Một số vấn đề xoá đói giảm nghèo ở huyện Quản Bạ - Hà Giang

Lời mở đầu Thế giới đang không ngừng thay đổi như vũ bão nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật công nghệ. Những phát minh mới ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất, sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Cuộc sống hiện đại, con người được đáp ứng đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận dân cư sống trong đói nghèo. Theo Liên Hợp Quốc hiện nay trên thế giới có khoảng 800 triệu người đói kinh niên, 1.3tỉ người sống trong nghèo đ

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề xoá đói giảm nghèo ở huyện Quản Bạ - Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ói (thu nhập dưới 1 USD/ngày). Đặc biệt, ở một số nước đang phát triển, tỉ lệ đói nghèo có thể chiếm hơn 50%. Liên Hợp Quốc xác định bảo đảm an ninh lương thực là một vấn đề bức thiết đối với toàn cầu. Bởi vì con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải có cái ăn. Và nếu không xoá được đói nghèo thì các chương trình phát triển đều trở nên vô nghĩa. Như vậy, mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) như một mắt xích trong dây chuyền của sự phát triển kinh tế xã hội. Mà lại là mắt xích đầu tiên có vai trò khởi động và đặc biệt trọng yếu. Để giải quyết khâu trọng yếu này mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có một con đường riêng dựa trên cơ sở lịch sử và thực tiễn về nguồn lực tự nhiên cũng như con người của quốc gia đó. Trong quá trình XĐGN, ngoài sự cần thiết có một sự giúp đỡ từ bên ngoài thì sự chủ động tự lực tự cường của mỗi quốc gia chính là một nhân tố quan trọng. Từ một quốc gia thiếu lương thực triền miên trong suốt thời kì hợp tác hoá nông nghiệp, sau khi thực hiện một số cải cách trong công cuộc Đổi Mới, Việt Nam đã đứng trong hàng ngũ những nước đứng đầu về xuất khẩu lúa gạo, cà phê, chè, cao su và một số nông phẩm khác. Tuy nhiên sự thành công vượt bậc về kinh tế này chỉ tập trung ở các "vựa lúa" tại vùng đồng bằng, nơi mà các chính sách mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân khai thác tối đa năng lực sản xuất của mình. Còn các chính sách kinh tế đó vẫn chưa phát huy được hiệu quả ở miền núi, nơi tỉ lệ đói nghèo còn cao và sự suy thoái môi trường đe dọa cuộc sống hàng ngày của người dân. Hà Giang là tỉnh miền núi phía bắc địa đầu biên cương của tổ quốc, là một trong những tỉnh nghèo nhất nước với khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh tế - xã hội ( KT - XH) thấp, kinh tế chậm phát triển. Trong đó Quản Bạ là một trong bốn huyện miền núi trên cao nguyên Đồng Văn của tỉnh Hà Giang. Điều kiện cơ sở hạ tầng còn thấp kém trình độ dân trí thấp và không đồng đều nên đời sống của đồng bào trong huyện còn gặp nhiều khó khăn. Một bộ phận dân cư con sống trong tình trạng đói nghèo. Nguy cơ tụt hậu so với các huyện bạn và cả nước là vấn đề đang đặt ra cho Đảng bộ huyện Quản Bạ những thử thách mới. Làm thế nào để từng bước cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện thắng lợi các mục tiêu KT - XH do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV đề ra. Từ thực tiễn đó, nhiệm vụ cấp bách mà huyện Quản Bạ quyết tâm thực hiện là từng bước xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, xây dựng huyện nhà giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Để góp phần thực hiện những nhiệm vụ cấp bách, huyện Quản Bạ đang tích cực triển khai phong trào XĐGN và đạt được những thành quả đáng kể, góp phần ổn định đời sống của đồng bào miền núi cao, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Tuy nhiên công tác này vẫn bộc lộ nhiều vướng mắc cần khắc phục. Trước hết là do chúng ta chưa làm rõ quan niệm về đói nghèo và quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn để XĐGN, cũng như thực trạng đói nghèo của huyện Quản Bạ. Đồng thời chưa xác định những tiêu chí đánh giá mức độ đói nghèo, những hạn chế, nguyên nhân trong chương trình XĐGN trong thời gian qua; đề ra những phương pháp cụ thể hữu hiệu nhằm thực hiện việc đi sâu nghiên cứu công tác XĐGN ở địa phương chưa toàn diện, sâu sắc và chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, nghiên cứu vấn đề XĐGN tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của huyện Quản Bạ trong những năm tới là một vấn đề hết sức quan trọng. Thực hiện đề tài này, tôi hi vọng vận dụng lí luận chính trị XĐGN tại huyện Quản Bạ. Nhằm làm sáng tỏ cơ sở lí luận của vấn đề, phân tích đúng đặc điểm thế mạnh của huyện, tìm ra đúng nguyên nhân và đề ra giải pháp hữu hiệu. Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac_Lênin, quán triệt các phương pháp lôgic biện chứng, quan điểm hệ thống toàn diện, lịch sử cụ thể khách quan trong phản ánh và phương pháp phân tích, tổng hợp thông qua số liệu thống kê và điều tra xã hội học về XĐGN và tình hình KT - XH của huyện Quản Bạ (giai đoạn 2001-2005) để phân tích, so sánh chỉ ra thực trạng nguyên nhân đói nghèo ở địa phương. Nguồn tài liệu nghiên cứu ngoài tài liệu học tập của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đề tài còn sử dụng các văn kiện ĐH Đảng tỉnh Hà Giang lần thứ V và Đảng bộ huyện Quản bạ lần thứ XV, số liệu phòng Lao động Thương binh và Xã hội. Do năng lực và thời gian hạn chế, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào "Một số vấn đề XĐGN ở huyện Quản Bạ - Hà giang". Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài gồm 3 phần chính là: Phần I: Phân hoá giàu nghèo và sự cần thiết của XĐGN trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Phần II: Tình hình XĐGN ở huyện Quản Bạ trong thời gian 2001-2005. Phần III: Giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có hiệu quả công tác XĐGN ở huyện Quản Bạ trong thời gian tới (2006 - 2010). Trong quá trình thực hiện tôi xin trân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Ngọc Phác và tập thể thầy cô giáo khoa Thống kê - ĐH KTQD; Huyện uỷ, UBND huyện và các phòng ban trong huyện đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Phần I. Phân hóa giàu nghèo và sự cần thiết của xóa đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế nước ta I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nghèo đói : 1. Tính tất yếu của quá trình phân hóa giàu nghèo: Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ sản xuất vật chất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người ngày càng sáng tạo, khai thác thiên nhiên tạo ra của cải vật chất, không ngừng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao. Nơi đâu năng suất lao động càng cao thì nơi đó nhu cầu của con người càng được đáp ứng đầy đủ. Và ngược lại, ở đâu năng suất thấp, sản xuất ra ít của cải vật chất, khả năng đáp ứng nhu cầu thấp thì ở đó con người rơi vào cảnh đói nghèo. Trong xã hội có giai cấp, những người bị áp bức bóc lột phải chịu cuộc sống cùng cực. Không chỉ có vậy, sự khốc liệt của tự nhiên, thiên tai, bão lũ, sự tàn phá của chiến tranh...đều khiến cuộc sống con người thêm cơ cực. Đói nghèo không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến với trình độ lực lượng sản xuất thấp kém mà ngay cả trong thời đại ngày nay với cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ hiện đại, với lực lượng sản xuất cực kì cao thì trong từng quốc gia kể cả những quốc gia phát triển vào bậc nhất thế giới, đói nghèo vẫn tồn tại một cách hiển nhiên. Do đó giải quyết vấn để đói nghèo luôn luôn là một nhiệm vụ quan trọng, một mục tiêu của sự phát triển đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc. Có nhiều cách lí giải và giải quyết khác nhau về hiện tượng đói nghèo. Điều đó phụ thuộc vào thế giới quan của mỗi người, mỗi giai cấp mỗi nhà nước. Đối với chúng ta việc xem xét hiện tượng đói nghèo phải luôn đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác_Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Trong di sản kinh điển mácxít, Mác và Engghen ngay từ khi sáng lập học thuyết vào giữa thế kỉ XV thì những tác phẩm nổi tiếng của hai ông đều có bàn về tình trạng nghèo khổ của giai cấp vô sản và những người lao động dưới ách thống trị của CNTB, tiêu biểu nhất là: "bản thảo kinh tế triết học" (1844_Mac), "tình cảnh giai cấp công nhân Anh" (1845 - Engghen), “tư bản’’ (Mac bắt đầu viết năm 1860 và được Engghen kết thúc năm 1895)... Trong những tác phẩm này, Mac - Engghen đã mô tả cặn kẽ tỉ mỉ và xác thực tình cảnh đói nghèo của những người vô sản phải bán sức lao động cho chủ tư bản để kiếm sống. Phụ nữ và trẻ em phải làm việc đến kiệt sức trong các xưởng thợ. Nông dân bị tước đoạt ruộng đất, mất hết TLSX, phải chạy ra các đô thị và trở thành những người thất nghiệp. Họ trở thành nạn nhân của tình trạng bị nóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối của các chủ tư bản trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ và tự do cạnh tranh của CNTB. Hai ông đã vạch rõ hậu quả khôn lường của chế độ bóc lột tàn bạo này. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực: một số ít nắm trong tay toàn bộ tài sản, quyền lực ngày càng giầu có - giai cấp tư sản; nhân dân lao động ngày càng bần cùng hóa, lún sâu vào cái hố của sự nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp và thất học - giai cấp vô sản. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy quá trình phân hoá giàu nghèo thành phân hoá giai cấp mà đối kháng giữa hai giai cấp đó là không thể điều hoà được. Theo Mac - Engghen, nguồn gốc sâu xa của tình trạng đói nghèo là chế độ sở hữu TBCN về TLSX ở chế độ áp bức bóc lột người. Đói nghèo là sản phẩm của sự phân bố không đồng đều về quyền lực trong xã hội. Trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản Mác đã nghi rõ “trong những thời đại lịch sử trước hầu như khắp mọi nơi chúng ta đều thấy xã hội hoàn toàn chia thành những đẳng cấp khác nhau, cái thang chia thành từng nấc thang địa vị xã hội”. Khi xã hội chuyển sang CNTB cái hố phân biệt giàu nghèo chẳng những không mất đi mà ngày càng sâu rộng thêm. "Người lao động trở thành một người nghèo khổ và nạn nghèo khổ tăng lên nhanh hơn là dân số và của cải", “Giai cấp tư sản hiện đại sinh ra trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong không xoá bỏ được những giai cấp, đối kháng giai cấp”. “Tuy nhiên đặc điểm của thời đại giai cấp tư sản là đã đơn giản hoá những đối kháng. Giai cấp xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. Do đó chỉ có thể xoá bỏ chế độ tư hữu, chế độ bóc lột mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động thoát khỏi đói nghèo lầm than, làm cho họ trở thành người lao động tự do và người làm chủ tiến tới một xã hội công bằng, văn minh “xã hội không thể sống dưới sự thống trị của giai cấp tư sản không còn tương đồng với sự tồn tại của xã hội nữa”. Trong điều kiện chuyển CNTB từ tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền và độc quyền nhà nước, Lênin đã tiếp tục bảo vệ và phát triển lí luận của chủ nghĩa Mácxít nói chung và tiếp tục phân tích một cách gay gắt các mâu thuẫn kinh tế xã hội. Đây là thời kì tích tụ trầm trọng hơn sự nghèo đói cùng cực của giai cấp vô sản và những người lao động trên khắp thế giới. Lênin đã vạch ra luận cương giải phóng toàn bộ giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức bóc lột khỏi ách thống trị của của CNTB bằng cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau Cách mạng thánh Mười 1917, trong bước chuyển từ “chính sách thời chiến” sang “chính sách kinh tế mới” (NEP), Lênin còn chỉ rõ cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường tự do cạnh tranh thì sự phân hoá giàu nghèo cũng trở thành tất yếu đối với đời sống cộng đồng dân cư. “Sự phát triển của CNTB lẫn sự bần cùng hoá của nhân dân không còn là hiện tượng ngẫu nhiên nữa, hai hiện tượng đó tất nhiên phải đi kèm sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự phân công xã hội”; đặc biệt đối với dân cư nông thôn “một khi nông dân đã trở thành người sản xuất hàng hoá thì đạo đức của họ tất nhiên là sẽ phải xây dựng trên đồng rúp mà người ta cũng không thể quy trách nhiệm cho họ về điều đó được và chính điều kiện của cuộc sống đã buộc họ phải săn đồng rúp bằng mọi mánh khoé buôn bán. Tình hình đã như vậy thì dù không phạm phải một tội hình sự nào đó, không có một sự nô dịch nào đó, không có một gian lận nào, nông dân vẫn cứ phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Sự bình đẳng xưa kia không còn đứng vững nổi trước những biến động của thị trường. Đó không hẳn là một sự suy luận, đó là một sự thật”. Vì vậy, Lênin chủ chương thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá, dùng lợi ích vật chất, coi đó như một đòn bẩy kinh tế để khuyến khích mọi người lao động, giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế. Đây được coi là một trong những biện pháp để căn bản có thể xoá bỏ tình trạng đói nghèo, nhất là ở nông thôn trong công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN. Vận dụng những quan điểm, lí luận của chủ nghĩa Mac_Lênin vào điều kiện Việt Nam một cách sáng tạo, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng lí luận về cách mạng giải phóng dân tộc chống thực dân. Người tổ chức, xây dựng, rèn luyện Đảng ta tiến hành lãnh đạo nhân dân làm cách mạng để giành độc lập tự do cho tổ quốc. Suốt cuộc đời Người hi sinh cho dân tộc Việt Nam. Người hằng ao ước "tôi có một ham muốn tột bậc, ham muốn đó là dân tộc ta, đồng bào ta, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Ngay sau khi Cánh mạng tháng Tám thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi đói nghèo như một thứ giặc “nội xâm” mà thứ giặc đó còn nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm cả. Vì vậy Người đã sớm phát động cuộc thi ái quốc, kêu gọi toàn dân ra sức tăng sản xuất thực hành tiết kiệm, nhường cơm sẻ áo, quyên gạo cứu đói. Ngay từ khi đó Người đã nhận thức sâu sắc vấn đề đói nghèo cũng như tầm quan trọng của xoá đói giảm nghèo ở nước ta. * Tính tất yếu của sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí điều tiết của nhà nước, định hướng XHCN. nền kinh tế đã có bước tăng trưởng đáng kể, bộ mặt đất nước không ngừng đổi mới, số hộ nghèo giảm đi, số hộ giàu tăng lên. Song hiện tượng phân hoá giàu nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng và sự chênh lệch giữa các vùng miền ngày càng rõ nét, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa dân tộc kinh và đồng bào dân tộc thiểu số. Để đánh giá đúng nguyên nhân của hiện tượng này phải có một quan niệm thực sự khoa học, trên cơ sở đó thái độ và cách giải quyết đúng đắn. Trước hết phải thấy được sự phân hoá giàu nghèo không phải là do hiện tượng ngẫu nhiên, tạm thời mà đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử. Tuy nhiên mức độ thể hiện tuỳ thuộc vào các giai đoạn kinh tế, các chính sách KTXH, bản chất của giai cấp cầm quyền... Con người, ai cũng có ý thức vươn lên trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình, đặc biệt là trong qúa trình lao động sản xuất vật chất - cơ sở của đời sống xã hội. Luôn tìm mọi cách để cải thiện công cụ, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng suất lao động. Nhưng do giới hạn về năng lực của mỗi người là khác nhau nên hiệu quả kinh tế mà mỗi người đạt được là không giống nhau.Trong cùng một điều kiện về thời gian không gian, những người có thể lực, trí tuệ, khả năng sáng tạo cao hơn thường có kết quả sản xuất cao hơn, thu nhập cao hơn và đương nhiên được đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần so với những người kém hơn về sức khoẻ, trí tụê. Và nếu không có yếu tố chủ quan nào can thiệp theo hướng tích cực thì tất yếu sẽ tạo ra sự phân hoá xã hội, phân hoá giai cấp. Nền kinh tế thị trường tác động đến phân hoá giàu nghèo còn mạnh hơn gấp nhiều lần so với kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế thị trường con người sản xuất hàng hoá dịch vụ hướng vào thị trường, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Họ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường. Họ lao động nhiều hơn tạo ra khối sản phẩm đa dạng hơn phong phú hơn về cả mẫu mã lẫn chất lượng. Nhờ đó đời sống của họ được cải thiện, số hộ giàu tăng lên số hộ nghèo ít đi. Nhưng điều gì cũng có tính hai mặt của nó và nền kinh tế thị trường cũng không thoát khỏi quy luật đó. Dưới tác động cạnh tranh, quá trình phân hoá giàu nghèo cũng diễn ra ngày càng nhanh chóng, rõ nét. Đầu tiên là giữa các vùng miền, vùng nào có điều kiện tự nhiên, nhân văn, con người... thuận lợi hơn thường có nền KT - XH phát triển hơn. Thứ hai, là giữa thành thị và nông thôn mà nguyên nhân cơ bản chính là giá trị kinh tế cao của những ngành sản công nghiệp mà chủ yếu nằm ở thành thị. Thứ ba, giữa miền xuôi và miền ngược, những vùng núi vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt, là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp... thường kém phát triển hơn. Bên cạnh đó phân hoá giàu nghèo còn do: sự gia tăng dân số, rủi ro... đặc biệt là do năng lực sản xuất của mỗi chủ thể kinh tế, mỗi hộ, mỗi gia đình. 2. Quan niệm về đói nghèo và thước đo đói nghèo: 2.1. Đói nghèo và các khía cạnh của đói nghèo: Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút cả cộng đồng quốc tế cần nỗ lực nhằm từng bước XĐGN và nâng cao phúc lợi cho người dân. Tuy nhiên, không có một định nghĩa duy nhất về đói nghèo và cũng không có một phương pháp hoàn hảo để đo được nó. Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều địa phương diện.Thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới những người có khả năng giải quyết; ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị sỉ nhục, không được người khác tôn trọng... đó là những khía cạnh của đói nghèo. Nhưng đo được từng khía cạnh đó một cách nhất quán là điều rất khó còn gộp tất cả những khía cạnh đó vào thành một chỉ số nghèo hay thước đo đói nghèo duy nhất là chuyện không thể.Song vẫn rất cần các chỉ tiêu về nghèo nhằm thông tin cho các chính sách công và để đánh giá được mức độ thành công của các chính sách đó. 2.2.Thước đo đói nghèo: Để tính toán một thước đo đói nghèo, cần có ba yếu tố. Đó là: lựa chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lợi; lựa chọn một ngưỡng nghèo, đó là mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình nằm dưới mức đó sẽ bị coi là nghèo; chọn ra một thước đo đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư. 2.2.1. Xác định các chỉ số phúc lợi: Có thể chia những khía cạnh cơ bản của đói nghèo thành khía cạnh tiền tệ và phi tiền tệ. Khía cạnh tiền tệ của đói nghèo được phản ánh chủ yếu qua mức chi tiêu bình quân người bởi nó tổng hợp được rất nhiều yếu tố có thể làm cải thiện chất lượng cuộc sống như chi cho ăn uống, học hành, thuốc thang và các dịch vụ y tế... Hoặc qua mức thu nhập bình quân đầu người. Khía cạnh phi tiền tệ của đói nghèo được dùng để đo tình trạng thiếu thốn về y tế, giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay thiếu quyền lực... Tuy nhiên giá trị của các chỉ số này đều được ước tính đo sự đánh giá chủ quan của con người. 2.2.2.Lựa chọn và ước tính ngưỡng nghèo: Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo) là ranh giới để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Nó có thể là một ngưỡng tính bằng tiền hoặc phi tiền tệ. Có hai cách xác định ngưỡng nghèo : + Ngưỡng nghèo tuyệt đối: là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu, cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khoẻ mạnh. Dựa trên rổ lương thực cần thiết (tính đến cả cơ cấu tiêu dùng lương thực của các hộ gia đình đặc thù của một nước) hai ngưỡng nghèo tuyệt đôí được tính toán. Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ lương thực hàng ngày, gọi là ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm (LTTP). Ngưỡng nghèo này thường thấp vì nó chỉ tính đến chi tiêu cho lương thực. Ngưỡng nghèo thứ hai là ngưỡng nghèo chung, bao gồm cả phần chi tiêu cho các sản phẩm phi lương thực. + Ngưỡng nghèo tương đối: được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước, phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Do Việt Nam là nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp nên chúng ta còn đưa thêm quan niệm về đói và thiếu đói, nhằm đảm bảo tính chất ưu tiên hoá, chính xác hơn trong chính sách XĐGN của chính phủ. Đó là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu chỉ đủ khả năng đảm bảo có được mức lương thực cần thiết để tồn tại. Trong bộ phận này có những người đói gay gắt, là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống cách xa dưới mức tối thiểu, phải đói ăn chịu đứt bữa theo những thời gian nhất định. ở Việt Nam hiện nay chưa có ngưỡng nghèo thống nhất. Việc phân tích đánh giá đói nghèo vẫn sử dụng một trong hai ngưỡng nghèo tuyệt đối: Thứ nhất, ngưỡng nghèo của Tổng Cục Thống Kê xác định dựa theo cách tiếp cận của ngân hàng Thế Giới.Theo hướng này TCTK đưa ra hai ngưỡng : - Nghèo đói LTTP: là những người có mức thu nhập không đảm bảo cho lượng dinh dưỡng tối thiểu (bù đắp 2100 calori/người/ngày đêm). - Nghèo đói chung: được xác định trên cơ sở ngưỡng nghèo LTTP và coi đó là tương ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% còn lại là các nhu cầu tối thiểu cơ bản khác. Nghèo đói chung là những người không đảm bảo thu nhập để đáp ứng cả hai yêu cầu chung . Theo đó, căn cứ vào giá cả chung, TCTK đưa ra ngưỡng nghèo áp dụng từ năm 1998 ở Việt Nam như sau: ngưỡng nghèo LTTP là 107234đ/người /tháng và ngưỡng nghèo chung là 149156 đ/người/tháng. Thứ hai, ngưỡng nghèo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTBXH). Cách này xác định ngưỡng nghèo mang tính chất tương đối hơn. Tiếp cận từ khía cạnh thu nhập, xác định ngưỡng nghèo là mức thu nhập tối thiểu của từng khu vực, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và tình trạng giá cả hàng hoá tiêu dùng ở các khu vực khác nhau. Cụ thể năm 2000, chuẩn đói nghèo như sau: -Hộ đói: hộ có mức thu nhập bình quân một người trong một tháng quy ra gạo dưới 13 kg. -Hộ nghèo: là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng sau: -Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo:80.000đ/tháng. -Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đ/người/tháng. -Vùng thành thị: 150.000đ/người/tháng. 2.2.3. Các thước đo đói nghèo thông dụng: Sau khi xác định ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo để mô tả quy mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo thông dụng nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là: tỉ lệ đói nghèo, khoảng nghèo và bình phương khoảng nghèo. Ba thước đo đó đều có thể tính được bằng công thức chung như sau: Trong đó: yi: mức chi tiêu (hoặc thu nhập) tính trên đầu người, tính cho người thứ i. Z:ngưỡng nghèo. N:tổng dân số. M:số người nghèo. a: đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những người nghèo. Khi Pa=0, Pa=M/N là tỉ lệ đói nghèo (chỉ số đếm đầu), là tỉ lệ những người nằm dưới ngưỡng nghèo. Khi a=1, Pa Là khoảng nghèo được tính là tổng các mức thiếu hụt của tất cả ngưỡng nghèo trong nền kinh tế. Khi a=2, Pa,là chỉ số bình phương khoảng nghèo thể hiện mức độ nghiêm trọng của đói nghèo vì nó đã làm tăng thêm trọng số cho những nhóm người có khoảng nghèo lớn hơn trong số những người nghèo. Cả ba thước đo đói nghèo đều có một tính chất hữu ích chung là nó cho phép phân tách các thước đo tổng hợp theo vùng hoặc nhóm dân cư. Tuy nhiên, nó mới chỉ tập trung đo lường những khía cạnh thiếu thốn về điều kiện vật chất của người nghèo. Bên cạnh đó còn có các thước đo định tính khác để phản ánh sự thiếu thốn về y tế và giáo dục, nguy cơ dễ bị tổn thương và tình trạng không có tiếng nói, không có quyền lực của người nghèo. II.Vài nét về thực trạng đói nghèo ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hà giang nói riêng: 1.Vài nét về thực trạng đói nghèo ở Việt Nam: Theo chuẩn đói nghèo của TCTK thì tỉ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 70% N1990 xuống còn 32% N2000 và 28,9% N2002. So với mục tiêu giảm 1/2 tỉ lệ đói nghèo giai đoạn 1990-2015 thì Việt Nam đã về trước mục tiêu này và được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước giảm tỉ lệ đói nghèo tốt nhất. Tuy nhiên Việt nam vẫn là một trong những nướcnghèo - đứng hàng thứ 133/174 quốc gia trên thế giới theo GDP bình quân đầu người. Đói nghèo ở Việt Nam mang tính chất vùng rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa có tỉ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số hộ đói nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đó là những vùng tài nguyên thiên nhiên khắc nghiệt, CSHT kém phát triển và thiếu đồng bộ. Nghèo đói ở nước ta phổ biến là trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện nguồn lực rất hạn chế. 90% số người đói nghèo ở nước ta sinh sống ở vùng nông thôn, trình độ tay nghề thấp... không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin nên rất khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập cao hơn . Trong những năm gần đây, tỉ lệ đói nghèo ở nước ta có được cải thiện nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung. Cụ thể là sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giầu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần N1995 lên 9,1 lần N2002) cho thấy hố ngăn cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng. 2.Vài nét về XĐGN và mục tiêu XĐGN của tỉnh Hà giang: Hà giang là một tỉnh miền núi phía Bắc, nơi địa đầu biên cương của tổ quốc. Được tách từ tỉnh Hà Tuyên từ tháng 10.1990. Do đặc điểm địa lí, tự nhiên, giao thông đi lại khó khăn, dân cư sống phân tán, cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn lạc hậu, đất đai canh tác ít, dân cư chủ yếu là dân tộc, trình độ dân trí thấp vơí sự kết hợp các yếu tố chủ quan duy ý trí trước đây đã để lại một thực trạng KT-XH hết sức thấp kém, lạc hậu. Sản xuất của tỉnh Hà giang chủ yếu là nông, lâm nghiệp độc canh cây lúa, cây ngô một vụ, mang nặng tính tự cung tự cấp. Cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa hợp lí. Tiến bộ KHKT còn chậm đưa vào ứng dụng sản xuất. Đời sống nhân dân các dân tộc còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. Giai đoạn này tỉ lệ đói nghèo tăng nhanh, sự phân hoá ngày càng rõ rệt ở từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc. Chênh lệch giàu nghèo N2003 khoảng 7,5-10 lần, cụ thể: Tổng số hộ toàn tỉnh :122.475 hộ Trong đó: -Hộ đói: 23.625 hộ,chiếm 24,4% -Hộ nghèo : 13.393 hộ chiếm 10.93% -Hộ TB: 44.277 hộ chiếm54,35% -Hộ khá: 14.212 hộ chiếm 14,55% -Hộ giàu: 4.916 hộ chiếm 5,03% *Mục tiêu XĐGN của Hà Giang trong thời giang tới như sau: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V xác định mục tiêu tổng quát của chương trình XĐGN tỉnh Hà giang như sau: - Hết N2010 xoá xong hộ đói nói chung và các gia đình chính sách nói riêng. - Giảm hộ nghèo xuống dưới 20%. Đảm bảo nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao. - Phấn đấu hết năm 2010, 100% xã có CSHT cơ bản (điện, đường, trường, trạm). Ưu tiên đầu tư cho xã nghèo, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, xã biên giới, vùng đồng bào dân tộc khó khăn. Phần II. Tình hình xoá đói giảm nghèo ở huyện quản bạ giai đoạn 2001-2005. I. tác động của đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội tới hiện tượng đói nghèo tại huyện quản bạ: 1.Đặc điểm tự nhiên: 1.1.Vị trí địa lí: Quản bạ là một huyện miền núi phía Bắc tỉnh Hà Giang nằm trên cao nguyên đá vôi Đồng Văn. Có vị trí địa lí từ 22057’ đến 23010’vĩ Bắc, 104040’33” đến 105000’00” kinh đông. Phía Tây và phía Bắc giáp Trung Quốc. Phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Yên Minh, phía Nam giáp huyện Vị Xuyên. Quản Bạ có 12 xã và 1 thị trấn. Trong đó có 5 xã giáp biên giới Việt Trung, có đường biên giới dài 46km và 11 cột mốc Quốc gia. Quản Bạ có tổng diện tích tự nhiên là 54989ha .Toàn huyện chia thành 2 tiểu vùng: - Tiểu vùng 1 gồm 3 xã:Đông Hà,Lùng Tám,Cán Tỷ, là tiểu vùng thấp của huyện ,có diện tích tự nhiên la16060 ha. - Tiểu vùng 2 gồm 1 thị trấn và 9 xã còn lại có diện tích tự nhiên là 38929 ha. 1.2.Địa hình : Quản Bạ là một trong bốn huyện vùng cao nằm trên cao nguyên đá vôi Đồng Văn, chỗ thấp nhất là xã Đông Hà nằm dọc theo sông Miện, có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 900 – 1200m. Địa hình núi đá vôi phức tạp,chia cắt mảnh. Do bề mặt đứt gãy, nhiều hang động được hình thành, địa hình đồi núi, nhiều ruộng bậc thang ... 1.3.Khí hậu: Khí hậu ẩm nhiệt đới, chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2000-2400 mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 150 – 200C. Vào mùa đông nhiệt độ có thể xuống thấp khoảng 60 – 80C, nhiều mây mù; có năm có mưa tuyết. 1.4. Sông nước: Sông lớn nhất chảy qua huyện Quản Bạ là sông Miện, bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc, chảy qua các xã: Bát Đại Sơn, Cán Tỷ, Lùng Tám, Đông Hà, Thái An và nối liền với sông Lô. Ngoài ra, do kiến tạo của địa hình phức tạp còn tạo nhiều khe lạch và suối có nước về mùa mưa, còn mùa khô nước cạn. 1.5. Thổ nhưỡng: Do quá trình phong hóa từ đá vôi trầm tích nâng lên phiến thạch nên đất thường có độ cơ giới nặng, độ phì cao ở những nơi có độ dốc thấp <250 như xã Thanh Vân, Quản Bạ, Quyết Tiến, Đông Hà, Lùng Tám; còn ở các xã vùng cao có độ dốc từ 260- 450 thường xảy ra hiện tượng sạt lở và rửa trôi mạnh vào mùa mưa như xã Tùng Vài, Tả Ván, Nghĩa Thuận, Cao Mã Pờ. 1.6.Khoáng sản: Do chưa thăm dò khảo sát đầy đủ song trong địa bàn huyện không có mỏ khoáng sản nào lớn đáng kể. Chỉ có mỏ quặng sắt lộ thiên thuộc xã Quyết Tiến, vùng biên xã Cao Mã Pờ, Nghĩa Thuận. 1.7.Đất đai: Đất đai là nguồn lực tài nguyên có tiềm năng lớn nhất, trực tiếp nhất của đồng bào các dân tộc huyện Quản Bạ. Diện tích đất tự nhiên của toàn huyện là 54.989 ha. Trong đó: - Đất nông nghiệp :8.771 ha - Đất lâm nghiệp: 24.185 ha. - Đất chuyên dùng:164,56 ha. - Đất ở:423,04 ha. - Đất chưa sử dụng:21.495,4 ha. Diện tích đất đã sử dụnglà: - Đất nông nghiệp: 8.771 ha. Trong đó: + Đất cây hàng năm: 7.815 ha. + Đất cây lâu năm: 951 ha. +Đất ao hồ: 5 ha. - Đất lâm nghiệp : Trong đó : + Rừng tự nhiên :22.486 ha + Rừng trồng :579 ha + Đất đồi núi trọc:1.120ha. Đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp chưa đưa vào khai thác là 1.491 ha. KL: Như vậy điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế nói chung và sự phân hoá giàu nghèo nói riêng của huyện Quản bạ. Tuy có nhiều yếu tố hạn chế sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội, song với ưu thế về độ cao, đất đai, khí hậu đã tạo ra cho huyện Quản bạ những lợi thế riêng. Hệ sinh thái phong phú, thuận lợi cho việc phát triển mạnh cây chè đặc sản San Tuyết, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: hồng không hạt, lê mận...; cây dược liệu quý như: đỗ trọng, ấu tẩu, xuyên nhung, thảo quả, đương quy... nhiều tiềm năng phát triển cây tre, trúc... Đồng thời phát triển chăn nuôi gia súc như đàn trâu, bò, lợn, ngựa, dê, ong mật. Đặc biệt huyện là nơi có tiềm năng lớn về du lịch sinh thái, với khí hậu mát mẻ, phong cảnh núi non hùng vĩ song cũng không kém phần trữ tình, với nhiều địa danh nổi tiếng như Cổng trời, Núi Đôi, Núi Cô Tiên, Hang Khau Mỉ – Tùng vài,... và sắc thái văn hoá phong phú đa dạng của các dân tộc thiếu số. 2. Đặc điểm dân số xã hội: 2.1.Đặc điểm dân số lao độ._.ng: Dân số Quản Bạ phân bố không đều giữa các xã, các vùng trong huyện. Chủ yếu tập trung ở các xã vùng thấp, xã có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuấtvà sinh hoạt. Tập trung ở các thung lũng, chân núi, cạnh sông suối... Một số sống rải rác trên các sườn núi. Năm 2005, toàn huyện có 7.838 hộ với 39.243 khẩu. Mật độ dân số thưa khoảng 73 người/km2. Dân số Quản Bạ là dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào. Tổng số người trong độ tuổi lao động là: 20.423 người, trong đó số người có khả năng lao động là: 17.829 người. Bao gồm: - Theo giới tính: + Nam: 8.380 người, chiếm 47%. + Nữ: 9.449 người, chiếm 53%. - Theo trình độ: + Không biết chữ: 2.236 người. + Chưa tốt nghiệp cấp I: 3.376 người. + Đã tốt nghiệp cấp I: 6.439 người. + Đã tốt nghiệp cấp II: 2.107 người. + Đã tốt nghiệp cấp III: 2.157 người. - Theo nghề nghiệp: + Lao động trong khu vực nông nghiệp: 12.339 người + Lao động trong khu vực tiểu thủ công nghiệp: 1.630 người + Lao động khu vực dịch vụ - thương mại: 2.246 người + Lao động trong khu vực nhà nước: 1.514 người. Ta thấy, dân số Quản Bạ là dân số trẻ, lực lượng lao động đồi dào, cần cù chịu khó tuy nhiên trình độ lao động thấp, chủ yếu lao động trong ngành sản xuất nông nghiệp, lao động ngành nghề chưa phát triển, lao động kĩ thuật ít. Do vậy: nâng cao trình độ cho người lao động là vấn đề cần thiết để chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần được quan tâm. 2.2. Đặc điểm dân số dân tộc: Huyện Quản Bạ bao gồm 14 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, dân tộc H’mông chiếm hơn 60%, đặc biệt: có dân tộc chỉ chiếm có khoảng 1% và dân tộc Pu y cả nước chỉ có duy nhất ở huyện Quản Bạ - Hà Giang. Hiện nay toàn huyện có 104thôn bản. Đây là kết quả của cả quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên để xây dựng bản làng của đồng bào các dân tộc. Qua đó, họ đã khẳng định được truyền thống văn hoá, kinh nghiệm lao động sản xuất, phong tục tập quán phù hợp với điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng, từ phong tục tập quán đến cộng đồng ngôn ngữ, sống cư trú đan xen có sự pha trộn ảnh hưởng lẫn nhau. Một số dân tộc như Tày, Nùng, H’mông còn duy trì truyền thống trồng lanh, dệt vải, nhuộm tràm, hát đối, hát cọi, thổi kèn lá, sáo trúc, mặc trang phục truyền thống, ở nhà sàn... và mở các lễ hội trong những dịp như tết đến xuân về, tổ chức các trò chơi dân gian: chơi quay, chơi cù, đẩy gậy, ném còn… Đời sống văn hoá phong phú, nét đẹp của mỗi dân tộc luôn được giữ vững và phát huy. Không những vậy, trải qua quá trình đấu tranh giữ gìn bảo vệ biên cương của tổ quốc, đồng bào các dân tộc huyện Quản Bạ đã chứng minh được truyền thống yêu nước thương nòi, đoàn kết tương thân tương ái như truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam ta. Song bên cạnh đó sự tồn tại của các phong tục cũ như ma chay cưới xin vẫn còn nặng nề. Sự tồn tại kéo dài của một số các tập quán lạc hậu như: nạn tảo hôn, cúng bái, ma chay... và các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè,... là một sự bất lợi không nhỏ cho sự phát triển sản xuất và đời sống của các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Sự bất đồng về ngôn ngữ cũng gây không ít khó khăn cho việc thực hiện các chương trình XĐGN. Do đó cần sớm khắc phục và loại bỏ các phong tục lạc hậu và tệ nạn xã hội ra khỏi cộng đồng. 3. Đặc điểm kinh tế xã hội: Quản Bạ là một huyện miền núi phía Bắc nằm trên cao nguyên đá vôi Đồng Văn. Do đặc điểm địa lí phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, dân cư phân bố không đều cơ sở vật chất lạc hậu. Kết hợp với các yếu tố chủ quan duy ý chí trước đây để lại thực trạng kinh tế xã hội vô cùng thấp kém và lạc hậu. Thu ngân sách của huyện chỉ đạt 10% chi thường xuyên, còn lại 90% là do cấp trên hỗ trợ. Nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất cao.Trong đó, chủ yếu là độc canh cây lúa (920ha) và cây ngô (3400ha), chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn chậm và chưa hợp lí. Khoa học kĩ thuật ít được áp dụng vào sản xuất và năng suất cây trồng chưa cao. Cơ sở hạ tầng yếu kém, giao thông đi lại khó khăn từ huyện đi các xã và đến tỉnh. Đây là trở ngại lớn trong giao lưu kinh tế trong huyện và tới các huyện bạn trong tỉnh. Về y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân còn yếu kém, dịch bệnh như sốt rét, cúm, sởi vẫn chưa được dập tắt, luôn đe doạ tính mạng của đồng bào. Công tác kế hoạch hoá gia đình chưa thật sự phát triển kết hợp với các hủ tục lạc hậu, dân trí thấp nên tỉ lệ tăng dân số còn cao. Về giáo dục, trường lớp còn tạm bợ, tình trạng học xen và lớp ghép còn phổ biến; đội ngũ giáo viên còn thiếu và yếu; số học sinh đến trường còn thấp, số đồng bào dân tộc thiểu số biết tiếng phổ thông chưa nhiều. Tóm lại vì mặt bằng kinh tế xã hội của huyện Quản bạ còn thấp kém nên công tác xóa đói giảm nghèo phảI luôn gắn chặt với việc phát triển kinh tế xã hội mới có thể đảm bảo một cuộc sống thật sự an toàn cho người dân, tăng trưởng một cách bền vững. II.Khái quát tình trạng đói nghèo của huyện Quản Bạ giai đoạn 2001 – 2005: 1. Tính tất yếu của quá trình phân hoá giàu nghèo trên địa bàn huyện Quản Bạ: Sự phát triển của nền kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo. Đó là điều hiển nhiên. Song đối với Quản Bạ nền kinh tế còn rất nhiều khó khăn, cơ chế tập trung hoá cao đã không có tác dụng kích thích người lao động tích cực sản xuất, chất lượng sản phẩm kém. Tình trạng thiếu việc làm, phân phối ăn chia bình quân, thất nghiệp tăng, đặc biệt là khâu phân phối lưu thông bị ách tắc. Tình trạng đói nghèo nghiêm trọng, nhưng do chủ nghĩa bình quân (cao bằng lợi ích) nên phân hoá giàu nghèo có diễn ra nhưng chưa thật quyết liệt và về bản chất thì cũng không phải là quá trình “bần cùng hoá” nhân dân lao động. Nhờ chính sách của Đảng từng bước đổi mới trong nông nghiệp, như Chỉ thị 100 – Chỉ thị 10 của Đảng, tình hình sản xuất nông nghiệp được thay đổi. Biểu hiện rõ nét qua sự tăng lên về số lượng cũng như chất lượng cây trồng vật nuôi; diện tích, năng suất, số lượng đàn gia súc gia cầm ,các loại cây công nghiệp ,cây ăn quả, cây dược liệu được quan tâm phát triển. Điều này đã đánh dấu một bước phát triển đối với kinh tế xã hội huyện Quản Bạ, đó là sự phát triển kinh tế nhiều thành phần, sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số HTX nhanh chóng thay đổi cơ chế quản lí có chế độ chính sách hợp lí nên khuyến khích người lao động hăng hái thi đua lao động sản xuất, nâng cao năng suất. Trong nông nghiệp có nhiều hộ nông dân đã nhanh chóng không những thoát khỏi đói nghèo mà còn có “của ăn của để” do có vốn đầu tư, kinh nghiệm sản xuất, biết hạch toán kinh tế. Tuy nhiên đó chỉ là một số rất ít, còn lại đa số bộ phận dân cư vẫn còn loay hoay chưa dám mạnh dạn thay đổi, kiếm tìm nguồn lực, phương sách tăng thu nhập. Họ tạm bằng lòng với mức sống trung bình tạm đủ so với mặt bằng thu nhập của vùng. Đa số chỉ trông chờ vào hạt ngô, hạt lúa, hứng chịu nhiều hơn sự rủi ro, thất bát mùa màng. Không có lương thực đồng nghĩa với việc không thể chăn nuôi để tăng thu nhập. Không có tiền để đầu tư vào vật nuôi, giống, cây trồng để sản xuất nên năng suất thấp, thu hoạch được ít hơn; trong khi số người trong gia đình ngày càng tăng thêm. Chung quy lại các hộ gia đình, nông dân đói nghèo chủ yếu là vì: thiếu ăn, đông con, thiếu vốn, thiếu sức lao động, sức kéo, thiếu giống, thiếu phân bón... đặc biệt ở các vùng núi cao, vùng giáp biên. Còn nhiều HTX cơ chế chuyển đổi còn lúng túng, thiếu sót và chậm trễ. Giai đoạn này tỉ lệ đói nghèo cao và sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét, mức sống có sự chênh lệch ở từng thôn bản, từng xã, từng dân tộc. Do vậy, công tác XĐGN phải làm cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, tự họ vươn lên xoá đói giảm nghèo dưới sự giúp đỡ từ phía Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, mục tiêu XĐGN phải luôn gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của toàn huyện. 2. Thực trạng đói nghèo ở huyện Quản Bạ giai đoạn 2001 – 2005: Đảng bộ và các cơ quan ban ngành huyện Quản Bạ đã có các biện pháp và định hướng phù hợp với đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó trong những năm qua tình hình tăng trưởng kinh tế nói chung và công tác XĐGN nói riêng đã có những kết quả đáng kể. Các ngành kinh tế từng bước phát triển, cơ cấu kinh tể đã và đang chuyển dịch theo hướng tiến bộ: giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng các ngành thương mại, dịch vụ, xây dựng, công nghiệp; trong cơ cấu ngành nông nghiệp tỉ trọng của nganh chăn nuôi đang tăng lên. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong những năm qua đã tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Góp phần giải quyết nhiều vấn đề KT-XH như ổn định chính trị kinh tế, trật tự trị an, giữ vững quốc phòng an ninh, nhân dân thêm tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng. Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế (GDP - theo giá thực tế) qua các năm của huyện Quản bạ. Đơn vị tính:% Năm Ngành 2000 2001 2002 2003 2004 2005 TB 2000-2005 1.Nông,lâm,ngư nghiệp 72.73 67.56 64.63 59.55 55.99 48.05 2.Công nghiệp xây dựng 12.89 15.61 16.19 15.36 18.96 21.58 3. Thương mại, dịch vụ 14.73 16.83 19.19 25.09 25.05 30.37 Bảng 2: Cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp của Huyện Quản Bạ giai đoạn 2001 – 2005: ĐVT: % Năm Ngành 2001 2002 2003 2004 2005 TB thời kỳ 2001 - 2005 Nông nghiệp 96,9 96,8 96,5 96,7 96,5 96,7 - Trồng trọt 80 79,5 78,2 77 75 77,9 - Chăn nuôi 20 20,5 21,8 23 25 22,1 Thuỷ sản 1,2 1,2 1,3 1,4 1,4 1,3 Lâm nghiệp 1,9 2 2,2 1,9 2 2,0 Thực hiện chính sách XĐGN, khuyến khích làm giàu của Đảng bộ và chính quyền địa phương trong suốt thời gian qua, số hộ khá tăng lên, số hộ nghèo giảm dần qua các năm : Biểu 3: Phân loại kinh tế hộ Huyện Quản Bạ (Giai đoạn 2001-2005)Theo chuẩn cũ Năm Hộ 2001 2002 2003 2004 2005 TB thời kì 2001-2005 Toàn huyện 6753 7259 7335 7415 7838 Hộ giàu 24 36 154 141 326 Hộ khá 304 884 748 803 545 Hộ trung bình 4048 4373 5283 5566 6365 Hộ nghèo 2377 1966 1150 905 602 Số hộ thoát nghèo 411 816 245 303 Số hộ bổ xung vào nhóm nghèo 0 0 0 0 0 Tỷ lệ đói nghèo (%) 35.19 27.08 15.68 12.21 7.68 Để có được thành quả đó là sự cố gắng phấn đấu rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân huyện Quản bạ. Song cái đói cái nghèo dường như vẫn còn bám lấy những người dân nghèo khổ. Tiếp đây chúng ta sẽ thấy rõ nét hơn tình trạng đói nghèo của huyện Quản Bạ: Biểu 4: Chỉ tiêu xã hội cấp xã thuộc khu vực nông thôn huyện Quản Bạ giai đoạn 2001 – 2005: STT Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2005 Tổng số So sánh(%) Tổng số So sánh(%) 1 Tổng số xã 12 13 2 Số xã có điện 6 50 13 100 Số hộ được sử dụng điện 28 64,09 3 Số xã có đường ô tô 12 100 13 100 Trong đó đường ô tô đến thôn bản 7 58.33 4 Số xã có trường cấp I 12 100 13 100 Trong đó: Số xã có trường cấp I đủ 5 lớp 12 100 13 100 5 Số xã có trường cấp II 6 50 7 53.85 6 Số xã có trường cấp III 1 8.33 1 7 Số xã có chợ xã ,liên xã 4 30.8 5 38.46 8 Số xã có trường xây bằng gạch 12 100 13 100 9 Số xã có trạm ytế 12 100 13 100 10 Tỷ lệ số hộ được sử dụng nước sạch 2 35 5 59 Qua những số liệu ta thấy: Trước hết, mặt bằng chung của huyện vẫn còn thấp, các hộ gia đình chủ yếu mới thoát khỏi đói nghèo, bước đầu làm ăn có hiệu quả. Tính đến ngày 30/11/2005, toàn huyện có 7838 hộ, thì trong đó có đến 6365 xếp loại trung bình (chiếm 78.121 %), 602 hộ vẫn đang trong tình trạng đói nghèo (7.68 %). Tuy tỉ lệ hộ nghèo giảm mạnh nhưng chưa thật bền vững do số hộ trung bình có mức thu nhập sát mức nghèo còn tương đối lớn, đặc biệt là tỉ hộ nghèo theo chuẩn mới khá cao chiếm 69.39 %. Thứ hai, các hộ đói nghèo phân bố không đều giữa các xã trong huyện và tỉ lệ đói nghèo ở các xã khác nhau rất nhiều.Ta thấy tỉ lệ hộ nghèo cao nhất là ở xã Thái an (73/356 hộ chiếm 20.51 %) thứ hai là xã Lùng Tám (75/542 hộ chiếm 13.84%), thứ ba là xã Thanh Vân (71/770 chiếm 9.22%). Nhất là ở một số xã chưa có hộ nào được xếp loại hộ giàu như: Cao Mã Pờ, Bát Đại Sơn. Đây là những xã có điều kiện địa lí, tự nhiên khắc nghiệt hơn các xã khác trong huyện. Thứ ba, xã Đông Hà có tỉ lệ đói nghèo thấp nhất huyện (15/451 hộ chiếm 3.33 %). Có lẽ do Đông Hà là xã có nhiều điều kiện thuận lợi hơn về điều kiện tự nhiên như là xã ở vùng thấp có sông Miện chảy qua tạo nguồn thuỷ lợi lớn cho tưới tiêu, độ dốc thấp, đất đai màu mỡ, khí hậu ấm nóng hơn… nên có điều kiện tốt hơn cho sản xuất nông nghiệp. Thứ tư, Thị trấn Tam sơn - trái tim huyết mạch của huyện nhà - là nơi có cơ sở hạ tầng tốt nhất, trình độ dân trí cao nhất… nền kinh tế thị trường phát triển nhất thì cũng là nơi sự phân hoá giàu nghèo bộc lộ rõ nét nhất. Thị trấn Tam sơn là địa bàn có tổng số hộ giàu cao nhất huyện (201/982 hộ chiếm 20.47 %), song cũng là nơi có số hộ nghèo cao (88/982 hộ chiếm 8.96%) xếp thứ tư toàn huyện từ trên xuống. Biểu 5: Thu nhập bình quân một lao động theo loại hộ 2001 - 2003 Huyện Quản Bạ Loại hộ Thu nhập trung bình (1000đ/hộ) So sánh Năm 2000 Năm 2003 % 1.Hộ nông nghiệp 209 340 +131 1.31 2.Hộ tiểu thủ công nghiệp 615 609 +75 1.12 3.Hộ vận tải 705 740 +104.9 1.05 4.Hộ thương nghiệp 589 700 +118 1.18 5.Hộ cán bộ CNVC 779 980 +125 1.25 6.Hộ khác 5.91 600 +9 1.01 CộNG 581.6 675 +94 1.16 Qua bảng số liệu trên ta thấy một số biểu hiện bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo ngành nghề. Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc vào sự tác động của thiên nhiên như mưa, nắng, rét, sương muối... song thu nhập lại thấp - thấp hơn mặt bằng chung của cả huyện; chỉ bằng 0.36 lần thu nhập bình quân chung cho một lao động. Bên cạnh đó thì hộ công nhân viên chức trong khu vực hành chính sự nghiệp lại có thu nhập lớn nhất (năm 2003: 980.000 VNĐ/1 lao động/1 tháng) gấp 1.45 lần thu nhập bình quân chung và hơn 2.88 lần so với thu nhập bình quân một lao động của hộ nông nghiệp. Điều này cho thấy sự chênh lệch trong thu nhập giữa các ngành nghề là rất lớn, sự bất hợp lí này sẽ không khuyến khích các hộ nông dân hăng hái sản xuất, dẫn đến một xu thế lao động ở nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp ngày càng đông. Tóm lại, dân cư đói nghèo huyện Quản Bạ hầu hết đều có những đặc điểm sau: - Hầu hết các hộ gia đình nghèo đói đều sống ở nông thôn nghề nghiệp chủ yếu là nông nghiệp, canh tác lạc hậu trên đất nương dốc và ruộng bậc thang; không có nghề phụ khác. - Đa số các hộ gia đình nghèo có tỉ lệ sinh cao. Nhiều gia đình có từ 8 – 10 con. Nhiều người sinh con khi chưa tới 15 tuổi. - Chủ hộ là người trẻ, mù chữ, các thành viên trong gia đình trình độ văn hoá thấp, khó tiếp cận với tiến bộ khoa học kĩ thuật; đồ dùng sinh hoạt thiếu thốn, nhà cửa tạm bợ. - Họ còn mang nặng tính bảo thủ, cam chịu, lối sống lạc hậu, tự phụ an thân ở một số gia đình. Họ thường sống phân tán ở vùng xa xôi hẻo lánh, rẻo cao, giáp biên... cách xa trung tâm huyện lị, đường xá, cách xa các cơ sở cung cấp dịch vụ công như y tế, giáo dục... III. Nguyên nhân đói nghèo: Nguyên nhân dẫn tới đói nghèo được quy kết gồm nhiều vấn đề, được gom vào nhiều nhóm, lĩnh vực hay theo nhiều khía cạnh khác nhau. Cơ bản là do cơ sở hạ tầng yếu kém, giáo dục, y tế, thông tin, văn hoá, phong tục tập quán lạc hậu. Tất cả những nguyên nhân này đều đúng. Song trong đó có những nguyên nhân khác nhau về mức độ chính phụ, nhẹ hơn hay trầm trọng hơn mà thôi. Qua tình hình kinh tế xã hội cũng như thực trạng đói nghèo của huyện Quản Bạ, tôi xin đi sâu vào những nhóm nguyên nhân sau: 1. Sự phân cách trầm trọng kéo dài: Bao trùm lên tất cả là sự phân cách hay chính là sự phân chia về địa hình và cách biệt về xã hội và một số lĩnh vực khác. Thứ nhất, là do tác động của điều kiện tự nhiên, Quản bạ là huyện miền núi nằm trên cao nguyên đá vôi Đồng văn địa hình phức tạp, đất dốc, giao thông đi lại khó khăn. Hiện nay tuy 100% các xã có đường ô tô đến trung tâm xã nhưng còn hơn 42% thôn bản chưa có đường ô tô. Những con đường chỉ có ngựa thồ và người đi bộ từ các bản làng xa và cao xuống đường xương cá gắn với đường trục. Các thôn bản, các hộ gia đình cách xa nhau là đặc điểm của dân cư miền núi sống bằng nương rẫy. Do luân chuyển vạt nương và năng suất thấp nên các gia đình cần có một diện tích lớn rộng để canh tác sao cho đủ lương thực để sống. Hầu như họ rất ít đi chợ. Mỗi lần đi chợ, họ mua dự trữ những mặt hàng thiết yếu như dầu thắp, muối ăn và một số thứ khác. Cả huyện hiện chỉ có 5 chợ liên xã. Kinh tế tự cấp tự túc, nhu cầu rất thấp và ở quá xa đường xá đã làm cho các hộ gia đình này hầu như hoặc ít tiếp cận với các dịch vụ công cộng như: y tế, giáo dục, văn hoá, thông tin, tín dụng... Chính việc đi lại cách trở, xa các chợ, thị trấn đã làm cho họ càng thêm thiếu kiến thức về kinh tế thị trường, về các chính sách XĐGN. Rõ ràng sự phân cách về địa hình, sự sinh sống của đa số các hộ nghèo dân tộc thiểu số ở các vùng quá cao, sâu, xa, hẻo lánh là nguyên nhân chủ yếu khiến họ đói nghèo. Thứ hai, chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác truyền thông văn hoá - thông tin đến các xã vùng sâu vùng xa, vùng biên giới còn yếu và chậm. Sự thiếu thốn về lĩnh vực giáo dục đã làm cho trình độ dân trí thấp. Tỉ lệ biết chữ, số người có trình độ văn hoá ở các cấp học được cấp chứng chỉ trình độ chuyên cao ở bậc Đại học và Sau đại học, số năm giáo dục đào tạo cho một người là rất ít. Mặc dù Phòng giáo dục và đào tạo huyện đã có nhiều chương trình dựa trên kế hoạch của huyện cũng như của Bộ giáo dục và đào tạo nhằm giải quyết vấn đề này, song để thu hẹp được khoảng cách thì còn cần rất nhiều thời gian.Trong khi đó, hiện tượng tái mù chữ vẫn còn xảy ra ở các bản làng xa xôi, nơi họ trao đổi với nhau bằng tiếng dân tộc và ít có cơ hội tiếp xúc hàng ngày với tiếng phổ thông. Sự thiếu thốn về dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cũng tương tự. Đôi khi do trình độ dân trí thấp kém một số chỉ tin vào “ con ma”, “thầy mo” mà chưa thực sự tin vào cách chữa trị bệnh của y, bác sĩ. Thể trạng của họ thường yếu mệt, suy dinh dưỡng do không ăn đủ chất và suy dinh dưỡng ngay từ khi mới sinh. Điều này phần lớn là do thiếu đói lương thực, phong tục tập quán về ăn uống thiếu vệ sinh, không được tiếp xúc với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ... Đặc biệt thiệt thòi hơn cả là phụ nữ và trẻ em gái. Do sự phân biệt đối xử trong quan niệm, do những nghĩa vụ nặng nề đối với gia đình, họ hàng, anh em, trách nhiệm phải sinh “con đàn cháu đống” để họ hàng thêm thanh thế, có người nối dõi... đã buộc các trẻ em gái đi học muộn hơn, lập gia đình sớm hơn, không được đi học hoặc bỏ giữa chừng. Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng tới mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo, tỉ lệ sinh trong các hộ nghèo còn cao. Nhiều gia đình sinh khoảng 8 – 10 con. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỉ lệ người ăn theo cao và điều này đồng nghĩa với việc rất thiếu nguồn lực lao động nên dẫn đến thiếu thu nhập. Nên đối với các hộ nông dân miền núi đói nghèo trở thành vấn đề tất yếu. Đồng thời họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khoẻ sinh sản, chưa có ý thức đầy đủ về công tác kế hoạch hoá gia đình. Gần đây chương trình phủ sóng phát thanh và truyền hình đã được đài Phát Thanh và Truyền Hình Quản Bạ xúc tiến khá tích cực với hi vọng lấp dần sự cách biệt về thông tin văn hoá giáo dục cho bà con đồng bào các dân tộc. Song truyền hình mới chỉ đáp ứng được cho thị trấn Tam Sơn và một số xã lân cận vùng thấp. Bởi tính năng phát sóng của truyền hình ở vùng núi rất hạn chế (một trạm kiểu parabol đặt ở đài thị trấn, cư dân ngay sát đó cách khoảng 1 – 2 km cũng không xem được do núi chắn) và các gia đình không hẳn đã đủ điều kiện mua tivi. Còn việc phát triển chương trình phát thanh bằng tiếng dân tộc còn nhiều bất cập vì thời lượng phát sóng nhiều khi chưa thích hợp, chương trình chưa thật sự thiết thực với đời sống nhân dân. Do vậy mọi chủ trương chính sách pháp luật thông tin kinh tế, y tế... kinh nghiệm sản xuất ít được phổ biến và áp dụng.Và tất nhiên khi người dân mù chữ, thiếu hiểu biết thì mọi chương trình giúp xoá đói giảm nghèo đều dễ chịu thất bại hoặc hiệu quả thấp. Thực tế đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn trong chương trình phát triển chăn nuôi bò cho các hộ nghèo bằng cách cho mỗi hộ từ 1 đến 2 con bò, dê giống nuôi để lấy sức kéo, nhân giống nhằm nâng cao đời sống cho người lao động. Nhưng thật tiếc khi chỉ vì trình độ quá thấp, do tập tục lạc hậu, khi cúng bái ma chay họ sẵn sàng thịt ngay con vật đó để làm lễ. Chính sách XĐGN như vậy tất nhiên đi vào bế tắc. Thế nên khi đưa ra một kế hoạch nào đó nhằm tác động vào sự phân cách thì kèm theo đó phải là các chính sách chế tài nhằm hạn chế sự tác động tiêu cực, đi đôi với việc tạo điều kiện tốt hơn cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên XĐGN. 2. Những rủi ro tai họa phát sinh đột xuất: Đối với các hộ đói nghèo thì điều quan tâm nhất trong đời sống là vấn đề cái ăn.Vì vậy, có được sự an toàn lương thực là vấn đề ưu tiên số một. Những năm qua tình trạng thiếu lương thực vẫn luôn đè nặng lên cuộc sống của những hộ nghèo. Đa phần hộ sinh sống trên những vùng đất dốc, núi đá nên diện tích canh tác và năng suất kém. Hơn nữa các tiểu vùng của huyện có thời tiết khí hậu khắc nghiệt, thất thường như: mưa đá, lũ quét, gió lốc thường xuyên xảy ra vào mùa mưa; hạn hán, sương muối, nhiệt độ xuống thấp vào mùa đông… Điều này không chỉ ảnh hưởng tới sức khoẻ con người mà còn tác động trực tiếp làm cho năng suất cây trồng vật nuôi thấp, ít hiệu quả. Nhất là ở những xã liên tiếp xảy ra những thiên tai thì cuộc sống của con người thường vất vả, nghèo đói hơn. Năng suất lúa: Năm 2000: 37.4 tạ/ha. Năm 2005: 46.22 tạ/ha. Năng suất ngô: Năm 2000: 16.67 tạ/ha. Năm 2005:17.74 tạ/ha. Dịch bệnh thường xuyên xảy ra, mưa tuyết làm cho đàn gia súc bị chết và phát triển chậm.Năm 2000, đàn trâu bò của huyện bị chết rét 531 con, làm cho tổng số trâu bò giảm. Mà đây chính là sức kéo để lao động - nguồn lực - tài sản quan trọng nhất của người nông dân miền núi. Do lối canh tác lạc hậu, cây con truyền thống cho năng suất thấp, phụ thuộc vào khí hậu thời tiết nên thường xuyên đói lương thực và bị đe doạ dứt bữa vào những thời kì giáp hạt.Đã nghèo thì càng dễ bị sự thiếu thốn và rủi ro chi phối cuộc sống. 3. Do nguồn lực hạn chế: Cơ hội là một trong những kênh quan trọng nhất để giảm nghèo. Cơ hội được xem là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sở hữu tài sản và lợi tức thu được từ tài sản đó. Nhiều khi tài sản của người nghèo chính là sức lao động. Nhưng nếu không có công việc làm trả lương tốt thì một mình tài sản này không đủ đảm bảo thu nhập cho hộ. Những nguồn lực khác như: tay nghề, đất đai, sức lực… cũng bị hạn chế. Thiếu nguồn lực nên người nghèo rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo, không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực, điều này đã cản trở họ thoát khỏi đói nghèo. Mặc dù chính sách giao đất, giao rừng đã được thực hiện, song các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng này đang có xu hướng gia tăng.Số hộ thiếu đất sản xuất năm 1997 là 705 hộ chiếm 12.5%, năm 2000 là 785 hộ chiếm 19.3%. Các hộ nghèo thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng, một mặt họ không có tài sản thế chấp họ phải dựa vào tín chấp để có các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp. Số hộ thiếu hoặc không có vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh năm 1997 là 2015 hộ chiếm 35.6%, năm 2000 là 1807 hộ chiếm 26.1%. Mặt khác, đa số hộ không có kế hoạch sản xuất cụ thể hoặc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích. Theo điều tra, số hộ thiếu kinh nghiệm làm ăn năm 1997 là 1470 hộ, năm 2000 là 1807 hộ. 4. Do tác động của chiến tranh biên giới và các chính sách kinh tế xã hội: Mặc dù chiến tranh biên giới phía Bắc đã lùi xa hơn hai mươi lăm năm song ảnh hưởng, sức tàn phá của nó đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội huyện Quản Bạ còn rất lớn. Cơ sở hạ tầng bị tàn phá, nhiều sức người, sức của phải huy động trong chiến tranh .Đây cũng là một trong những, nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội làm cho đời sống nhân dân thêm thấp kém, nhất là ở 5 xã giáp biên giới Việt_Trung: Nghĩa thuận, Tùng vài, Cao mã, Tả ván, Bát đại sơn. Hậu quả để lại trong một thời gian dài của chính sách phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và của huyện Quản bạ nói riêng chưa mang tính bền vững. Như năm 1985, trồng cây Anh túc-loại cây mà nhờ vào việc buôn bán nhựa của nó đã phần nào giúp người dân ổn định cuộc sống sinh hoạt, mua sắm được những mặt hàng thiết yếu và trang trải những chi phí không nhỏ trong các tập tục cưới xin, ma chay, hội hè... Nhưng từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện chương trình Quốc gia 06/CP ngày 29.01.1993 về “Tăng cường chỉ đạo về phòng chống và kiểm soát ma tuý” chủ chương phá bỏ cây thuốc phiện đã làm cho cuộc sống của một số dân tộc, chủ yếu là dân tộc H’mông lại rơi sâu hơn vào khó khăn nghèo đói mặc dù đã có những chính sách trồng thay thế bằng các cây nông nghiệp, cây ăn quả. Những năm gần đây, tuy đã nhân được nhiều sự giúp đỡ từ phía Đảng và Nhà nước nhưng thực tế sự quan tâm đó chưa thực sự đúng mức như trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc giữ gìn trật tự trị an và giáo dục để xoá bỏ các tệ nạn xã hội, làm cho nhân dân yên tâm sản xuất,thúc đẩy nhanh hơn quá trình XĐGN ở địa phương. IV.Các giải pháp xoá đói giảm nghèo đã được huyện Quản bạ áp dụng và kết quả đạt được: Tại ĐH huyện Đảng bộ khoá XIV nhiệm kì 2001 – 2005 đã xác định nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng bộ là phải XĐGN, bởi vì vấn đề XĐGN mang tầm chiến lược cả về kinh tế xã hội. Đây là trách nhiệm khó nhăn nặng nề nặng, đòi hỏi sự quyết tâm cao mới có thể giải quyết được.Từ năm 2001đến nay với tinh thần trách nhiệm cao của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể các cấp, sự phối hợp của các ngành cùng nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện chương trình XĐGN đạt được kết quả sau: 1. Công tác chỉ đạo triển khai: Để thực hiện mục tiêu XĐGN của các xã, Ban chỉ đạo của huyện đã được thành lập, bao gồm: đồng chí chủ tịch UBND huyện phụ trách khối nội chính sản xuất làm trưởng ban; đồng chí trưởng phòng Lao động Thương binh-Xã hội làm phó ban thường trực và các trưởng phòng ban liên quan làm uỷ viên như: phòng tài chính, uỷ ban Mặt trận tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, phòng kế hoạch, phòng nông-lâm nghiệp huyện... có quy chế hoạt động cụ thể từ huyện đến xã. Ban XĐGN ở 13 xã, thị trấn được thành lập từ tháng 02.1996 được củng cố, đi vào hoạt động tổ chức giao ban hàng tháng từ huyện đến xã. Huyện đã thành lập được quỹ XĐGN phù hợp với nhu cầu cần thiết. 2. Quá trình thực hiện: 2.1. Thực hiện các chính sách: 2.1.1. Chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho người nghèo: Huyện Quản bạ thực hiện chính sách ưu tiên của nhà nước đối với tất cả các hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thuộc vùng 135 đều được miễn giảm thuế sự dụng đất nông nghiệp. Tổng số hộ nghèo được miễn giảm trong 5 năm là: 7000 hộ = 462 triệu đồng. 2.1.2. Chính sách giáo dục, dạy nghề: Để đào tạo nguồn nhân lực, trong những năm qua huyện đã đầu tư về trường lớp, đào tạo giáo viên cấp I tại huyện và mở rộng hình thức bán trú, nội trú, lớp bổ túc cho cán bộ xã, hộ đói nghèo. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên, sự lãnh đạo chặt chẽ hơn của các cấp Uỷ Đảng chính quyền huyện... Công tác giáo dục đào tạo có nhiều chuyển biến rõ rệt, đạt 100% số thôn bản đã có trường lớp. Nếu năm 1999 huyện đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học thì đến năm 2005 huyện đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục bậc tiểu học. Trường PT dân tộc nội trú đã thu hút được 250 em học sinh dân tộc ít người, thuộc hộ đói nghèo xã vùng sâu, vùng xa và xã biên giới, xoá dần tình trạng thất học vì nghèo. Học sinh đồng bào dân tộc, học sinh nghèo được cấp phát sách giáo khoa và thiết bị học tập là:52019 em, kinh phí là 800.3 triệu đồng; học sinh được miễn giảm các khoản đóng góp là:52019 em; số học sinh nghèo được trợ cấp xã hội và học bổng là 2491 em, số kinh phí là 3770.17 triệu đồng. 2.1.3. Chính sách Y tế – KHHGĐ: Đã duy trì được đội ngũ cán bộ y tế thôn bản ở tất cả các xã vùng sâu, vùng xa, nơi tỉ lệ đói nghèo cao... tổ chức các đợt chiến dịch phòng chống sốt rét, ho gà... có hiệu quả. Tiễn hành khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân 5 xã biên giới và xã đặc biệt khó khăn và các hộ đói nghèo, các đối tượng chính sách. Cụ thể: Tổng số lượt người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí: 196194 lượt người, kinh phí khám chữa bệnh miễn phí 1540 triệu đồng. 100% số xã, thị trấn thành lập Ban dân số KHHGĐ có trang thiết bị kĩ thuật để thực hiện công tác KHHGĐ. Số cặp vợ chồng áp dụng biện pháp tránh thai là: 24571 cặp. Tổ chức tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng vè sức khỏe được 169 buổi. Nhờ đó mà tỉ lệ tăng tự nhiên giảm từ 19,70% năm 2000 xuống 1,7% năm 2003 và 1,64 % năm 2005. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, công tác giáo dục chăm sóc trẻ em. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm dần qua các năm: 45% năm 2000, 37% năm 2003. 2.1.4. Chính sách an sinh xã hội: Công tác cứu đói, cứu tế được quan tâm thường xuyên liên tục qua các năm, đây là giải pháp kinh tế song cần thiết để ổn định đời sống đồng bào sau thiên tai hoả hoạn và thiếu đói giáp hạn. Thông qua số liệu của phòng TBXH từ 2000 – 2005 hỗ trợ bằng tiền và hiện vật như gạo, chăn màn, quần áo, vải vóc, nồi niêu, xoong chảo, bát đĩa... Trong đó có ưu tiên cho các hộ đói nghèo bị thiệt hại và các hộ gia đình chính sách có khó khăn thông qua Hội chữ thập đỏ.Trong đó: Trợ cấp thường xuyên cho 470 đối tượng xã hội =173,234 triệu đồng; Cứu trợ hộ đói giáp hạt, giáp tết cho 1.828 hộ = 8.386 khẩu = 83.860 kg gạo = 224,123 triệu đồng; Trợ cấp tiền cho hộ nghèo ăn tết cho 200 hộ = 20,0 triệu đồng; Trợ cấp đột xuất (hoả hoạn) cho 46 hộ = 41,598 triệu. Chương trình của Uỷ ban Chăm sóc sức khoẻ trẻ em huyện cùng hỗ trợbằng nhiều hình thức khác nhau như hỗ trợ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em khuyết tật. 2.1.5. Chính sách hỗ trợ về nhà ở: Trong 5 năm qua các chính sách hỗ trợ về nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32760.doc
Tài liệu liên quan