Một số vấn đề về tiến trình thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM LỜI MỞ ĐẦU Tất cả mọi người trong chúng ta đều mong muốn có một cuộc sống khoẻ mạnh, ấm no, hạnh phúc. Nhưng trong cuộc sống không ai có thể lường hết được mọi rủi ro có thể xẩy ra với bản thân hay gia đình như ốm đau, bệnh tật…Các chi phí khám chữa bệnh này không thể xác định trước, vì vậy dù lớn hay nhỏ đều gây khó khăn cho gia đình đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp. Điều quan trọng hơn là những rủi ro này c

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về tiến trình thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó thể làm suy giảm sức khoẻ, suy giảm khả năng lao động, vừa kéo dài thời gian không lao động vừa làm cho cuộc sống khó khăn hơn. Để có thể khắc phục khó khăn trên lại vừa chủ động về tài chính khi có rủi ro về sức khoẻ xảy ra mỗi người có những biện pháp khắc phục khác nhau như rút tiền tiết kiệm, bán tài sản, nhờ sự giúp đỡ của người thân, đi vay…Các biện pháp trên đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định lại khó áp dụng trong trường hợp thời gian kéo dài và lặp đi lặp lại. Vì vậy Bảo Hiểm Y Tế ra đời nhằm hỗ trợ cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro về sức khoẻ góp phần ổn định đời sống và đảm bảo an toàn xã hội. Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, đời sống con người được nâng cao, nhu cầu khám chữa bệnh cũng tăng lên. Trong khi đó chi phí khám chữa bệnh ngày càng cao do: Ngành y tế áp dụng công nghệ, máy móc hiện đại trong việc chuẩn đoán điều trị bệnh. Thuốc men tăng giá do biến động giá cả chung của thị trường. Đặc biệt có những bệnh phải sử dụng thuốc biệt dược, chi phí lớn. Do đó cần phải vận động mọi người trong xã hội tham gia Bảo Hiểm Y Tế nhằm giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước và cũng để đảm bảo an toàn cho chính bản thân mình khi gặp rủi ro về sức khoẻ. Càng ngày Bảo Hiểm Y Tế càng tỏ rõ vai trò quan trọng trong đời sống con người. PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHYT VÀ TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM. I. TỔNG QUAN VỀ BHYT: 1. Sự cần thiết và vai trò của BHYT trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và toàn dân nói riêng: BHYT Việt Nam ra đời năm 1992 và được coi là loại hình Bảo Hiểm đặc biệt mang ý nghĩa cộng đồng sâu sắc, là nơi tập trung nguồn lực tài chính từ sự đóng góp của cộng đồng xã hội để chi trả chi phí khám chữa bệnh cho chính những người tham gia đóng góp vào quỹ. BHYT ra đời có tác dụng rất thiết thực: Giúp cho những người tham gia BHYT khắc phục khó khăn về mặt tài chính khi có rủi ro như ốm đau, bệnh tật vì trong quá trình nằm viện điều trị chi phí tốn kém ảnh hưởng đến ngân sách gia đình trong khi lại làm giảm thu nhập của họ do không thể tham gia lao động. BHYT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Trên thế giới, các quốc gia đều có khoản chi cho hệ thống y tế. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển khoản chi này thường chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành y. Để giải quyết vấn đề này, nhiều nước thường phải thu viện phí của người đến khám chữa bệnh. Đây là một trở ngại lớn đối với nhiều tầng lớp dân cư. Vì vậy biện pháp hiệu quả nhất là thực hiện BHYT để giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. BHYT ra đời vừa khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, vừa đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của người dân. BHYT góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, thực hiện công bằng trong xã hội. Sự thiếu hụt trong ngân sách y tế không đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh, cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành y không theo kịp nhu cầu khám chữa bệnh. Vì vậy thông qua việc đóng góp vào quỹ BHYT sẽ hỗ trợ cho ngân sách ngành y, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Và sau khi tham gia BHYT tất cả mọi người không phân biệt giàu nghèo đều được chăm sóc sức khoẻ do đó đảm bảo được công bằng xã hội. BHYT nâng cao tính cộng đồng, gắn bó mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động trên quy luật số lớn, BHYT hoạt động với phương châm “lá lành đùm lá rách”, “mình vì mọi người, moi người vì mình” Như vậy BHYT là một phạm trù KTXH tất yếu của xã hội phát triển và tiến tới thực hiện BHYT toàn dân là một yêu cầu khách quan. Tiến tới BHYT toàn dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà toàn Đảng toàn dân phải phấn đấu thực hiện: BHYT toàn dân vừa là mục tiêu, vừa là biện pháp tiến tới chăm sóc sức khoẻ toàn dân. Điều này cũng có nghĩa mọi người dân Việt Nam không phân biệt giàu nghèo, địa vị tầng lớp, khu vực…đều được chăm sóc sức khoẻ qua chế độ BHYT. Mọi người dân Việt Nam đều bình đẳng như nhau trong việc chăm sóc sức khoẻ khi ốm đau, bệnh tật. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đạt đựơc mục tiêu công bằng bình đẳng trong xã hội. Đây còn là cơ sở đảm bảo cho con người ta dù mắc bệnh nặng, chữa trị dài ngày, chi phí cao thì gia đình họ cũng bớt được phần gánh nặng. BHYT toàn dân còn là biện pháp tài chính nhằm thanh toán từng phần các khoản chi phí khám chữa bệnh cho các cơ sở y tế. Ngay khi đi vào hoạt động BHYT đã chi trả cho những người tham gia gặp rủi ro, nguồn kinh phí này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động tài chính của các cơ sở y tế. Bởi đó là nguồn thu đáng kể giúp cải thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị khám chữa bệnh cho các cơ sở (số thu BHYT luôn bằng 1/3 ngân sách Nhà nước dành cho y tế). Phương thức nộp một phần viện phí thông qua BHYT là một chính sách đúng đắn, nó giúp huy động nguồn thu đóng góp của cả người lao động và người sử dụng lao động - nó thể hiện được nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, của bản thân người lao động đối với sức khoẻ cuả họ từ đó duy trì ổn định sản xuất. Như đã nói ở trên, hoạt động của BHYT là một công cụ điều tiết xã hội, đặc biệt khi ở Việt Nam việc quản lý thu nhập của người lao động còn chưa chặt chẽ và công cụ thuế thu nhập hoạt động chưa được nhiều. Bên cạnh đó BHYT còn huy động được nguồn thu của nhiều đối tượng như học sinh, sinh viên…nhằm giáo dục cho lớp trẻ quan tâm đến sức khoẻ của bản thân mình và của toàn xã hội. Tiến tới BHYT toàn dân thể hiện tính cộng đồng xã hội ở mức cao. Việc Nhà nước đóng góp cho các đối tượng thuộc diện chính sách, người nghèo, người có công với cách mạng là một biện pháp vừa mang tính đoàn kết tương trợ vừa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Đây cũng là đặc trưng riêng của BHYT toàn dân ở nước ta. Tiến tới BHYT toàn dân là cả một quá trình liên quan đến nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật: từ việc đáp ứng các điều kiện cơ sơ vật chất kỹ thuật cho việc chăm sóc sức khoẻ cũng như các yếu tố của quá trình kinh tế như tăng trưởng kinh tế, việc làm thu nhập của người lao động . Vì vậy việc tiến tới BHYT toàn dân là một quá trình hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết mà trong đó Nhà nước giữ vai trò điều tiết. Mục tiêu BHYT toàn dân không những đạt được về diện rộng mà còn phải đảm bảo tính bền vững lâu dài và phải trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi người dân. 2. Đối tượng và phạm vi BHYT a. Đối tượng BHYT: Hoạt động y tế thường bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Ở mỗi quốc gia BHYT có thể có các tên gọi khác nhau như bảo hiểm sức khoẻ (có thể gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh; chữa bệnh và phục hồi chức năng; hoặc cả ba) hay BHYT (thường chỉ gồm hoạt động chữa bệnh). Dù tên gọi khác nhau nhưng đối tượng BHYT đều là sức khoẻ của người được bảo hiểm tức là nếu người được bảo hiểm gặp rủi ro về sức khoẻ: ốm đau, bệnh tật thì sẽ được BHYT xem xét chi trả bồi thường. BHYT là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới và bất kỳ ai có nhu cầu bảo hiểm sức khoẻ đều có quyền tham gia. Vậy đối tượng tham gia BHYT là mọi người dân có nhu cầu bảo hiểm cho sức khoẻ của mình hoặc cũng có thể là một người đại diện cho cơ quan, đơn vị, tập thể…đứng ra ký kết hợp đồng. Khi mới triển khai BHYT, thông thường các nước đều có hai nhóm đối tượng tham gia: bắt buộc và tự nguyện. BHYT bắt buộc áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà nước và một số đối tượng như người về hưu có hưởng lương hưu. Còn BHYT tự nguyện áp dụng cho mọi thành viên khác trong xã hội có nhu cầu và thường giới hạn trong độ tuổi nhất định tuỳ từng quốc gia. Hiện nay ở Việt Nam BHYT tiến hành bắt buộc cho các đối tượng: lao động Việt Nam làm trong các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể hưởng lương từ ngân sách, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên, người đang nghỉ hưu, người có công với cách mạng…BHYT tự nguyện áp dụng cho các đối tượng khác trong xã hội kể cả người nước ngoài đến làm việc, học tập, du lịch tại Việt Nam. b. Phạm vi BHYT: BHYT là hoạt động đảm bảo thanh toán chi phí y tế cho người tham gia Bảo Hiểm khi gặp rủi ro. Tuy mọi người dân đều có quyền tham gia Bảo Hiểm nhưng trong một số trường hợp BHYT không chấp nhận Bảo Hiểm như những người mắc bệnh nan y, cố tình tự huỷ hoại bản thân, trong tình trạng say, vi phạm pháp luật…Mỗi người tham gia BHYT khi ốm đau, bệnh tật được thanh toán chi phí với mức độ khác nhau. Mỗi quốc gia đều có những chương trình sức khoẻ quốc gia khác nhau và cơ quan BHYT cũng không có trách nhiệm đối với người được BHYT nếu họ khám chữa bệnh thuộc chương trình này. Ở Việt Nam hiện nay điều lệ BHYT loại trừ các bệnh sau: phong, lao, sốt rét, tâm thần, phân liệt, bệnh dại, tiêm chủng phòng bệnh, dịch vụ kế hoặch hoá gia đình, điều dưỡng, an dưỡng, chỉnh hình, thẩm mỹ, làm chân tay giả, mắt giả, các bệnh bẩm sinh, bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, trường hợp tự tử, nghiên ma tuý, vi phạm pháp luật… 3. Phương thức BHYT: BHYT được phân thành các loại sau căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT: BHYT trọn gói: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT. - BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT trừ các chi phí cho các cuộc đại phẫu thuật (theo quy định của cơ quan y tế). BHYT thông thường: là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT. Tuỳ từng quốc gia, có những nước thực hiện BHYT theo cả ba phương thức trên, còn ở các nước nghèo mới triển khai hoạt động BHYT thường áp dụng BHYT thông thường. Phương thức BHYT thông thường có hai hình thức tham gia: bắt buộc và tự nguyện.BHYT bắt buộc áp dụng cho một số đối tượng nhất định được quy định trong các văn bản pháp luật về Bảo Hiểm. Số còn lại không thuộc nhóm trên có thể tham gia BHYT tự nguyện tuỳ vảo khả năng và nhu cầu. Ở Việt Nam hiện nay đang triển khai cả hai hình thức này và thực hiện thanh toán theo phương thức cùng chi trả: BHYT chi trả 80% chi phí khám chữa bệnh theo giá viện phí (không thanh toán phần chênh lệch giữa giá viện phí và giá dịch vụ theo yêu cầu riêng của bệnh nhân), người tham gia BHYT sẽ chịu trách thanh toán 20% còn lại (không vượt quá 6 tháng lương tối thiểu trong thời gian một năm). Tuy nhiên đối với những trường hợp bệnh nhân thuộc diện ưu đãi xã hội (quy định tại pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến…) sẽ được BHYT chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh theo giá viện phí. Ngoài ra trong thực tế còn có một bộ phận BHYT mang đặc trưng của BHXH và một bộ phận khác mang tính chất kinh doanh như Bảo Hiểm tai nạn lao động, Bảo Hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật…Đặc biệt ở một số ngành nghề, do tính chất đặc thù của lao động nên Chính phủ cho phép thực hiện BHYT ngành như: BHYT giao thông vận tải, BHYT ngành than trực thuộc BHYT Việt Nam… 4. Quỹ BHYT: Đó là một quỹ tài chính có quy mô phụ thuộc vào số lượng thành viên đóng góp và mức đóng góp của thành viên đó. BHYT với mục đích nhân đạo không đặt mục đích kinh doanh lên đầu, quỹ BHYT chủ yếu được hình thành tự hai nguồn:do người sử dụng lao động và người lao động đóng góp hoặc chỉ do đóng góp của người tham gia BHYT. Ở Việt Nam tỷ lệ này được quy định như sau: đối tượng tham gia BHYT bắt buộc đóng góp 3% tổng quỹ lương trong đó người sử dụng lao động đóng 2/3, người lao động đóng 1/3 nếu còn đang tham gia lao động, những người nghỉ hưu mất sức lao động tham gia BHYT bắt buộc sẽ đóng 3% mức lương hưu hoặc mức trợ cấp mất sức lao động. Số tiền này được nộp định kỳ 3 tháng một lần. Bên cạnh đó quỹ còn được bổ sung bằng các nguồn khác: sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước, sự đóng góp ủng hộ của tổ chức từ thiện, lãi từ việc đầu tư quỹ nhàn rỗi theo quy định của luật Bảo Hiểm. Ở Việt Nam điều lệ BHYT quy định số tiền tạm thời nhàn rỗi được mua tín phiếu, trái phiếu do kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh phát hanh; và được thực hiện các biện pháp khác nhằm bảo tồn, tăng trưởng quỹ nhưng vẫn đảm bảo nguồn chi trả khi cần thiết. Quỹ BHYT được sử dụng với các mục đích sau: Chi thanh toán chi phí y tế cho người đựơc BHYT Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn Chi đề phòng hạn chế tổn thất Chi quản lý Tỷ lệ các khoản chi này được quy định trước bởi cơ quan BHYT và có thể thay đổi theo từng điều kiện cụ thể. Cơ quan BHYT không phải là đơn vị kinh doanh nên không phải nộp thuế. Hiện nay ở Việt Nam, đối với hình thức BHYT bắt buộc, quỹ BHYT được sử dụng như sau: 91,5% cho quỹ khám chữa bệnh; trong đó 5% dùng lập quỹ dự phòng khám chữa bệnh. Nếu trong năm tài chính không sử dụng hết quỹ này thì kết chuyển vào quỹ dự phòng, nếu vượt quá sẽ được bổ sung từ quỹ dự phòng. 8,5% cho chi quản lý thường xuyên cho toàn hệ thống BHYT Tiền tạm thời nhàn rỗi (nếu có) sẽ được dùng mua tín phiếu, trái phiếu do kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành… Còn đối với BHYT tự nguyện, quỹ được hạch toán riêng và được sử dụng để chi trả các chi phí khám chữa bệnh, thanh toán cho đại lý BHYT và chi quản lý thường xuyên cho cơ quan BHYT. II. TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN: 1. Nghiên cứu, sửa đổi bổ sung điều lệ BHYT, mở rộng đối tượng tham gia, tiến tới BHYT toàn dân: Trong những năm qua, nước ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự đổi mới cơ chế kinh tế là rất cần thiết song phải gắn liền với sự đổi mới các chính sách khác có liên quan trong đó có chính sách xã hội để phát triển một xã hội công bằng văn minh. Việc phát triển nền kinh tế thị trường đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, có một số bộ phận dân cư có thu nhập khá cao trong khi đó còn không ít người vẫn trong hoàn cảnh thiếu thốn. Ngân sách Nhà nước cũng khó đáp ứng được sự bao cấp về chăm sóc sức khoẻ cho mọi tầng lớp dân cư. Do đó đòi hỏi phải có giải pháp trong chính sách xã hội, trong lĩnh vực y tế để tạo sự công bằng trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Ở nước ta, BHYT là một chính sách xã hội được triển khai từ năm 1992, là một đổi mới, một giải pháp cơ bản trước mắt cũng như lâu dài trong công tác chăm sóc sức khoẻ, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo. Kết quả thực hiện BHYT những năm qua đã khẳng định điều đó. Một số con số cụ thể: số lượng người có thẻ BHYT tăng lên đáng kể, từ hơn 3 triệu người năm 1993 lên 13 triệu người năm 2002. Tuy nhiên số lượng người được hưởng các chế độ của BHYT còn chưa cao, chiếm gần 20% dân số cả nước, nghĩa là vẫn còn rất nhiều người tự lo toàn bộ chi phí khám chữa bệnh ảnh hưởng đến đời sống của họ và gia đình. Vì vậy để đảm bảo vấn đề an sinh xã hội, hỗ trợ công tác xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội cho mọi người dân thông qua BHYT là một giải pháp hữu hiệu. Hay nói cách khác thì BHYT toàn dân là một nhu cầu tất yếu của xã hội. Đến nay nước ta đã có trên 7 triệu người đang tham gia BHYT bắt buộc trong đó chủ yếu là cán bộ công chức, người lao động hưởng lương, người hưởng chế độ BHXH hàng tháng, các đối tượng ưu đãi xã hội… Để có thể tiến tới BHYT toàn dân cần nghiên cứu đưa thêm một số đối tượng tham gia BHYT bắt buộc như: những người lao động làm việc theo hợp đồng đang hoạt động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động, người lao động trong các cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc ngành y tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, thể dục thể thao, trạm y tế xã phường, và các ngành sự nghiệp khác, người lao động trong các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, xã viên hợp tác xã…Những đối tượng này có số lượng không nhỏ và ngày càng phát triển trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các đối tượng này đã phải tham gia BHXH bắt buộc từ tháng 1/2003 theo nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ nên cũng rất cần thiết phải tham gia BHYT theo chế độ bắt buộc. Đối tượng tiếp theo có thể kể đến nhóm trẻ em dưới 6 tuổi. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á, nước thứ 2 trên thế giới ký kết công ước quốc tế về quyền trẻ em, mà theo điều 24,25,26 của Công ước này thì trẻ em có quyền được hưởng mức độ chăm sóc cao nhất về sức khoẻ, phương tiện chữa bệnh, an toàn xã hội. Điều 9 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam cũng quy định: “Trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế của Nhà nước”. Bên cạnh đó, nghị định số 95/CP về thu một phần viện phí cũng đã quy định trẻ em dưới 6 tuổi là đối tượng được miễn nộp một phần viện phí. Trong những năm qua, nhờ sự trợ cấp một phần của Nhà nước và nguồn tài chính thu từ viện phí, các cơ sở y tế đã thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tuy nhiên thực tế do nguồn kinh phí còn hạn hẹp nên số lượng này chưa lớn. Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hoà bình trẻ em dưới 6 tuổi phải có đầy đủ 3 loại giấy tờ sau mới được miễn một phần viện phí: giấy khai sinh, giấy giới thiệu của xã, giấy giới thiệu của trung tâm y tế huyện. Ngoài ra họ vẫn phải trả tiền thuốc nếu dùng quá danh mục quy định. Còn tại bệnh viện Nhi đồng I, Nhi đồng II thành phố Hồ Chí Minh đều thu viện phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi, chỉ miễn phí cho con của cán bộ nhân viên bệnh viện và các cháu có hoàn cảnh khó khăn có đơn xác nhận của chính quỳên địa phương. Tỉ lệ miễn giảm viện phí ở các bệnh viện này là rất thấp. Như vậy có thể nói phương thức miễn giảm phí cho trẻ em duới 6 tuổi hiện nay chưa phát huy được hiệu quả. Để khắc phục vấn đề trên có thể dùng nguồn kinh phí hiện có kết hợp với phần ngân sách dùng chi cho chăm sóc sức khoẻ trẻ em để mua thẻ BHYT, nhiều cơ quan có trách nhiệm và người dân cũng rất đồng tình với phương pháp này. Như vậy để thực hiện một bước lộ trình “tiến tới BHYT toàn dân” cần phải bổ sung vào điều lệ BHYT đối tượng tham gia là trẻ em dưới 6 tuổi. Chính Phủ cũng đã có Nghị định số 63/2002/NĐ-CP quy định việc được hưởng chế độ BHYT của các thân nhân sỹ quan quân đội nhân dân tại ngũ. Sỹ quan Công An cũng nên được hưởng chế độ ưu đãi trong đó có vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho thân nhân vì họ cũng là lực lượng vũ trang có đặc thù công tác tương tự như sỹ quan quân đội, từ đó tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác. Việc bổ sung thân nhân sỹ quan Công an nhân dân tại ngũ vào đối tượng tham gia BHYT là một vấn đề cần thiết. Thủ tướng Chính Phủ đã có quyết định số 139/2002/QĐ-CP ngày 15/10/2002 về việc khám chữa bệnh cho người nghèo. Theo quyết định này, quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo được thành lập ở tất cả các tỉnh thành phố để thực hiện 2 hình thức: một là mua thẻ BHYT từ cơ quan BHXH, hai là Ban quản lý quỹ phải cấp Thẻ khám chữa bệnh cho 100% số người nghèo. Tuy nhiên hiện nay mới chỉ có trên 3 triệu người nghèo chiếm 20% tổng số đối tượng được cấp thẻ BHYT. Mặt khác theo quyết định 139 không chỉ những người nghèo mà cả những người dân sống ở các vùng đặc biệt khó khăn như vùng núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên cũng được hưởng chế độ khám chữa bệnh.Một số tỉnh có trên 50% dân số thuộc diện đối tượng của quyết định số 139, do đó có thể đánh giá việc khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua hình thức cấp thẻ BHYT còn có ý nghĩa tăng độ bao phủ dân số có thẻ BHYT, mở rộng đối tương tham gia tiến tới BHYT toàn dân. Có hai loại hình BHYT tự nguyện: BHYT học sinh và BHYT tự nguyện cho nhân dân. Hiện nay có gần 5 triệu em học sinh tham gia BHYT tự nguyện, tuy nhiên số lượng tham gia BHYT tự nguyện nhân dân còn rất hạn chế. Đã có các chương trình BHYT tự nguyện được tiến hành với nhiều nhóm đối tượng khác nhau như cho nhân dân, các hội, đoàn thể , hộ gia đình…nhưng số lượng người tham gia vẫn chưa nhiều. Mặc dù họ biết rõ lợi ích của BHYT nhưng phần lớn người dân sống ở nông thôn có thu nhập thấp và không ổn định.Nếu như có sự hỗ trợ nguồn tài chính một phần cho các đối tượng này thì trong tương lai BHYT tự nguyện sẽ có bước phát triển mạnh mẽ. Cần tiếp tục cải thiện phương thức phục vụ cho người có thẻ BHYT tại các cơ sở khám chữa bệnh tránh phân biệt đối xử. Muốn mở rộng quyền lợi thanh toán cho người tham gia đồng thời đảm bảo việc cân đối quỹ khám chữa bệnh thì cần tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh hình thức thanh toán, chi phí khám chữa bệnh. Được biết hiện nay, BHYT đang chỉ đạo tổng kết đánh giá 5 năm thực hiện điều lệ BHYT ban hành theo nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 để trên cơ sỏ đó nghiên cứu trình chính phủ sửa đổi bổ sung điều lệ BHYT. 2. Tổ chức thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân: Thực hiện BHYT ở Việt Nam đã tạo ra cuộc cải cách lớn trong chính sách xã hội đánh dấu bước chuyển biến từ cơ chế hành chính bao cấp: mọi người khám chữa bệnh không mất tiền chuyển sang khám chữa bệnh theo phương thức BHYT. Nhưng một vân đề cần quan tâm là: thực hiện BHYT toàn dân theo chế độ BHYT nào? Tức là cần phải giới hạn mức độ quyền lợi khám chữa bệnh đối với người tham gia đồng thời phải giới hạn loại hình bệnh tật từ đó có cơ sở xác định mức độ hưởng của người tham gia BHYT. Thông thường hiện nay mọi người đã tham gia BHYT đều đóng góp theo tỷ lệ % so với mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH bên cạnh đó họ cũng được chữa trị cho đến khi khỏi bệnh mà không phân biệt bệnh gì chi phí ra sao. Nhưng khi xã hội phát triển, nhiều loại hình bệnh tật mơí xuất hiện, đồng thời trình độ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y tế cũng được ứng dụng nhiều vào việc khám, chuẩn đoán bệnh. Đi kèm với điều này là chi phí khám chữa bệnh ngày càng tăng cao. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết mâu thuẫn giữa mức đóng hạn hẹp và mức độ phạm vi được hưởng các dịch vụ y tế của người tham gia Bảo Hiểm. Điều này rất quan trọng vì mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân là rất cao cả, nhưng nếu khả năng đóng góp không đủ khả năng tài chính cho cả cộng đồng thì mục tiêu đó sẽ mất ý nghĩa. BHYT là chính sách cần thiết cho mọi người, quá trình tổ chức thực hiện tuy có bộc lộ những vấn đề cần được xem xét cả về chính sách cũng như chính sách thực hiện song đã khẳng định tính ưu việt, tính hợp lý. Để phấn đấu đạt được mục tiêu tiến tới BHYT toàn dân, BHXH Việt Nam đang xây dựng lộ trình tiến tới BHYT toàn dân đến năm 2010 gồm những nét cơ bản sau: Liên tục củng cố, phát triển BHYT bắt buộc theo hướng mở rộng đối tượng cho cả những người làm công hưởng lương có thu nhập thường xuyên không phụ thuộc vào loại hình các tổ chức doanh nghiệp.Hơn thế số lao động này còn tăng nhiều vào năm tới do việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo chiều hướng chuyển đổi ngành nghề. Nếu thực hiện được triệt để số lao động này dự báo khoảng 10-12 triệu người. Việc tăng đối tượng này không liên quan nhiều đến sự can thiệp của ngân sách Nhà nước. Nhà nước đã có chế độ chăm sóc sức khoẻ cho một số đối tượng thuộc diện ưu đãi thông qua BHYT. Số đối tượng này khoảng 1,4 triệu người và dự báo ngân sách hàng năm cần bố trí khoảng 150 tỷ đồng. - Nhà nước cũng tiếp tục bố trí kinh phí cho những người nghèo được chăm sóc sức khoẻ miễn phí thông qua BHYT. Hiện nay số đối tượng nghèo, người sống ở vùng sâu vùng xa có khoảng 14,5 triệu, con số này có xu hướng giảm nhưng không nhiều do chuẩn nghèo của nước ta còn khoảng cách với chuẩn nghèo quốc tế. Trong vài năm tơí ngân sách Nhà nước cần bố trí 1500 tỷ đồng/ năm. Đối tượng trẻ em dưới 6 tuổi có nhu cầu khám chữa bệnh cao phân bổ đều ở các vùng miền. Số lượng trẻ em dưới 6 tuổi được miễn viện phí theo luật định hiện có khoảng 8,5 triệu cháu, đối tượng này sẽ tăng giảm không nhiều trong các năm tới do kết quả của công tác dân số ở nước ta khá ổn định. Hàng năm ngân sách Nhà nước ta cần bố trí khoảng 900 tỷ đồng để thực hiện việc miễn phí khám chữa bệnh cho đối tượng này theo phương thức BHYT. Đối tượng học sinh, sinh viên hiện ổn định ở mức 16-18 triệu em. Theo đề nghị của nhiều cơ quan tổ chức, nhóm đối tượng này nên thực hiện chế độ BHYT bắt buộc, một mặt giúp các em chăm sóc sức khoẻ ngay tại trường, mặt khác thông qua việc tham gia BHYT tạo cho các em thói quen sau này về Bảo Hiểm và cũng để giáo dục các em tính cộng đồng và nhân đạo xã hội. Tuy nhiên có một bộ phận học sinh không thể đóng toàn bộ phí BHYT vì vậy ngân sách Nhà nước cần phải hỗ trợ thêm. Ngân sách Nhà nước cần bố trí khoảng 180 tỷ đồng/năm cho đối tượng này và sẽ có khoảng 50% số học sinh cần được hỗ trợ kinh phí với mức 20000 đồng/em/năm. Đối tượng dân cư còn lại khoảng 30 triệu người thuộc diện tham gia BHYT tự nguyện. Hiện nay BHXH đang triển khai thí điểm một số loại hình BHYT trong năm 2004 như: BHYT cho các hội đoàn thể như phụ nữ, cựu chiến binh, thanh niên…,BHYT hộ gia đình tại mỗi xã của mỗi quận huyện, BHYT cho thân nhân cán bộ công chức và người lao động…Theo dự đoán năm đầu tiên triển khai điểm BHYT trên diện rộng, nên BHXH Việt Nam đặt mục tiêu năm 2004: học sinh sinh viên đạt 5,5 triêu em, nhân dân nói chung khoảng 1 triệu người. Từ năm sau chương trình sẽ triển khai theo cấp số nhân và phấn đấu đến năm 2010 đạt mức 20 triêu người tham gia BHYT tự nguyện. Như vậy dự báo chung đến năm 2010 sẽ có khoảng gần60 triệu người chiếm 70% dân số cả nước được chăm sóc sức khoẻ thông qua BHYT. Để hỗ trợ cho các nhóm đối tượng thuộc diện ưu đãi xã hội, kinh phí Nhà nước cấp khoảng 3500 tỷ đồng. BHXH sẽ thu từ đối tượng bắt buộc và tự nguyện khoảng 4500 tỷ đồng, như vậy để chăm sóc sức khoẻ cho gần 60 triệu dân chúng ta có khoản kinh phí là 8000 tỷ đồng/năm, mức bình quân của mỗi người là 130000 đồng/người. III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BHYT TOÀN DÂN Ở MỘT SỐ NƯỚC: 1. Philippin: Hệ thống BHYT Philippin (PhilHealth) đã tổ chức kỷ niệm 7 năm ngày thành lập tổ chức này vào ngày 16/2/2002. Khẩu hiệu “Hãy tham gia BHYT vì sức khoẻ của gia đình” thể hiện rõ ưu tiên của BHYT Philippin đối với chương trình BHYT theo hộ gia đình. Philippin đã triển khai BHYT cho người nghèo từ năm 1997 và cho tới nay số người nghèo có BHYT đã là 2,82 triệu người. Năm nay, thực hiện cam kết của tổng thống Macapagal Arroyo, BHYT philippin xây dựng kế hoặch 500 với mục tiêu cung cấp thẻ BHYT cho 500 gia đình cận nghèo ở các đô thị.BHYT Philippin đang triển khai các biện pháp để thực sự tiến gần đến đích BHYT toàn dân.Tổ chức BHYT đã phối hợp với Bộ nội vụ và chính quyền địa phương để giám sát các doanh nghiệp tư nhân đóng BHYT và chỉ cấp phép kinh doanh khi họ đã đóng BHYT. Tính đến nay, Philippin đã có 40 triệu dân trong tổng số 75 triệu dân tham gia BHYT. 2. Nhật Bản: Hiện nay Nhật Bản đã thực hiện BHYT toàn dân, nước này đã thực hiện luật BHYT bắt buộc từ năm 1922. Đến năm 1961 bắt đầu thực hiện BHYT toàn dân. Lúc bắt đầu triển khai BHYT toàn dân, GDP khởi điểm của Nhật Bản là 4700 USD/đầu người/năm. Tuy nhiên Nhật Bản đi trước Việt Nam quá xa, nên ý nghĩa tham khảo đối với nước ta là không lớn. 3. Hàn Quốc: Hàn Quốc đã ban hành luật BHYT đầu những năm 70, do lúc đầu chỉ là tự nguyện nên đã không thành công chỉ có khoảng 400000 người tham gia sau nhiều năm vận động. Đến năm 1977 Hàn Quốc đã ban hành luật BHYT bắt buộc toàn dân và sau 12 năm thực hiện gần 100% người dân đã có BHYT. GDP của họ năm 1977 là 1500 USD/đầu người/năm. 4. Thái Lan: Thái Lan thực hiện BHYT bắt buộc vào cuối thập kỷ 80, áp dụng đầu tiên trong khu vực lao động trong các doanh nghiệp tư nhân của tổ chức SSO. Đến năm 1997 mới chính thức công bố chiến lược BHYT toàn dân, và cũng trong năm này GDP của họ là 1700 USD/người/năm. Bối cảnh phát triển kinh tế và các con số của các nước trên đáng để chúng ta tham khảo. Thu nhập bình quân đầu người là một trong các chỉ số quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của BHYT. GDP đủ lớn là một yếu tố cần thiết để thực hiện BHYT cho 100% dân số đồng thời để có thể cân đối được chi phí y tế ngày càng cao hiện nay. Theo dự kiến đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành nước công nghiệp GDP ước khoảng 1000 USD/người/năm. Khi đó mức tổng sản phẩm quốc nội mới có thể đáp ứng được cho BHYT toàn dân. Chúng ta có thể thấy rõ hơn nhu cầu tài chính cho y tế sẽ phát triển như thế nào qua một vài con số: chi phí y tế bình quân của Mỹ năm 1997 là 3900 USD/người, các nước như Đức, Thuỵ Sỹ, Canada là 2000 USD/người, các nước khác ở Châu Âu dù thấp cũng là 500-700 USD/ người. Ở nước ta chi phí y tế bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực khoảng 25-30 USD/năm. Vấn đề đặt ra là Ngân sách Nhà nước cấn có đầu tư thoả đáng hơn cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ. PHẦN II: TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM I. NHỮNG YÊU CẦU CẦN THIẾT TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM: 1. Người tham gia BHYT phải có trách nhiệm với sức khoẻ của chính bản thân mình: Một trong những nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động BHYT đó là nguyên tắc tự chịu trách nhiệm đối với sức khoẻ của bản thân từng thành viên tham gia BHYT. Việc bảo vệ và gìn giữ sức khoẻ là trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội, mỗi người đều phải tự có ý thức thông qua việc tập luyện thể dục thường xuyên, ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi một cách hợp lý, tích cực tham gia hoạt động phòng bệnh, chữa bệnh. Khi ốm đau, để sớm phục hồi sức khoẻ người bệnh cần phải nghe theo yêu cầu chữa bệnh của bác sỹ. Đặc biệt cần tránh các hoạt động vô độ, thiếu lành mạnh…gây nhiều hậu quả cho gia đình và xã hội. Ở Việt Nam, tự chịu trách nhiệm đối với sức khoẻ của bản thân còn có ý nghĩa giáo dục cộng đồng sâu sắc. Nó có tác dụng răn đe đối với thanh thiếu niên hư hỏng, nghiện ngập, không chỉ nguy hại cho bản thân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến thế hệ tương lai. Vì vậy nguyên tắc này cần được quy định rõ trong pháp luật về BHYT. 2. Cần coi trọng loại hình BHYT bắt buộc: Phương thức hoạt động của BHYT được thực hiện theo: Phân phối lại từ người khoẻ mạnh sang cho những người ốm đau theo thời điểm (thường từ người trẻ khỏe cho người già yếu, nam giới cho nữ giới…).BHYT hoạt động theo nguyên tắc số đông bù số ít: tức là tại một thời điểm phải có sự đóng góp của một số lượng người đủ lớn, đủ để chi trả chi phí khám chữa bệnh cho một nhóm người hiện đang ốm đau. Phân phối lại theo thời kỳ từ thời kỳ có tình trạng sức khoẻ tốt cho thời kỳ sức khoẻ xấu. Những người khoẻ mạnh vẫn phải đóng góp để dự phòng cho những khi ốm đau, khi về._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0116.doc
Tài liệu liên quan