Một số vấn đề về thi hành án dân sự

Lời nói đầu Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó các bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành Để góp phần duy trì ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, mọi hành vi vi phạm pháp luật và tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Toà án xem xét giải quyết theo thẩm quyền, đồng thời nhà nước xây dựng một cơ chế đảm bảo cho việc thi hành các phán quyết

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về thi hành án dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà Toà án đã tuyên. Nếu bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật mà không đựơc đưa ra thi hành thì quyền lợi của đương sự chưa được đảm bảo, nguyên tắc pháp chế bị vi phạm. Mặt khác tranh chấp, mâu thuẫn dân sự không được giải quyết kịp thời và triệt để, niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và nhà nước bị suy giảm. Vì vậy công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng mang nội dung và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhận thức được điều này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Đảng ta đã đề ra chủ trương "...Đẩy mạnh cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan Tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ Tư pháp...". Trong đó, có công tác thi hành án dân sự. Những năm qua công tác thi hành án dân sự đã từng bước được đẩy mạnh và đã thu được những kết quả to lớn. Pháp luật về thi hành án dân sự đã và đang được củng cố và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra của sự phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, hệ thống cơ quan thi hành án đã được hình thành trong cả nước, hoạt động thi hành án đã đạt hiệu quả nhất định, kỷ cương trật tự xã hội được ổn định, đồng thời pháp chế xã hội chủ nghĩa được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường các giao lưu dân sự ngày một mở rộng thì số vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến số lượng bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều. Nếu như trước đây nhiệm vụ của cơ quan thi hành án chỉ là thi hành các bản án, quyết định dân sự thì từ khi có Luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh công nhận thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh Trọng tài thương mại có hiệu lực thi hành thì thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự ngày càng được mở rộng. Trước tình hình đó, cần phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật thi hành án dân sự góp phần đẩy nhanh hoạt động thi hành án đạt hiệu quả hơn về số lượng cũng như chất lượng, từng bước giảm dần số lượng bản án, quyết định tồn đọng chưa được thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc nghiên cứu pháp luật về thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cần thiết không chỉ đối với các nhà lập pháp, tư pháp, các luật gia mà còn cần thiết đối với những sinh viên khi nghiên cứu về pháp luật Việt Nam. Đây là một vấn đề lớn đòi hỏi phải có trình độ nghiên cứu cũng như thời gian nghiên cứu nhất định. Do vậy, trong bài khoá luận tốt nghiệp này tôi chỉ xin trình bày một số khía cạnh quan trọng của pháp luật thi hành án dân sự đó là "Một số vấn đề về thi hành án dân sự ". Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài là một số qui định cơ bản của Pháp luật về thi hành án dân sự mà chủ yếu một số quy định cơ bản pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành và thực tiễn áp dụng chúng của các cơ quan thi hành án trong những năm gần đây. Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành từ đó thấy được những bất cập trong thực tiễn áp dụng và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự. Đặc biệt, qua việc nghiên cứu này nâng cao được nhận thức của bản thân về công tác thi hành án dân sự, hoàn thiện thêm kiến thức pháp luật, nâng cao năng lực công tác. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bản khoá luận gồm ba phần: Lời nói đầu, phần nội dung và kết luận. Phần nội dung bản khoá luận gồm các nội dung cơ bản sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án dân sự. - Chương 2: Nội dung một số qui định cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự. - Chương 3: Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về thi hành án dân sự và một số kiến nghị. Vì điều kiện thời gian nghiên cứu, khả năng và kiến thức còn nhiều hạn chế nên việc nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi kính mong các thầy cô hướng dẫn, giúp đỡ để tôi nâng cao được kiến thức và có điều kiện tiếp tục nghiên cứu đề tài này. Chương i Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án dân sự I/ Khái niệm và ý nghĩa của thi hành án dân sự 1. Khái niệm thi hành án dân sự Thi hành án dân sự là một giai đoạn nhằm thực hiện những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân trong cuộc sống, biến các quyết định của Toà án trong những bản án, quyết định đó thành hiệu lực thực tế. Tuy nhiên, thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng dân sự hay thủ tục hành chính đã có một thời kỳ có nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án dân sự không phải là một thủ tục tố tụng dân sự, mà là một hoạt động mang tính chất chấp hành và điều hành như vậy thi hành án dân sự là một thủ tục hành chính. Ngược lại với quan điểm thứ nhất, quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng dân sự. Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Quan điểm thứ ba lại cho rằng thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng đặc biệt bởi nó vừa mang tính chất của thủ tục tố tụng dân sự lại vừa là thủ tục hành chính. Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý, nhưng quan điểm thứ hai là phù hợp hơn cả bởi những lý do sau: Thứ nhất, khi tranh chấp dân sự phát sinh, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, các đương sự phải nhờ vào sự can thiệp của Nhà nước mà cụ thể là Toà án. Sau khi thụ lý vụ việc, Toà án tiến hành điều tra, hoà giải, xét xử để đưa ra phán quyết của mình. Việc giải quyết vụ việc mới thực sự là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng. ở giai đoạn này, Toà án mới giải quyết được về nội dung của vụ án, phân định quyền và nghĩa vụ của các bên. Nếu phán quyết đó không được đưa ra thi hành thì lợi ích của đương sự thực chất chưa được bảo vệ. Hiệu lực bản án, quyết định của Toà án không được bảo đảm. Việc bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự là cả một quá trình và phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Chỉ khi nào tiến hành xong các giai đoạn này thì quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự mới được coi là hoàn thành. Thứ hai, về nguyên tắc, khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành theo yêu cầu của người được thi hành án hay cơ quan thi hành án chủ động thi hành. Tuy nhiên bản án, quyết định của Toà án đang được đưa ra thi hành hoặc đã thi hành xong vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có kháng nghị của người có thẩm quyền. Do đó, giai đoạn thi hành án và quá trình xét xử có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau, nó là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Trong đó việc ra bản án, quyết định là tiền đề, là điều kiện để tiến hành giai đoạn thi hành án. Nói như thế, không có nghĩa chỉ khi nào giai đoạn xét xử được thực hiện xong thì mới đến giai đoạn thi hành án mà thi hành án còn được tiến hành song song cùng với giai đoạn xét xử. Chẳng hạn trong quá trình giải quyết việc xin ly hôn, xét điều kiện khó khăn của người vợ, Toà án có thể ra quyết định khẩn cấp tạm thời buộc người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của người vợ. Để đảm bảo việc nuôi con của người vợ, cơ quan thi hành án tiến hành thực thi ngay quyết định đó mặc dù Toà án vẫn chưa giải quyết xong việc xin ly hôn đó. Thứ ba, tranh chấp dân sự của các bên đều xuất phát từ quan hệ pháp luật nội dung. Do đó, án dân sự chủ yếu là giải quyết các vấn đề về tài sản giữa các đương sự. Mặt khác, nếu bản án, quyết định Toà án tuyên chưa có hiệu lực pháp luật mà đương sự tự nguyện thi hành thì thuần tuý đây là quan hệ dân dự thông thường chứ không có sự can thiệp của cơ quan Nhà nước. Do đó, không thể coi đây là thủ tục hành chính được. Hơn nữa, nếu cho rằng trong tố tụng dân sự chỉ có Toà án mới là chủ thể tiến hành tố tụng còn cơ quan thi hành án không phải là chủ thể được phép tiến hành các hoạt động tố tụng nên việc thi hành án của cơ quan thi hành án không phải là hoạt động tố tụng là không thoả đáng. Bởi lẽ, việc giải quyết vụ án dân sự là một quá trình khó khăn và phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực đó đều được do một cơ quan chuyên môn đảm nhiệm. Vì vậy, để giải quyết tốt một vụ việc dân sự thì phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan tổ chức với nhau. Kết quả hoạt động của cơ quan này tạo cơ sở, tiền đề cho hoạt động của cơ quan khác và góp phần vào nhiệm vụ chung là giải quyết vụ việc được nhanh chóng, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, hoạt động của thi hành án phải được coi là một thủ tục tố tụng dân sự và là một bộ phận không thể thiếu của ngành luật tố tụng. Đến nay điều này đã được khẳng định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Theo Điều 1 của Bộ luật tố tụng dân sự thì thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự. Vì vậy, thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Toà án. Giai đoạn thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự trong đó bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành trên thực tế. 2. ý nghĩa của thi hành án dân sự. Thứ nhất, thi hành án dân sự góp phần vào công tác giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội. Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, hoạt động thi hành án dân sự mang tính quyền lực, cưỡng chế, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, quan hệ xã hội được mở rộng, các giao lưu dân sự ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp thì thi hành án dân sự là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và là cơ sở để đảm bảo sự công bằng, công lý trong xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai, thi hành án dân sự góp phần củng cố kết quả của công tác xét xử trước đó. Thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử nhằm thi hành bản án, quyết định của Toà án. Chỉ có công tác thi hành án dân sự mới làm cho bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành trên thực tế và góp phần củng cố kết qủa công tác xét xử trước đó. Phán quyết mà Toà án đưa ra chính là sự thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Vì vậy, khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành là đảm bảo hiệu lực pháp luật, hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, nâng cao uy tín của Nhà nước trước nhân dân. Thứ ba, thi hành án dân dân sự góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử. Mặc dù quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về trình tự thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy tín, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm tính chất của vụ án dân sự là đa dạng và phức tạp. Trong khi đó các qui định của pháp luật về nội dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ hay còn thiếu. Do đó, còn có thể dẫn đến những sai lầm trong quá trình xét xử. Vì vậy, thi hành án dân sự chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết bản án của Toà án, phản ảnh trung thực chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Toà án đã tham gia quá trình xét xử có thể rút ra kinh nghiệm để khắc phục những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của mình. Đồng thời cũng là cơ sở để Toà án nhân dân tối cao tổng kết đúc rút kinh nghiệm đưa ra đường lối xét xử chung, thống nhất trong toàn ngành. Thứ tư, thông qua công tác thi hành án dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Thi hành án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ của riêng cơ quan thi hành án dân sự mà đó là sự kết hợp với vai trò và trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương là sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức hữu quan và mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thông qua thi hành án dân sự ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân ngày càng được nâng cao, vai trò trách nhiệm của các cơ quan tổ chức được đảm bảo, niềm tin của nhân dân vào hệ thống pháp luật, vào bộ máy của Nhà nước ngày càng được củng cố. Ii/ Quá trình hình thành và phát triển của những quy định về thi hành án dân sự. 1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990 Có thể nói rằng giai đoạn này là một giai đoạn mà công tác thi hành án dân sự gặp rất nhiều khó khăn. Thi hành án còn là một bộ phận nằm trong cơ cấu của Toà án. Lúc này cùng một lúc Toà án phải thực hiện hai chức năng đó là chức năng xét xử và chức năng thi hành án. Đây là thời kỳ đất nước chưa hoàn toàn thống nhất, bên cạnh đó là một nền kinh tế bao cấp đầy những khó khăn và yếu kém. Chính vì vậy những văn bản pháp luật nói chung và các văn bản thi hành án nói riêng còn rất ít, rất lẻ. Công việc thi hành án giai đoạn này chủ yếu được tiến hành dưới sự hướng dẫn của các Thông tư do Toà án nhân dân tối cao ban hành những quy định về vấn đề này còn bị hạn chế rất nhiều nên việc thực hiện trên thực tế kém hiệu quả. Hầu như các bản án, quyết định do Toà án tuyên khi đưa vào thi hành số lượng đạt được rất ít. Đặc trưng của thi hành án dân sự trong giai đoạn này là Toà án luôn chủ động trong thi hành án, quyền định đoạt của đương sự về thi hành án chưa được pháp luật qui định đầy đủ. Theo Điều lệ về thi hành án dân sự do Thông tư số 827 ngày 23 / 10/1979 của Toà án nhân dân tối cao ban hành thì các Toà án nhân dân địa phương phải chủ động đưa ra thi hành án mà không cần phải có yêu cầu của người được thi hành án. 2. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1993 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về thi hành án của Toà án. Pháp lệnh thi hành án dân sự ra đời qui định về thi hành án so với trước có sự khác biệt rõ rệt. Vẫn cùng một lúc Toà án với hai chức năng xét xử và thi hành án nhưng ở giai đoạn này Toà án không giữ vai trò chủ động trong thi hành án như trước nữa mà các bên đương sự cụ thể là người được thi hành án phải nộp đơn yêu cầu hoặc đề nghị Toà án tham gia vào quá trình thi hành án. Điều 14 Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 28/8/1989 đã qui định là: Trừ một số trường hợp Toà án phải chủ động thi hành án còn nói chung, người được thi hành án phải có yêu cầu thì Toà án mới tiến hành thủ tục thi hành án vì sau khi Toà án xét xử xong thì thi hành án là một giai đoạn tố tụng khác. Trong giai đoạn tố tụng này, người được thi hành án vẫn có quyền định đoạt quyền lợi của mình, tức là họ có quyền đòi hỏi bên kia phải thi hành nhưng họ cũng có quyền hoà giải với bên kia hoặc không yêu cầu thi hành án. Vì vậy, Toà án chỉ tiến hành thủ tục thi hành án khi người được thi hành án có yêu cầu. Mặc dù, giai đoạn này có Pháp lệnh thi hành án dân sự nhưng Toà án vẫn đảm trách chức năng thi hành án. Với hai chức năng cơ bản của mình là xét xử và thi hành án cũng đủ để chúng ta thấy được khối lượng công việc của Toà án dân sự là rất lớn, liệu Toà án có giải quyết hết các công việc của mình được hay không? Có lẽ không thể hoàn thành hết được nên vẫn còn hiện tượng tồn đọng án cũ... Bởi lẽ khối lượng công việc cần phải giải quyết quá nhiều, trong đó khối lượng công việc có khả năng giải quyết được lại rất ít, vì thế tình trạng số án tồn đọng từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác cứ kéo dài. Sau khi Toà án tuyên bản án hoặc quyết định của mình thì Toà án đã thực hiện xong chức năng xét xử. Nhưng để bản án đó có hiệu lực khả thi thì Toà án còn phải thực hiện chức năng thi hành án. Hai nhiệm vụ này giải quyết xong thì có nghĩa là Toà án đã thực hiện việc bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật bảo vệ. Để ra một quyết định một thi hành án Toà phải cấp một bản sao bản án hoặc quyết định của mình cho người thi hành án và người được thi hành án để hai bên tự nguyện thoả thuận thi hành án cho nhau trong vòng 30 ngày. Hết 30 ngày hai bên vẫn không thoả thuận được việc thi hành án thì sẽ xảy ra hai trường hợp: Một là: Toà án sẽ theo đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà can thiệp vào quá trình thi hành án đó. Hai là: Toà án trực tiếp tổ chức thi hành án theo qui định của pháp luật. Song chủ yếu ở giai đoạn này Toà án vẫn giữ vai trò chủ động trong quá trình thi hành án và trong một số trường hợp cần thiết Toà án phải ra quyết định thi hành án ngay đó là: - Vấn đề cấp dưỡng; - Trả tiền bồi thường án phí; - Bồi thường thiệt hại... và một số trường hợp khác. Như vậy, cùng một lúc Toà án vẫn kiêm nhiệm hai chức năng và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 không thể hiện được điểm mạnh của mình. ở đây đặt ra một vấn đề là pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 qui định chỉ có người được thi hành án mới có quyền làm đơn nộp cho Toà án yêu cầu thi hành án mà Hiến Pháp năm 1992 qui định: “ Mọi công dân điều bình đẳng trước pháp luật” đã không được thể chế hoá trong các điều luật một cách rõ ràng, cụ thể, xác đáng. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 qui định người phải thi hành án chỉ có quyền hoãn thi hành án trong trường hợp đặc biệt cần thiết hoặc được phía người được thi hành án và Toà án chấp nhận. Giả thiết cho rằng nếu người phải thi hành án cũng muốn nộp đơn yêu cầu thi hành án thì sao? Pháp luật của chúng ta sẽ giải quyết như thế nào? Bởi vì trường hợp này vẫn thường xảy ra sau khi có quyết định giải quyết các vụ việc của Toà án. Sau một thời gian thực hiện Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 trên thực tế đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục. Chính những nhược điểm này đã làm hạn chế nhiều đến kết quả của công tác thi hành án. Theo Báo cáo tổng kết của nghành Toà án năm 1990, năm 1991, công tác thi hành án năm 1990 và đầu năm 1991 của nhiều Toà án địa phương thì số lượng bản án thi hành xong chỉ đạt trên dưới 30% tổng sổ bản án phải thi hành. Điều đáng nói ở đây là trong số bản án, quyết định của Toà án chưa được thi hành thì một số bản án, quyết định đó không có điều kiện thi hành. Như vậy, việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án không biết đến bao giờ mới kết thúc. Toà án và người được thi hành án phải chờ đến bao giờ thì người phải thi hành án mới có điều kiện thi hành bản án, ở đây phải chăng là đã có sự ùn tắc hợp pháp ở giai đoạn này. 3. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay Sau 3 năm thực hiện Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 thì bản thân nó không phù hợp với thực tế thi hành án nữa. Chính vì thế để thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 ra đời. Sự ra đời của Pháp lệnh này đã đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cũng như lý luận của việc thi hành án ngày hôm nay. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 ra đời đánh dấu một bước ngoặt trong công tác phát triển của quá trình thi hành án. Từ đây,Toà án không cùng một lúc thực hiện hai chức năng xét xử và thi hành án nữa. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 đã qui định công tác thi hành án thuộc về cơ quan thi hành án. Lần đầu tiên công tác thi hành án dân sự được một cơ quan chuyên môn đảm nhiệm. Toà án chỉ còn lại chức năng xét xử. Trước đây, do Toà án thực hiện cùng một lúc hai chức năng xét xử và thi hành án mà số việc Toà án phải giải quyết rất nhiều. Khối lượng công việc xét xử của Toà án đã chất chồng, lại thêm chức năng thi hành án thì Toà án khó có thể giải quyết được hết công việc của mình. Số án tồn đọng không thi hành được ngày một nhiều. Tính đến thời điểm Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 ra đời, khi Toà án chuyển chức năng thi hành án sang cho cơ quan thi hành án thì: tổng số án còn tồn đọng là 217877 vụ. Trong đó số án có điều kiện thi hành là 174306 vụ, số án không có điều kiện thi hành là 43571 vụ. Trong số 174 306 vụ có điều kiện thi hành thì số án có khả năng thi hành là 149 206 vụ và đã có 71466 vụ đã thi hành xong, 77740 vụ thi hành dở dang, 25100 vụ chưa thi hành được. Chính vì những con số còn tồn đọng nhiều như vậy nên phải chuyển chức năng thi hành án sang cho cơ quan chuyên môn - Cơ quan thi hành án. Cơ quan thi hành án ra đời là một tất yếu trong sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống Tư pháp Việt Nam. Cơ quan thi hành án ra đời đã góp phần giải quyết số án tồn đọng từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác. Dần dần số lượng bản án, quyết định của Toà án sẽ được thi hành một cách kịp thời nhanh gọn. Khác với một số nước trên thế giới ở nước ta do cơ quan thi hành án nằm trong hệ thống cơ quan Nhà nước đảm nhiệm. ở một số nước như Pháp, Thuỵ Điển việc xã hội hoá công tác thi hành án dân sự rất cao. Thi hành án cũng có thể được thực hiện bởi những người không thuộc biên chế của nhà nước. Các cán bộ thi hành án rất ít phải dùng biện pháp cưỡng chế thi hành án. ở nước ta số lượng bản án được các bên tự nguyện thi hành là rất ít nên hầu như phải có sự can thiệp của cơ quan thi hành án thông qua sự hoạt động cưỡng chế của các chấp hành viên. Trong khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế chấp hành viên là người nhân danh quyền lực Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao cho, như vậy mới đảm bảo được hiệu quả của công việc. Và điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của nước ta, cũng như bản chất riêng của hoạt động thi hành án. Giai đoạn thi hành án dân sự là một giai đoạn khó khăn, phức tạp, cho nên để làm tốt giai đoạn này đòi hỏi các cán bộ thi hành án phải nắm chắc các qui định cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự. Kể từ khi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành đã có trên 10 năm áp dụng vào thực tiễn. Đây là một văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Trên cơ sở Pháp lệnh này, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã được hình thành trong cả nước, đưa công tác thi hành án dần dần di vào nề nếp, hiệu quả thi hành án ngày càng được nâng cao góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và trật tự kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 cũng không còn phù hợp, đã bộc lộ những điểm bất cập đòi hỏi phải được kịp thời bổ sung, sửa đổi. Về cơ bản Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là sự sao y nguyên bản các quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989. Vì vậy, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, không theo kịp quá trình đổi mới của đất nước ta trong thời kỳ chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của Đảng về cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Nhiều vấn đề vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ tục thi hành án chưa được giải quyết. Vì cơ sở pháp lý bị thiếu nên tình trạng án tồn đọng ngày càng nhiều. Để khắc phục những tồn tại trên sau một thời gian tích cực tiếp thu ý kiến đóng góp, cụ thể hoá một số chủ trương, chính sách về thi hành án. Sau nhiều lần chỉnh lý lấy ý kiến địa phương Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14-1-2004 và có hiệu lực từ ngày 01- 07-2004. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 được ban hành cũng là một bước phát triển mới của Pháp luật về thi hành án. Trước hết có thể thấy rằng Pháp lệnh này đã được sửa đổi bổ sung trên cơ sở Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 một cách cơ bản cả về nội dung và bố cục. Về bố cục Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 gồm 8 chương 70 điều. Về nội dung, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 có nhiều qui định mới so với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 như qui định về lệ phí thi hành án, miễn giảm thi hành án, kết thúc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án... Tóm lại, sau một thời gian dài pháp luật về thi hành án dân sự ngày càng hoàn thiện. Việc hoàn thiện Pháp lệnh thi hành án dân sự đã góp phần rất lớn vào việc đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự làm cho công tác này ngày càng đạt được hiệu quả. Chương II Nội dung một số qui định cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự I. Một số qui định chung. Khi bản án, quyết định của Toà án đã được đưa ra thi hành, thì việc thi hành những bản án, quyết định nhằm đảm bảo quyền lợi của các đương sự đã được Toà án giải quyết theo qui định của pháp luật. Đồng thời hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án chính là thể hiện quyền lực của Nhà nước, cho nên thi hành nghiêm chỉnh những bản án, quyết định đó cũng nhằm tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội, giáo dục mọi công dân ý thức tôn trọng pháp luật. Theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 phạm vi những bản án, quyết định thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự rất rộng bao gồm: - Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; - Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; - Quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án hình sự; - Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành chính; - Quyết định tuyên bố phá sản; - Quyết định của Trọng tài thương mại Việt nam; - Bản án, quyết định khác do pháp luật qui định; Trong phần này chúng tôi xin tập trung trình bày làm rõ những qui định cơ bản nhất của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. 1. Những bản án, quyết định được đưa ra thi hành Về nguyên tắc, những bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành phải là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều 2 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 qui định như sau: -Những bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật bao gồm: - Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. - Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; - Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; - Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. - Quyết định của Trọng tài thương mại Việt nam có hiệu lực thi hành - Những bản án, quyết định kể trên là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên được đưa ra thi hành. Nhưng ngoài ra Điều 2 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 còn qui định bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành án còn bao gồm những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. Việc thi hành ngay những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo giải quyết tốt vụ án. Các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật được thi hành ngay bao gồm: + Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhận người lao động trở lại làm việc; + Quyết định khẩn cấp tạm thời để đảm bảo lợi ích cấp thiết cho đương sự hoặc đảm bảo cho việc thi hành án. Những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn được pháp luật qui định đưa ra thi hành ngay là vì việc thi hành bản án, quyết định nhằm giúp người được thi hành án khắc phục ngay những khó khăn. Nếu đợi những bản án, quyết định này có hiệu lực pháp luật rồi mới thi hành sẽ không đảm bảo kịp thời các quyền và lợi ích chính đáng của đương sự được Nhà nước thừa nhận và bảo hộ. Trường hợp những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật được thi hành ngay khi đã đưa ra thi hành mà bị kháng cáo, kháng nghị thì cơ quan thi hành án vẫn tiếp tục cho thi hành và chỉ xoá sổ thụ lý khi có bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền. Các quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng có thể bị khiếu nại. Việc khiếu nại không làm đình chỉ thi hành chúng. Cơ quan thi hành án chỉ đình chỉ việc thi hành quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời bị khiếu nại khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại huỷ bỏ chúng hoặc đã có bản án, quyết định của Toà án về vụ án huỷ bỏ chúng. Như vậy, theo Điều 2 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì chúng ta thấy rằng những bản án, quyết định “có hiệu lực thi hành” không đồng nghĩa với những bản án, quyết định “có hiệu lực pháp luật” mà những bản án, quyết định “có hiệu lực thi hành” bao gồm một phạm vi rộng lớn hơn. Do vậy, những bản án, quyết định mặc dù chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay phải được đưa ra thi hành theo đúng qui định của pháp luật như bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự, các vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả. Khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản sao bản án hoặc quyết định có ghi: “để thi hành”. Khi các bản sao bản án, quyết định Toà án giải thích cho người được thi hành án biết quyền làm đơn và thi hành án. 2. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Việc xác định thẩm quyền thi hành án dựa trên cơ sở nơi nào Cơ quan thi hành án có điều kiện tổ chức thi hành án tốt thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án nơi đó có quyền ra quyết định thi hành án. Thông thường cơ quan thi hành án có điều kiện tổ chức thi hành án tốt là cơ quan thi hành án nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Trong trường hợp khác lại là nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có tài sản liên quan đến việc thi hành án hoặc có trụ sở. Vì ở những nơi này chấp hành viên có điều kiện tiếp xúc với đương sự, xác minh tài sản của họ...thuận lợi cho việc thi hành án. Cả ba Pháp lệnh thi hành án dân sự mà Nhà nước đã ban hành đều xác định thẩm quyền ra quyết định thi hành án dựa trên cơ sở đó. Căn cứ vào Điều 21 và Điều 24 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi Toà án đã ._.xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản, trụ sở liên quan đến việc thi hành án ra quyết định thi hành án. Các cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện và cơ quan thi hành án trong quân đội. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án của các cơ quan này qui định tại Điều 21 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 như sau: Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh ra quyết định thi hành các bản án quyết định sau: + Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; + Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền ra quyết định thi hành án của thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện nhưng do tính chất phức tạp liên quan đến nhiều huyện mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành; + Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi hành án cấp tỉnh; + Bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác; + Bản án dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Toà án Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; + Quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án quân khu ra quyết định thi hành các bản án, quyết định sau: + Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự quân khu, Toà án quân sự khu vực trên địa bàn của Toà án quân sự quân khu; + Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự Trung ương chuyển giao cho Cơ quan thi hành án cấp quân khu; + Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao gửi cho cơ quan thi hành án cấp quân khu; + Bản án quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện ra quyết định bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Toà án cấp tỉnh; bản án, quyết định Toà án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi hành án cấp huyện; bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác. 3. Uỷ thác thi hành án Việc uỷ thác thi hành án là việc Cơ quan thi hành án có thẩm quyền giao lại việc thi hành án cho Cơ quan thi hành án khác. Để đảm bảo việc thi hành án, pháp luật qui định trong trường hợp bản án, quyết định có liên quan đến nhiều người phải thi hành án mà những người này cư trú ở nhiều nơi khác nhau, hoặc tài sản thu nhập của họ ở những nơi khác nhau, người phải thi hành án chuyển đi nơi khác thì cần phải uỷ thác thi hành án. Với những trường hợp này, việc uỷ thác thi hành án nhằm đảm bảo việc thi hành án có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà nước, của xã hội và của mọi công dân. Trước đây việc uỷ thác thi hành án được qui định tại Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 5 Nghị định 69/CP ngày 18/10/1993 của Chính Phủ. Hiện nay, uỷ thác thi hành án dân sự được qui định tại Điều 24 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Thẩm quyền ra quyết định uỷ thác thuộc thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh, thủ trưởng Cơ quan thi hành án quân sự và thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện. Khi uỷ thác phải ra quyết định uỷ thác thời hạn ra quyết định uỷ thác không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định có căn cứ uỷ thác. Quyết định uỷ thác ghi rõ nội dung uỷ thác, khoản đã thi hành xong, khoản đang thi hành dang dở, khoản tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện uỷ thác. Nếu đã ra quyết định thi hành án khi uỷ thác phải thu hồi lại quyết định thi hành án đã ra. Quyết định uỷ thác gửi kèm theo bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản nếu có. Cơ quan thi hành án đã uỷ thác có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án chuyển giao bản án, quyết định, Viện kiểm sát cùng cấp và người được thi hành án biết việc uỷ thác. Khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành theo đơn yêu cầu của người được thi hành án thì phải có quyết định thi hành án của người có thẩm quyền mà ở đây là thủ trưởng Cơ quan thi hành án. Trước khi đưa bản án, quyết định ra thi hành thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải xác định có đủ cơ sở pháp lý để đưa ra thi hành chưa ( như: bản án, quyết định có hiệu lực thi hành không; người làm đơn thi hành án có phải người được thi hành án không...). Nếu có đủ cơ sở pháp lý để đưa bản án, quyết định ra thi hành thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án trong trường hợp phải uỷ thác thì các quyết định cũng tương tự như đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu. Việc vào sổ bản sao, quyết định việc vào sổ thụ lý, việc thi hành án cũng được thực hiện như đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu. Đối với trường hợp chủ động thi hành án cơ quan thi hành án nhận được uỷ thác mà không có điều kiện thực hiện uỷ thác thì sẽ uỷ thác tiếp cho cơ quan thi hành án nơi có điều kiện thi hành. Đối với những bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành theo yêu cầu của đương sự thì Cơ quan thi hành án nhận uỷ thác trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho đương sự và hướng dẫn cho họ đến Cơ quan thi hành án có thẩm quyền yêu cầu thi hành án trong trường hợp cơ quan này không có điều kiện thi hành. II. Thủ tục thi hành án dân sự 1. Cấp, chuyển giao bản sao bản án, quyết định a, Thủ tục cấp bản sao bản án, quyết định. Nhiệm vụ của thi hành án dân sự là phải thi hành nghiêm chỉnh kịp thời, đúng đắn bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án . Vì vậy theo qui định tại Điều 18 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì khi bản án, quyết định có hiệu lực thi hành thì Toà án có nghĩa vụ cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản sao bản án, quyết định có ghi “để thi hành”. Việc cấp bản sao bản án, quyết định trong thời điểm này nhằm làm cơ sở để người phải thi hành án thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình được qui định trong bản án, quyết định của Toà án. Đồng thời làm căn cứ để người được thi hành án thực hiện yêu cầu thi hành án của mình. Để đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án, khi cấp bản sao bản án, quyết định Toà án đồng thời phải giải thích luôn cho họ biết quyền làm đơn yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án và các vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án như: quyền yêu cầu hoãn thi hành án, quyền yêu cầu không thi hành án một phần hay toàn bộ bản án, quyết định của Toà án. Pháp luật tố tụng không qui định cụ thể thời hạn cấp bản sao bản án, quyết định của Toà án cho đương sự. Nhưng về nguyên tắc, kể từ khi bản án, quyết định được thi hành thì Toà án phải cấp cho đương sự. Việc cấp bản sao bản án, quyết định của Toà án được tiến hành trong một thời hạn nhất định. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm Toà án cấp ngay sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị. Đối với bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì ngay sau khi Toà án xét xử xong phải cấp ngay cho đương sự bản sao bản án, quyết định đó. b, Thủ tục chuyển giao bản sao bản án, quyết định của Toà án cho cơ quan thi hành án . Ngoài thủ tục cấp bản sao bản án, quyết định của Toà án cho đương sự Toà án còn có nghĩa vụ chuyển giao bản sao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án bởi lý do sau: Thứ nhất, bên cạnh quyền yêu cầu thi hành án của đương sự, Pháp luật còn qui định cho cơ quan thi hành án quyền chủ động đưa ra thi hành án những bản án, quyết định của Toà án để bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, trong những trường hợp này Toà án không phải cấp bản sao bản án, quyết định cho đương sự mà chuyển giao cho cơ quan thi hành án làm căn cứ chủ động ra quyết định thi hành. Thứ hai, theo pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, thì công tác thi hành án dân sự được tách ra khỏi Toà án và do cơ quan thi hành án đảm nhiệm. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Toà án chỉ ra các bản án, quyết định còn việc đưa ra thi hành những phán quyết đó trên thực tế thuộc trách nhiệm của cơ quan thi hành án. Để đảm bảo cho bản án, quyết định của mình đã tuyên được đưa ra thi hành, thì sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật Toà án phải chuyển giao bản sao bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án. * Thủ tục chuyển giao bản sao bản án, quyết định của Toà án: Theo qui định tại Điều 19 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, đối với những bản án, quyết định được thi hành theo yêu cầu của Toà án chỉ cấp bản sao bản án, quyết định cho người được thi hành mà không phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, vì trong các bản án, quyết định đều có phần án phí, đây là phần bản án, quyết định mà đương sự phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Do đó, Toà án vẫn phải chuyển giao cả bản sao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án. Trước đây tại Thông tư liên ngành số 981/TANDTC - VKSNDTC có hướng dẫn khi cấp cho đương sự, Toà án đều phải chuyển giao tất cả các loại bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án. Thời gian cấp bản sao bản án, quyết định hiện nay được thực hiện theo Điều 19 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 như sau: + Đối với bản án, quyết định của Toà án qui định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải gửi bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. + Đối với bản án, quyết định được qui định theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 2 của Pháp lệnh này thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải gửi bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra bản án, quyết định đó. Đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án đã ra quyết định phải chuyển giao ngay quyết định đó cho cơ quan thi hành án cùng cấp. + Khi chuyển giao bản án, quyết định Toà án phải gửi kèm theo biên bản kê biên, tạm giữ tang vật, tài sản, các tài liệu khác có liên quan( nếu có ). + Trong trường hợp nhận được yêu cầu của thủ trưởng Cơ quan thi hành án về việc giải thích bản án, quyết định thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Toà án đã ra bản án, quyết định đó phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản. Để đảm bảo cho quá trình thi hành án được tiến hành thuận lợi và nhanh chóng kịp thời giúp cho Cơ quan thi hành án cũng như chấp hành viên lắm bắt được nội dung vụ án một cách chính xác toàn diện để từ đó lập ra kế hoạch thi hành án thì khi chuyển giao bản sao bản án, quyết định, Toà án phải chuyển giao kèm theo các biên bản kê biên, biên bản tạm giữ tài sản, tang vật (nếu có) cho cơ quan thi hành án. Nếu Toà án chưa chuyển giao đầy đủ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu Toà án phải thực hiện yêu cầu đó. Sau khi nhận được bản sao bản án, quyết định Toà án chuyển giao, Cơ quan thi hành án phải vào sổ nhận bản sao bản án, quyết định và phải ghi rõ nội dung bản án, quyết định; nội dung biên bản kê biên, tạm giữ tài sản tang vật (nếu có). Việc vào sổ nhận bản sao bản án, quyết định của Toà án nhằm mục đích giúp cho Cơ quan thi hành án biết được nội dung bản án, quyết định mà Toà án phải chuyển giao để tiến hành việc phân loại. Đối với những phần quyết định thuộc quyền chủ động thì Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành. Đối với những phần thi hành theo đơn yêu cầu thì vào sổ theo dõi khi có đơn yêu cầu của đương sự, Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án. 2. Quyền yêu cầu thi hành án và thời hiệu thi hành án: a, Quyền yêu cầu thi hành án. Khi bản án, quyết định của toà àn đã có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự tự nguyện thi hành. Nếu các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án quyết định dân sự có quyền gửi đơn đến cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Đây là điểm khác biệt giữa Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã được bổ sung quy định, người phải thi hành án cũng có qưyền làm đơn thi hành án. Đơn yêu cầu thi hành phải được gửi kèm theo bản sao bản án,quyết định của Toà án. Người được thi hành án cũng có thể trực tiếp đến Cơ quan thi hành án yêu cầu thi hành án.Trong trường hợp đó Cơ quan thi hành án lập biên bản ghi rõ nội dung yêu cầu của đương sự. Như vậy nhà nước chỉ tham gia vào quá trình thi hành án khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành và người được thi hành án có yêu cầu. Đơn yêu cầu thi hành án phải được gửi trong thời hiệu thi hành án. b, Thời hiệu thi hành án: Thời hiệu thi hành án là thời hạn người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định. Nếu trong thời hiệu thi hành án, người được thi hành án, người phải thi hành án không yêu cầu thi hành án thì sau đó họ không có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định nữa. Việc qui định thời hiệu thi hành án buộc người được thi hành án phải yêu cầu thi hành án trong thời hạn do luật qui định. Nếu hết thời hạn đó thì người được thi hành án không có đơn yêu cầu thì bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành. Điều 25 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 qui định thời hiệu thi hành án dân sự như sau: - Thời hiệu chung về thi hành án dân sự: +Trong thời hạn 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân hay tổ chức có quyền gửi đơn đến Cơ quan thi hành án để yêu cầu thi hành án.Hết thời hạn đó, nếu người thi hành án, người phải thi hành án không có đơn yêu cầu thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật pháp luật sẽ hết hiệu lực thi hành. +Thời hiệu này được tính theo ngày nhận đơn, nếu đơn được trực tiếp đưa đến cơ quan thi hành án hoặc tính theo ngày gửi ghi trên dấu bưu điện nếu đơn gửi qua bưu điện. - Thời hiệu thi hành án trong trường hợp đơn yêu cầu thi hành án được trả lại hoặc việc thi hành án bị tạm ngừng. +Trong trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định của Toà án thì thời hạn 3 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. +Theo qui định tại Điều 29 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành mà xác định người phải thi hành án không có tài sản để thi hành, thì Cơ quan thi hành án trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành án. Trong trường hợp này, thời hiệu 3 năm được tính từ ngày người phải thi hành án có điều kiện thi hành. - Thời hiệu thi hành án theo định kỳ: + Bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 3 năm, được áp dụng cho từng kỳ, tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Ví dụ: Bản án có hiệu lực từ ngày 01/01/2000 ghi nhận sự thoả thuận ông A phải trả nợ cho ông B là 10.000.000 đồng nhưng phải trả làm 3 kỳ, mỗi kỳ 3 tháng. Ngày 20/01/2000 ông A đã trả cho ông B là 3.000.000 đồng và ngày 20/4/2001 lại trả 3.000.000 đồng nữa. Thời hạn trả 4.000.000 đồng lần thứ 3 là ngày 20/7/2002 nhưng ông A không trả được nữa. Do đó, thời hiệu tính từ ngày 20/7/2002 tức là tính hết ngày 20/7/2005 mà ông B không yêu cầu thi hành án để đòi nốt 4.000.000 đồng thì không có quyền yêu cầu thi hành án nữa. -Thời hiệu thi hành án trong trường hợp người được thi hành án vì trở ngại khách quan hoặc do điều kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án trong thời hạn luật định không tính vào thời hiệu thi hành án Khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 qui định như sau: + Nếu người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án. Việc cho thi hành bản án, quyết định sau khi đã hết thời hiệu thi hành gọi là khôi phục thời hiệu. Tại khoản 3 Điều 25 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 qui định về khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án do thủ trưởng Cơ quan thi hành án nơi có thẩm quyền ra quyết định thi hành án xem xét ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án, trong trường hợp không có căn cứ khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định không chấp nhận yêu cầu thi hành án quá hạn của người đó. Tóm lại: khi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật sẽ được các bên tự nguyện thi hành, Nhà nước chỉ tham gia vào quá trình thi hành án khi có yêu cầu của người được thi hành án, người phải thi hành án. Đơn yêu cầu thi hành án phải được làm trong thời hiệu thi hành án theo qui định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và được gửi kèm theo bản sao bản án. Thông thường sau khi có quyết định thi hành án thì các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành được đưa ra thi hành. Tuy nhiên có những trường hợp nhất định mà việc thi hành án có thể phải tạm ngừng, ngừng hẳn việc thi hành án hoặc trả lại đơn yêu cầu thi hành án mà pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 01/7/2004 gọi đó là hoãn thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án. 3.Chủ động ra quyết định thi hành án, ra quyết định thi hành án theo yêu cầu. a, Chủ động ra quyết định thi hành án. Bên cạnh quyền yêu cầu thi hành án của đương sự, pháp luật còn trao cho Cơ quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án. Theo Điều 22 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành phần bản án, quyết định sau đây: - án phí, lệ phí Toà án, trả lại tiền tạm ứng án phí; - Hình phạt tiền; - Tịch thu tài sản, truy thu thuế,truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; - Xử lý tài sản, vật chứng đã thu giữ; - Thu hồi đất theo qui định của Toà án; - Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án. Như vậy, thủ trưởng Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án là buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ nhất định về tài sản cho Nhà nước. Khoản thu này được nộp vào ngân sách Nhà nước và thuộc quyền sở hữu, quản lý của Nhà nước chứ nó không thuộc quyền sở hữu riêng của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào. Còn việc đưa ra quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời chính là để đảm bảo cho lợi ích cấp thiết của đương sự cũng như đảm bảo cho công tác xét xử và thi hành án được tiến hành thuận lợi. Pháp lệnh cũng qui định thời hạn thủ trưởng Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án là 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản sao bản án, quyết định còn đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra ngay quyết định thi hành án. b, Ra quyết định thi hành án theo yêu cầu. Căn cứ vào bản sao bản án, quyết định có hiệu lực thi hành và đơn yêu cầu của đương sự thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu ( Điều 23 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 ). Quá thời hạn trên mà thủ trưởng Cơ quan thi hành án không ra quyết định thi hành thì đương sự có quyền khiếu nại đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp việc không ra quyết định gây ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo qui định tại Điều 642 Bộ luật dân sự hoặc chịu trách nhiệm hình sự theo qui định tại Điều 305 Bộ luật hình sự. Đối với những bản án, quyết định có nhiều điều khoản, trong đó có một hoặc nhiều điều khoản thuộc diện chủ động và một hoặc nhiều điều khoản thuộc diện thi hành theo đơn yêu cầu thì thủ trưởng Cơ quan ra một quyết định thi hành chung cho tất cả các khoản thuộc diện chủ động thi hành, còn đối với các khoản thi hành án theo đơn yêu cầu thì tuỳ trường hợp cụ thể căn cứ vào số lượng yêu cầu thi hành án thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án có ra một hoặc nhiều quyết định thi hành. Đối với bản án, quyết định theo đó có nhiều người có quyền, nghĩa vụ liên đới thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra một quyết định thi hành chung cho những người có quyền và nghĩa vụ liên đới. Khi đã có quyết định thi hành án, Cơ quan thi hành án vào sổ thụ lý vụ án, ghi rõ căn cứ nội dung của quyết định thi hành án và chấp hành viên được phân công. Ngày thụ lý việc thi hành án được tính từ ngày vào sổ thụ lý thi hành án. Quyết định thi hành án phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, Toà án đã chuyển giao bản sao bản án, quyết định cho đương sự và người có quyền và lợi ích liên quan đến việc thi hành án để họ có điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình Cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án Khi ra quyết định thi hành án hoặc trong quá trình thi hành án nếu thấy bản án, quyết định của Toà án chưa rõ ràng hoặc có sai sót về số liệu do tính toán sai thì cơ quan thi hành án phải gửi văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định có trách nhiệm đính chính, trả lời bằng văn bản cho Cơ quan thi hành án. 4. Tổ chức thi hành án a, Tự nguyện thi hành án. Tự nguyện thi hành án là trường hợp sau khi có quyết định thi hành án của thủ trưởng Cơ quan thi hành án, người phải thi hành án tự mình thực hiện nghĩa vụ qui định trong bản án, quyết định của Toà án mà không cần có sự can thiệp bằng biện pháp cưỡng chế từ phía Cơ quan thi hành án. Việc đương sự tự nguỵên thực hiện nghĩa vụ của mình giúp cho quá trình thi hành án được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định mà Toà án đã tuyên trên thực tế mà không gây lên mâu thuẫn, bất đồng giữa các đương sự, tránh được những vụ án phát sinh từ việc thi hành án. Mặt khác, nó còn tiết kiệm được tiền của, công sức của Nhà nước cũng như của các đương sự trong quá trình tổ chức thi hành án. Tuy nhiên cần phân biệt biện pháp tự nguyện thi hành án với trường hợp đương sự tự nguyện thi hành án trước khi có quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành. Trong trường hợp người có nghĩa vụ qui định trong bản án, quyết định của Toà án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo yêu cầu của người có quyền thì không làm phát sinh quan hệ pháp luật thi hành án dân sự mà chỉ làm phát sinh quan hệ pháp luật thông thường giữa các bên đương sự. Vì vậy, thực chất đây không phải là biện pháp tự nguyện thi hành án. Theo qui định tại khoản 3 Điều 6 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì Chấp hành viên có thể định thời hạn tự nguyện một lần hoặc nhiều lần nhưng tổng số thời gian không quá 30 ngày. Hết thời hạn đó, nếu đương sự không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế. b, Cưỡng chế thi hành án. Cưỡng chế thi hành án là biện pháp bảo đảm cho việc thi hành án được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình, bao gồm các biện pháp kê biên và bán đấu gía tài sản, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang cho người khác giữ, cưỡng chế trả nhà, cưỡng chế giao đồ vật, cưỡng chế hành vi trái pháp luật. Việc áp dụng một hay nhiều biện pháp và áp dụng biện pháp nào là do chấp hành viên lựa chọn và quyết định tuỳ thuộc vào vụ việc cụ thể. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng một trong ba trường hợp sau: - Đối với bản án, quyết định thuộc thẩm quyền chủ động thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế khi cần thiết mà không phải định cho người phải thi hành án thời gian tự nguyện thi hành án; - Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu hết thời hạn tự nguyện mà đương sự không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế ngay sau đó; - Trong quá trình tổ chức thi hành án, kể cả đang trong thời hạn tự nguyện thi hành mà người phải thi hành án có biểu hiện tẩu tán hoặc huỷ hoại tài sản thì chấp hành viên có thể áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế là kê biên nhằm bảo vệ tài sản đảm bảo cho việc thi hành án. Để đảm bảo tính khách quan, công khai của hoạt động thi hành án cũng như nhằm đảm bảo tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế, Chấp hành viên không được tiến hành trong khoảng thời gian từ 22h hôm trước đến 6h hôm sau trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Trong trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế, người phải thi hành án chụi chi phí về cưỡng chế thi hành án bao gồm tiền thuê giữ, bảo quản tài sản kê biên, tiền thuê chuyên chở tài sản, chi phí tổ chức định giá tài sản... 5. Hoãn thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án a, Hoãn thi hành án. Hoãn thi hành án được qui định tại Điều 26 Pháp lệnh thi hành án năm 2004. Theo Điều 26 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định hoãn thi hành án trong những trường hợp sau: - Người phải thi hành án ốm nặng hoặc chưa xác định được nơi cư trú hoặc vì lý do chính đáng khác không thể thực hiện được nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định người đó phải tự mình thực hiện. Thông thường đây là nghĩa vụ có gắn liền với nhân thân như: viết bài cải chính trên báo chí vì đã có bài viết không đúng sự thật, xúc phạm danh dự người khác. Với những việc mà pháp luật qui định cho người phải thi hành án phải tự mình thi hành mà người phải thi hành án ốm nặng không tự mình thi hành được hoặc chưa xác định được nơi cư trú hoặc vì lý do chính đáng khác không thể thực hiện được. Nếu phải thi hành án về mặt tài sản mà người phải thi hành án ốm nặng nhưng họ vẫn có tài sản thì pháp luật qui định vẫn tiến hành thi hành án. - Pháp luật còn qui định những trường hợp người được thi hành án yêu cầu hoặc đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án thì phải có đơn yêu cầu hoặc đồng ý cho hoãn thi hành án của người thi hành án. ở đây người được thi hành án và người phải thi hành án có thể đến trực tiếp Cơ quan thi hành án yêu cầu hoãn thi hành án. Trong trường hợp này Chấp hành viên lập biên bản ghi nhận yêu cầu của đương sự và đương sự kí tên vào biên bản. Pháp luật qui định có những trường hợp này thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án quyết định hoãn thi hành án vì xuất phát từ quyền tự định đoạt của người được thi hành án họ có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành án cho mình nhưng cũng có quyền yêu cầu với Cơ quan thi hành án có thẩm quyền hoãn thi hành án cho người phải thi hành án. - Người phải thi hành nộp các khoản ngân sách Nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản đó không thuộc loại được kê biên hoặc có tranh chấp về tài sản kê biên thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định hoãn thi hành án. - Ngoài những trường hợp thủ trưởng Cơ quan thi hành án được hoãn thi hành án, khoản 2 Điều 26 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 còn qui định người có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án có quyền hoãn thi hành án một lần để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị. Khi phát hiện những bản án, quyết định có vi phạm pháp luật cần phải hoãn thi hành án. Việc hoãn như thế này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự, ngăn chặn những hậu quả xấu có thể xảy ra do thi hành những bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật. Trong những trường hợp này, người có quyền kháng nghị phải thông báo cho Cơ quan thi hành án và thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định hoãn thi hành án. Thời hạn hoãn thi hành án không quá 90 ngày kể từ ngày ra quyết định thi hành án. Hết thời hạn đó mà không có kháng nghị thì Cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục thi hành án và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị biết. Trong trường hợp Cơ quan thi hành án đã áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án rồi mới nhận được thông báo hoãn thi hành án thì phải thông báo ngay cho người có thẩm quyền kháng nghị biết. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày điều kiện hoãn thi hành án không còn hoặc đã hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị mà không có kháng nghị thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải ra quyết định tiếp tục thi hành án. -Trong trường hợp nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị mà bản án quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị biết. b, Tạm đình chỉ thi hành án Tạm đình chỉ thi hành án được qui định tại Điều 27 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Việc thi hành án bị tạm đình chỉ trong những trường hợp sau: - Người phải thi hành án bị Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi người phải thi hành án bị Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, trừ việc thi hành các khoản tiền qui định theo Pháp lệnh này đó là những khoản tiền: tiền cấp dưỡng, tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. - Người đã kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ thi hành không quá 6 tháng, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án. Thủ trưởng Cơ quan ra quyết định tiếp tục thi hành án khi nhận được quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án hoặc khi có quyết định rút kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị. Trong trường hợp nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị mà bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người kháng nghị biết c, Đình chỉ thi hành án. Thi hành án luôn là một quá trình phức tạp vì vậy pháp luật thi hành án phải qui định một cách chặt chẽ cho giai đoạn này. Quá trình thi hành án do nhiều nguyên nhân khác nhau có thể phải đình chỉ việc thi hành án. Đình chỉ thi hành án là việc chấm dứt hoàn toàn thi hành án. Trong quá trình thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành của Toà án còn nẩy sinh rất nhiều vấn đề như các bên đương sự chết mà quyền và nghĩa vụ của họ theo bản án, quyết định không được chuyển cho người thừa kế, bản án, quyết._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0049.doc
Tài liệu liên quan