Một số vấn đề về thực trạng & phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước

Lời nói đầu Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn xác định "Phát triển nền kinh tế nước ta theo hướng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong đó Đảng xác định "kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế". Công cuộc đổi mới đã đem lại cho nền kinh tế nước ta thay đổi về mọi mặt. Nền kinh tế đã có sự tăng trưởng liên tục trong nhiều năm, chúng ta đã khắc phụ được tình trạng khủng hoảng về kinh tế xã hội, cơ chế kinh tế mớ

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về thực trạng & phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i đã được xác lập. Tuy nhiên, cơ chế mới cũng đã và đang tạ ra cho chúng ta những thuận lợi và khó khăn đòi hỏi ddòi hỏi chúng ta phải đổi mới để khai thác những thuận lợi và khắc phục khó khăn. Cùng với điều đó, cơ chế mới cũng đặt ra cho các doanh nghiệp nước ta những cơ hội và thách thức lớn, buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải biết tận dụng những cơ hội để tiến lên. Thực tiễn từ sau công cuộc đổi mới , hàng loạt các doanh nghiệp nước ta không thích ứng được với cơ chế mới hoạt động không hiệu quả buộc phải phá sản. Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp vươn lên làm ăn có lãi và có hiệu quả một cách thích ứng vững chắc với cơ chế mới. Hiện nay trong nền kinh tế nhiều thành phần, để thực hiện được mục tiêu kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì một vấn đề rất quan trọng đó là đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Một trong các biện pháp được chính phủ tiến hành trong thời gian qua đó là thành lập các Tổng công ty nhà nước (TCTNN) với hai quyết địng được chính phủ ban hành. Đó là quyết định 91/TTG và quyết định 90/TTG của thủ tướng ban hành ngày 7/3/1994. Trong đó quyết định 91/TTG với việc thí điểm thành lập TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh (TĐKD) gọi chung là TCT 91, quyết định 90/TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và thành lập công ty theo mô hình của quyết định này gọi chung là TCT 90. Tuy mới thành lập, các TCT đã và đang thể hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhưng trong quá trình hoạt động của các TCTNN cũng nảy sinh nhiều tồn tại và vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để tiếp tục hoàn thiện mô hình này. Để làm rõ hơn vấn đề đó trong phạm vi đề án môn học này em một số nội dung về thực trạng và hương nâng cao hiệu quả hoạt động của TCTNN. Tên đề tài: "Một số vấn đề về thực trạng và hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty nhà nước". Nội dung của đề tài gồm 2 phần: - Phần I: Tổng quan về Tổng công ty nhà nước - Phần II: Thực trạng và hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của TCTNN Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. I. Tổng quan về mô hình tổng công ty nhà nước 1. Quá trình hình thành và phát triển a. Sự cần thiết phải thành lập các TCT ở nước ta Để đổi mới nền kinh tế, với việc chuyển nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế thị trường, mở cửa nền kinh tế, cùng với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, khai thác những cơ hội kinh doanh và gây ra những thách thức về cạnh tranh, hội nhập. Trong tình hình đó, việc thành lập các TCTNN là rất cần thiết và thoả mãn một số đòi hỏi của môi trường kimh doanh mới. Trước hết, đó là vấn đề ngành kinh tế quốc dân, một số ngành đã đạt được trình độ tích tụ và tập trung nhất định, trong đó có những ngành trọng yếu, then chốt đang cần có những giải pháp thích hợp để nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung để có thể phát huy đầy đủ hơn vai trò làm động lực cho sự phát triển nền kinh tế. Trình độ tích tụ và tập trung sản xuất trực tiếp phản ánh trình độ phát triển của môi trường ngành, mỗi doanh nghiệp thông qua đó phản ánh trình độ ngành và vị trí của chúng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. ở nước ta, nền kinh tế để đạt được những thành tựu nhất định và có những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế, một số ngành đã đạt được một số trình đọ tích tụ và tập chung hoá sản xuất cao như Điện lực, Bưu chính viễn thông, Dầu khí, xi măng, cà phê, cao su...Những ngành này đều chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Điều này có ý nghĩa lớn đối với mô hình TCT theo hình thức TĐKD bởi vì nó ra đời khi mà sự tích tụ và tập trung đạt tới một mức độ nào đó. Thứ hai, vấn đề nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Mặc dù nhiều ngành đã đạt được mức tăng trưởng cao, mức độ tập chung vốn lớn nhưng nhu cầu về vốn ngày càng tăng để đầu tư phát triển vì thế mà hầu hết các công ty ở một số ngành then chốt lại đang thiếu vốn. Ví dụ, để thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2010 TCT Bưu chính viễn thông cần khoảng 28695 tỷ đồng, Tổng công ty hàng không dân dụng có nhu cầu đầu tư trong 10 năm (1996-2005) khoảng 5690 triệu USD, TCT dầu khí cần khoảng 14.165 triệu USD, TCT thép cần 6.382 triệu USD từ 1994-2010. Để đáp ứng được nhu cầu về vốn lớn như vậy thì một sự riêng lẻ rất khó khăn trong quá trình tạo nguồn vốn. Điều này chỉ thực hiện đưọc khi mô hình TCT ra đời. Thứ ba, xét về khả năng cạnh tranh, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước trong thời là đổi mới là doanh nghiệp vừa và nhỏ, do cá sự manh mún, phân tán và trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh trong thị trường nội địa và quốc tế là rất yếu, trừ một số ngành có khả năng cạnh tranh nhưng không phải do năng lực công nghệ mà do các yếu tố khác như độc quyền về nguyên liệu (ví dụ than) hoặc một số mặt hàng truyền thống. Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, thì trình độ tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định nhưng xét riêng các doanh nghiệp thì trừ một vài doanh nghiệp có quy mô lớn trang bị tương đối hiện đại còn lại là hầu hết có quy mô nhỏ bé. Nếu căn cứ vào 2 tiêu thức: vốn và lao động để xem xét thì trên 2/3 số DNNN có hiệu số lao động dưới 200 người, chỉ có khoảng 4% số lao động trên 100 người. Gần 1/2 số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, chưa đầy 20% có vốn 5 tỷ đồng, chỉ có 1% số doanh nghiệp có, vốn trên 20 tỷ đồng. Quy mô hạn chế do đó trình độ công nghệ cũng thấp kém, xét trong phạm vi các doanh nghiệp nhà nước chỉ có 18% được đầu tư mới. Sau năm 1996 bình quân 14-15 năm mới đổi mới trang bị. Tài sản cố định hao mòn gần hết và cũ kỹ lạc hậu. Mặt khác, từ khi chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp trong các lĩnh vực hoạt động đều phải đối đầu với sự cạnh tramh ngày càng gay gắt. Về nguyên tắc, trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường liên kết và cạnh tranh với nhau. Thực tế các quan hệ kinh tế tuy đã được thiết lập và trong một số trương hợp đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, nhưng nhìn chung, tình trạng cạnh tranh có xu hướng lấn lướt các quan hệ kinh tế không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp trong nước thậm chí các doanh nghiệp các doanh nghiệp trong cùng một ngành cũng cạnh tramh với nhau gây ra những bất lợi và thua thiệt trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại, vấn đề đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết, nhưng cùng với điều đó là vấn đề liên kết kinh tế và cạnh tranh có trật tự cũng phải được quan tâm nhằm tăng sức mạnh chung của các TCT, trong đó thành lập các TCT theo mô hình TĐKD là một trong những công việc của quá trình đó và là một yêu cầu cấp thiết. Thứ tư, xét về năng lực quản lý kinh tế của cơ quan nhà nước, sự ra đời của TCTNN theo mô hình TĐKD đã có từ lâu. Các TCT được thành lập theo mô hình TĐKD được coi là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và là một trong những nội dung của cải cách DNNN trong điều kiện cơ chế quản lý mới. Hiện nay vẫn còn tình trạng phân tán trong quản lý các DNNN. Các DNNN do nhiều cơ quan khác nhau quản lý. Trong số các DNNN dược đưng ký thành lập lại có tới 4573 doanh nghiệp do địa phương quản lývà có tơi 1971 doanh nghiệp do các bộ và cơ quan trung ương quản lý. Trên cùng một địa bàn lãnh thổ, các doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương chồng chéo, trùng lắp nhau về phương hường sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn trên địa bàn Hà Nội có 355 DNNN thì 235 doanh nghiệp do nhà nước quản lý và 120 do chính quyền thành phố quản lý. Nhưng các doanh nghiệp trung ương lại có 22 cơ quan chủ quản và doanh nghiệp địa phương lại có tới 13 cơ quan chủ quản khác nhau. Sự phân tán chồng chéo đó không thể là điều kiệ tốt để nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, cũng không thể bảo đảm phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thông DNNN và hệ thống kinh tế quốc dân. Sự tồn tại các cơ quan hành chính chủ quản đối với các doanh nghiệp đã gây nên những cản trở cho việc thực hiện chức năng "người nhạc trưởng" trong hoạt động điều hành của hệ thống kinh tế quốc dân của nhà nước, cản trở sự phất huy và tính tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Thực tiễn đã cho thấy mô hình liên hiệp xí nghiệp và TCT kiểu cũ đã phát huy được thế mạnh trong thời kỳ bao cấp nhưng trong thời kỳ nền kinh tế thị trường nó bộc lộ rất nhiều hạn chế. Nhiều liên hiệp xí nghiệp biến thành một cấp trung gian ít có tác dụng giúp đỡ các doanh nghiệp có khi gây ra những khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Vì thế thành lập các TCT theo mô hình TĐKD là cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Cs thể thấy rõ điều này qua việc các TCT ra đời, cho đến nay với việc xoá bỏ chế độ chủ quản cơ quan hành chính đã tạo cho các doanh nghiệp quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế trên cơ sở đảm bảo các cơ quan nhầ nước thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan này. Thứ năm, về mặt quan hệ kinh tế đối ngoại. Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi các doanh nghiệp nước ta phải tận dụng những cơ hội kinh doanh thuận lợi. Nền kinh tế mở cửa các quan hệ kinh tế đối ngoại được phát triển mạnh đặc biệt là trong quan hệ liên doanh liên kết. Về cơ bản hoạt động liên doanh, liên kết nhằm để học hỏi kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp nước ta. Nhưng néu các doanh nghiệp riêng lẻ thực hiện liên doanh liên kết sẽ gây nhiều bất lợi. Tỷ lệ vốn góp ít, khả năng tài chính nhỏ bé và kinh nghiệm non kém sẽ bị bên đối tác nước ngoài chèn ép vầ phải bán phần vốn góp cho nước ngoài khi liên doanh bị thua lỗ, đó là một thực tế diễn ra trong thời gian qua. Việc ra đời các TCTNN theo mô hình TĐKD là cần thiết nhằm tăng cường tiềm lực tài chính đảm bảo cho các hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. b. Chủ trương của Đảng và nhà nước về việc thành lập TCTNN ở nước ta Với mục đích phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vì thế mà trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, thì vấn đề đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, mà trọng tâm là các doang nghiệp nhà nước (DNNN), được coi là một trong các nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu phải được xúc tiến với nhịp độ nhanh, vững chắc và có hiệu quả. Việc ứng dụng các mô hình quản lý mới nhằm phát huy hiệu quả của các DNNN là rất cần thiết khi mà mô hình cũ đã bộc lộ nhiều hạn chế, xuất phatá từ hoàn cảnh đó, Đảng và nhà nước đã xác định chủ trương thành lập các TĐKD thông qua việc thí điểm thành lập các TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Ngày 7/3/1994 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 91/TTG về "thí điểm thành lập các TĐKD" với mục đích tạo điều kiên thúc đẩy tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đông thời chính phủ đưa ra quyết định 90/TTG về việc sắp xếp lại các DNNN, xoá bỏ những hoạt động có tính chất trung gian, trả lại những nhiệm vụ có tính quản lý nhà nước cho cơ quan quản lý ngành. Trong chủ trương xoá bỏ chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Theo quyết định 91/TTG các đơn vị được lựa chọn làm thí điểm là một số công ty lớn có mối liên hệ theo ngành và theo lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp trung ương hay do địa phương quản lý có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo những yêu cầu cho thị trường trong nước có triển vọng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Chủ trương thành lập các TCTNN theo hướng TĐKD đã được nhà nước đề cập trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991 về việc "sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của cơ chế thị trường. Xây dựng một số TCT hoặc liên hiệp xí nghiệp có quy mô lớn, có uy tín lớn và khả năng cạnh tranh trong quam hệ kinh tế với nước ngoài". Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VII (khoá IV) của Đảng khẳng định: "Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ và tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từng bước xoá bỏ chế độ bộ chủ quản cấp hành chính chủ quản đối với nhà nước. Mô hình TĐKD đã tồn tại ở nhiều nước trên thế giới từ khá lâu và đã phát huy được sức mạnh của nó trong việc mở rọng thị trường nước ngoài như các tập đoàn lớn với các công ty đa quốc gia như: Tập đoàn Misubishi của Nhật, Genera Motor (Mỹ) và các ??? ở Hàn Quốc. Chủ trương thành lập các TCTNN theo hướng TĐKD là một chủ trương lớn và cần thiết nhằm củng cố vai trò của nền kinh tế nhà nước trong điều kiện hiện nay. c. Vai trò của các TCTNN. Qua các TCTNN được thành lập có thể thấy rõ một số vai trò sau: Thứ nhất, tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của cả TCT và của từng doanh nghiệp thành viên. TCT có thể tập hợp được các nguồn lực vật chất, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên tt, có điều kiện mở rộng tt đặc biệt là tt nước ngoài. Thứ hai, các TCT có vai trò trong việc tập trung và điều hoà các nguồn vốn. Các TCT có thể huy động vốn từ các thành viên, hoặc từ bên ngoài và điều hoà các nguồn vốn để thực hiên các chương trình đầu tư theo chiều sâu, đầu tư vào những ngành có triển vọng phát triển cao cần nguồn vốn lớn và có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên khi gặp khó khăn về nguồn vốn. Việc đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ cần lượng vốn lớn do đó phải có sự tập trung vốn lớn mới thực hiện được. Việc tập trung vốn vào đầu tư có trọng điểm sẽ khắc phục được tình trạng vốn bị phân tán. Mặt khác, vốn có thể huy động từ các doanh nghiệp thành viên do đó các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ chặt chẽ với TCT và với các thành viên khác. Nhờ mối liên hệ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất các phương hướng chiến lược của các doanh nghiệp trong TCT phát triển kinh doanh chống lại sự cạnh tranh của các công ty nước ngoài. Thứ ba, các TCT có vai trò trong việc triển khai ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Ngoài việc tập trung các nguồn vốn, các TCT còn có vai trò trong việc tập trung các nguồc lực về con người trong triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng vật chất lớn mà mỗi công ty riêng rẽ gặp rất nhiều khó khăn. Việc tập trung các nguồn vốn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cần thiết cho triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi phải có sự phối hợp của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu cần thiết. Chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty mới tạo được tiềm năng to lớn đó về nghiên cứu khoa học công nghệ. Mặt khác, nhờ sự liên kết của các doanh nghiệp thành viên trong TCT có thể thực hiện trao đổi thông tin và trao đổi những kinh nghiêm trong việc thực hiện nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ. Từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành viên có thể ứng dụng những thành tựu mới nhất vào sản xuất, sử dụng những thông tin và kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác cho doanh nghiệp của mình. Thứ tư, TCT có vai trò trong việc giải quyết các vấn đề và định hướng cho các doanh nghiệp thành viên trong quan hệ kinh tế với nước ngoài như trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Ngoài việc trao đổi thông tin trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ thì trong vấn đề chuyển giao công nghệ các công ty sẽ thực hiện hiệu quả hơn do các công ty có thể trao đổi thông tin trong lĩnh vực này, điều đó sẽ tránh cho vấn đề trùng lắp công nghệ chuyển giao hoặc có thêm kinh nghiệm chuyển giao công nghệ có hiệu quả. Cuối cùng, đối với các TCTNN hiện nay, ngoài các vai trò quan trọng nêu trên thì TCTNN còn có vai trò là công cụ vật chất của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế nhằm định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được mục tiêu đó thì bộ phận doanh nghiệp quốc doanh phải nắm vai trò chủ đạo và thông qua các DNNN, nhà nước có thể tác động tới định hướng phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các TCTNN có vai trò trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận kinh tế quốc doanh để kinh tế quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo của mình. Trên thực tế, các TCT ở nước ta đã và đang nắm giữ những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta như điện lực, bưu chính viễn thông, thép, xi măng.v.v... và những ngành có tiềm năng phát triển và được ưu tiên phát triển cao để tạo động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, các TCT hoạt động có hiệu quả sẽ có vai trò trong việc góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng nguồn thu ngân sách, góp phần làm ổn định chính chị xã hội trong nước. 2. Những đặc điểm cơ bản của TCTNN ở nước ta hiện nay. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại 2 loại hình TCTNN. Đó là TCT 91 (thành lập theo quyết định 91 TTg) và TCT 90 (thành lập theo quyết định 90 TTg). Giữa hai loại TCT này có sự phân biệt dựa trên một số vấn đề: Quy mô vốn pháp định, số lượng doanh nghiệp thành viên, cấp có thẩm quyền quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ nhiệm nhân sự của bộ máy của TCT. Tính đến nay, cả nước có 18 TCT 91 và 77 TCT 90 qua những doanh nghiệp đang tồn tại hiện nay ta có thể rút ra một số vấn đề sau: Đối với TCT 91 thí điểm thành lập TĐKD có một số đặc điểm đáng chú ý sau: Thứ nhất, xét về quy mô, các TCT ở nước ta đều có qui mô tương đối lớn xét trên các mặt: vốn, doanh thu và số lượng thành viên tham gia. Điều này một phần là do quy định của chính phủ (Theo quyết định 91 TTg của thủ tướng chính phủ thì các TCT phải có vốn pháp định từ 1000 tỷ đồng trở lên và phải có ít nhất 7 thành viên tham gia). Theo tính toán đến ngày 31-12-1993, tổng giá trị tài sản cố định của TCT dầu khí là 180,5 tỷ đồng và 948 triệu USD tương đương 10428 tỷ đồng. Doanh thu của các đơn vị đều ở mức cao. Ví dụ TCT Bưu chính viễn thông đạt doanh thu 1920,31 tỷ đồng, TCT thép là 2693 tỷ đồng, TCT hàng không là 2320 tỷ đồng. Về số lượng thành viên, TCT Bưu chính viễn thông có 17 doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, 59 đơn vị thanh toán phụ thuộc, 12 đơn vị sự nghiệp. TCT Giấy Việt Nam có 15 doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, một đơn vị hạch toán phụ thuộc và 2 đơn vị sự nghiệp. Thứ hai, các TCT đều nắm giữ những vị trí trong mỗi ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vị trí trọng yếu này thể hiện rõ trên hai mặt: - Sản lượng sp của TCT chiếm đại bộ phận sản lượng trong toàn ngành. Do vậy, sự phát triển của TCT có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp khác không nằm trong thành phành của TCT. Chẳng hạn TCT thép năm 1993 chiếm 99,6% tổng sản lượng thép cả nước, TCT xi măng chiếm 97,9%. - Sự phát triển của ngành và của TCT có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, các TCT được thành lập đều thuộc những ngành trọng yếu, được nhà nước ưu tiên pr và có triển vọng phát triển cao. Thứ ba, thành phần của các TCT rất đa dạng nhưng có nét chung. Các TCT ở nước ta hiện nay về cơ bản là thuộc sở hữu nhà nước, do đó gọi là TCTNN. Trong quá trình thành lập. TCT đã thực hiện việc sắp xếp lại tổ chức, từng bước xoá bỏ sự phân tán của các doanh nghiệp. Thành phần các doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp do trung ương quản lý và doanh nghiệp do địa phương quản lý. Điều đó có nghĩ là tình trạng chia cắt các doanh nghiệp thuộc trung ương quản lý và chính quyền địa phương quản lý về cơ bản đã được xoá bỏ tạo điều kiện thuận lợi để thống nhất và đầu tư phát triển. Tuy vậy, cũng có những TCT thành phần về cơ bản không có gì thay đổi so với trước khi thành lập loại hình kinh doanh mới này. Chẳng hạn như TCT điện lực, xi măng, thép... ở các TCT này, các đơn vị thành viên của TCT có quan hệ với nhau về cùng tính chất ngành. Nói cánh khác tính đơn ngành của của các TCT thể hiện rõ nét. Nét mới đáng chú ý trong thành phần các TCT nhà nước là các TCT đều có công ty tài chính, một đặc trưng của mô hình của mô hình tập đoàn kinh doanh. Ví dụ TCT than thành lập công ty tài chính than, TCT điện lực có công ty tài chính điện lực. Thứ tư, các TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh đều có chung nền tảng tổ chức ban đầu. Đó là sự chuyển đổi từ liên hiệp xí nghiệp, TCT kiểu cũ sang TCT theo mô hình TĐKD. Nói cách khác, sự thành lập chúng là kết quả trực tiếp của quá trình thực hiện quyết định 91 TTg về thí điểm thành lập TĐKD và quyết định 90 TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Điều này cho thấy việc thành lập các TCT theo mô hình TĐKD ở nước ta có thuận lợi là dựa trên cơ sở đk tiền đề đã có. Song nếu không xác định rõ tính chất của loại hình kinh doanh mới này sẽ không tránh khỏi việc đi theo lối mòn của các tổ chức tiền thân đã mắc nhiều khuyết điểm. Thứ năm, xét về cơ cấu tổ chức quản lý. Các TCT ở nước ta có cơ cấu tổ chức bộ máy cũng gần giống như công ty cổ phần nhưng về sở hữu lại khác. Như đã đề cập, các TCT về cơ bản thuộc sở hữu nhà nước. Cơ cấu bộ máy TCT bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị của tập đoàn gồm 7 - 9 thành viên do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm thực hiện các nhiệm vụ đại diện cho nhà nước về phần vốn góp của nhà nước trong TCT chịu trách nhiệm trước chính phủ và trước luật pháp. Tổng giám đốc do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm theo đề nghị của HĐQT, TGĐ là đại diện pháp nhân của TCT chịu trách nhiệm trước HĐQT trước người bổ nhiệm mình và trước pháp luật về hoạt động điều hành TCT. Ban kiểm soát có 5 thành viên trong đó có thành viên HĐQT làm trưởng ban theo sự phân công của HĐQT và 4 thành viên khác do HĐQT quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do HĐQT giao về việc kiểm tra, giám sát hoạt động diều hành của TCT, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên của TCT trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật, điều lệ TCT, các nghị quyết và quyết định của HĐQT. Đó là đặc điểm của TCT91 theo mô hình tập đoàn kinh doanh. So với các TCT 91 các TCT 90 về cơ bản cũng mang những đặc điểm trên như của TCT 91 nhưng có một vài khác biệt ở chỗ: Về quy mô, TCT 90 có mức vốn và doanh thu nhỏ hơn nhiều so với TCT 91. Vốn bình quan của 1 TCT 90 là 280 tỷ đồng rất nhỏ so với mức vốn bình quan 3661 tỷ đồng của TCT 91 theo số liệu năm 98. Năng lực sản xuất của TCT 90 rất nhỏ bé. Mặt khác xét về vị trí trong các ngành kinh tế quốc dân không phải là các đơn vị đều chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế nhưng là các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong ngành và có đóng góp lớn cho nền kinh tế. Một số TCT 90 hoạt động trong những ngành không thuộc định hướng phát triển của chính phủ chẳng hạn TCT thuốc lá... Cũng như TCT 91, các TCT 90 ra đời trên cơ sở 250 TCT kiểu cũ được thành lập trước năm 1991 và do đó cũng có chung nền tảng ban đầu. Thành phần của các TCT 90 về cơ bản cũng như của TCT 91 và cũng mang tính đơn ngành rõ nét. Về cơ cấu tổ chức bộ máy, cũng giống như đối với TCT 91 nhưng chỉ khác ở chỗ người ra quyết định thành lập không phải là thủ tướng chính phủ mà là thủ tướng uỷ nhiệm thành ???. Người ra quyết định thành lập sẽ bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, các bộ phận khác cũng hoạt động giống như TCT 91. II. Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước. 1. Thực trạng: a. Những kết quả đạt được: Tính đến năm 2000 cả nước có 95 TCT trong đó có 18 TCT được thành lập theo quyết định số 91TTG của chính phủ. Trong các TCTNN có 1392 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập bằng 24% số doanh nghiệp hiện có. Riêng 17 TCT 91 trong năm 1999 có tới 460 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập chiếm 9% tổng số doanh nghiệp hiện có. Các TCTNN này đều nằm trong những ngành kinh tế quốc dân quan trọng, trong đó bộ công nghiệp có 19 TCTNN (7 TCT 91 và 12 TCT 90) bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn có 18 TCTNN (4 TCT 91 và 14 TCT 90) bộ giao thông vận tải có 15 TCT (trong đó có 2 TCT 91 và 13 TCT 90) bộ xây dựng có 13 TCTNN (1 TCT 91 và 12 TCT 90). Nếu so với toàn bộ các DNNN thì TCT 91 và TCT 90 mặc dù chiếm 24% số lượng doanh nghiệp nhưng lại chiếm tỷ lệ 66% về vốn, 60% về lực lượng lao động, 69% về nộp ngân sách nhà nước. Các TCT đã thể hiện được vị trí then chốt trong nền kinh tế. Có thể ghi nhận vị trí quan trọng của 17 TCT 91 qua các con số như sau: các TCT 91 chỉk chiếm 9% số lượng doanh nghiệp nhưng lại chiếm 54,9% về vốn, 64,2% về lợi nhuận trước thuế, và 54,9% về nộp ngân sách. Từ sau khi thành lập đến nay, nhiều TCT đã nhanh chónh đi vào ổn định, khắc phục khó khăn, vươn lên đạt kết quả đáng kể trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều TCT đã phát huy được vai trò chủ lực của mình trong ngành và nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên chức và tích cực tham gia các chính sách xã hội. Các TCT đã đạt được mức tăng trưởng được giao về giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu thu nộp ngân sách lãi, lỗ, bình quân thu nhập của cán bộ công nhân viên. Kim ngạch xuất khẩu và các chỉ tiêu khác đều tăng qua các năm. Một số TCT ngày càng lớn mạnh, có tiềm lực phát triển, hoạt động có hiệu quả ổn định vững chắc như TCT Bưu chính viễn thông, TCT dầu khí, TCT điện lực. Các công ty này không những đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng mà còn phát triển được thị phần của ngành. Phần lớn các TCT 91 và nhiều TCT 90 hoạt động trong lĩnh vực thuộc các ngành giao thông vân tải, xây dựng, thuỷ lợi, thương mại, đã hoạt động tương đối tốt ở các khâu: tập hợp được sức mạnh của TCT trong tham gia đấu thầu, bảo lãnh tín dụng, mua sắm thiết bị công nghệ mới điều hoà vốn nhà rồi của các thành viên cho yêu cầu đầu tư tăng thêm nâưng lực mới, hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn theo cơ chế liên doanh liên kết, tín dụng nội bộ hoặc hỗ trợ cán bộ quả lý có năng lực, chấn chỉnh tình trạng cạnh tranh bừa bãi giữa các doanh nghiệp thành viên trong xuất nhập khẩu, tổ chức các dịch vụ chung, phát huy trí tuệ tập thể và trách nhiệm tập thể trong việc xen xét các chủ trương đầu tư và bảo toàn vốn của nhà nước. Thời gian qua nếu không có vai trò của TCT thì không thể khắc phục được tình hình của nhà máy dệt Nam Định, không thể thực hiện chủ trương di chuyển các nhà máy lớn ra khỏi thành phố như nhà may xi măng Hải Phòng, xi măng Thủ Đức... Nhiều doanh nghiệp để huy động được nguồn lực của toàn bộ TCT kết hợp huy động các nguồn vốn khác để điều hoà việc thực hiện chủ trương đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài, làm nòng cốt trong việc bảo đảm các cân đối chủ yếu của nền kinh tế về những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, cân đối ngoại tệ góp phần quan trọng vào việc ổn định giá cả và ổn định kinh tế xã hội. Các TCT đã góp phần quan trọng trong việc thiết lập trật tự xuất nhập khẩu phát huy vai trò chủ động của doanh nghiệp thành viên ngăn chặn tình trạng các doanh nghiệp cùng cạnh tranh nâng giá mua, hạ giá bán, tăng chi phí giao dịc quốc tế và hạn chế sơ hở trong việc ký kết các hợp đồng thương mại. Các TCT đã tăng sức mạnh cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và trong thị trường tiêu thụ trong nước. Một số loại sản phẩm của một số ngành kinh tế do các TCT sản xuất đã và đang có vị trí đứng ở thị trường nước ngoài, tạo khả năng tự cân đối được kim ngạch xuất nhập khẩu, như các ngành rượu bia, nước giải khát, thuốc lá, than may mặc và dầu khí. Nhìn chung các TCT có khả năng và thực lực để thực hiện các nhiệm vụ và chiến lược phát trriển ngành do chính phủ giao b. Những tồn tại và vướng mắc Nhìn vào những kết quả đã đạt được của các TCT trong thời gian qua cho thấy mô hình TCTNN phần nào đã phát huy được ưu điểm. Tuy nhiên qua thực tiễn hoạt động của các TCT nảy sinh nhiều tồn tại và vướng mắc cần phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa mô hình này. Đó là các tồn tại trên các mặt: - Trước hết, như phần trước đã đề cập so với các DNNN khác , các TCTNN chiếm tỷ trọng lớn về vốn (71,9%) nhưng mới tạo ra được 49,8% về doanh thu. Trong đó các TCT 91 chiếm 54,9% về số vốn nhưng chỉ đạt được 26,4% về tổng doanh thu, TCT 90 chiếm 17% về vốn nhưng đạt được 23,2% về doanh thu. Như vậy bên cạnh các TCT hoạt động tốt, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội còn có những TCT chiếm số vốn lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đa số TCT, mặc dù các chỉ tiêu về kinh tế đều tăng về giá trị tuyệt đối nhưng mắc tăng đều giảm qua các năm. Các chỉ tiêu tăng trưởng về vốn, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước của các TCT 91 trong năm 1998 đều thấp hơn năm 1997. Tỷ lệ thuế lợi tức trong tổng nộp ngân sách của các TCT 91 giảm dần từ 34,8% năm 1996 xuống 30,5% năm 1998. Trong nửa đầu năm 1999 so với cùng kỳ năm 1998 chỉ có 9 trong tổng số 17 TCT 91 tăng về doanh thu 10 trong 17 TCT 91 tăng về nộp ngân sách. TCT cà phê chỉ đạt được 61% về doang thu và 83,6% về nộp ngân sách so với cùng là năm 1998. Tương tự TCT lương thực miền nam đạt 83,6% về doanh thu và 51,7% về nộp ngân sác, TCT xi măng đạt 83,28% về doanh thu và 74,45% về ngân sách. - Thứ hai, tình hình tài chính của các TCT 91 gặp nhiều khó khăn, tính đến tháng 6/1999 các TCT này có tổng số nợ phải trả lên tới 60 ngàn tỷ đồng, tổng lương tồn kho lên tới 4164 tỷ đồng. Riêng TCT mía đường I và II đã tồn kho 1000 tỷ đồng, TCT xi măng tồn kh 500 tỷ đồng, hàng dệt tồn kho 500 tỷ đồng. Năm 1998 TCT than lỗ 60 tỷ đồng. Vấn đề vốn đối với các TCT cũng là vấn đề lớn phải quan tâm. Các TCTNN, điển hình là TCT 91 có mức độ tập chung vốn cao hơn nhiều so voiư các doanh nghiệp nhà nước độc lập và trong một chừng mực nào đó nó góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội đất nước. Tuy nhiên vốn của các TCTNN, mà cụ thể là TCT 90 cũng như toàn bộ khu vực kinh tế quốc doanh còn nhỏ bé chưa tương xứng với nhu cầu và vị trí chiến lược của chúng. TCT90 và TCT 91 vốn lưu động được cấp còn nhỏ bé trong khi đó nhiệm vụ được giao lớn. Vì vậy tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đang là tr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0274.doc
Tài liệu liên quan