Một vài giải pháp ngăn ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Mục lục lời nói đầu chương I : ngân hàng thương mại và những vấn đề về rủi ro tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. I. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1. Kinh tế Việt nam chuyển sang nền kinh tế thị trường. 2. Vị trí, vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. II. Những vấn đề chung về rủi ro tín dụng trong ngân hàng 1. Khái niệm về rủi ro tín dụng trong ngân hàng 2. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong ngân hà

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một vài giải pháp ngăn ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 3. Hậu quả của rủi ro tín dụng Ngân hàng 4. Các loại rủi ro đối với một số hình thức tín dụng chủ yếu Chương II : thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội I. Tổng quan về Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội II. Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội 1. Một số thể lệ tín dụng chủ yếu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội 2. Nguồn vốn của chi nhánh 3. Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội 4. Những nguyên nhân tác động đến chất lượng tín dụng chi nhánh những năm qua Chương III : Một vài giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội I. Các giải pháp phòng chống rủi ro tín dụng 1. Vai trò của người vay 2. Những dấu hiệu nhận biết khoản cho vay có vấn đề 3. Đa dạng hoá khách hàng 4. Giải pháp san sẻ rủi ro 5. Giải pháp về bảo đảm tín dụng II. Các giải pháp khắc phục rủi ro 1. Phương pháp thu hồi các khoản nợ khó đòi 2. Xử lý các khoản vay có vấn đề III. Một số kiến nghị 1. Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2. Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội 3. Đối với Ngân hàng nhà nước 4. Đối với các chính sách Nhà nước Kết luận lời mở đầu Cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang bước những bước hội nhập và phát triển trong môi trường mới, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp ngân hàng, như mọi doanh nghiệp khác, mục tiêu của nhà ngân hàng là hiệu quả kinh tế cao nhất với mức rủi ro hạn chế nhất. công cụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ: yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế ,do vậy đối tượng khách hàng của ngân hàng là toàn bộ các thành phần kinh tế, ngân hàng phải đối phó với rất nhiều rủi ro khác nhau. Những rủi ro này gây ra thiệt hại không nhỏ cho các ngân hàng thương mại và là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà điều hành ngân hàng. Tuy nhiên, với đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh tiền tệ, nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong cơ chế kinh tế mới - nền kinh tế thị trường - rủi ro tín dụng cần phải được đề cập một cách cơ bản, toàn diện và cụ thể khi đánh giá hiệu quả hoạt động của một ngân hàng. Sự chuyển đổi từ một cơ quan quản lý Nhà nước (với hơn 80% là vốn ngân sách Nhà nước) sang thực hiện chức năng kinh doanh của một Ngân hàng thương mại của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, đòi hỏi phải có sự nỗ lực, cố gắng rất lớn trong việc tự cân đối vốn và nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng ngày càng tăng và đa dạng hơn trong điều kiện không còn bao cấp về vốn. Cũng như các Ngân hàng khác bước vào môi trường kinh tế mới, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn gặp phải rất nhiều khó khăn và rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là rủi ro tín dụng. Do vậy, để thực sự kinh doanh có hiệu quả, các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng cần nắm vững các loại rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng và những biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro đó. Trong phạm vi bài luận văn, em chỉ xin phép đề cập đến một số nét chung về rủi ro tín dụng Ngân hàng trong bước hội nhập và phát triển của Ngân hàng vào nền kinh tế thị trường cũng như đề xuất một vài biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Thích ứng với nội dung và giới hạn của đề tài, bố cục bài viết gồm ba phần chính như sau: Chương I: Ngân hàng thương mại và những vấn đề rủi ro tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Chương III: Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Do thời gian tìm hiểu cũng như trình độ nhận thức còn hạn chế, bài luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy rất mong có sự thông cảm của Thày, Cô giáo, bạn bè và mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thày cô giáo và bạn bè để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn./. Chương I Ngân hàng thương mại và nhữngvấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường I - Hoạt động của một ngân hàng thường mại trong nền kinh tế thị trường Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Với hàng hoá kinh doanh là tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò là "chất bôi trơn" của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong mỗi một cơ chế khác nhau, hoạt động của ngân hàng mang lại những hiệu quả kinh tế khác nhau. Điều này thể hiện rất rõ nét qua sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 1- Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường 1.1- Nền kinh tế thị trường là gì? Nhìn lại lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội vào căn cứ và hình thức tổ chức kinh tế xã hội có thể khẳng định rằng nền kinh tế xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế xã hội: Kinh tế tự nhiên và kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội với nền kinh tế khép kín từng vùng, địa phương, lãnh thổ và kinh tế sản xuất lạc hậu. Nhịp độ phát triển hình thức tổ chức kinh tế này rất chậm và phân công lao động đã xuất hiện nhưng ở trình độ rất thấp. Nông nghiệp chiếm vị trí thống trị, sản xuất phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực tiêu dùng. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất - xã hội; nền kinh tế tự nhiên dần chuyển lên nền kinh tế thị trường. Đây là kết quả của sự chuyển đổi từ quá trình sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường - một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất gắn chặt với thị trường; hoạt động thông qua một trung tâm đó là thị trường. Tất cả các quan hệ kinh tế do phân công lao động xã hội làm nảy sinh đều được thực hiện qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ trên thị trường. Sự phát triển của thị trường được thể hiện qua sự phát triển của trình độ phân công lao động xã hội, mối quan hệ qua lại giữa thị trường trong nước và nước ngoài. Trong nền kinh tế tự nhiên, các chức năng của nền kinh tế đều được thực hiện chủ yếu qua quá trình kế hoạch hoá của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất và đời sống đều được bao cấp bởi Nhà nước nên mang tính hình thức rất cao. Lợi ích kinh tế - đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động - động lực trực tiếp của sự phát triển chưa được quan tâm đúng mức, do vậy đây là một nền kinh tế có tính thích nghi rất chậm chạp, tính năng động kém. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, tính tự chủ của các thành phần kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí sản xuất và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, người ta được tự do mua bán và gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc biệt, nền kinh tế thị trường có một tính năng riêng biệt - Đó là sự cạnh tranh, là "bộ máy" điều chỉnh về sự trật tự của thị trường. Với hoạt động kinh doanh mua và bán tự do của phía các thành phần kinh tế, nền kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế rất phức tạp và đa dạng. Nó chịu sự điều hành quản lý của hệ thống tiền tệ và luật pháp của Nhà nước. Sự vận động của tiền tệ được coi là "hệ tuần hoàn máu" còn hệ thống luật pháp được coi như "hệ thần kinh" của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của nền kinh tế thị trường, nó cũng có những hạn chế mà bản thân nó không thể giải quyết được như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, bất bình đẳng, ô nhiễm... Do vậy, sự quản lý vĩ mô bằng các chính sách và pháp luật là một yêu cầu không thể thiếu được trong hoạt động vận hành của cơ chế kinh tế thị trường. ở Việt Nam, từ năm 1996, Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. 1.2- Nền kinh tế thị trường Việt Nam với hoạt động Ngân hàng Một tiền đề cơ bản của quá trính chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế kinh tế thị trường của mỗi nền kinh tế là trình độ phát triển kinh tế phải trải qua tích luỹ cơ bản. Đây cũng chính là sự khó khăn của Việt Nam khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới. Việt Nam đang đứng trước một thực trạng: Đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ sản xuất rất thấp; đất nước phải trải qua hàng chục năm chiến tranh ... Tuy vậy, dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực ủng hộ và quyết tâm của nhân dân trên con đường đổi mới xây dựng một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã và đang vượt qua được nhiều khó khăn và đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Năm 2001 là một trong những năm không dễ dàng cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cùng với những yếu kém nội tại của nền kinh tế chưa khắc phục được, thêm vào đó là nạn thiên tai, hạn hán, lũ lụt liên tiếp ở nhiều vùng trong cả nước gây ra những thiệt hại không nhỏ về người và của, đã đặt Việt Nam trước những thách thức lớn. Mặc dù những khó khăn thách thực đã có sự lường trước, nhiều giải pháp kinh tế đã được đặt ra trong Hội nghị Trung ương VI (lần 1) và tại kỳ họp thứ 4 quốc hội khoá X. Các giải pháp kinh tế đó đã được Chính phủ cụ thể hoá, chỉ đạo một cách sát sao, do vậy đã hạn chế được những tác động bất lợi do hậu quả của cuộc khủng hoảng khu vực, giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không có những biến động lớn,, nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng ... Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn chứa đựng nhiều yếu tố đáng lo ngại: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế đạt mức thấp nhất từ năm 1990 trở lại đây, sản phẩm kém sức cạnh tranh, ứ đọng hàng tồn kho, sản xuất cầm chừng, khu vực dịch vụ tăng chậm, các doanh nghiệp trong nước bộc lộ nhiều yếu kém, đầu tư nước ngoài giảm sút, sự mất cân đối mang tính cơ cấu ngày càng rõ nét ... Riêng trong lĩnh vực tiền tệ Ngân hàng về cơ bản vẫn giữ vững và ổn định được sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát ở mức cho phép... Một nhân tố bất khả kháng là mấy năm vừa qua có nhiều thiên tai, chỉ riêng cơn bão số 5 đã làm thiệt hại khoảng 5000 tỷ đồng thêm nữa trong năm 2001 lại lụt lội khắp các tỉnh miền trung, thiệt hại càng trút thêm gánh nặng tài chính đất nước vốn đã khó khăn. Mặt khác, cộng thêm tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước trong khu vực, hiện tượng USD tăng giá, xu hướng chuyển đổi tiền gửi nội tệ thành USD, găm giữ ngoại tệ tại các đơn vị có nguồn thu ngoại tệ đã ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động kinh doanh cả các Ngân hàng thương mại. Đáng chú ý là có sự có mặt của 24 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 4 ngân hàng liên doanh sau một thời gian làm quen đầy thân thiện nay họ đã trở thành đối thủ thực sự, đến năm 2000 họ đã đặt nhiều quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp lớn, có mức dư nợ chiếm sấp xỉ 25% tổng số dư nợ cả hệ thống Ngân hàng thương mại, trong đó đầu tư trung và dài hạn chiếm tới 40%. Có thể nói, đây là những ảnh hưởng trực tiếp của thị trường đối với hoạt động của toàn ngành Ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng. Điều này đặt Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn trước một thử thách mới, một sự chuyển đổi nhạy bén mới trong năm 2001 nhằm hoạt động kinh doanh đạt kết quả tốt. 2- Vai trò hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 2.1- Vài nét sơ qua về hoạt động của Ngân hàng thương mại trong cơ chế quản lý bao cấp. Với cơ chế quản lý bao cấp trước đây hệ thống ngân hàng chỉ là một cấp, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, làm nhiệm vụ cung cấp vốn kể cả các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, chứ chưa xuất hiện khái niệm Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ hoạt động kinh doanh tiền tệ hay một trung gian tài chính nói trên. Các tổ chức ngân hàng cho vay theo kế hoạch với lãi suất thấp, không tính đến hiệu quả sử dụng gây nên tình trạng doanh nghiệp làm ăn được nhưng với một số lượng vay cố định muốn mở rộng kinh doanh sản xuất đành chịu. Ngược lại những xí nghiệp làm ăn thua lỗ không cần vốn nhưng với chế độ "Vay như được" nên cố gắng sử dụng hết định mức vào lĩnh vực kém hiệu quả. Nên kết quả là người khoẻ ăn được thì không ăn, người yếu không ăn được nhưng cứ cố nhồi nhét cho no... hậu quả là cả hai cùng chết, nền kinh tế kém phát triển bởi những tư tưởng ỷ lại trông chờ vào Nhà nước, vừa gò bó hoạt động tài chính, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo, nảy sinh hiện tượng tiêu cực, sự giao lưu vốn bị bó hẹp trong một chương trình khép kín (Ngân sách Nhà nước) của Ngân hàng Nhà nước - Xí nghiệp quốc doanh. 2.2- Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong cơ chế mới (trong thời gian chuyển dịch cơ cấu kinh tế) Nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng thương mại rất phong phú và đa dạng. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Hoạt động của Ngân hàng thương mại có nhiều phương pháp mới, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản là không thay đổi.. Nghiệp vụ mà bất kỳ Ngân hàng thương mại nào cũng đã thực hiện trong nhiều năm và vẫn đang tiếp tục thực hiện là nhận tiền gửi và hoạt động cho vay đầu tư. Các Ngân hàng thương mại luôn tạo ra nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu đối với các doanh nghiệp, Chính phủ và cá nhân. Làm được điều đó tức là các Ngân hàng thương mại đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, cung ứng các dịch vụ cần thiết của toàn xã hội. - Mở rộng các biện pháp huy động và cho vay vốn như phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu có mục đích, có bảo đảm giới hạn bằng vàng. - Ngân hàng cung ứng tín dụng ngắn hạn giúp các doanh nghiệp thúc đẩy tiêu thụ, ổn định sản xuất kinh doanh, có tích luỹ mở rộng khả năng sản xuất, mặt khác về dài hạn giúp các doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị cần thiết cho sự phát triển sản xuất kinh doanh lơị ích sau này. - Ngân hàng, với sự tham gia của vốn tự có vào các doanh nghiệp ở Việt Nam, sẽ làm gia tăng nhiều đóng góp vốn đầu tư mới cần thiết theo một tỷ lệ nợ vốn thích hợp trong cơ cấu của các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển chung của nền kinh tế. - Ngân hàng đảm nhiệm quản lý và thực thi các hình thức thanh toán cho chu trình phát triển kinh tế. Để đối phó với những đòi hỏi và thách thức của nền kinh tế Việt Nam hôm nay và ngày mai. Mở rộng các dịch vụ như bảo lãnh, cho thuê két sắt, dịch vụ trả và chuyển tiền ngoại hối, dịch vụ phục vụ chương trình tín dụng EC... nhằm tăng lợi nhuận ngân hàng. Hoạt động thực tiễn của hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm tiến hành một cách có hiệu quả nhiệm vụ của nó trong mối quan hệ haì hoà với các lợi ích của toàn xã hội và là người "thủ môn" phụ thuộc đối với nền kinh tế, trong số các biện pháp có tính chất rộng lớn để có thể quản lý có hiệu quả nền kinh tế. Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tín dụng, loại hàng đặc biệt có độ nhạy cao với những biến đổi của thị trường, tình hình kinh tế - xã hội. Ngân hàng luôn phải đương đầu với đủ loại rủi ro riêng có, rủi ro từ các doanh nghiệp, cá nhân vay tiền, rủi ro về nguồn vốn, lãi suất thanh toán... Những rủi ro này đều có thể mang tới sự vỡ nợ cho bất kỳ Ngân hàng nào. Có thể nói rằng rủi ro gắn liền với lợi nhuận trong hoạt động của mọi nhà ngân hàng. Thêm vào đó nền kinh tế mở đã làm xuất hiện nhiều ngân hàng liên doanh với nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng xấu, trái lại nó thúc đẩy sự tự nhận biết mình từ đó vươn lên để tồn tại và phát triển. Do vậy, hoạt động của Ngân hàng thương mại xuất hiện thêm nhiều hình thức dịch vụ kinh kỷ, uỷ thác, thanh toán, chuyển tiền với những mục đích thu hút khách hàng, thu lợi nhuận và đặc biệt là biến đổi phù hợp với cơ chế thị trường của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động "nòng cốt" nhất của mọi Ngân hàng là hoạt động "đi vay để cho vay". Chức năng đầu tiên của các Ngân hàng thương mại là mở rộng tín dụng đối với khách hàng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu, những người tổ chức các Ngân hàng thương mại đã luôn tìm kiếm các cơ hội để cho vay coi đó như là chứ năng quan trọng nhất của mình và trong một số trường hợp đặc biệt, Chính phủ phải bảo lãnh việc cho vay đáp ứng những nhu cầu tín dụng của các cộng đồng dân cư đặc biệt. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện các chức năng xã hội đặc biệt của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng đáng kể, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện. Tín dụng của Ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp... của đất nước. Những khả năng đó của tín dụng khi đem so sánh với các sản phảm tiêu dùng tạo ra sản phẩm có thể tính toán được. Công nghiệp thức ăn cung cấp cho chúng ta tất cả các sản phẩm đã thu hoạch và chế biến, tuy vậy, những sản phẩm này không thể tiêu dùng ngay được. Trong khi đó, tín dụng ngân hàng tạo khả năng cho những người có nhu cầu mua nguyên liệu; chế biến ; đóng hộp; cất trữ hàng hoá và cuối cùng là bán lẻ những sản phẩm đã được chế biến đến tận tay người tiêu dùng. Mặc dù tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện quá trình sản xuất lưu thông nhưng trong suốt quá trình đó, tín dụng luôn đương đầu với khả năng có thể xảy ra, gây tổn thất cho ngân hàng. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, vai trò tổ chức tài chính trung gian của ngân hàng thương mại không ngừng phát huy và ngày càng mở rộng. Nhưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại lại chứa đựng nhiều rủi ro nhất bởi lẽ ngân hàng đóng vai trò vừa là người cho vay, vừa là người đi vay. Ngân hàng sẽ chịu rủi ro từ hai phía. Do vậy kinh doanh ngân hàng không thể liều lĩnh như một số doanh nghiệp khác. Chính vì vậy nhận thức và đánh giá đúng đắn về rủi ro ngân hàng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và thường xuyên của các ngân hàng. Nếu hiểu rõ rủi ro ta có thể chấp nhận rủi ro một cách có ý thức và có kế hoạch đối phó với hậu quả khi sự việc xấu đi. Cũng bởi lẽ đó, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem vậy rủi ro Ngân hàng là gì? Nguyên nhân và hậu quả của nó như thế nào? II- Rủi ro trong tín dụng của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm về rủi ro tín dụng ngân hàng 1.1- Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nhà ngân hàng Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro có thể xuất hiện trên mọi phương diện. Những rủi ro này luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau và kết hợp tạo thành một "dây chuyền" nguy hiểm đe doạ đến sự sống còn của ngân hàng. Sự tăng cường độ của rủi ro này hay rủi ro kia lúc nào cũng có thể đưa ngân hàng tới bờ vực của sự phá sản. 1.1.1- Rủi ro về nguồn vốn Do nguồn vốn của ngân hàng hiện nay chủ yếu là nguồn vốn huy động và được sử dụng theo phương châm "đi vay để cho vay", do vậy hiện tượng thừa vốn hay thiếu vốn đều có thể gây ra tổn thất cho nhà ngân hàng. Thiếu vốn sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bị trì trệ, khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng, thanh toán của khách hàng bị hạn chế. Điều này sẽ ảnh hưởng tới thị phần, lợi nhuận của Ngân hàng theo chiều hướng xấu. Mặt khác, sự thừa vốn sẽ làm tăng chi phí cho nhà ngân hàng do phải trả lãi cho các khoản vốn thừa mà không có lãi để bù đắp. Do vậy, mỗi nhà ngân hàng trong từng tình hình luôn phải chọn cho mình một cơ cấu vốn hợp lý nhất nhằm kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận cao. 1.1.2- Rủi ro về hối đoái Hiện nay ở Việt Nam , Ngân hàng quy định rằng: vay bằng ngoại tệ phải trả bằng ngoại tệ (trừ những trường hợp được sự đồng ý của ngân hàng). Nếu nguồn vốn huy động bằng nội tệ, cho vay bằng nội tệ thì rủi ro này không xuất hiện. Mặt khác, nếu nhu cầu vốn của nền kinh tế là ngoại tệ, ngân hàng lại phải chuyển đổi lại tiền vay. Khi đó, tại hai thời điểm này, ngân hàng phải sử dụng hai mức tỷ giá hối đoái hiện thời, sự chênh lệch hoặc biến đổi giữa hai tỷ giá này có thể gây ra những khoản thặng dư hoặc chênh lệch trong khối lượng tiền tệ ban đầu. Nếu xảy ra thâm hụt đó chính là rủi ro cho nhà Ngân hàng. 1.1.3- Rủi ro về lãi suất Cũng tương tự như rủi ro về tỷ giá. Rủi ro này sinh ra do sự biến động tăng của lãi suất thị trường so với lãi suất ghi trên hợp đồng tín dụng. Ngân hàng Nhà nước quy định rằng lãi suất của các khoản vay trung và dài hạn, tiền gửi không kỳ hạn được xác định theo lãi suất trên thị trường. Nếu lãi suất trên thị trường biến đổi thì tính lãi cũng thay đổi theo. Nếu như lãi suất đầu vào và đầu ra, do sự biến đổi chênh lệch ít hoặc bằng không, nhỏ hơn không thì lợi nhuận của ngân hàng cũng giảm hoặc hoà vốn, thậm chí còn lỗ. Đó chính là rủi ro mà ngân hàng phải chịu khi có sự biến đổi lãi suất trên thị trường. 1.1.4- Rủi ro về thanh toán Do hoạt động thanh toán của ngân hàng không chính xác gây thất thoát vốn mà không được khách hàng trả lại... 1.1.5- Rủi ro thuần tuý Các rủi ro này được coi là những rủi ro bất khả kháng của ngân hàng, nó bao gồm thiên tai, địch hoạ... gây tổn thất trực tiếp về tài sản cho ngân hàng hoặc khách hàng, gây ảnh hưởng đến nguồn vốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.1.6- Rủi ro về tín dụng Đây là rủi ro cơ bản nhất của nhà ngân hàng, theo yêu cầu của bài viết, nó sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau. Những rủi ro này với những cường độ khác nhau có thể gây tình trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng. Do vậy, khi đánh giá hoạt động kinh doanh cũng đặt ra những kế hoạch kinh doanh cho mình, mọi ngân hàng đều cần chú trọng đặc biệt đến dự đoán biến động của thị trường, khả năng của các khách hàng... để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên, do hoạt động tín dụng mang lại 90% thu nhập của ngân hàng, do vậy việc đánh giá và hạn chế rủi ro tín dụng là một trong những hoạt động cần thiết nhất mà mọi nhà ngân hàng đều phải chú ý và thực hiện. 1.2- Rủi ro tín dụng ngân hàng Hoạt động sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng cộng đồng, đồng thời phải đảm bảo sự an toàn vốn. Tuy nhiên, các khoản vay có khả năng sinh lời thì độ rủi ro cũng cao. Nước ta với khung lãi suất 0.35% các ngân hàng ít khi bị rơi vào rủi ro do "ham" các khoản nợ gây ra. Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, hiện tượng mất khả năng thanh toán ở doanh nghiệp này, cá nhân kia hay cho vay không thu hồi nợ là hiện tượng hoàn toàn có thể xảy ra. Điều đó có nghĩa là các ngân hàng đứng trước các rủi ro khi các doanh nghiệp không hoàn trả được các khoản tiền cho vay. Tuy nhiên, nhu cầu vốn là một vấn đề hết sức cấp thiết trong nền kinh tế thị trường, do vậy sự mở rộng không ngừng các hoạt động kinh doanh của lĩnh vực ngân hàng cũng đồng thời kéo theo tình trạng rủi ro tín dụng ngày càng cao. Có thể định nghĩa rủi ro tín dụng như sau: "Rủi ro tín dụng là sự xuất hiện các biến cố không bình thường trong quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động ngân hàng như mất mát thiệt hại về tài sản, thu nhập của ngân hàng ...". Những biến cố trong rủi ro tín dụng là những biến cố xảy ra khi cho vay không thu hồi được nợ. Rủi ro cho vay không thu hồi được nợ hay còn gọi là rủi ro phát sinh trong khâu cho vay. Rủi ro này xảy ra do người vay không trả được toàn bộ hoặc một phần nợ vay đầy đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Biểu hiện của tình trạng này là tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng cao, các khoản lãi chưa thu ngày càng lớn, Ngân hàng không thu hồi được các khoản vốn đã cho vay để duy trì hoạt động tín dụng và hoàn trả vốn cho người gửi tiền. Đây là rủi ro lớn nhất và có tác dụng cơ bản đến sự an toàn của toàn bộ hoạt động Ngân hàng. Rủi ro thiếu vốn chi trả cho khách hàng hay còn gọi là rủi ro phát sinh ở khâu cho vay và thu nợ của ngân hàng. Trên lý thuyết, nếu tất cả các rủi ro ở khâu cho vay và thu nợ của ngân hàng đã được phòng ngừa và bù đắp kịp thời thì ngân hàng có đầy đủ khả năng hoàn trả các khoản tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế, các khoản rủi ro này vẫn phát sinh ở khâu này và xảy ra nặng nề nhất là trong trường hợp khách hàng ồ ạt rút tiền gửi tại Ngân hàng do tác động của yếu tố tâm lý trước các biến động về kinh tế và chính trị. Như vậy, nguyên nhân gây ra rủi ro ở khâu này không chỉ do ngân hàng không thu hồi được nợ để chi trả tiền gửi mà còn có nguyên nhân phổ biến hơn là do các tác động bên ngoài gây áp lực dẫn đến tình trạng bất ổn định của mỗi ngân hàng và cả hệ thống Ngân hàng. Có thể thấy rằng, rủi ro ở khâu cho vay chỉ là một trong nhiều nguyên nhân và chỉ là tiền đề dẫn đến rủi ro nghiêm trọng hơn ở khâu huy động vốn, chi trả tiền gửi của hệ thống Ngân hàng. Như vậy, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất. Việc đánh giá rủi ro này thường là trách nhiệm chính của ngành Ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng thương mại chủ yếu là hoạt động tín dụng và đầu tư, thông thường trên thế giới nó mang lại 2/3 thu nhập, còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm 90% tổng thu nhập của mỗi Ngân hàng. Thu nhập cao nhưng đồng thời rủi ro trong lĩnh vực này cùng đưa lại cho ngân hàng những thiệt hại nặng nề có thể dẫn tới phá sản. Sự phức tạp trong quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng xuất phát từ đặc tính "rủi ro nào đó của người vay cũng có thể đưa đến rủi ro cho Ngân hàng". Do vậy, rủi ro tín dụng thường nằm ngoài khả năng đánh giá bình thường của một cán bộ tín dụng. Nó đòi hỏi Ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Để nhìn nhận và khắc phục rủi ro một cách rõ ràng, hoàn hảo, chúng ta xem xét các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng Ngân hàng. 2- Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng Ngân hàng Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng Ngân hàng, nhưng chúng ta có thể tổng hợp thành các nhóm nguyên nhân sau: 2.1- Nguyên nhân khách quan 2.1.1- Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên Là các nguyên nhân bất khả kháng thường thuộc về thiên nhiên, thiên tai, địch hoạ, gây mất mát thiệt hại về tài sản của Ngân hàng. 2.1.2- Nguyên nhân về phía người vay - Năng lực của người đi vay yếu kém Điều này thể hiện trong khả năng sử dụng vốn của người vay. Một nguồn vốn sử dụng có hiệu quả khi nó tạo ra của cải vật chất phù hợp và được xã hội chấp nhận. Với năng lực kém, người vay không có khả năng nhận biết được sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ thưởng thức cũng như sự đòi hỏi của nhu cầu trên thị trường, do vậy sử dụng vốn một cách không hợp lý dẫn đến không có khả năng chi trả, phá sản và gây tổn thất cho ngân hàng. - Do sự yếu kém của người điều hành Người điều hành không có khả năng dự đoán được sự biến động của giá cả thị trường, không xác định được thị phần của các đối thủ cạnh tranh, không nắm được thị hiếu của người tiêu dùng ... dẫn đến sự tồn đọng hàng hoá, bị cạnh tranh mất thị phần. Điều này ảnh không chỉ tới kết quả sản xuất kinh doanh của người vay mà còn ảnh hưởng tới khả năng thu hồi các khoản vay của nhà ngân hàng. - Do không nắm bắt kịp thời các thông tin Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, sự nắm bắt tình hình về giá cả, sự xuất hiện của các hàng hoá cùng loại, thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường là điều kiện cần thiết nhất quyết định kinh doanh đúng đắn nhất, có hiệu quả nhất. Do vậy, sự thiếu thông tin có thể dẫn người vay tới tình trạng thua lỗ do mất thị trường, tồn đọng hàng hoá ... gây ra sự mất chi trả đối với các khoản nợ của Ngân hàng. - Do thiếu tính cạnh tranh Nền kinh tế thị trường đem lại một nền kinh tế với sự đa dạng về chủng loại và chất lượng hàng hoá. Do vậy, để hàng hoá của mình có chỗ đứng trên thị trường, thu được lợi nhuận, hàng hoá của người vay phải có khả năng cạnh tranh với các loại hàng hoá đồng loại khác trên thị trường. Nếu hàng hoá của người vay thiếu tính cạnh tranh ở chất lượng, giá cả, mẫu mã... thì thị trường sẽ tìm kiếm các loại hàng hoá khác phù hợp với nhu cầu xã hội để tiêu dùng, người vay phải bán rẻ hoặc bị tồn kho ... gây ra sự thua lỗ, phá sản. - Do tư cách người vay kém Hiện nay, phương châm của mọi nhà Ngân hàng là mở rộng tín dụng nhằm thu hút lợi nhuận. Do vậy không tránh khỏi sự quản lý lỏng lẻo, sự xuất hiện của các loại rủi ro. Nhân đà này, không ít những kẻ có tư cách đạo đức kém, đã đưa ra những dự án giả, chứng từ giả, sử dụng sai mục đích tín dụng trong hợp đồng... nhằm mục đích chiếm dụng vốn của Ngân hàng. 2.1.3- Nguyên nhân từ môi trường cho vay Môi trường kinh tế không lành mạnh, nhịp độ tăng trưởng không ổn định, chu kỳ của nền kinh tế ngắn, Ngân hàng rất khó nắm bắt được thị trường, sản xuất trong nước không ổn định, dễ đình trệ, không có hiệu quả. Mặt khác, nền kinh tế xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội như buôn lậu, hàng giả ... dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp. Do vậy, Ngân hàng rất khó khăn trong các mục tiêu mở rộng tín dụng, đánh giá môi trường tín dụng ... Môi trường pháp lý không thuận lợi. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ và không phù hợp với yêu cầu của hoạt động kinh doanh, nhiều khi cản trở hoạt động kinh doanh. Cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật kém hiệu lực. 2.2- Nguyên nhân chủ quan - Nguyên nhân từ phía Ngân hàng Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ hở về thủ tục trong nội bộ Ngân hàng. Đây được gọi là các hoạt động cho vay không hoàn hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây: + Do thông tin tín dụng không đầy đủ, Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn tới sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hà._.ng. + Các nhân viên tín dụng thiếu khả năng kỹ thuật và không có khả năng phân tích các báo cáo tài chính, thiếu sự hiểu biết về khách hàng. + Ngân hàng quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh do vậy độ rủi ro của khoản vay càng cao. + Sự cạnh tranh không lành mạnh với các Ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng Ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng... nhằm lôi kéo khách hàng. + Các nhân viên tín dụng thực hiện thế chấp không tốt, không đánh giá được sự biến động giá trị của tài sản thế chấp, nguồn gốc và sự tồn tại của tài sản thế chấp ... gây ra tổn thất do các khoản vay không được bù đắp khi rủi ro. + Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế dẫn đến những sai sót khi cho vay, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề. + Sản phẩm của ngân hàng còn đơn điệu, phần lớn là cho vay trực tiếp do vậy rủi ro cao và Ngân hàng là đối tượng phải trực tiếp chịu tổn thất. 3- Hậu quả của rủi ro tín dụng Ngân hàng Những rủi ro tín dụng có thể xảy ra những hậu quả nghiêm trọng và khó khăn lớn cho Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Ta có thể xem xét cụ thể như sau: 3.1- Đối với nhà Ngân hàng - Rủi ro làm giảm uy tín của nhà Ngân hàng Một Ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, không được lòng tin của quần chúng và do vậy khó có thể thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, không có khả năng mở rộng tín dụng cũng như vay từ các tổ chức tín dụng khác ... - Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút Các khoản tín dụng rủi ro - các khoản cho vay không thu hồi được nhưng các khoản tiền gửi, các khoản tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, khiến cho Ngân hàng gặp khó khăn trong việc hoàn trả. Mặt khác, nếu rủi ro này càng cao, Ngân hàng mất uy tín, không huy động được một nguồn vốn khác để bù đắp thì Ngân hàng có thể bị phá sản. - Rủi ro đưa đến kết quả là lợi nhuận bị suy giảm Do rủi ro đưa đến những thiệt hại về tài chính, đồng thời hoạt động của Ngân hàng bị đình trệ, không những không mở rộng mà còn có thể bị thu hẹp qui mô hoạt động kinh doanh, do vậy lợi nhuận của Ngân hàng bị giảm sút. - Rủi ro có thể dẫn tới phá sản Sự tăng cường độ của các tác động trên đều có thể dẫn tới lợi nhuận bằng không, đẩy nhà Ngân hàng đến chỗ phá sản. Đối với nền kinh tế: Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực tiếp và là "mạch máu" toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nếu rủi ro ở mức độ nặng làm phá sản một số Ngân hàng và từ đó có khả năng lan truyền sang các Ngân hàng đang hoạt động lành mạnh. Do tâm lý sợ hãi, khách hàng đua nhau rút tiền ồ ạt gây ra sự thâm hụt vốn, đình trệ hoạt động của các Ngân hàng. Cũng do vậy, lượng vốn cung ứng cho sản xuất bị hạn chế, hàng hoá khan hiếm... gây biến động xấu cho nền kinh tế. 3.2- Đối với khách hàng Nếu rủi ro xảy ra từ phía Ngân hàng, khách hàng có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nếu rủi ro xảy ra đối với chính khách hàng, các khoản nợ của họ sẽ trở thành các khoản nợ khó đòi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quan hệ của họ đối với Ngân hàng. Khi đó, nếu khách hàng cần vốn, họ buộc phải đặt quan hệ với các Ngân hàng khác và phải chịu một khoảng thời gian tìm hiểu gây trì hoãn cho quá trình sản xuất. Đồng thời, nếu rủi ro lớn, chính họ sẽ bị phá sản. 4- Biện pháp hạn chế rủi ro của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Mỗi loại hình thức tín dụng đều có những rủi ro khác nhau do đặc điểm của hình thức tín dụng đó quyết định. Vì vậy, nghiên cứu rủi ro của các hình thức tín dụng chủ yếu là một việc làm cần thiết từ đó có thể đưa ra những giải pháp phòng ngừa và hạn chế hữu hiệu cho mỗi tình huống cụ thể. Như ta đã biết, rủi ro tín dụng chủ yếu tập trung ở 2 mặt huy động và cho vay vốn. Trong quá trình kinh doanh Ngân hàng cần phải có dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán , điều này tỷ lệ nghịch với khả năng cho vay sinh lãi. Vì vậy, ngân hàng phải thanh toán điều hoà hai yêu cầu sau: - Đảm bảo khả năng thanh toán cho đầy đủ, kịp thời - Cho vay để tạo khả năng sinh lời cao nhất Rủi ro tín dụng Ngân hàng thường do khách hàng mang lại, sự yếu kém về quản lý của Ngân hàng, do hoàn cảnh Ngân hàng mang lại ... Tuy nhiên, khả năng gây ra rủi ro tín dụng phổ biến nhất, hay gặp nhất trong thực tế là từ phía khách hàng vay vốn mang lại. Ta có thể đưa ra một số loại rủi ro đối với một số hình thức tín dụng chủ yếu như sau: - Rủi ro đối với tín dụng ngắn hạn: Mục đích của tín dụng ngắn hạn là nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu cho các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh với thời hạn ngắn (thường dưới 1 năm). các khoản tín dụng ngắn hạn thường được kiểm tra qua tính toán hiệu quả đầu tư giản đơn và nhanh chóng, lãi suất cho vay thấp, phương pháp này dễ xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, sử dụng sai mục đích, gây thiệt hại cho ngân hàng. - Rủi ro đối với tín dụng trung và dài hạn Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn thu hồi vốn dài, có khối lượng lớn, vòng quay vốn chậm (từ một năm trở lên) chủ yếu cấp vốn để mua Tài sản cố định, cải tiến mở rộng sản xuất, đầu tư cho các công trình và dự án lớn mà hiệu quả của công việc đầu tư này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như biến động về chính trị, xã hội, thiên tai địch hoạ... Những yếu tố có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư. Những hoạt động tiêu cực gây ra sự đình trệ, thất thoát vốn của doanh nghiệp, trì hoãn thời gian thu vốn của dự án gây ảnh hưởng đến các món nợ của ngân hàng. - Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán. Theo nghĩa rộng chiết khấu là việc tái cấp vốn cho người bán vì trước đây người bán đã cấp vốn cho người mua dưới hình thức bán chịu hàng hoá. Với nghĩa hẹp, chiết khấu là một kỹ thuật tín dụng vì thực chất khi chiết khấu Ngân hàng chỉ nhận được quyền đòi nợ của người mua trong lúc lại ứng tiền cho người bán. Chiết khấu là một kỹ thuật tín dụng tương đối an toàn. Tuy nhiên vẫn có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau: + Thương phiếu giả mạo Thương phiếu là một loại giấy xác nhận nợ được lập trên cơ sở thương mại vì vậy khi thực hiện tín dụng tái chiết khấu Ngân hàng được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá ở người mua. Thương phiếu bị giả mạo nghĩa là không có lượng hàng hoá tương ứng đảm bảo kèm theo nên Ngân hàng cho vay trên cơ sở thương phiếu này sẽ phải chịu rủi ro. + Người nhận trả không có khả năng trả nợ. Trên thực tế có những doanh nghiệp đang có nguy cơ bị phá sản hoặc không còn khả năng huy động vốn nào khác, muốn dùng số tiền chiết khấu thương phiếu để thanh toán công nợ, vì vậy nếu Ngân hàng không nghiên cứu kỹ đến khách hàng mà thực hiện tín dụng chiết khấu sẽ xảy ra rủi ro không thu hồi được khoản nợ này. Để hạn chế rủi ro trong tín dụng tái chiết khấu , Ngân hàng phải xem xét kỳ phiếu, hối phiếu của người trả trước đây có được thanh toán sòng phẳng hay không? Cũng như xem người nhận trả đã thanh toán bao nhiêu kỳ phiếu còn bao nhiêu kỳ phiếu đã lưu thông. - Rủi ro đối với tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là một kiểu cho thuê tài sản chuyên dùng, cho người thuê theo giá thoả thuận ban đầu. Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt quá trình thực hiện họp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê. Đối tượng tín dụng ở đây tồn tại dưới hình thức hiện vật tương đối cố định, thuận tiện cho việc quản lý vốn tín dụng. Ngay trong trường hợp người thuê gặp khó khăn việc thu hồi nợ của người cho vay ít gặp trở ngại. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng người thuê vẫn có khả năng gặp những rủi ro như mất mát, hỏng hóc nặng dẫn đến vi phạm Hợp đồng tín dụng gây khó khăn cho người cho vay. chương II Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội I- Tổng quan về Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đặt trụ sở tại số 2 Lạc Trung, phạm vi hoạt động chủ yếu trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Với quyết định số 56/QĐ và 59/QĐ tháng 8 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Với qui mô hoạt động trên 2564 chi nhánh Ngân hàng từ tỉnh đến huyện Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam với vị trí là Ngân hàng quản lý. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là một trong 2564 chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, đóng vai trò tạo lập nguồn vốn, cung cấp các hình thức dịch vụ Ngân hàng, đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần thực hiện các mục tiêu, chương trình, giải pháp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề ra; định hướng phát triển kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội Tên giao dịch quốc tế: Việt Nam Bank For Agriculture and Rural Development - Hà Nội branch Trụ sở số 77 - Lạc Trung quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ngày 26/3/1988 với nghị định 55/HĐBT, Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội được thành lập, đóng vai trò quản lý với các ngân hàng cấp huyện dựa trên các văn bản của thành uỷ và cơ quan cấp trên, đồng thời đóng vai trò là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng. Tháng 9/1991, Quốc hội yêu cầu tách tỉnh và quy hoạch 7 huyện thành cấp tỉnh, Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội được giao quản lý 5 huyện: Từ Liêm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Gia Lâm. Với chức năng quản lý này, vai trò phát triển nông nghiệp và nông thôn bị thu hẹp, Ngân hàng chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp và hộ nông dân trên địa bàn (dự án nuôi bò sữa ở Gia Lâm, VAC ở Đông Anh...). Năm 1997, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức với hoạt động thí điểm quản lý theo mô hình 2 cấp tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các chi nhánh cấp huyện chịu sự trực tiếp quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội chỉ quản lý các chi nhánh ở các quận nội thành (chi nhánh Ngân hàng cấp III): Cầu Giấy, Thanh Xuân, Tây Hồ, Chợ Hôm, Đồng Xuân, Giảng Võ.,Đống đa. Các Ngân hàng cấp III này thực chất là các cơ sở giao dịch được thành lập; làm tăng khả năng qui mô hoạt động của Ngân hàng. Hoạt động thí điểm này đã tạo nên một bước ngoặt trong hình thức quản lý của ngân hàng nông nghiệp Hà Nội: Từ chủ yếu tập trung kinh doanh ở ngoại thành chuyển về tập trung kinh doanh ở nội thành với một cơ cấu tổ chức bao gồm các phòng ban và ngân hàng cấp III,,, Các chi nhánh Ngân hàng cấp III: Hoạt động của 7 chi nhánh Ngân hàng cấp III trên địa bàn Hà Nội thực hiện giống như Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Bao gồm các hoạt động huy động nguồn vốn, cho vay, thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên, Quyền hạn của các chi nhánh này thu hẹp hơn so với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Theo QĐ số 2662/NHNo_03 ngày 08/12/1999 về phân cấp mức cho vay tối đa đối với NH loại III : Cho vay tối đa không quá 1 tỷ đối với doanh nghiệp nhà nước , không quá 500 triệu đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 100 triệu với hộ sản xuất. Hoạt động mang tính "phát triển" của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội được thể hiện chủ yếu qua tín dụng Ngân hàng. Trong những năm qua, tín dụng Ngân hàng đã góp một phần không nhỏ trong sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế tại địa bàn, giảm sự phân hoá giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành. đặc biệt Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã đóng góp to lớn trong đầu tư vào các chương trình thu mua lương thực, phân bón, thuốc trừ sâu các loại. Năm 1999, đã đầu tư cho các cửa hàng thu mua lương thực trên địa bàn 262 tỷ đồng, thu mua hơn 125.000 tấn gạo, 29 triệu USD nhập khẩu phân bón hỗ trợ cho Công ty kinh doanh Vật tư nông nghiệp phục vụ cho bà con nông dân kịp thời vụ ... Trong những năm gần đây, nền kinh tế Hà Nội đạt mức tăng trưởng cao. Giá trị Công nghiệp tăng bình quân 14,4%, Nông nghiệp tăng 3,9% , GDP tăng 11,9%. Cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng Công nghiệp - Dịch vụ từ 30,5% lên 35%. Để phù hợp với tình hình và xu hướng phát triển kinh tế trên địa bàn, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã và đang thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình : Chú trọng vào tín dụng cho khu vực quốc doanh và hộ sản xuất - Hai khu vực cơ bản nhất, cần thiết nhất cho một nền kinh tế Công nhiệp hoá và hiện đại hoá. Năm 2000, hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng tiếp tục thực hiện 3 mục tiêu và 4 định hướng của ngành. Trong sự phát triển đầy tiềm năng của nền kinh tế đất nước, vững tin vào năng lực của chính mình, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội tiếp tục đạt được những thành công, xứng đáng là Ngân hàng quốc doanh - Ngân hàng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn Việt nam ngày càng giầu đẹp - phồn vinh; đồng thời là Ngân hàng đáng tin cậy của mọi khách hàng trong và ngoài nước. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội có những chức năng chính sau: - Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức , cá nhân trong và ngoài nước bằng đồng Việt nam và ngoại tệ. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu Ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác. - Tiếp nhận vốn tài trợ, tín thác, uỷ thác đầu tư từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức quốc tế, quốc gia và cá nhân trong nước, nước ngoài đầu tư vào các chương trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. - Vay vốn Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước, các tổ chức cá nhân và nước ngoài khác. - Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các cá nhân, hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế . - Chiết khấu các loại giấy tờ trị giá được bằng tiền. - Cho vay tài trợ theo chương trình dự án và kế hoạch của Chính phủ. - Cho vay tài trợ các chương trình, dự án vì mục tiêu nhân đạo, văn hoá - xã hội (tuỳ theo đặc điểm của nguồn vốn). - Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính. - Thực hiện nghiệp vụ thanh toán LC cho khách hàng, bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh đấu thầu cho các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. - Kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối ngoại. Hoạt động kinh doanh các dịch vụ: Đại lý Ngân hàng, bảo hiểm, thanh toán giữa các khách hàng, tư vấn về kinh doanh tiền tệ, thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro, thông tin điện toán, đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, két sắt cất giữ, bảo quản và quản lý các chứng khoán, giấy tờ có giá và các tài sản quý cho khách hàng. - Thực hiện các nghiệp vụ cầm cố bất động sản. -Đầu tư dưới các hình thức hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản và các hình thức đầu tư tín dụng khác với các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tín dụng. Bước sang năm 2001, toàn ngành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung cũng như Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng tiếp tục thực hiện các mục tiêu và định hướng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, mở rộng các loại hình kinh doanh mới, ngăn chặn có hiệu lực tệ quan liêu tiêu cực, tham nhũng, lãng phí lao động và tiền của, giữ gìn uy tín trong kinh doanh. Cụ thể là: - Củng cố và tiếp tục phát triển thị trường nông thôn theo phương thức cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất. -Bám sát vào các chương trình chỉ định của Nhà nước. Trước mắt tập trung vốn cho vay thu mua hết chỉ tiêu thu mua hàng hoá trong vụ đông xuân 2000, 2001. - Hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn phải mang tính cạnh tranh cao trong nền kinh tế và được thể hiện trong việc tiếp thị để phát triển và giữ vững khách hàng. Tạo điều kiện thuận lợi, tập trung tháo gỡ khó khăn cho những doanh nghiệp lớn như doanh nghiệp sản xuất bia, nước giải khát, vật liệu xây dựng... - Mở rộng quan hệ với các khu vực và quốc tế dựa trên nguồn vốn chủ yếu là từ huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. - Gắn tín dụng thương mại với đầu tư phát triển, thúc đẩy quá trình liên kết các thành phần kinh tế, đặc biệt là cho vay người nghèo. - Mở rộng các hình thức kinh doanh, các sản phẩm Ngân hàng trên cơ sở hiện đại hoá Ngân hàng. - Mở rộng các lĩnh vực cho vay có rủi ro thấp như các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp trọng yếu của Nhà nước, hộ sản xuất, chương trình chỉ định ... 1- Một số thể lệ tín dụng chủ yếu áp dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội ( Thực hiện theo quyết định số 324/2000/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Quyết định số 180/QĐ/HĐQT ngày 15/12/2000 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam) 1.1- Mục đích và phạm vi cho vay: - Cho vay ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu của doanh nghiệp. Cho vay trung và dài hạn để đầu tư cho các dự án: Xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội, pháp luật của Nhà nước. - Phạm vi cho vay là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật Việt Nam bao gồm: + Các pháp nhân là: Doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiên quy định tại điều 94 của Bộ luật dân sự; + Hộ gia đình; + Tổ hợp tác; + Doanh nghiệp tư nhân; + Cá nhân. 1.2- Thực hiện quy định về quản lý ngoại hối: Trong khi cho vay bằng ngoại tệ, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội phải thực hiện đúng quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về quản lý ngoại hối. 1.3- Quyền tự chủ trong cho vay: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình. Không một tổ chức, các nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. 1.4- Nguyên tắc vay vốn: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng; - Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng; - Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện quy định của Chính phủ, Thống đốc NHNN và hướng dẫn về bảo đảm tiền vay của ngân hàng nông nghiệp đối với khách hàng. 1.5- Điều kiện vay vốn - Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; - Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; - Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả; - Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Nông nghiệp. - Đối với doanh nghiệp Nhà nước là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của pháp nhân; Ngoài các điều kiện trên phải có thêm các điều kiện sau: Đơn vị phụ thuộc phải có giấy uỷ quyền vay vốn của đơn vị chính. Nội dung uỷ quyền phải thể hiện rõ mức tiền được vay cao nhất, thời hạn vay vốn, mục đích vay vốn và cam kết trả nợ thay khi đơn vị phụ thuộc không trả được nợ. 1.6- Loại cho vay: - Cho vay ngắn hạn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội cho khách hàng vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống; - Cho vay trung hạn, dài hạn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội cho khách hàng vay vốn trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đờì sống. 1.7- Đối tượng cho vay: a/ Ngân hàng nông nghiệp cho vay các đối tượng: - Giá trị vật tư hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và đầu tư phát triển; - Số tiền thuế xuất khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu mà giá trị lô hàng xuất khẩu đó Ngân hàng Nông nghiệp có tham gia cho vay; - Số lãi tiền vay trả cho Ngân hàng Nông nghiệp trong thời hạn thi công, chưa nghiệm thu bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng mà khoản trả lãi được tính trong giá trị tài sản cố định đó. b/ Ngân hàng nông nghiệp không cho vay các đối tượng: - Số tiền thuế phải nộp; trừ số tiền thuế xuất khẩu nói ở phần a nêu trên; - Số tiền để trả nợ gốc và lãi vay cho tổ chức tín dụng khác; - Số lãi tiền vay trả cho chính Ngân hàng nông nghiệp; trừ trường hợp cho vay số lãi tiền vay nêu ở phần a trên. 1.8 - Thời hạn cho vay: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại: - Cho vay ngắn hạn: Được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, tối đa đến 12 tháng. - Cho vay trung hạn, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của Ngân hàng: + Thời hạn cho vay trung hạn: Từ 12 tháng đến 60 tháng (5 năm) + Thời hạn cho vay dài hạn: Từ trên 60 tháng trở lên, nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống. 1.9 - Lãi suất cho vay: - Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng nông nghiệp về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết. - Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. - Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo mức quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký Hợp đồng tín dụng. 1.10 - Mức cho vay: - Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống; tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng nông nghiệp; khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng nguồn vốn của ngân hàng Nông nghiệp để quyết định mức cho vay, nhưng không vượt quá mức quy định tại điều 79 của Luật các tổ chức tín dụng. - Đối với cho vay ngắn hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 20% trong tổng nhu cầu vốn. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước phải có vốn tự có tối thiểu 10% trong tổng nhu cầu vốn. - Đối với cho vay trung hạn, dài hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 40% trong tổng nhu cầu vốn. - Khách hàng có uy tín trong quan hệ vay vốn với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, nếu vốn tự có thấp hơn quy định trên thì thông qua Hội đồng tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội xem xét quyết định cho phù hợp. 1.11- Trả nợ gốc và lãi: a/ Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khả năng tài chính, thu nhập và nguồn trả nợ của khách hàng, ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận về việc trả nợ gốc và lãi tiền vay theo các kỳ hạn trả nợ gốc, theo định kỳ tháng, quí hoặc trả cùng kỳ với nợ gốc, hoặc trả theo phương pháp trả góp ... Trường hợp đến kỳ trả lãi, khách hàng chưa có khả năng trả, nếu có lý do chính đáng và được ngân hàng cho vay chấp thuận, thì trả vào kỳ sau. b/ Thu nợ cho vay theo thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng. Đối với khách hàng vay bằng nội tệ, khách hàng vay được quyền trả nợ trước hạn, số lãi phải trả chỉ tính từ ngày vay đến ngày trả nợ. Đối với khách hàng vay bằng ngoại tệ, nếu trả trước hạn thì Ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận về số lãi tiền vay phải trả nhưng không vượt quá mức lãi đã ghi trong Hợp đồng tín dụng. c/ Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu khách hàng không trả được nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc không được gia hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền chậm trả. d/ Đồng tiền trả nợ và việc bảo đảm giá trị nợ gốc bằng các hình thức thích hợp phù hợp với quy định của pháp luật. 1.12- Hợp đồng tín dụng Sau khi quyết định cho vay ngân hàng cho vay và khách hàng ký kết Hợp đống tín dụng. Hợp đồng tín dụng lập theo mẫu gồm các hình thức: Hợp đồng tín dụng dùng cho khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh; hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác. Hoặc sổ vay vốn dùng cho khách hàng là hộ gia đình, cá nhân (đối với trường hợp không phải thực hiện thế chấp cầm cố, bảo lãnh) thay cho Hợp đồng tín dụng 1.13- Giới hạn cho vay Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của toàn hệ thống, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của hệ thống Ngân hàng nông nghiệp hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Ngân hàng nông nghiệp cho vay hợp vốn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nông nghiệp chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay nói trên khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể. 1.14- Những trường hợp không được cho vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội không được cho vay đối với các khách hàng trong các trường hợp sau đây: - Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tống giám đốc (phó giám đốc) của Ngân hàng Nông nghiệp. - Người thẩm định, xét duyệt cho vay. - Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (giám đốc), Phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của Ngân hàng Nông nghiệp. 1.15- Hạn chế cho vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, mức cho vay cho những đối tượng sau: - Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, kế toán trưởng, thanh tra viên; - Các cổ đông lớn của Ngân hàng nông nghiệp. - Doanh nghiệp có một trong những đối tượng qui định tại điểm 1 Điều 77 của Luật các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó. Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định bị hạn chế cho vay ở trên không được vượt quá 5% Vốn tự có của Ngân hàng Nông nghiệp. Mức dư nợ cho vay của các chi nhánh do Ngân hàng nông nghiệp thông báo cụ thể từng thời kỳ. 1.16- Miễn giảm lãi tiền vay: Ngân hàng cho vay được quyết định miễn, giảm lãi tiền vay phải trả đối với khách hàng theo các nguyên tắc sau: - Khách hàng bị tổn thất về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên nhân khách quan, dẫn đến bị khó khăn về tài chính; - Mức độ miễn, giảm lãi tiền vay phù hợp với khả năng tài chính của Ngân hàng nông nghiệp; -Ngân hàng Nông nghiệp không miễn giảm lãi tiền vay đối với khách hàng thuộc các đối tượng quy định tại điểm 1 Điều 78 Luật các tổ chức tín dụng. 1.17 - Quyền và nghĩa vụ của khách hàng vay: a/ Khách hàng vay có quyền: - Từ chối các yêu cầu của Ngân hàng nông nghiệp không đúng với các thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng. - Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo qui định của pháp luật. b/ Khách hàng vay có nghĩa vụ: - Cung cấp đầy đủ , trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung cấp; - Sử dụng tiền vay đúng mục đích và thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng; - Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ vay và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong Hợp đồng tín dụng. 1.18 - Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng Nông nghiệp: a/ Ngân hàng nông nghiệp có quyền: - Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; - Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn, dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc Ngân hàng nông nghiệp không có đủ nguồn vốn để cho vay; - Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng; - Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thực, vi phạm Hợp đồng tín dụng; - Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo lãnh theo qui định của pháp luật; - Khi đến hạn trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì Ngân hàng nông nghiệp có quyền bán tài sản làm bảo đảm theo sự thoả thuận trong Hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu của người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp khách hàng được bảo lãnh vay vốn; - Miễn, giảm lãi tiền vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ; - Mua bá._. bộ (cả tín dụng đầu tư và vay vốn lưu động sản xuất). - Phát triển khách hàng được đồng tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau. - Phát triển khách hàng ngoài quốc doanh thuộc mọi ngành nghề. Chỉ trong tương lai, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ phát triển rất mạnh. Vì vậy, ta phải nhanh chóng nắm bắt được đối tượng khách hàng này. Trước hết phải xoá bỏ mặc cảm đối với thành phần kinh tế này, đối sử thật bình đẳng với họ. Muốn mở rộng thị trường đầu ra ,Ngân hàng phải vươn tới cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tất nhiên phải có chính sách thể lệ rõ ràng, phải nhanh chóng thu hút họ nếu không trong tương lai họ sẽ quan hệ làm ăn với các Ngân hàng khác. Do đó Ngân hàng phải tạo ra một cơ chế vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ. Phương thức cho vay phải đa dạng, phong phú, phù hợp với tính chất, qui mô, đặc điểm của từng loại hình sản xuất kinh doanh tạo cho người vay chủ động trong sử dụng vốn, trả nợ tín dụng , quay vòng nhanh mang lại hiệu quả cao cho người vay và Ngân hàng. Ngoài việc cho vay, thu nợ gọn những món vay, từng khế ước, có lẽ Ngân hàng nên qui định thêm một số phương thức vay linh hoạt hơn như: + Trên cơ sở tài sản thế chấp, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận mức dư nợ. Từ đó có thể cho vay theo "tài khoản đặc biệt" đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (mở cho họ một tài khoản tiền vay) có thu nhập thường xuyên , trên cơ sở đó các doanh nghiệp, các hộ sản xuất có thể chủ động rút tiền vay và nộp tiền vay vào trả nợ hàng ngày, nhưng mức dư nợ không quá mức đã thoả thuận trước giữa Ngân hàng và khách hàng. + Từng bước cho các đơn vị này sử dụng séc thanh toán, điều này tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho khách hàng dễ dàng sử dụng nguồn vốn một cách linh hoạt mà còn năng cao khả năng quản lý khoản vay, tránh sử dụng sai mục đích của Nhà Ngân hàng. Đi đôi với việc đa dạng hoá khách hàng thì vấn đề duy trì quan hệ khách hàng lâu dài cũng như tạo điều kiện cho việc giám sát của Ngân hàng tốt hơn. Khách hàng quan hệ lâu dài vừa có lợi cho khách hàng cũng như cho cả Ngân hàng. Một khách hàng quen thuộc thì dễ được vay hơn, bởi vì Ngân hàng tốn ít thời gian để xác định người vay này sử dụng tiền vay như thế nào? Khách hàng quan hệ lâu dài giúp cho ngân hàng có thể đối phó với những rủi ro bất ngờ mà ngay cả Ngân hàng cũng không thể lường trước được, vì khách hàng muốn giữ gìn quan hệ lâu dài (gợi ra sự gắn bó chặt chẽ hơn và có lợi cho cả hai bên) với Ngân hàng để có những ưu đãi trong vay vốn. Phương pháp để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ này đối với các Ngân hàng là nắm giữ một số cổ phần của công ty mà Ngân hàng cho vay tiền, đồng thời có những thành viên trong ban giám đốc quản lý. Do đó các công ty này là người đại diện cho Ngân hàng. Cuối cùng một biện pháp vô cùng quan trọng để thu hút khách hàng là phải từng bước trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho Ngân hàng, thể hiện là luôn luôn làm cho bộ mặt trụ sở Ngân hàng khang trang, trang bị nội thất gọn gàng sạch đẹp, các phương tiện tính toán truyền tin hiện đại, thái độ phục vụ văn minh lịch sự, số lượng và chất lượng dịch vụ đảm bảo. Đây là những điều kiện thể hiện sức mạnh và sự an toàn của Ngân hàng có sức lôi cuốn khách hàng rất lớn. 4- Giải pháp san sẻ rủi ro Giải pháp san sẻ rủi ro nhằm phân tán rủi ro bất khả kháng, khó tránh khỏi như thiên tai, bão lụt, hoả hoạn ... các biện pháp san sẻ rủi ro gồm có tránh dồn vốn, liên kết đầu tư và bảo hiểm tín dụng. a- Tránh dồn vốn Cách phân phối tín dụng một cách tốt nhất đối với một Ngân hàng muốn tránh rrủi ro là rải tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, nhiều khách hàng khác nhau. Để thực hiện biện pháp này cần quán triệt hai vấn đề: - Cho vay nhiều đối tượng thuộc các loại hình sản xuất khác nhau. Không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một thứ sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là những hàng hoá mang tính không thiết yếu, Nhà nước khuyến khích sản xuất; nhu cầu, năng lực cạnh tranh không ổn định, trong sản xuất kinh doanh dễ gặp rủi ro. Không đầu tư một số tiền lớn cho một khách hàng mà phải san ra nhiều khách hàng trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh, nhất là sản phẩm kinh doanh những mặt hàng nói trên. Đây là phân tán hệ số rủi ro trên số món vay. b- Đa dạng hoá sản phẩm Ngân hàng Ngân hàng cần thiết phải nghiên cứu thị trường để tiến hành tìm ra cho mình những sản phẩm mới để phục vụ cho những nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Và sự đa dạng về sản phẩm Ngân hàng cũng là một phương pháp tốt nhất để san sẻ bớt rủi ro cho Ngân hàng. Bởi nếu một hoạt động nào đó của Ngân hàng yếu kém thì sẽ có những hoạt động khác hỗ trợ, giúp cho ngân hàng không lâm vào tình trạnh bế tắc. c- Liên kết đầu tư Liên kết đầu tư nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà một Ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro mạo hiểm. Nhiều Ngân hàng sẽ kết hợp với nhau thành nhóm cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án đầu tư. Các Ngân hàng tham gia đầu tư phải liên kết đầu tư nêu rõ trách nhiệm của từng thành viên. d- Bảo hiểm tín dụng Bảo hiểm là một biện pháp hết sức quan trọng nhằm dàn trải rủi ro. Bảo hiểm có lợi về mặt kinh tế cho mọi người, nó làm giảm mất mát thiệt hại của cải, ở Việt Nam nói chung bảo hiểm chưa đi sâu vào đời sống xã hội. Bảo hiểm tín dụng lại càng mới lạ hơn. Trong cơ chế kế hoạch hoá, hoạt động tín dụng của Ngân hàng không được coi là một ngành kinh doanh. Khi phát sinh rủi ro tín dụng , Ngân hàng thường dùng những biện pháp phi kinh tế để ngăn chặn như không cho các tổ chức và cá nhân rút tiền và phát hành thêm tiền để bù đắp... Vấn đề bảo hiểm tín dụng không được đề ra. Chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động tín dụng được coi là một ngành kinh doanh. Sản phẩm của Ngân hàng là quyền sử dụng vốn tín dụng của khách hàng trong những thời hạn nhất định. Quân hệ giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp, cá nhân là quan hệ bạn hàng bình đẳng. Để ngăn chặn những bất trắc xấu đối với những hoạt động tín dụng đã đến lúc cần thiết bàn về bảo hiểm tín dụng. Có ba hình thức bảo hiểm tín dụng như sau: Một là khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh vì vậy, nếu khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này không làm phát sinh thêm thao tác nghiệp vụ cho Ngân hàng. Để sử dụng tốt hình thức này về phía Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay vốn với khối lượng lãi suất đối với các doanh nghiệp, cá nhân đã mua bảo hiểm. Hai là sử dụng biện pháp bảo lưu có nghĩa Ngân hàng tự bảo hiểm cho chính mình, bằng cách lập tín dụng phòng để bù đắp những thiệt hại khi gặp rủi ro tín dụng. Từ đó hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra, mà vẫn bảo đảm được tình hình tài chính của Ngân hàng. Còn nếu rủi ro không sảy ra thì số tiền quỹ dự phòng coi như là một khoản lợi nhuận của Ngân hàng. Quỹ dự phòng sẽ ngày càng lớn qua các năm và khả năng của nó lại càng lớn. Ba là Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. ở nước ta hiện nay chưa thực hiện bảo hiểm tín dụng cho nên câu hỏi được đặt ra là ngành Ngân hàng mua bảo hiểm ở đâu? để giải quyết vấn đề này, giải pháp đang được đặt ra là thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Đối tượng bảo hiểm là tất cả các khoản tín dụng đầu tư ở Việt Nam. Để có khả năng bảo hiểm ngày càng lớn tổ chức bảo hiểm tín dụng có thể mua lại bảo hiểm của các tổ chức quốc tế về bảo hiểm. Sự ra đời của tổ chức này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng. 5- Giải pháp về các bảo đảm tín dụng a- Bảo lãnh Là hoạt động quan trọng đa dạng trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và trong kinh doanh tiền tệ nói riêng. Thực hiện bảo lãnh sẽ tạo thêm khả năng các giao dịch vay nợ tăng cường sự ổn định, giảm thiểu rủi ro trong quan hệ vay mượn. Bảo lãnh được coi như là một hình thức bảo đảm nợ. Trong cam kết trách nhiệm của mình, người bảo lãnh luôn thể hiện việc thực hiện nghĩa vụ hầu như là "bất khả kháng" trước chủ nợ. Bảo lãnh được thực hiện nhằm thực hiện khả năngvay nợ. Việc bảo lãnh được thực hiện bằng văn bản hoặc hợp đồng bảo lãnh hợp pháp của chủ tài khoản đứng bảo lãnh. Bảo lãnh trở thành một trong những phương thức xét cho vay của Ngân hàng là cần thiết Ngân hàng sẽ yên tâm hơn, giảm bớt thời gian, chi phí để tìm hiểu khách hàng khi họ được bảo lãnh bởi một doanh nghiệp có uy tín hay một tổ chức tín dụng khác. Do đó, rủi ro phát sinh trong quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và người được bảo lãnh vay vốn sẽ giảm. Tuy nhiên, rủi ro cũng có thể xảy ra do tình trạng của chính người bảo lãnh. Cho nên, người bảo lãnh cần phải có những điều kiện sau: + Có tư cách pháp nhân + Có đủ điều kiện và có đủ nguồn vốn để trả nợ Ngân hàng khi người vay không trả được nợ. Thường là những cá nhân hay tổ chức kinh tế có uy tín trên thương trường đứng ra bảo lãnh. + Người bảo lãnh phải tôn trọng những qui định, giới hạn bảo lãnh (mức tối đa) của pháp luật qui định. Mặt khác thiết lập những ràng buộc trách nhiệm nhất định đối với người được bảo lãnh. b- Cầm cố Cầm cố tài sản là việc bên vay đưa tài sản của mình cho Ngân hàng giữ để đảm bảo việc trả nợ. Nếu đến hạn bên vay trả hết nợ thì Ngân hàng trả lại tài sản cầm cố. Nếu bên vay không trả hết nợ gốc và lãi thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức hai bên đã ký kết trong Hợp đồng tín dụng và hợp đồng cầm cố tài sản. Giống như thế chấp tài sản vay vốn, việc cầm cố tài sản vay vốn cũng phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ chủng loại, số lượng, giá trị ... Việc định giá và kiểm định tài sản cầm cố như tài sản thế chấp. Còn lãi suất cầm cố do giám đốc chi nhánh Ngân hàng cho vay quyết định, phù hợp với lãi suất thị trường ở địa phương và mức chi phí bảo quản tài sản cầm cố nhưng không nhỏ hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn cùng kỳ. Khi cầm cố, Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm bảo quản không được sử dụng vào mục đích khác. Khác với tài sản thế chấp, tài sản cầm cố chỉ là động sản thuộc quyền sở hữu của bên vay và bán được trên thị trường, chứng từ có giá đem cầm cố có thể là trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu, thẻ tiết kiện của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. c- Tín chấp Đối với những doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng thường xuyên với Ngân hàng, vay trả sòng phẳng, có tài khoản tiền gửi tại chi nhánh mà số dư tài khoản tiền gửi thường xuyên đủ khả năng trả nợ và lãi trong từng kỳ hạn, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì Ngân hàng có thể tiến hành cho vay theo phương thức tín chấp. d- Thế chấp Hiện nay hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế với sự chuyển hướng sang hạch toán kinh doanh độc lập là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong vấn đề bảo đảm an toàn và phát triển vốn. Với nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng quốc doanh nói chung và chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng không còn phải thực hiện các nghiệp vụ bao cấp về vốn cho các doanh nghiệp nữa. Do vậy vị trí hoạt động cho vay thế chấp càng trở nên hết sức quan trọng, nhất là đối với thành phần ngoài quốc doanh, thành phầm chiếm tới 15.3% tổng dư nợ tín dụng - đây là đối tượng tín dụng đông đảo, phong phú đang có chiều hướng phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vậy phải thực hiện thế chấp như thế nào để đồng vốn đạt hiệu quả nhất, đảm bảo sự an toàn và phát triển vốn. Tài sản thế chấp phải đủ các yêu cầu sau: - Phải có đủ giấy tờ chứng minh thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay, không thuộc loại pháp luật cấm buôn bán chuyển nhượng, không phải là tài sản đang thế chấp ở Ngân hàng khác hay có tranh chấp. - Tài sản phải có giá trị là hàng hoá khi phát mại. Khi xét đến giá trị của tài sản, Ngân hàng nên lưu ý đến giá trị của nó tại thời điểm khoản vay hết hạn. B - Các giải pháp khắc phục rủi ro tín dụng Những giải pháp nêu trên có tác dụng phòng ngừa rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, khi rủi ro đã xuất hiện, Ngân hàng cũng có những giải pháp thích ứng nhằm hạn chế tối đa tổn thất do rủi ro này đem lại. 1- Phương pháp thu hồi những khoản nợ khó đòi Việc cho vay của Ngân hàng thương mại thường xuyên xuất hiện rủi ro và các Ngân hàng chỉ quết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến tính chân thật và khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ. Tuy nhiên sự phân tích tín dụng không đạt đến mức ta có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản cho vay có được hoàn trả như đã thoả thuận hay không. Tính chân thật và khả năng hoàn trả của người đi vay có thể thay đổi sau khi khoản vay đã được thực hiện. Việc này là nguyên nhân tạo ra những khoản vay có vấn đề hoặc đã dẫn đến sự tổn thất. Tuỳ thuộc vào quy mô của các Ngân hàng mà nhân sự hoặc bộ phận chịu trách nhiệm xử lý những khoản cho vay có vấn đề được bố trí khác nhau, ở những ngân hàng nhỏ, những cán bộ cho vay trước đây tiến hành xử lý, dưới sự cố vấn của Luật sư. Nhiều ngân hàng đặc biệt là Ngân hàng lớn, cho rằng một bộ phận riêng với đội ngũ cán bộ được huấn luyện sẽ có nhiều kinh nghiệm và chuyên môn để xử lý các khoản cho vay có vấn đề. Để bộ phận này giúp giải quyết các khoản cho vay có vấn đề sẽ tốt hơn các cán bộ đã thực hiện những khoản cho vay lúc ban đầu. Các tổ chức xử lý này sẽ có phương pháp đánh giá mới, tốt đẹp hơn. Hơn nữa cán bộ cho vay có thể phát triển một mối quan hệ riêng gắn bó với người vay đến nỗi khó có sự phân tích khoa học và vô tư, và do đó có thể thiếu sự cương quyết cần thiết trong việc xử lý các khoản cho vay. 1.1- Ngăn ngừa những khoản cho vay khó đòi và tổn thất tín dụng Các Ngân hàng thương mại rất quan tâm đến các biện pháp ngăn ngừa và các biện pháp đề phòng giảm bớt thiệt hại bao gồm tăng cường sự giám sát, tăng chi phí thu nợ ... Ngay khi có dấu hiệu là những người người vay đã gặp khó khăn về tài chính, nhà Ngân hàng phải áp dụng kịp thời các biện pháp để điều chỉnh tình huống và bảo vệ lợi ích của Ngân hàng. Một trong những biện pháp sau đây hoặc một sự liên kết có thể được áp dụng, để cứu lấy người vay và khôi phục sức mạnh tài chính của họ. Cố vấn, nhân viên Ngân hàng có thể cho những lời khuyên về nhiều vấn đề như bán hàng, thu tiền, sản xuất ... - Tăng thêm vốn - Ngân hàng có thể đề nghị các chủ doanh nghiệp cấp thêm vốn. Nếu là công ty cổ phần thì khuyến khích bán thêm cổ phiếu và như vậy tăng thêm nguồn vốn mới. - Hợp nhất - Ngân hàng có thể khuyến khích người vay hợp nhất với một đơn vị khác. Điều này chỉ có thể được đề nghị sau khi nghiên cứu và định giá cẩn thận tất cả các yếu tố có ảnh hưởng. Bản chất của biện pháp này là hình thức tín chấp. Nhưng đặc điểm riêng biệt của nó là cho phép Ngân hàng san sẻ bớt mức độ rủi ro cao của khoản tín dụng mà vẫn tạo điều kiện thuận lợi về nguồn vốn cho các doanh nghiệp hoạt động tạm thời chưa có hiệu quả. - Giảm bớt kế hoạch mở rộng - Nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính , người vay nên loại bỏ chúng cho đến khi doanh nghiệp đã cải thiện tình hình tài chính của nó. - Khuyến khích thu hồi các khoản đầu tư chưa đến hạn, công nợ. - Giảm tồn kho bằng việc cải tiến phương thức bán hàng, hạ giá bán, ... nhằm tăng doanh thu bán hàng. - Nhận thêm vật thế chấp bảo đảm cho khoản vay. - Nhận sự bảo lãnh của cổ đông chủ chốt, người cung ứng hay người mua sản phẩm. - Gia hạn nợ, giảm mức thu của các kỳ hạn nợ. - Tăng thêm các khoản cho vay. Thông thường các Ngân hàng không muốn tăng thêm vốn vay cho một doanh nghiệp đang khó khăn về hoàn trả tín dụng mặc dù nó là một giải pháp khá hấp dẫn nhằm khắc phục khó khăn cho khách hàng tạo điều kiện cho khách hàng có khả năng thanh toán các khoản tín dụng trước đó. Nó chỉ được thực hiện sau khi tất cả các điều kiện do Ngân hàng ấn định đã được đáp ứng và rõ ràng là doanh nghiệp ấy có thể được phục hồi. 1.2 - Xử lý khoản nợ có vấn đề Trong xử lý các khoản nợ cho vay khó đòi Ngân hàng thương mại có hai sự lựa chọn tổng quát khai thác hoặc thanh lý và trong mỗi sự lựa chọn có những cách khác nhau. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản vay được trả một phần hay toàn bộ mà không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu nợ. Thanh lý là ép người vay thuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng, áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp hợp lý để đạt mục đích. */ Tổ chức khai thác Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng có thể và thường tổ chức khai thác, dĩ nhiên là phải đặt trong giả thiết là người vay thật thà và thái độ của họ đối với khoản nợ là chi trả thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có số vốn lớn trong doanh nghiệp, một tài sản cố định giá trị. Một tổ chức có thẻ tạo lợi nhuận đủ số lượng để chi trả khoản cho vay đáng nghi vấn, cũng như những khoản cho vay khách cần cho việc duy trì doanh nghiệp và trong quá khứ đã cho thấy có sự quản lý lành mạnh. Tuy nhiên, nếu người vay không thể trả được nợ, theo nghĩa của sự vỡ nợ thì thật sai lầm nếu Ngân hàng không thực hiện việc thanh lý. Hầu hết những khoản cho vay khó đòi tại các Ngân hàng thương mại các nước được xử lý bằng phương pháp khai thác, nghĩa là cho người vay được phép tự khắc phục các khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ Ngân hàng càng nhanh càng tốt. áp dụng phương pháp khai thác để xử lý các khoản cho vay có vấn dề có thể được mô tả như một chương trình phục hồi để áp đặt lên người vay với sự thoả thuận và cộng tác của họ. Vì tổ chức khai thác không phải là công cụ pháp lý, nó có thể có vài hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay. Ngân hàng "thực hiện bằng tài" và áp dụng một chương trình phù hợp nhất với một tình huống đặc biệt. Các biện pháp có thể bằng lời khuyên trên nhiều chủ đề, để nhằm tác động đến khả năng tạo ra lợi nhuận của người vay, gia hạn hoặc chỉnh hợp đồng cho vay, cho vay thêm, Ngân hàng nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh hay thậm chí, ngân hàng đảm nhận việc kinh doanh và điều hành nó, cho đến khi bảo đảm rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả. Đối với một doanh nghiệp, có thể khuyên thực hiện lại một chương trình mở rộng sản xuất, cải tiến phương thức bán, tăng thêm sản phẩm bán và lợi nhuận và như vậy tăng khả năng trả nợ của người vay. Có thể đề nghị loại bỏ một số hoạt động không sinh lời hoặc không có viễn cảnh sáng sủa. */ Thanh lý các khoản nợ khó đòi Nếu Ngân hàng thấy rõ là việc khai thác không tiên lợi, sự thanh lý dưới một trong vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lý một khoản cho vay đã trở thành nợ khó đòi. Khi phương pháp này được lựa chọn, có nghĩa là Ngân hàng đã quyết định, sau khi cân nhắc tất cả mọi yếu tố kể trên và nhận thấy rằng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời. Việc gia hạn hợp đồng hay cấp thêm vốn sẽ là mạo hiểm, biện pháp thanh lý là tối ưu nhất. Trong nhiều trường hợp việc thanh lý chỉ thực hiện sau khi đã thực hiện một vài hình thức khai thác nào đó, nhưng không cho thấy khả năng thành công. Sự thanh lý thường được nhanh chóng thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra tình hình tài chính của người vay là vô vọng. Thanh lý là biện pháp cuối cùng của Ngân hàng và khách hàng. Có nhiều trường hợp khoản vay có bảo đảm, có thể trong một giai đoạn nào đó vật thế chấp mất giá trị đáng kể, do người sử dụng sai hoặc bảo quản không tốt. Hơn nữa, khi vật thế chấp được bán với giá tịch biên, nó thường không mang lại như mức giá thị trường hợp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp khối lượng nhận được từ vật bán thế chấp không đủ thanh toán nợ, Ngân hàng có thể nhận phán quyết của toà án về khoản chênh lệch, cho phép Ngân hàng quyền thu thêm , nếu người vay có tài sản. Có một số biện pháp thực hiện thanh lý, cán bộ Ngân hàng có thể thực hiện với sự giúp đỡ của các chuyên gia tư vấn pháp luật, bộ phận liên quan đến những khoản cho vay có vấn đề, ở các nước có những hãng chuyên làm dịch vụ đòi thuê, xử lý nợ khó đòi. C- Một số những kiến nghị Như trên ta đã nêu những giải pháp mà Ngân hàng đã và đang thực hiện. Đây là những hoạt động thường ngày không thể thiếu được trong mỗi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng. Tuy nhiên, để hoàn thiện hoạt động tín dụng đồng thời hạn chế những hậu quả do rủi ro tín dụng, do thể lệ và chính sách tín dụng nêu ra, em xin đưa ra một số kiến nghị sau: 1. Kiến nghị đối với các chính sách của Chính phủ Hiện nay nền kinh tế cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn tiếp tục bị tác động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, sản xuất, lưu thông hàng hoá tăng trưởng chậm, nhiều sản phẩm trong nước bị hàng ngoại cạnh tranh nên tiêu thụ chậm, do đó các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay hoạt động cầm chừng, thu hẹp lại hoặc tạm ngừng sản xuất, người lao động thiếu việc làm, thu nhập thấp dẫn tới đời sống một số lớn dân cư gặp khó khăn, trong đó các tệ nạn tiêu cực xã hội lại gia tăng... Cho nên Nhà nước cần chỉ đạo cấc cấp, các ngành tiếp tục tháo gỡ khó khăn nhất là đối với các doanh nghiệp thua lỗ, có sản phẩm ứ đọng và có nợ quá hạn Ngân hàng không có khả năng trả nợ. - Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn gây thất thoát vốn của Ngân hàng. - Bộ tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán đúng theo pháp lệnh Hạch toán kế toán và Thống kê,đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời. Nhằm giúp cho các Ngân hàng có được các thông tin tài chính giúp cho việc phân tích tín dụng được chính xác. - Cần đề cao trách nhiệm của cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu. Trước hết phải đảm bảo cân đối, tránh cho nhập tràn lan hoặc hạn chế quá mức gây ra những biến động thị trường. Hai là chính sách xuất nhập khẩu phải ổn định tương đối lâu dài, tránh tình trạng khi vốn tín dụng đã đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, chưa kịp thu hồi thì lại có sự thay đổi chính sách, khiến cho nợ Ngân hàng không thu hồi được. - Cần chấn chỉnh hoạt động của các cấp có thẩm quyền duyệt dự án theo hướng nâng cao trách nhiệm hơn nữa đối với sự phát triển kinh tế. Tránh tình trạng, các dự án được duyệt thiếu căn cứ khoa học, không thực tiễn nên không phát huy được hiệu quả, hoạt động bị đình đốn, lãng phí hàng ngàn tỷ đồng, nợ ngân hàng khó đòi. Điển hình là hàng loạt dự án đầu tư chế biến lương thực, thực phẩm không sản xuất được do sản phẩm khó tiêu thụ. - Luật pháp hoá các quy định về an toàn trong hoạt động Ngân hàng, thường xuyên kiểm tra, giám sát và bắt buộc các Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các qui định của pháp luật trong hoạt động tín dụng. Cần hết sức thận trọng trong việc xét đủ điều kiện khi thành lập các Ngân hàng cổ phần, nâng cao tính ổn định và vững chắc của Ngân hàng hiện có. - Nhà nước phải tôn trọng quyền độc lập tự chủ trong kinh doanh của Ngân hàng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các Ngân hàng. 2- Đối với Ngân hàng Nhà nước Năm 2001 Chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm hướng các tổ chức tín dụng thực hiện theo Luật Các tổ chức tín dụng. Về huy động vốn, các tổ chức tín dụng căn cứ vào trần lãi suất cho vay của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định để tự ấn định các mức lãi suất huy động phù hợp với tình hình cung cầu vốn tín dụng. Về nghiệp vụ cho vay, Thống đốc ra quyết định 324/2000/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/2000 về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, quy định việc cho vay bằng Đồng Việt Nam và Ngoại tệ và thay thế cho các thể lệ tín dụng quy định tại các văn bản ban hành trong thời gian thực hiện pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính. Quy chế cho vay 324 chỉ quy định khung pháp lý có tính nguyên tắc, để các tổ chức tín dụng hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với điều kiện, đặc điểm và điều lệ hoạt động của mình. Chính sách đổi mới này đã nâng cao được quyền tự chủ cho TCTD, đồng thời xoá bỏ cơ chế xin, cho và sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quyền tự chủ kinh doanh của TCTD. Chính sách tín dụng năm 2001 nhìn chung đã tạo điều kiện để cho các TCTD mở rộng được đầu tư cho vay đối với các thành phần kinh tế góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Song bên cạnh đó thì còn một số yếu tố như việc định lãi suất đầu vào, đầu ra chưa thực sự phù hợp với tình hình thị trường của từng địa bàn. Nên thiết nghĩ Ngân hàng Nhà nước có thể giao quyền định lãi suất đầu vào, đầu ra phù hợp với tình hình của thị trường trên từng địa bàn. - Hiện nay, nghị định về đảm bảo tiền vay đã ra đời, Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành các thông tư hướng dẫn để tạo thuận lợi cho các ngân hàng trong việc cầm cố, thế chấp tài sản vay vốn, và xử lý các khoản rủi ro để kịp thời thu hồi vốn khi khách hàng không trả được nợ vay. - Thực hiện các chính sách bảo hiểm đối với khách hàng và các Ngân hàng như mở Quỹ bảo hiểm tiền gửi, cho khách hàng để tạo lập một phần vốn cho các Ngân hàng, nâng cao trách nhiệm trong huy động của Ngân hàng. hoặc thực hiện các hình thức bảo hiểm tài sản Ngân hàng,bảo hiểm trách nhiệm nhân viên Ngân hàng, bảo hiểm các giấy tờ có giá của Ngân hàng. 3- Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Quyết định số 67 của Chính phủ đã mở ra cho hoạt động Ngân hàng thực sự đi vào đời sống nhân dân, tạo điều kiện để Ngân hàng gần dân sát dân hơn, tạo điều kiện cho dân vay vốn để phát triển kinh tế. Song hiện nay ở một số vùng làm kinh tế trang trại, nông lâm trường lại đang rất khó khăn trong việc vay vốn vì họ chỉ có Biên bản giao thầu đất mà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, nếu cho vay thế chấp biên bản giao thầu đất là không đúng với chế độ, mà nếu cho vay thì họ có thể vay được từ nhiều nguồn sẽ không đảm bảo chất lượng tín dụng. Vậy nên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần có những giải pháp để giúp đỡ các thành phần kinh tế nói trên. 4- Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội - Kiến nghị thứ nhất: Thay đổi cơ cấu tín dụng Hoạt động chính của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội là hoạt động đi vay để cho vay, do vậy để tăng quy mô tín dụng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng phải có hiệu quả cao. Ngân hàng nên áp dụng chính sách lãi suất phù hợp để thu hút các nguồn huy động trung hạn, dài hạn để có thể đầu tư tín dụng trung và dài hạn nhằm thu lợi nhuận cao. Hiện nay ngân hàng mới chỉ tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng trong khi Hà Nội đang có xu hướng phát triển mạnh về lĩnh vực dịch vụ, do vậy trong tương lai, tất yếu Ngân hàng phải mở rộng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực này. - Kiến nghị thứ hai: Khuyếch trương hoạt động quảng cáo trong Ngân hàng Hiện nay do việc mất cân đối giữa các nguồn huy động cũng như các nguồn cho vay ngắn hạn và trung dài hạn (không có cho vay dài hạn), đối với khách hàng đến gửi tiền, ngoài việc thực hiện các hoạt động giao dịch nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng, Ngân hàng nên có hình thức quảng cáo và nghiên cứu thị trường ngay tại chỗ. Ví dụ, có thể gửi cho khách hàng khi ra về một tờ thông báo về các mức lãi suất huy động, lãi suất và các hình thức cho vay của Ngân hàng, các chi nhánh Ngân hàng cấp 4 mà khách hàng có thể đến giao dịch thuận tiện nhất. Đồng thời, khi tiến hành các thủ tục gửi tiền, nhân viên giao dịch có thể đưa ra những câu hỏi về ý thích , đặc đểm của hình thức gửi tiền của khách hàng, để có được một cái nhìn chung nhất về xu hướng, nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Kiến nghị thứ ba: Hoạt động đào tạo cán bộ tín dụng Do hoạt động tín dụng của Ngân hàng bao hàm rất nhiều thành phần kinh tế cũng như các lĩnh vực kinh doanh, do vậy, Ngân hàng nên thực hiện đào tạo các cán bộ tín dụng theo các lĩnh vực tín dụng như lương thực, vật liệu xây dựng, tiêu dùng, dịch vụ, đánh giá tài sản thế chấp... để tránh những sai lầm không đáng có đối với các cán bộ tín dụng, đồng thời tạo được sự thành thạo, nhanh chóng khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, tạo sự thuận lợi và hài lòng cho khách hàng. Kết luận Trên đây là một vài giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần thiết được rút ra từ thực tế tình hình hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng Ngân hàng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Hoạt động tín dụng và phòng chống rủi ro tín dụng là vấn đề mà bất cứ Ngân hàng nào cũng quan tâm. Mặt khác, với vai trò là một Ngân hàng "phát triển" thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Một trong bốn Ngân hàng quốc doanh của Nhà nước, đây là vấn đề cần thiết được quan tâm hàng đầu. Tôi rất mong rằng những ý kiến đóng góp trên đây giúp ích được phần nào cho hoạt động tín dụng tại ngân hàng: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và ngăn ngừa rủi ro tín dụng phát sinh trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung. Nhiệm vụ trước mắt và tương lai hết sức nặng nề và đầy thử thách mới nhưng trước những thành công mà Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã đạt được chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào tương lai của Ngân hàng. Đồng thời, cùng với sự năng động nhiệt tình của Ban lãnh đạo và sự làm việc tận tình của tất cả các đồng nghiệp của bản thân mình Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tin tưởng vững bước trên con đường phát triển xứng đáng là một trong bốn Ngân hàng quốc doanh hàng đầu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, phát triển cùng với sự phát triển chung của sự nghiệp công nghiệp hoá trên toàn đất nước. Phần cuối của chuyên đề tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thày cô giáo của học viện Ngân hàng. Đặc biệt với sự quan tâm và nhiệt tình giúp đỡ của thày giáo, các anh, chị của các phòng ban tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, tôi đã hoàn thành bài viết này. Do còn hạn chế về mặt thời gian cùng năng lực nghiên cứu của bản thân, bài viết chắc chắn sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi mong rằng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của toàn thể thầy cô và các bạn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0011.doc
Tài liệu liên quan