trường học để BHXH huyện Gia Lộc ngày càng phát triển góp phần ổn định kinh tế, chính trị, an ninh trên địa bàn huyện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp trên giao. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Hà Nội. 2. Tạp chí lao động và xã hội các số năm 2004, 2005. 3. Báo cáo kết quả công tác thu BHXH các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005 của Bảo hiểm Xã hội Huyện Gia Lộc. 4. Hệ thống các văn bản về bảo hiểm xã hội 5. Tạp chí bảo hiểm xã hội các số năm 2005. 6. Các văn bản khác có liên quan Mục lục Trang Những chữ viết tắt BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm Y tế NCL : Ngoài công lập DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước HTX : Hợp tác xã HCSN : Hành chính sự nghiệp DN NQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36360.doc
Tài liệu liên quan