Một vài nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Electrolux trên Thị trường Việt Nam

Lời Mở Đầu Trong hơn một thập kỷ qua, với những chính sách đổi mới, chuyển nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, Việt nam đã có những thay đổi kỳ diệu: Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, cuộc sống của người dân ngày một phát triển hơn... Cơ chế thị trường, một mặt tạo ra môi trường thuận lợi, thông thoáng cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh. Nhưng mặt khác, nó làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng tăng, bởi vì cạnh tranh là môi trường của kinh

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một vài nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Electrolux trên Thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thị trường. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đều phải chịu tác động của các quy luật khách quan của thị trường, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trên thị trường thì phải không ngừng nỗ lực áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá thành, giữ chữ tín... Có như vậy, doanh nghiệp mới thu hút được khách hàng đồng thời chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Doanh nghiệp nào khả năng cạnh tranh quá yếu kém, không đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường dần dần sẽ đi đến làm ăn thua lỗ và phá sản. Bởi vậy, trong từng thời kỳ, các doanh nghiệp phải vạch ra cho mình những chiến lược, những kế hoạch nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy được điểm mạnh của mình, để một mặt nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường mặt khác để đạt được mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Với ý nghĩa đó và sau thời gian thực tế tại công ty Electrolux Việt nam, tôi xin chọn đề tài “Một vài giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Electrolux trên thị trường Việt nam “ làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung đề tài gồm: Phần I . Lý luận cơ bản về cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Phần II . Thực trạng cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của công ty Electrolux Việt nam. Phần III. Các biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Electrolux Việt nam. Xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Xuân Hương và các anh chị, cô chú trong công ty Electrolux Việt nam đã giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Phần I Lý luận cơ bản về cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I / Kinh tế thị trường và vấn đề cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.Kinh tế thị trường và tính tất yếu của cạnh tranh. 1.1.Kinh tế thị trường. Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế xã hội, trong đó các quan hệ kinh tế của cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, nó tạo điều kiện và môi trường thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp cũng như các cá nhân tự do tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy mà nó tạo cho nền kinh tế có một khối lượng hàng hoá dịch vụ dồi dào phong phú mà nền kinh tế tự nhiên, kinh tế chỉ huy chưa bao giờ đạt được. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động mua bán đều theo giá cả thị trường và cạnh tranh được coi là môi trường của kinh tế thị trường. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và bán hàng hoá theo nhu cầu của thị trường, có như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động và luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Vì vậy mà người ta thường gọi kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại. 1.2.Tính tất yếu của cạnh tranh. Sự tự do trong sản xuất kinh doanh với nhiều thành phần kinh tế tham gia là nguồn gốc của sự cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật trong nền kinh tế thị trường, là môi trường để kinh tế thị trường phát triển, do đó nó tồn tại một cách khách quan. Mục tiêu cao nhất của các chủ thể kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Cơ chế thị trường tạo điều kiện và môi trường thuận lợi làm cho số lượng các chủ thể kinh tế tham gia kinh doanh ngày càng phát triển. Theo đó, số lượng hàng hoá được sản xuất ra cũng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và việc ứng dụng các thành tựu của nó vào sản xuất làm cho hàng hoá ngày càng phong phú đa dạng, chất lượng ngày càng được nâng cao. Lúc này, quyền lựa chọn của người tiêu dùng là rất lớn. Chỉ những hàng hoá nào của doanh nghiệp nào đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng mới mong được tiêu thụ tốt và doanh nghiệp đó mới có thể tồn tại và phát triển được trên thương trường. Do đó tất yếu dẫn đến là việc cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế với nhau sẽ trở nên ngày càng gay gắt. Cạnh tranh là môi trường của kinh tế thị trường nhưng nó đồng thời là mục tiêu của doanh nghiệp bởi vì xuất phát từ chính chức năng của cạnh tranh là: làm giá cả trên thị trường giảm xuống; buộc các doanh nghiệp tối ưu hoá đầu vào trong sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá thành, giữ chữ tín; Nếu không có cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ không có động lực để ngày càng hoàn thiện mình, còn người tiêu dùng sẽ không có được những sản phẩm - dịch vụ với chất lượng tốt nhất, nền kinh tế lúc đó sẽ trì trệ và kém phát triển. Tóm lại, sự tồn tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan. Nó là cơ sở, là động lực để kinh tế thị trường phát triển. 2.Cạnh tranh và các dạng của cạnh tranh trên thị trường. 2.1.Cạnh tranh. Trước kia trong cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp - các hoạt động sản xuất kinh doanh đều được chỉ đạo từ trung ương, từ trên xuống dưới. Quan hệ cung cầu cũng như tất cả các quy luật của kinh tế thị trường không được tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Quan hệ giữa các đơn vị kinh tế hầu như không có mâu thuẫn về lợi ích. Chính vì vậy mà cạnh tranh không có chỗ đứng trong nền kinh tế. Thời điểm đánh đấu công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta bắt đầu từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ sáu của Đảng(1986). Từ đây cơ chế kinh tế có bước đổi mới cơ bản, nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện. Đặc biệt từ khi nước ta tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới thì cạnh tranh được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn. Môi trường cạnh tranh được mở rộng trên cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Cả Nhà nước và doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò quan trọng của cạnh tranh. Toàn bộ nền kinh tế cũng như mỗi doanh nghiệp đều chấp nhận cạnh tranh như là một nguyên tắc cơ bản của thị trường. Theo Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Theo từ điển kinh doanh( xuất bản năm 1992) ở Anh: “cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là sự ganh đua kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình”. Như vậy, hiểu theo một nghĩa chung nhất, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trong việc giành giật thị trường và khách hàng. 2.2.Các dạng của cạnh tranh trên thị trường. 2.2.1.Căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia thị trường. - Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt trên thị trường. Người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, nhưng người mua lại muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau quá trình mặc cả. - Cạnh tranh giữa người mua với người mua: Là cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Khi đó, do hàng hoá trên thị trường khan hiếm, người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được thứ mà họ cần. Do cung nhỏ hơn cầu nên người bán tiếp tục nâng giá, kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mua hàng hoá với giá cao hơn giá trị của nó. - Cạnh tranh giữa người bán với người bán: Với các doanh nghiệp đây là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất, và có ý nghĩa sống còn. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn giành được lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trước đối thủ. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh này là việc tăng doanh số tiêu thụ, tăng thị phần. Cùng với nó là việc tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất... 2.2.2.Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường. - Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh trên thị trường có nhiều người bán và nhiều người mua độc lập với nhau, sản phẩm là đồng nhất. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản phẩm của mình ở mức giá đang thịnh hành trên thị trường. Nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn thì doanh nghiệp sẽ không bán được vì người tiêu dùng sẽ mua của người khác. Theo nghĩa đó doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị trường, tức là không có khả năng kiểm soát thị trường đối với sản phẩm mình bán. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với cung thị trường, vì thế doanh nghiệp không có ảnh hưởng đáng kể đến tổng sản lượng hoặc giá trên thị trường. Trong cạnh tranh hoàn hảo không có sự cạnh tranh phi giá. Do vậy chính sách của doanh nghiệp là giảm chi phí sản xuất và tăng cường dịch vụ sau bán hàng. Các tin tức về thị trường, giá cả thì người mua và người bán đều nắm rõ, điều kiện tham gia cũng như rút khỏi thị trường là dễ dàng. - Thị trường cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh diễn ra trên thị trường mà ở đó chỉ có một số người mua (độc quyền mua) hoặc một số người bán một số sản phẩm thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ hàng hoá bán ra trên thị trường. Nhà độc quyền hoàn toàn có thể định đoạt giá cả và số lượng bán ra. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là độc quyền có sự tự do hoàn toàn về giá mà tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm và cơ chế quản lý của Nhà nước mà nhà độc quyền có thể định giá cao hay thấp để thu lợi nhuận tối đa. Trong thị trường độc quyền, các nhà độc quyền thường sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt sản phẩm để thu hút thêm khách hàng. Trong thị trường độc quyền thì việc gia nhập thị trường là rất khó khăn. 2.2.3.Xét theo phạm vi nền kinh tế. - Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất hay tiêu thụ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp phạm vi hoạt động kinh doanh thậm chí bị phá sản. - Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu được lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đầu tư nếu bỏ ra đầu tư vào các ngành khác. Sự cạnh tranh giữa các ngành này dẫn đến doanh nghiệp đang kinh doanh từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp chuyển sang kinh doanh ở ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. II / Khả năng cạnh tranh và vai trò của nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.Khái niệm về khả năng cạnh tranh. Trong kinh tế thị trường cạnh tranh tồn tại là tất yếu . Khi một hàng hoá được đem rao bán trên thị trường, nó sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng hoá do các hãng khác sản xuất. Sự cạnh tranh diễn ra vô cùng khắc nghiệt bởi vì nó quyết định tới khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Lúc này một hàng hoá có chất lượng tốt, giá cả hợp lý, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng sẽ được người tiêu dùng chấp nhận và ta có thể nói rằng hàng hoá đó có khả năng cạnh tranh so với các sản phẩm khác. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Fatchams cho rằng: “ khả năng cạnh tranh của hàng hoá là khả năng được sản xuất với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường“. Ranall lại cho rằng: “ khả năng cạnh tranh của hàng hoá là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định“. Một quan niệm khác lại cho rằng: “ khả năng cạnh tranh của hàng hoá là khả năng được sản xuất theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì được thu nhập thực tế của mình”. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa: “ khả năng của các doanh nghiệp, các ngành, quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Có thể thấy rằng các quan niệm trên xuất phát từ các góc độ khác nhau nhưng đều nói về vấn đề chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận, do đó ta cũng có thể hiểu khả năng cạnh tranh là năng lực nắm vững thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được. 2.Các công cụ sử dụng để nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp phải chịu rất nhiều sức ép từ các đối thủ cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển được trong điều kiện như vậy, mỗi doanh nghiệp đều có những công cụ riêng của mình để tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trên thị trường. Các công cụ thường được sử dụng là: giá cả, sản phẩm, các dịch vụ đi kèm, các hoạt động xúc tiến... 2.1.Sản phẩm. Khi nói về sản phẩm - hàng hoá người ta thường quy nó về một hình thức tồn tại vật chất cụ thể và do đó nó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu tố có thể quan sát được. Đối với các chuyên gia marketing, họ hiểu sản phẩm - hàng hoá ở một phạm vi rộng lớn hơn. Cụ thể là: Sản phẩm của doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau nhằm thoả mãn đồng bộ các yêu cầu của khách hàng bao gồm sản phẩm vật chất, bao bì, nhãn hiệu, các dịch vụ kèm theo... Gắn liền với sản phẩm là khái niệm về chất lượng. Theo ISO 8402, chất lượng là tập hợp các tính chất, đặc trưng của một sản phẩm có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu của khách hàng là nhu cầu đã nêu hoặc nhu cầu tiềm ẩn. Sản phẩm và chất lượng của sản phẩm là một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường, bởi vì khách hàng luôn có xu hướng so sánh sản phẩm của doanh nghiệp này với sản phẩm của doanh nghiệp khác nhằm lựa chọn cho mình cái tốt nhất. Người tiêu dùng thường quan tâm trước tiên đến chất lượng khi lựa chọn một sản phẩm nào đó, nhiều lúc họ sẵn sàng chấp nhận mức giá cao để có được sản phẩm tốt hơn. Sản phẩm được doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để tăng khả năng cạnh tranh bằng cách làm ra các sản phẩm có chất lượng cao nhằm phục vụ một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng, hoặc là tạo ra sự khác biệt để thu hút khách hàng. Mặt khác doanh nghiệp nào có sản phẩm chất lượng càng cao thì uy tín và hình ảnh của nó trên thị trường cũng càng cao. Đồng thời chất lượng sản phẩm tạo nên sự trung thành của khách hàng đối với các nhãn hiệu của doanh nghiệp. Vì vậy nó tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn và lâu dài cho doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. 2.2.Giá bán. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền giá trị của hàng hoá. Đối với các doanh nghiệp, giá cả trực tiếp tạo ra doanh thu và lợi nhuận thực tế. Còn đối với người mua, giá hàng hoá luôn được coi là chỉ số đầu tiên để họ đánh giá phần “ được ” và chi phí phải bỏ ra để sở hữu và tiêu dùng hàng hoá. Vì vậy, những quyết định về giá luôn giữ vai trò quan trọng và phức tạp nhất mà một doanh nghiệp phải đối mặt khi soạn thảo các chiến lược cạnh tranh của mình. Cùng với chất lượng sản phẩm thì giá bán cũng là công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp. Một sản phẩm có chất lượng được đánh giá là rất tốt nhưng chưa chắc nó đã có thể được tiêu thụ mạnh hay bán chạy trên thị trường nếu như giá bán của nó không phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng. Sản phẩm nào có giá bán thấp thì thường tạo ra sức cạnh tranh rất lớn so với các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường ngay cả khi chất lượng của nó không phải là tốt nhất. Hiện nay trên thị trường, giá cả là công cụ cạnh tranh được các doanh nghiệp sử dụng rất phổ biến, nhất là đối với những thị trường mà thu nhập bình quân của người tiêu dùng còn thấp. Để tăng khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp có thể định mức giá bán thấp nhằm thu hút khách hàng, vì nó tác động trực tiếp tới túi tiền của người tiêu dùng. Tuy nhiên, giá thấp lại ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, đồng thời dễ tạo ra tâm lý “ đánh đồng giá với chất lượng “ của khách hàng. Mặt khác, nó cũng có thể làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường quyết liệt hơn. Vì vậy, khi ra các quyết định về giá các doanh nghiệp đều phải cân nhắc rất kỹ lưỡng và phải tuỳ thuộc vào đặc điểm thị trường, vào mục tiêu và khả năng của mình để có quyết định hợp lý. 2.3.Xúc tiến bán hàng. Theo quan niệm của marketing, đây là một trong 4 nhóm công cụ chủ yếu của marketing - mix mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Xúc tiến bán hàng được hiểu là: các hoạt động có chủ đích trong lĩnh vực marketing của các doanh nghiệp nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Nội dung của xúc tiến bán hàng được xác định bao gồm các nội dung chủ yếu: quảng cáo bán hàng, khuyến mại, tham gia hội chợ triển lãm, bán hàng trực tiếp và quan hệ công chúng. Xúc tiến bán hàng là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua xúc tiến, các doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường tiềm năng của mình, cung cấp cho khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những dịch vụ ưu đãi để tiếp tục chinh phục khách hàng của doanh nghiệp và lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Hoạt động xúc tiến sẽ tạo ra hình ảnh đẹp về doanh nghiệp trước con mắt của khách hàng, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ thế mà không ngừng tăng lên. Thêm vào đó, xúc tiến bán hàng còn kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn, thu hút được các khách hàng tiềm năng từ đó làm tăng khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp, doanh nghiệp ngày càng được khách hàng ưa chuộng hơn. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh, một vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là phải tổ chức tốt xúc tiến bán hàng. 2.4.Phân phối. Hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến phân phối như là biến số marketing tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn cho doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động phân phối giải quyết vấn đề hàng hoá dịch vụ được đưa như thế nào đến người tiêu dùng. Vì vậy, doanh nghiệp nào có cách thức tổ chức hệ thống phân phối sản phẩm, dịch vụ của mình tốt, tạo ra sự thuận tiện nhanh chóng cho người tiêu dùng thì việc đó sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường lên khá nhiều. Các doanh nghiệp tổ chức và quản lý hoạt động phân phối thông qua các hệ thống kênh phân phối. Kênh phân phối là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Nhờ có mạng lưới phân phối mà khắc phục được những khác biệt về thời gian địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất với người tiêu dùng các hàng hoá dịch vụ. Các kênh phân phối phải thực hiện các chức năng chủ yếu sau: - Nghiên cứu thị trường, thu thập các thông tin cần thiết - Xúc tiến khuyếch trương: Cho những sản phẩm họ bán. Soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hoá. - Phân phối vật chất: Vận chuyển, bảo quản, dự trữ hàng hoá. - Thiết lập các mối quan hệ: Tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm năng. Hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng nhiều hình thức khác nhau để phân phối hàng hoá tới người tiêu dùng nhưng về lý thuyết có hai loại kênh phân phối cơ bản đó là: - Kênh trực tiếp: Là loại kênh phân phối trong đó hàng hoá được chuyển đưa thẳng từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Ưu điểm: Dễ dàng thu thập các thông tin phản hồi từ khách hàng, thời gian thu thập nhanh. Khă năng nghiên cứu, dự đoán thị trường cao. Giám sát được hàng hoá, đảm bảo uy tín của doanh nghiệp. Nhược điểm: Chi phí tương đối cao, khả năng phân phối hàng hoá thấp. - Kênh gián tiếp: Là loại kênh trong đó có sự tham gia của các trung gian phân phối. Ưu điểm: + Không mất nhiều chi phí cho việc thành lập kênh. + Khả năng phân phối hàng hoá rộng hơn. + Tiết kiệm các chi phí tương đối. + Xây dựng mạng lưới phân phối rộng hơn so với tiềm năng. + Tận dụng cơ sơ vật chất sẵn có của người trung gian. + Tận dụng uy tín, lực lượng khách hàng, mối quan hệ hiện có của người trung gian. Nhược điểm: + Thông tin thu thập chậm, có thể sai lệch. + Khả năng nghiên cứu, dự đoán thị trường thấp. + Phải chia sẻ lợi nhuận. + Không giám sát được hoạt động của người trung gian. Căn cứ vào ưu nhược điểm của từng loại kênh phân phối, tình hình thị trường và đặc điểm hàng hoá của mình mà doanh nghiệp ra quyết lựa chọn loại kênh nào hoặc là sử dụng kết hợp với nhau. 2.5.Các dịch vụ kèm theo. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính cạnh tranh cao như hiện nay, vai trò của các dịch vụ kèm theo hàng hoá ngày càng quan trọng. Nó bao gồm các hoạt động trong và sau bán hàng như vận chuyển, bao gói, lắp đặt, bảo dưỡng, bảo hành, tư vấn... Cải tiến dịch vụ cũng chính là nâng cao chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó phát triển hoạt động dịch vụ là rất cần thiết, nó đáp ứng mục tiêu phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra sự tín nhiệm sự gắn bó của khách hàng đối với doanh nghiệp đồng thời giữ gìn uy tín của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp có thể thu hút được khách hàng tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá của mình trên thị trường. 3.Vai trò của việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây ở nước ta, hầu như không tồn tại phạm trù cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đều được tiến hành theo kế hoạch, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có khách hàng tìm đến doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách Nhà nước, ngược lại thì được Nhà nước bù lỗ. Do vậy, doanh nghiệp vẫn tồn tại mà không bị phá sản nhưng không tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Khi chuyển sang cơ chế thị trường thì vấn đề cạnh tranh xuất hiện và nó không chỉ có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực cho các doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa lớn đối với người tiêu dùng và cả tổng thể nền kinh tế quốc dân. Đối với doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường để xác định được nhu cầu thị trường từ đó ra các quyết định sản xuất kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải nâng cao các hoạt động dịch vụ cũng như tăng cường công tác quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành...Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân... từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn. Đối với người tiêu dùng: Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được quan tâm nhiều hơn. Đó chính là những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế: - Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc quyền, bất hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh. - Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng xâu sắc. - Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển , làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà cạnh tranh đem lại, thì còn có những mặt tiêu cực của nó như: - Tạo ra sự phân hoá giàu nghèo. - Cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới những hậu quả tiêu cực như làm phát sinh hàng giả, hàng nhập lậu gây rối loạn thị trường làm thiêt hại cho người tiêu dùng và những doanh nghiệp làm ăn chính đáng. - Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp vì lợi ích trước mắt mà không giành chi phí cho việc bảo vệ môi trường như xử lý chất thải gây ô nhiễm cũng như các vấn đề xã hội khác. Như vậy vấn đề đặt ra là làm thế nài để phát huy vai trò tích cực và hạn chế các tiêu cực của cạnh tranh. Để giải quyết được vấn đề này thì vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng. 4.Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 4.1.Chỉ tiêu định lượng. - Chỉ tiêu thị phần: ( T ) Doanh thu(lượng bán) của doanh nghiệp T = ----------------------------------------------------- ( %) Tổng doanh thu(lượng bán) trên thị trường Thị phần của hàng hoá của doanh nghiệp là phần trăm về số lượng hoặc giá trị của hàng hoá của doanh nghiệp đã bán ra so với tổng số lượng hoặc tổng giá trị của tất cả các hàng hoá cùng loại đã bán trên thị trường. Chỉ tiêu này phản ánh tình hình chiếm lĩnh và khả năng chi phối thị trường của hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ tiêu này khó xác định vì khó biết chính xác được hết tình hình kinh doanh của tất cả các đối thủ. - Chỉ tiêu so thị phần với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất: ( Tct ) Doanh thu(lượng bán) của doanh nghiệp Tct = --------------------------------------------------------------------( % ) Doanh thu(lượng bán) của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất Chỉ tiêu này cho thấy thực tế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Đây là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính hơn so với chỉ tiêu trên do các đối thủ cạnh tranh mạnh thường có nhiều thông tin hơn. Ngoài ra còn có thể đo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách lấy thị phần năm nghiên cứu trừ đi thị phần của năm trước đó. Nếu kết quả này dương tức là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đã tăng lên, còn kết quả âm thì ngược lại. 4.2.Chỉ tiêu định tính. Đó là uy tín của doanh nghiệp và sự đánh giá của khách hàng đối với các nhãn hiệu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có uy tín cao thì các nhãn hiệu sản phẩm của nó cũng được khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao và do đó các sản phẩm của doanh nghiệp cũng có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường. III / Hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh. 1.Nghiên cứu thị trường, xác định đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi mới bắt đầu hoạt động kinh doanh hoặc để thâm nhập vào thị trường mới thì nghiên cứu thị trường luôn là công việc quan trọng đối với mỗi nhà kinh doanh. Bởi vì thị trường là nơi mà họ sẽ tiến hành các hoạt động kinh doanh trên đó. Nghiên cứu thị trường giúp các doanh nghiệp nắm được các đặc điểm của thị trường như: khách hàng và nhu cầu của khách hàng; các yếu tố về kinh tế về văn hoá, chính trị luật pháp... Mục đích của việc nghiên cứu là dự đoán được các xu hướng biến động của thị trường, xác định được các cơ hội cũng như các nguy cơ có thể có từ thị trường. Căn cứ vào đó, doanh nghiệp đề ra các quyết định kinh doanh của mình như lựa chọn thị trường mục tiêu, thực hiện các hoạt động marketing... Một trong những nội dung của việc nghiên cứu thị trường là việc xác định được và phân tích các đối thủ cạnh tranh đối với doanh nghiệp. Nội dung của công tác này là phải biết được: - Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn. - Số lượng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Xác định đâu là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, đối thủ cạnh tranh chính của doanh nghiệp. - Các điểm mạnh, yếu của từng đối thủ. - Chiến lược hiện tại của đối thủ, khả năng đối thủ chuyển dịch và đổi hướng chiến lược của họ. - Vị trí của đối thủ trong ngành và thái độ của đối thủ đối với vị trí hiện tại của họ. Điều gì các đối thủ muốn đạt tới trong tương lai. - Các đối thủ sẽ phản ứng và hành động như thế nào trước chiến lược cũng như các chính sách, giải pháp mà doanh nghiệp sẽ đưa ra. 2.Nghiên cứu tiềm năng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp là những khả năng cạnh tranh tiềm ẩn mà doanh nghiệp chưa tận dụng hết và có thể khai thác được trong tương lai. Nghiên cứu tiềm năng và khả năng cạnh tranh trước hết là phân tích thực trạng tình hình cạnh tranh của doanh nghiệp. Đâu là mặt mạnh, đâu là mặt yếu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã làm được những gì để phát huy những điểm mạnh của mình trong cạnh tranh và những nhân tố nào, những vướng mắc nào làm hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần làm gì để duy trì và phát triển những lợi thế cạnh tranh đang có. Tiếp theo, doanh nghiệp phải tìm hiểu xem những nhân tố nào cần phát huy để nâng cao khả năng cạnh tranh trong tương lai. Đó có thể là các yếu tố thuộc về doanh nghiệp mà cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh doanh. 3.Xác định mục tiêu cạnh tranh của doanh nghiệp. Mục tiêu là kết quả mong muốn cuối cùng của các cá nhân, nhóm hay toàn bộ tổ chức. Mục tiêu chỉ ra phương hướng cho tất cả các quyết định quản trị và hình thành nên những tiêu chuẩn đo lường cho việc thực hiện trong thực tế. Vì vậy, sau khi nghiên cứu tiềm năng và khả năng cạnh tranh của mình thì việc đề ra mục tiêu cạnh tranh là rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp vì nó là xuất phát điểm, là nền tảng cho việc lập các kế hoạch các chiến lược cạnh tranh sau này. 3.1.Các loại mục tiêu cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu xét theo tính chất cụ thể của mục tiêu thì chia thành: - Mục tiêu tổng quát: mang tính chất khái quát, đảm bảo sự phát triển chung của doanh nghiệp như tồn tại và phát triển; tối đa hoá lợi nhuận... - Mục tiêu cụ thể: mô tả các kết quả cụ thể mà doanh nghiệp phải đạt được trong từng thời kỳ cụ thể như khả năng sinh lời, doanh thu, thị phần, chất lượng sản phẩm , hiệu quả... ._.Nếu xét theo thời gian phân thành: - Mục tiêu dài hạn: gắnvới khoảng thời gian dài. Đó thường là các mục tiêu như tối đa hoá lợi nhuận, khả năng tăng trưởng, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường... - Mục tiêu ngắn hạn: mô tả các kết quả doanh nghiệp mong muốn đạt được trong khoảng thời gian ngắn hơn so với thời gian dài hạn. Nếu xét theo phạm vi có: - Mục tiêu cấp doanh nghiệp: bao gồm các mục tiêu tổng quát xét cho toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ cụ thể. - Mục tiêu cấp bộ phận: chỉ bao hàm trong phạm vi từng đơn vị bộ phận. 3.2.Yêu cầu đối với các mục tiêu cạnh tranh. - Tính cụ thể: khi xác định mục tiêu cần chỉ rõ nó liên quan đến những vấn đề gì? giới hạn thời gian thực hiện? kết quả cuối cùng cần đạt?... - Tính khả thi: phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và khả năng của các cá nhân, các bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện các mục tiêu. - Tính nhất quán: các mục tiêu phải thống nhất với nhau, việc hoàn thành mục tiêu này không làm cản trở tới việc thực hiện các mục tiêu khác. 4.Lập các chiến lược cạnh tranh cho doanh nghiệp. 4.1.Căn cứ vào tính chất tập trung của chiến lược. 4.1.1.Chiến lược dẫn đầu về chi phí thấp. Mục tiêu của chiến lược này là sản xuất những sản phẩm (dịch vụ) với chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong ngành. Các giải pháp chủ yếu của chiến lược này là: - Doanh nghiệp có thể lựa chọn mức khác biệt hoá sản phẩm thấp nhưng không quá thấp hơn so với mức của doanh nghiệp theo đuổi chiến lược khác biệt hoá. - Tập trung vào việc cung cấp sản phẩm (dịch vụ) phục vụ khách hàng trung bình trong thị trường đại trà đại chúng. - Chú trọng đến việc phát triển các năng lực đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, hoàn thiện công nghệ, máy móc thiết bị, thay thế nguyên vật liệu rẻ tiền mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm. 4.1.2.Chiến lược khác biệt hoá sản phẩm. Mục tiêu của chiến lược này là đạt lợi thế cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm (dịch vụ) có thể thoả mãn các loại cầu có tính chất độc đáo hoặc nhiều loại cầu của các nhóm khách hàng khác nhau của doanh nghiệp. Các giải pháp chủ yếu của chiến lược này là: - Chọn mức khác biệt hoá sản phẩm cao để đạt được lợi thế cạnh tranh. - Khác biệt hoá sản phẩm ở từng phân đoạn thị trường cụ thể. - Chú trọng phát triển các hoạt động chức năng như nghiên cứu và phát triển, bán hàng và marketing. 4.1.3.Chiến lược trọng tâm hoá. Mục tiêu của chiến lược này là tập trung đáp ứng cầu của một nhóm hữu hạn người tiêu dùng hoặc đoạn thị trường. Các giải pháp chủ yếu của chiến lược này là: - Tuỳ thuộc doanh nghiệp theo đuổi sự khác biệt hoá sản phẩm và hạ thấp chi phí đến mức nào mà sự khác biệt sản phẩm có thể cao hoặc thấp. - Tập trung phục vụ một hoặc vài đoạn thị trường chứ không phải là toàn bộ thị trường (như doanh nghiệp lựa chọn chiến lược dẫn đầu về chi phí) hay phục vụ một số lớn hơn các đoạn (như doanh nghiệp lựa chọn chiến lược khác biệt hoá). - Doanh nghiệp có thể phát triển bất kỳ một năng lực đặc biệt nào nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình. 4.2.Các chiến lược cạnh tranh cho từng loại doanh nghiệp. 4.2.1.Các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường. Trường hợp doanh nghiệp chọn mục tiêu tăng trưởng nhanh và chiến lược tập trung. Khi đó chiến lược cạnh tranh phải nhằm vào quy mô thị trường và tăng thị phần của doanh nghiệp bằng nhiều cách như thu hút khách hàng, khác biệt hoá và tìm công dụng mới của sản phẩm. Trường hợp doanh nghiệp chọn mục tiêu tăng trưởng ổn định và chiến lược tập trung. Khi đó có thể lựa chọn các chiến lược chủ yếu sau: - Chiến lược đổi mới: phát triển các loại sản phẩm mới, dịch vụ và cách thức phân phối mới để duy trì vị trí đứng đầu ngành. - Chiến lược củng cố: chủ động bảo toàn sức mạnh trên thị trường dựa vào việc chú trọng giữ mức giá hợp lý, đưa ra sản phẩm với quy mô, hình thức, mẫu mã mới. - Chiến lược đối đầu: đảm bảo khả năng phản ứng nhanh, linh hoạt và trực tiếp trước đối thủ thách thức thông qua “ chiến tranh “ giá cả, khuyến mãi hoặc giành giật đại lý. - Chiến lược quấy nhiễu: cố ý tác động tiêu cực tới người cung ứng hoặc người tiêu thụ để giảm uy tín và hình ảnh của đối thủ cạnh tranh. 4.2.2.Các doanh nghiệp thách thức. Đây có thể là các doanh nghiệp lớn nhưng không phải là số một trên thị trường. Các doanh nghiệp nên đặt mục tiêu tăng trưởng nhanh ở cấp doanh nghiệp và chiến lược tập trung ở cấp bộ phận doanh nghiệp nhằm giành thêm thị phần. Có năm chiến lược marketing quan trọng nhất là: - Giữ giá ở mức thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp phải theo đuổi các giải pháp giảm thấp chi phí sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. - Đổi mới sản phẩm hoặc kích thích cầu mới. - Cải thiện dịch vụ nhất là giao hàng nhanh hơn đến tận tay khách hàng. - Hoàn thiện mạng lưới phân phối, mạng lưới bán hàng. - Tăng cường và cải tiến công tác quảng cáo, khuyến mãi. 4.2.3.Các doanh nghiệp theo sau. Là các doanh nghiệp có vị thế trung bình trên thị trường, thường không thách thức với các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường. Đối với các doanh nghiệp này, chìa khoá thành công là chọn các khâu trong công tác marketing mang lại lợi nhuận mà không gây ra sự phản kháng cạnh tranh dữ dội. 4.2.4.Các doanh nghiệp đang tìm chỗ đứng trên thị trường. Là các doanh nghiệp chưa xác định được vị trí an toàn, đang tìm cách khai thác các vị trí nhỏ mà các doanh nghiệp lớn bỏ qua hoặc không chú ý.Tập trung phát triển vào viêc chuyên môn hoá theo đặc điểm khách hàng, theo địa lý, mặt hàng, chất lượng hàng hoá... 5.Tổ chức thực hiện các chiến lược cạnh tranh. Tổ chức thực hiện chiến lược là một giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo sự thành công của toàn bộ các quá trình trước đó. Xây dựng chiến lược cạnh tranh đúng đắn, phù hợp với môi trường kinh doanh là hết sức quan trọng, nhưng triển khai thực hiện nó như thế nào cũng có ý nghĩa quan trọng không kém. Quá trình tổ chức thực hiện chiến lược cần tiến hành các hoạt động chủ yếu sau: - Thiết lập các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh ngắn hạn hơn. - Thay đổi, điều chỉnh cơ cấu tổ chức hiện tại (nếu cần) theo các mục tiêu chiến lược, xác định nhiệm vụ và cơ chế phối hợp của các bộ phận. - Phân phối các nguồn lực. - Hoạch định và thực thi các chính sách kinh doanh. - Quản trị sự thay đổi, thích nghi giữa sản xuất và điều hành. IV / Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.Các nhân tố vĩ mô. 1.1.Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế bao bồm các yếu tố ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng. Đó là các yếu tố như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập bình quân của người dân, tỷ lệ lạm phát, lãi suất ngân hàng... Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế tác động đến sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng, mà nhu cầu của người tiêu dùng lại là yếu tố chi phối việc doanh nghiệp sẽ sản xuất, kinh doanh hàng hoá gì ? dịch vụ gì? Vì vậy mà các yếu tố thuộc môi trường kinh tế cũng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một quốc gia có nền kinh tế càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người càng cao thì khả năng chi tiêu và các đòi hỏi về chất lượng hàng hoá dịch vụ của người tiêu dùng cũng càng cao. Khi đó doanh nghiệp nào cung cấp được các hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao, thoả mãn tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn trên thị trường. 1.2.Môi trường chính trị. Môi trường chính trị bao gồm hệ thống luật pháp và các chính sách của Nhà nước. Nó phản ánh sự tác động can thiệp của các chủ thể quản lý vĩ mô tới hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của doanh nghiệp. Hệ thống luật pháp và các chính sách của Nhà nước có tác động lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh và cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là: Các qui định về chất lượng sản phẩm, qui định về bảo vệ môi trường trong sản xuất, qui định về thuế, qui định về giá, các chính sách bảo hộ. Các qui định về cạnh tranh như: trong quảng cáo không được nói xấu sản phẩm hay nhãn hiệu của đối thủ cạnh tranh, biển quảng cáo không được đè lên biển hiệu của đối thủ...; Với những công ty 100% vốn nước ngoài như công ty Electrolux Việt nam thì các luật pháp chính sách của Nhà nước Việt nam như luật đầu tư nước ngoài, luật thuế xuất nhập khẩu, chính sách phát triển các thành phần kinh tế có ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. 1.3.Các yếu tố thuộc môi trường văn hoá. Đó là các yếu tố như tập quán, truyền thống, các chuẩn mực hành vi, thói quen tiêu dùng của người dân... Văn hoá là vấn đề khó nhận ra và hiểu thấu đáo, mặc dù nó tồn tại khắp nơi và thường xuyên tới hoạt động kinh doanh và cả khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp hoạt động ở thị trường nước ngoài. Văn hoá ảnh hưởng tới sở thích, tới phong cách sống, tới quan niệm thẩm mỹ của người tiêu dùng. Một sản phẩm có thể được tiêu thụ rất tốt tại thị trường này nhưng khi bán ở thị trường khác thì có thể khả năng cạnh tranh lại rất kém do nó không phù hợp với đặc tính văn hoá của thị trường đó. Có thể lấy ví dụ: Một số hãng máy giặt của châu âu khi thâm nhập thị trường Nhật bản, các sản phẩm của họ do độ ồn khi giặt hơi cao nên lượng tiêu thụ rất ít. Nguyên nhân là do các ngôi nhà truyền thống của người Nhật sử dụng các vách ngăn bằng giấy nên không chịu độ ồn, nhưng đặc điểm này lại không được các nhà sản xuất châu âu chú ý. Ngay sau khi cải tiến làm giảm độ ồn đi thì mức tiêu thụ các sản phẩm của họ tốt hơn trước rất nhiều. 1.4.Môi trường khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển tạo ra những công nghệ mới, những nguyên vật liệu mới giúp cho các doanh nghiệp chế tạo được các sản phẩm có tính năng, công dụng và chất lượng tốt hơn, đồng thời nó cũng có thể hạ được chi phí để làm ra các sản phẩm. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, doanh nghiệp nào biết chú trọng vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá của nó so với các sản phẩm khác trên thị trường sẽ được nâng cao lên rất nhiều. 2.Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp. 2.1.Yếu tố con người. Nhân lực là yếu tố rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp , có thể chia nó thành các cấp: quản trị viên cấp cao, quản trị viên cấp trung gian và đội ngũ công nhân. Các quản trị viên có ảnh hưởng lớn đến các quyết định quản lý của doanh nghiệp. Nếu họ có trình độ quản ký cao, nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, khả năng đánh giá và có mối quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có khả năng cạnh tranh lớn. Đội ngũ công nhân ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố về năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của họ... bởi vì các yếu tố này ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành cũng như tạo thêm tính mới lạ, độc đáo của sản phẩm. 2.2.Khả năng tổ chức quản lý. Khả năng tổ chức được thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và nề nếp hoạt động của doanh nghiệp. Nề nếp tổ chức định hướng cho phần lớn công việc trong doanh nghiệp, nó ảnh hưởng tới phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị. Nề nếp đó có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạch định và thực hiện chiến lược hoặc có thể là ưu điểm thúc đẩy các hoạt động đó. Các công ty có nề nếp mạnh, tích cực sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn so với các công ty có nề nếp yếu kém và tiêu cực. Thực chất nề nếp của doanh nghiệp là cơ chế tương tác với môi trường. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xây dựng được một nề nếp tốt, khuyến khích nhân viên tiếp thu được các chuẩn mực đạo đức và thái độ tích cực. Nếu nề nếp tạo ra được tính linh hoạt và khuyến khích sự tập trung chú ý đến các điều kiện bên ngoài thì nó sẽ tăng khả năng của công ty thích nghi được với các biến đổi của môi trường. Một trong bổn phận chính của các nhà quản trị là phải hình thành được các giá trị phẩm chất của tổ chức bằng cách hướng sự lưu tâm chú ý của nhân viên vào những điều quan trọng. 2.3.Nguồn lực về tài chính. Khả năng tài chính khẳng định sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô nguồn tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như hệ số thu hồi vốn, khả năng thanh toán... của nó. Nếu như một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, đồng thời tăng khả năng đầu tư hợp tác liên doanh liên kết. Tình hình sử dụng vốn sẽ quyết định chi phí về vốn so với đối thủ cạnh tranh. 2.4.Nguồn lực vật chất kỹ thuật. Nguồn lực vật chất kỹ thuật thể hiện ở: - Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện đại của doanh nghiệp và khả năng có được công nghệ tiên tiến. - Quy mô và năng lực sản xuất: Nếu một doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất lớn thì sẽ có lợi thế hơn nhiều các doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất nhỏ. Vì quy mô và năng lực sản xuất lớn có thể làm ra sản phẩm với khối lượng lớn, nhờ đó hạ được giá thành sản phẩm, đông thời doanh nghiệp có nhiều cơ hội để tiếp xúc với khách hàng hơn, nên dễ nắm bắt và thoả mãn nhu cầu của khách hàng. - Nguồn cung cấp vật tư, nguyên vật liệu: Nếu doanh nghiệp không có nguồn cung cấp tin cậy đều đặn sẽ ảnh hưởng lớn đến việc duy trì sản xuất liên tục của họ, mặt khác nó còn ảnh hưởng đến chi phí sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp. Phần ii Thực trạng cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của công ty Electrolux Việt nam I / Giới thiệu về công ty. 1. Lịch sử hình thành. * Tập đoàn Electrolux Electrolux là nhà sản xuất đồ dùng dẫn đầu thế giới và là một trong những tập đoàn công nghiệp lớn nhất thế giới với khoảng 100.000 nhân viên. Hiện tại, tập đoàn có nhà máy sản xuất và lắp ráp ở hơn 60 quốc gia và bán sản phẩm vào 160 quốc gia trên thế giới. Electrolux là một trong những tập đoàn kinh tế hàng đầu của Thuỵ điển, trong đó Electrolux là một thương hiệu nổi tiếng với những sản phẩm điện gia dụng có thị phần lớn nhất tại 16 nước về máy điều hoà, 11 nước về máy giặt, 8 nước về tủ lạnh. Năm 2001 doanh số của toàn tập đoàn đạt 126 tỷ euro, tuy nhiên doanh số tại Thuỵ điển chỉ bằng 5% so với tổng doanh số. Điều này nói lên rằng Electrolux thực sự là một công ty quốc tế. Hàng năm, tập đoàn sản xuất trên 55 triệu đơn vị sản phẩm thuộc khoảng 20 chủng loại mặt hàng. Tất cả những sản phẩm này đã và đang làm cho những công việc hàng ngày trở nên dễ dàng, thoải mái hơn và thậm chí là vui vẻ. Những sản phẩm đó là: Tủ lạnh, tủ đông, điều hoà nhiệt độ, máy giặt, máy sấy,lò vi sóng, hút bụi, hút mùi, bếp ga, máy cắt cỏ, máy lọc nước, cưa ... Hơn 20 năm qua Electrolux đã mua và sát nhập vào tập đoàn hơn 400 công ty. Hiện nay, các sản phẩm của tập đoàn được bán dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau. Chẳng hạn như Electrolux, AEG và Zanussi là các thương hiệu nổi tiếng về đồ gia dụng được bán chủ yếu ở Bắc, Trung và Nam Âu. Arthur Martin, Flymo, Husqvarna, Partner,Volta... là những cái tên của các sản phẩm khác mà bạn có thể bắt gặp ở châu Âu. Tại Mỹ, tập đoàn được biết đến dưới các tên hiệu Frigidaire, Gibson, Kelvinator, Tappan và White Westinghouse. Eureka, Poulan cũng là thương hiệu của tập đoàn. Không ngừng cải tiến, đổi mới công nghệ và sản phẩm, phát triển tổ chức và hợp tác với các nước trên thế giới. Đó chính là định hướng mà tập đoàn Electrolux luôn luôn mong muốn để ngày càng nâng cao vị thế của một tập đoàn kinh tế hùng mạnh hàng đầu thế giới. Và điều đó cũng là lý do mà công ty Electrolux.Việt nam được thành lập. *Công ty Electrolux.Việt nam . Năm 1986, Việt nam thực hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, mở rộng hợp tác và buôn bán với các nước trên thế giới. Sau một thời gian đổi mới, nền kinh tế Việt nam đã có những chuyển biến rõ rệt: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân và chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Việt nam trở thành một thị trường hấp dẫn và đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư và hoạt động kinh doanh. Năm 1993, Electrolux bắt đầu thâm nhập vào thị trường Việt nam dưới hình thức mở văn phòng đại diện tại 48 Tràng thi Hà nội. Nhiệm vụ của văn phòng này là thiết lập quan hệ, giới thiệu sản phẩm, đồng thời nghiên cứu và dự báo về thị trường Việt nam. Lúc này, việc bán hàng hoá vào thị trường Việt nam được gián tiếp thông qua công ty TNHH Quỳnh Huơng có trụ sở tại 36 Tràng thi Hà Nội. Chỉ ít năm sau khi có mặt tại thị trườngViệt nam, nhãn hiệu Elctrolux đã được người tiêu dùng Việt nam mến mộ và được nói đến như là những sản phẩm có chất lượng cao, kiểu dáng sang trọng và thiết kế độc đáo. Đến cuối năm 1998, công ty Electrolux.Việt nam chính thức ra đời với 100% vốn đầu tư nước ngoài, giấy phép thành lập số 140 / GP -HN cấp ngày 14 / 2 / 1998, tổng vốn dầu tư 750.000 USD và vốn pháp định là 460.000 USD. Công ty chính đặt tại 133-135 phố Thái hà Hà nội, ngoài ra công ty có một chi nhánh duy nhất tại Quận 4 thành phố Hồ Chí Minh và hơn 400 đại lý trên toàn quốc. Tại Việt nam, Electrolux không đặt nhà máy sản xuất mà chỉ nhập khẩu hàng từ các nhà máy của tập đoàn tại Italia, Thái lan, Hàn quốc và Trung quốc... rồi bán ra thị trường dưới các nhãn hiệu là Electrolux, Eureka và Zanussi thông qua các đại lý của công ty. Tuân thủ tuyệt đối theo phương châm kinh doanh khách hàng là yếu tố đầu tiên.Bắt đầu từ khi mới đi vào kinh doanh đến nay, Electrolux Việt nam không ngừng mở rộng thị trường, liên tiếp đưa ra các chương trình khuyến mại, bảo hành sản phẩm và phát triển lâu dài hệ thống đại lý trên toàn quốc. Electrolux hiện đang tiếp tục mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm và dịch vụ khách hàng nhằm đưa tới cho người tiêu dùng những dịch vụ hoàn hảo với chất lượng tốt nhất. 2. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Công ty ElectroluxViệt nam được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng, tổng giám đốc và giám đốc trực tiếp điều hành mọi hoạt động của công ty. Toàn bộ công ty chính tại Hà nội có 52 người, trong đó có 48 nhân viên thuộc 8 phòng ban, showroom và kho. Sau đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty. Cơ cấu tổ chức công ty Electrolux Việt nam Tổng giám đốc Giám đốc Phòng Bán Hàng Phòng Tổng Hợp Phòng Kế Toán Phòng Nhân Sự Phòng Kỹ Thuật TT chăm sóc KH Phòng Quản lý ĐLCT Phòng Market -ing * Chức năng nhiệm vụ của ban giám đốc công ty Ban giám đốc công ty gồm có 4 người Tổng Giám Đốc - Trực tiếp điều hành công ty chính tại Hà nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh - Hàng năm báo cáo kết quả kinh doanh, tình hình thị trường đồng thời đề xuất các phương hướng kinh doanh về trụ sở chính của tập đoàn đặt tại Stockholm Thuỵ điển. Giám Đốc - Điều hành mọi hoạt động của công ty - Phân tích, tổng hợp các thông tin về thị trường về tình hình kinh doanh rồi đưa lên tổng giám đốc. - Cùng phó giám đốc 1 phụ trách phòng bán hàng của công ty. Phó Giám Đốc 1 - Phụ trách phòng bán hàng - Theo dõi tình hình hoạt động của các đại lý tại Hà nội - Tổng kết doanh số bán hàng của công ty sau từng tháng từng năm Phó Giám Đốc 2 - Phụ trách phòng kế toán - Cuối kỳ kinh doanh, lập báo cáo kết quả kinh doanh gửi lên giám đốc công ty. * Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban Phòng Tổng Hợp Đảm nhiệm công tác tổng hợp trong công ty gồm có: - Sắp xếp lịch công tác hàng tuần, hàng tháng cho lãnh đạo và các nhân viên của công ty.Trên cơ sở kế hoạch vạch ra,tiến hành theo dõi, kiểm tra phối hợp công việc giữa các phòng ban nhằm thực hiện đúng thời gian và tiến độ. - Theo dõi tình hình làm việc của các nhân viên trong công ty, từ đó có các hình thức khen thưởng kỷ luật hợp lý. - Phụ trách vấn đề mua sắm, cung cấp các trang thiết bị cho công ty, tổ chức chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho các cuộc hội thảo hội nghị khách hàng... - Xây dựng quy chế trả lương, tiền thưởng, phụ cấp... - Quản lý các khâu lễ tân, bảo vệ, quét dọn vệ sinh công ty, chuẩn bị ăn uống cho cán bộ- nhân viên của công ty trong thời gian làm việc. Phòng Kế Toán - Thực hiện các công tác hạch toán kế toán như kế toán bán hàng, tiền lương,các khoản chi phí, tình hình hàng hoá nhập xuất và các nghiệp vụ khác có liên quan - Quản lý các nghiệp vụ liên quan đến nhập khẩu hàng hoá như: mở LC ,thanh toán cho các ngân hàng, kiểm tra vận đơn... - Thu tiền hàng từ các đại lý, viết lệnh xuất hàng rồi chuyển xuống kho. Trong những dịp đặc biệt, khi mà nhu cầu lấy hàng của các đại lý quá lớn nhưng hàng lại không về kịp để đáp ứng thì phòng kế toán có trách nhiệm tính toán rồi ra quyết định phân phối một lượng hàng cụ thể cho từng đại lý. Phòng Bán Hàng - Theo dõi tình hình bán hàng của công ty - Ra ngoài thị trường thu thập các thông tin liên quan đến những biến động của thị trường như về giá cả, nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, các thông tin về đối thủ cạnh tranh, về các chính sách thương mại của nhà nước... - Khi công ty có những chính sách mới như các chương trình khuyến mại, giảm giá... phòng bán hàng trực tiếp đến phổ biến cho các đại lý trong khu vực Hà nội, đồng thời thường xuyên thăm hỏi tạo dựng mối quan hệ tốt với các đại lý. Phòng Marketing - Tổng hợp các thông tin mà phòng bán hàng đã thu thập, từ đó xác định các khuynh hướng của thị trường, đề ra các kế hoạch kinh doanh rồi trình lên ban giám đốc . - Xây dựng các chương trình Marketing mix, xác định ngân sách đồng thời phối hợp nguồn lực của các phòng ban để thực hiện thành công các kế hoạch đã đề ra. Phòng Nhân Sự - Phụ trách công tác tuyển mộ, lựa chọn nguồn nhân lực cho công ty - Sắp xếp vị trí làm việc cho các nhân viên tại các phòng ban thích hợp. Khi công ty có các dự án cần triển khai, phòng nhân sự sẽ bố trí nhân lực để thực hiện dự án. Trung Tâm Chăm Sóc Khách Hàng + Showroom - Phỏng vấn khách hàng, thu thập các thông tin phản hồi từ khách hàng. Thăm dò xem khách hàng có hài lòng với chất lượng sản phẩm của công ty hay không, thái độ đối với các dịch vụ của công ty như thế nào , còn có điều gì không vừa ý... - Giải đáp các thắc mắc của khách hàng về những sản phẩm và dịch vụ của công ty. - Tiếp nhận các thông tin liên quan đến sửa chữa, bảo hành sản phẩm của công ty, vào sổ cái rồi chuyển cho phòng kỹ thuật. - Giới thiệu về sản phẩm, hướng dẫn sử dụng sản phẩm, giới thiệu về công ty, về các chương trình khuyến mại...cho khách hàng. Bán hàng, lên lịch lắp đặt rồi chuyển sang phòng kỹ thuật. Phòng Kỹ Thuật - Lắp đặt cho khách hàng theo lịch lắp đặt từ trung tâm chăm sóc khách hàng chuyển sang. - Lên lịch sửa chữa và cử nhân viên kỹ thuật đến bảo hành sản phẩm cho khách hàng. Phòng Phụ Trách Đại Lý Các Tỉnh - Theo dõi hoạt động bán hàng của các đại lý ở các tỉnh.Thu thập thông tin từ các đại lý về tình hình thị trường ở các tỉnh sau đó tổng hợp lại rồi chuyển sang phòng Marketing. - Phổ biến các kế hoạch, chương trình kinh doanh mới mà công ty áp sẽ áp dụng. II/ Phân tích thị trường cạnh tranh và tình hình kinh doanh của công ty. 1.Đặc điểm thị trường kinh doanh. 1.1.Thị trường kinh doanh. Hoạt động của công ty Electrolux Việt nam là nhập khẩu hàng rồi bán ra thị trường Việt nam. Do đó thị trường kinh doanh của công ty chỉ là thị trường trong nước, và trọng tâm là tại các thành phố lớn. Sau đây là một số đặc điểm đáng chú ý của thị trường này. 1.1.1.Khách hàng. Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, có khách hàng doanh nghiệp mới có thể bán được hàng hoá của mình. Về phần công ty, khách hàng tập trung vào hai loại chính là: * Các đại lý trung gian mua hàng hoá của công ty rồi bán cho người tiêu dùng hoặc bán lại cho các đại lý khác. Đó là những hộ kinh doanh cá thể, các công ty tư nhân được công ty nhận làm đại lý bán hàng cho mình. * Khách hàng là người tiêu dùng. Đó là những hộ gia đình có thu nhập thuộc loại khá trở lên, bởi vì hàng hoá của công ty là những sản phẩm có chất lượng rất cao và đều là hàng nhập khẩu nên phải chịu một mức thuế suất lớn, do đó hầu hết có giá khá cao, những người có thu nhập trung bình thường ít khi chọn mua sản phẩm của công ty. 1.1.2.Các đặc điểm về văn hoá, kinh tế, an ninh chính trị. Đối với lĩnh vực kinh doanh của công ty, khi thâm nhập vào thị trường Việt nam thì các xung đột về văn hoá là gần như không có, tuy nhiên có một đặc điểm đáng chú ý đó là: Tập quán tiêu dùng giữa người miền Bắc và người miền Nam Việt nam rất khác nhau. Trong khi người miền Bắc thường tiết kiệm, dành dụm tiền bạc để dùng vào các việc như xây nhà, mua sắm đồ dùng xa xỉ như điều hoà, máy giặt dàn máy nghe nhạc...thì người miền Nam lại không có thói quen để dành tiền như vậy. Đó là lý do tại sao mà Electrolux Việt nam lại đặt công ty chính tại Hà nội chứ không phải ở thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù thành phố Hồ Chí Minh có dân cư đông hơn thu nhập cao hơn, khả năng tiêu dùng cao hơn Hà nội. Trong những năm gần đây, Việt nam luôn có mặt trong số những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên thế giới. Năm 2002, tăng trưởng kinh tế đạt 7.7% , thu nhập bình quân đầu người một tháng là 42 USD, số người có thu nhập khá và cao tăng 14% so với năm 2000. Tuy nhiên ở Việt nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, đặc biệt là các vùng nông thôn. Cùng với sự phát triển về kinh tế, cuộc sống của người dân ngày một được nâng cao, tình hình trật tự an ninh xã hội theo đó cũng ngày càng được ổn định.Trong khi thế giới đang hoang mang bởi chiến tranh và nạn khủng bố đe doạ thì đầu năm 2003 vừa qua, Việt nam lần thứ hai liên tiếp được bầu là quốc gia an toàn nhất khu vực Châu á Thái bình dương. Điều đó cùng với sự ổn định về chính trị, nền kinh tế tăng trưởng cao và việc chính phủ Việt nam đang có những chính sách mới ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài khiến Việt nam đang trở thành một thị trường đầu tư rất hấp dẫn trong khu vực và trên thế giới. 1.2.Mặt hàng kinh doanh. Trên thị trường, mặt hàng kinh doanh của công ty ElectroluxViệt nam là các sản phẩm điện lạnh và điện gia dụng. Đó là: * Máy giặt. Trên thị trường có hai loại máy giặt là loại cửa đứng và loại cửa ngang, còn về phần mình thì Electrolux chỉ sản xuất loại máy cửa ngang. Hiện tại, công ty đang có bán 8 model được nhập từ Italia đó là: EW 558/559/658/ 659/859/1079/1289 và EW 2408, với tốc độ vắt mỗi loại khác nhau từ 500 - 1400(vòng/phút), công suất giặt từ 5 - 6.5 kg.Giá bán thấp nhất là loại EW 558: 7.993.000 VND và cao nhất là loại 1289 : 15.587.000 VND. * Tủ lạnh. Là loại tủ lạnh làm lạnh bằng quạt gió, được nhập từ Thái lan và Hàn quốc. Hiện tại công ty có 5 model là: - ER 1590 : dung tích 147 lít, giá 4.059.000 VND. Màu trắng. - ER 2099 : dung tích 219 lít, giá 6.791.000 VND. Màu ghi/ bạc. - ER 2399 : dung tích 239 lít, giá 7.272.000 VND. Màu ghi. - ER 3198 : dung tích 310 lít, giá 8.145.000 VND. Màu trắng/bạc/kem. - ER 7198 : dung tích 710 lít, giá 29.373.000 VND. Màu trắng. * Máy hút bụi. Máy hút bụi của công ty là loại máy gia đình, hiện có 4 model là: -Z 1020: công suất 1300W, phin lọc micro, giá 1.292.000 VND. -Z 2020: công suất 1600W, phin lọc O2, giá 2.299.000 VND. -Z 5628: công suất 1600W, phin lọc O2, giá 3.460.000 VND. -Z 5830: công suất 1300W, phin lọc O2, không dùng túi bụi, giá 3.945.000. * Lò vi sóng. Hiện công ty đang có 4 model, trong đó 3 model dùng vi sóng không là: EMS 1900/1920/ 2820, dung tích 19 và 28l, công suất vi sóng 900W, giá bán lần lượt là 2.198.000; 2.469.000 và 2.995.000 VND. Riêng model EMS 2475 dung tích 24l có cả nướng công suất 1300W, giá 3.699.000 VND. * Bếp ga đứng và mặt bếp âm. -Bếp ga đứng: là loại bếp dạng hình tủ, cao 85 cm, rộng và sâu 60 cm. Phía trên nóc là bếp ga với 3-4 mặt nấu còn buồng dưới là lò nướng. Hiện chỉ có 2 model là EK 6714 giá 8.899.000 và EK 6735 giá 9.889.000 VND. -Mặt bếp âm: là loại bếp ga được thiết kế nằm chìm trên thành nhà bếp hoặc các loại tủ bếp. Hiện có 4 model nhập từ Italia là EHG 671W/671X, EHM 681W/681X giá bán từ 2.567.000 đến 3.775.000 VND và hai model nhập từ Singapore là EHG 972 GK /973 GK với giá là 2.597.000 và 2.914.000 VND. * Máy hút mùi. Là loại máy hình hộp dẹt, được gắn trên tường trong nhà bếp, máy có tác dụng khử sạch mùi thức ăn khi nấu nướng. Hiện công ty chỉ có 3 model nhập từ Italia là: EFT 625W /625X/925X với giá tương ứng là 1.911.000 ; 2.299.000 và 2.696.000 VND. * Cây lau nhà bằng hơi nước. Ký hiệu Z 310A, tổng công suất 800W, dung tích nước 350 ml. Máy có tác dụng làm sạch bằng hơi nước: tẩy sạch bụi bẩn, dầu mỡ mà không cần dùng hoá chất. Giá bán 1.468.000 VND. * Máy lọc không khí. Ký hiệu Z 7040, sử dụng phin lọc O2(Hepa H12), giá 4.652.000 VND. * Máy rửa bát. Ký hiệu ESF 6120, năng suất rửa tối đa 12 bộ đồ ăn Châu âu, tự sấy khô bát đĩa sau khi rửa. Giá bán 9.891.000 VND. 1.3. Đối thủ cạnh tranh. Hiện nay trên thị trường hàng điện lạnh, điện gia dụng Việt nam có rất nhiều nhãn hiệu của các hãng khác nhau đang cạnh tranh quyết liệt. Có thể kể ra là : National, Toshiba, Hitachi, Mitsubishi, Sharp, Sanyo, Daewoo, LG, Samsung, Electrolux, Candy, Eurotech, Ariston, Elica ... Về tủ lạnh thì Sanyo, Daewoo và LG là các nhãn hiệu đang chiếm ưu thế trên thị trường do có giá cả phải chăng phù hợp với thu nhập của đại đa số người tiêu dùng Việt nam đồng thời chất lượng cũng khá đảm bảo. National, Mtisubishi, Sharp, Toshiba và Hitachi tuy không chiếm được thị phần lớn nhưng lại là các hãng có những sản phẩm khá cao cấp cạnh tranh lớn với sản phẩm của công ty. Đối với máy giặt, có nhiều nhãn hiệu cạnh tranh với nhau nhất.Tuy nhiên nếu xét riêng loại máy giặt cửa ngang thì chỉ có các sản phẩm nhập khẩu của Candy , Elica , Ariston , Eurotech và mới đây là LG cạnh tranh với sản phẩm của công ty. Dẫn đầu thị trường mặt hàng này vẫn là Sanyo cùng với National và LG với các model cửa trên. Về các mặt hàng gia dụng: lò vi sóng, máy hút bụi, hút mùi, bếp ga âm... do nhu cầu tiêu dùng chưa._.ủ trương quan điểm quản lý kinh tế của Nhà nước ( quan hệ đối ngoại, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách chuyển giao công nghệ, liên doanh liên kết…) Nhờ đó, Công ty sẽ có những chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp với thị trường. 1.2. Phương thức thực hiện Trong quá trình nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin, đối tác kinh doanh, cần chú ý đến những nước, những mặt hàng uy tín và là bạn hàng truyền thống của Công ty để đảm bảo cho hoạt động mua bán được an toàn chính xác, tránh rủi ro, lừa gạt, đồng thời có thể được hưởng những ưu đãi cho họ về giá cả, thời gian và điều kiện thanh toán...Tuy nhiên, không nhất thiết áp dụng một cách máy móc quan hệ với những bạn hàng lớn để tránh cô lập về thông tin. Quá trình nghiên cứu thị trường không tự nó cho ra các quyết định, nó chỉ cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý Marketing chế biến ra các quyết định, giúp cho ban lãnh đạo hiểu rõ được khách hàng trong môi trường kinh doanh biến động. Công tác nghiên cứu cần được triển khai sâu và rộng: + Nghiên cứu nhu cầu khách hàng: Khách hàng của doanh nghiệp là những người có nhu cầu về sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng là người tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. Cầu về sản phẩm là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ nhất định, số cầu vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động tới mức độ và cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành. Thu hút số lượng khách hàng càng đông trở thành mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng bởi lý do đó, nghiên cứu nhu cầu khách hàng giữ tầm quan trọng xuyên suốt quá trình kinh doanh của Công ty là cơ sở để Công ty đưa ra những sản phẩm phù hợp chất lượng cao thoả mãn nhu cầu của khách hàng. + Điều tra khách hàng một mặt biết thêm thông tin, mặt khác khách hàng sẽ cảm thấy ý kiến của họ được tôn trọng. + Nghiên cứu các khách hàng chủ chốt: những khách hàng đóng góp doanh thu lớn cho Công ty. + Nghiên cứu nhóm khách hàng, phân tích giao dịch, phân tích ý kiến phàn nàn của khách hàng. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh và mạng lưới kênh phân phối. Công ty cần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu này để xác định số lượng gia nhập thị trường, chính sách tiêu thụ của đối thủ, thị phần, sự khác biệt hoá sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phục vụ khách hàng, điều kiện thanh toán, từ đó có những phản ứng chủ động trước đối thủ. Hiện nay mạng lưới của Công ty ở khắp tỉnh thành trên cả nước, vậy công tác nghiên cứu sẽ giúp Công ty nắm được nguyên nhân cũng như tìm cách khắc phục, tổ chức lại mạng lưới kênh tiêu thụ cho hợp lý, phát triển kênh phân phối hoạt động hiệu quả như hệ thống các chi nhánh, các cửa hàng… 1.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Công tác nghiên cứu phải được tiến hành lâu dài song song với hoạt động kinh doanh của Công ty, cần những nhà nghiên cứu có năng lực và chuyên nghiệp. Cũng vì thế Công ty nên kết hợp bộ phận nghiên cứu trong nội bộ doanh nghiệp với các chuyên gia tư vấn để có thể phân tích thị trường một cách toàn diện nhất. Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường Công ty cần quan tâm hơn nữa đến bộ phận chức năng làm công tác thị trường giúp họ trở thành một trợ thủ đắc lực để tham mưu cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty phải thực sự đề cao vai trò của công tác này, biến nó trở thành một hoạt động mang tính thường xuyên và có chính sách đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên gia giỏi, chuyên trách nhiệm vụ nghiên cứu và tiếp cận thị trường với chức danh đãi ngộ hợp lý. Ngoài ra, phải không ngừng hoàn thiện công tác Marketing nhanh nhạy, năng động, tuyển chọn kỹ nưỡng các nhân viên Marketing giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm tiếp thị tốt, sáng tạo. 1.4. Hiệu quả của biện pháp Nghiên cứu thị trường tốt sẽ đảm cho Công ty luôn bám sát thị trường của mình, làm nẩy sinh những ý tưởng về sản phẩm mới, giúp cho Công ty có thể định lượng được tiềm năng của thị trường. Từ đó sẽ giúp cho Công ty định ra những chiến lược kinh doanh của mình: Việc bám sát thị trường cho phép phát hiện được những vấn đề như quy mô của toàn thị trường đối với những sản phẩm của Công ty, phần thị trường Công ty hiện có và có thể chiếm lĩnh. Sự hình thành những ý tưởng về sản phẩm mới bao gồm những ý tưởng cải tiến các sản phẩm cũ cũng như những ý tưởng về sản phẩm hoàn toàn mới và điều này sẽ giúp cho Công ty phát huy và duy trì vị thế của mình trên thị trường. Mặt khác việc quản lý bán hàng thường phải giải quyết những vấn đề chuẩn bị địa bàn, định lượng tiềm năng của địa bàn và định mức bán cho nhân viên bán hàng. Do đó, nghiên cứu thị trường giúp cho Công ty trả lời được những câu hỏi đó cũng như hỗ trợ việc dự báo tổng mức bán của Công ty. Như vậy, từ chiến lược đã xác định được Công ty tiến hành lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh sao cho phù hợp với thị trường. Đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. 2. Nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách giảm chi phí 2.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn Như ta đã biết, giá vốn cũng như chi phí cho hoạt động kinh doanh sẽ cấu thành nên giá bán hàng hoá. Trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì muốn hàng hoá được tiêu thụ nhanh trên thị trường thì giá và chất lượng là hai nhân tố quyết định. Cùng một chất lượng hàng hoá như nhau, doanh nghiệp nào có mức giá bán thấp hơn thì sức cạnh tranh sẽ lớn hơn nhiều so với đối thủ khác kinh doanh cùng một lọai mặt hàng. Để có một mức giá cạnh tranh hơn thì doanh nghiệp ngoài việc tìm mua được nguồn hàng chất lượng cao giá rẻ thì phải giảm chi phí sản xuất kinh doanh như: Chi phí mua hàng, chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí vốn, chi phí ngân hàng, chi phí bảo hiểm, chí phí vận chuyển, chi phí lưu kho... Đối với mặt hàng của Công ty Electrolux không phải mặt hàng cao cấp cũng không phải mặt hàng bình thường nên với chính sách định giá bán cao không phải là thủ thuật để giành lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, với mặt hàng này phải định giá thấp mới hấp dẫn người mua. Ta có: Giá bán = Giá mua( bao gồm cả chi phí) + tiền lãi Để tiền lãi giữ nguyên hoặc không tăng lên với giá bán giảm hoặc vẫn giữ nguyên thì buộc giá phải giảm. Điều này phụ thuộc vào chi phí trong quá trình mua. Sở dĩ chi phí mua hàng cao dẫn đến giá bán của Công ty cao hơn giá bán của Tư nhân là do công nhân làm công tác thu mua chưa tốt. Hơn nữa với ý thức tiêu cực là thu mua cho Công ty chứ không phải cho mình nên trả với giá bao nhiêu cũng được, còn với Tư nhân thì vốn của họ bỏ ra nên bao giờ họ cũng mua với giá thấp nhất có thể. Mặt khác do có những nhân viên thu mua lợi dụng công việc này đã gian lận mua hàng và “biển thủ” tiền của Công ty. 2.2.Phương thức thực hiện Để thực hiện giảm chi phí sản xuất kinh doanh tăng khả năng cạnh tranh Công ty cần tiến hành như sau: Trước hết, tiết kiệm chi phí trong hoạt động kinh doanh là giải pháp trực tiếp nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách thực hiện các biện pháp như: + Giảm chi phí lãi vay phải trả Ngân hàng bằng cách quay vòng vốn nhanh, quản lý chặt chẽ công nợ bán hàng luân chuyển. + Giảm lượng hàng hoá tồn kho bằng cách căn cứ vào nhu cầu, chi phí đặt hàng, chi phí bảo quản Công ty phải xác định lượng hàng hoá dự trữ tối ưu để tối thiểu hoá chi phí. + Giảm chi phí vận chuyển bốc xếp, bảo quản và hao hụt hàng hoá, giảm chi phí quản lý kho bãi – quy hoạch kho bãi hợp lý – tiết kiệm diện tích kho chứa: không gây ứ đọng hàng hoá, Nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian và công suất… Thứ hai, tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí tài chính bằng việc sử dụng hiệu quả các thiết bị tại khối văn phòng và sử dụng hợp lý nguồn lao động hiện có. 2.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Trước hết, cần phải triệt tiêu những hành vi như đã nói ở trên bằng cách đưa ra các hình thức nhân viên giỏi, đưa ra biện pháp đãi ngộ hợp pháp, thưởng, tăng lương...và điều này sẽ khuyến khích họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Duy trì mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng truyền thống, có uy tín đối với Công ty, nhưng cũng đồng thời kết hợp tìm hiểu và mở rộng thị trường sang các thị trường mới nhằm mục đích mua được những mặt hàng giá trị cao và giá rẻ để cạnh tranh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới. Cùng với việc giảm chi phí mua hàng thì để giảm chi phí Ngân hàng, chi phí bảo hiểm cần chọn các Ngân hàng làm ăn lâu năm với Công ty. Chi phí vận chuyển cũng chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh của Công ty, chính vì vậy để giảm chi phí kinh doanh của Công ty cần giảm chi phí vận chuyển xuống mức thấp nhất. Giải pháp trong việc giảm chi phí vận chuyển của Công ty là tìm kiếm hãng vận chuyển lớn, có uy tín và phí vận chuyển thấp. Đây có thể là cách tốt nhất để giảm chi phí vận tải, vì nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho nền kinh tế . 2.4. Hiệu quả của biện pháp Chi phí sản xuất kinh doanh giảm sẽ dẫn đến giá bán hàng hoá của Công ty giảm. Giá hàng hoá giảm sẽ thu hút được khách hàng mua nhiều sản phẩm của Công ty. Điều này, làm cho doanh số bán ra của Công ty tăng lên, doanh thu cũng tăng lên. Từ đó cải thiện được vị trí của Công ty trên thị trường, làm cho khả năng cạnh tranh của Công ty tăng lên. 3. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả nhằm tăng cường tiềm lực tài chính của Công ty 3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Tiềm lực tài chính của Công ty có tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi hoạt động đầu tư, mua sắm, dự trữ, lưu kho…cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đếu phụ thuộc vào khả năng tài chính của Công ty. Vốn và tài sản của Công ty là một trong các chỉ tiêu quan trọng thể hiện khả năng tài chính của Công ty, là yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình kinh doanh. Mặt khác, khả năng tài chính của Công ty được đánh giá thông qua: cầu về vốn và khả năng huy động vốn, việc phân bổ vốn (cơ cấu vốn), hiệu quả sử dụng vốn sản xuất – kinh doanh chung ở Công ty và từng bộ phận của Công ty, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp đánh giá vị thế của doanh nghiệp … Do vậy, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng cường tiềm lực tài chính của Công ty. Bên cạnh đó, một điều dễ nhận thấy là hầu hết các Công ty Việt Nam đều lâm vào tình trạng hiếu vốn, điều này làm cho các Công ty giảm sức cạnh tranh so với các Công ty nước ngoài. Chính vì thế, Công ty cần đặc biệt chú ý đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn khác nhau vào hoạt động sản xuất kinh doanh như một giải pháp quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn hiện nay, góp phần tăng khả năng cạnh tranh. 3.2.Phương thức thực hiện Để đảm bảo luôn có đủ lượng vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh với hiệu quả kinh tế cao, rủi ro thấp nhất Công ty phải chủ động tìm kiếm mọi nguồn vốn có thể huy động; phân tích, so sánh rủi ro tín dụng cũng như so sánh chi phí kinh doanh sử dụng vốn từ các nguồn vốn khác nhau để lựa chọn các nguồn vốn huy động theo phương châm đa dạng hoá nguồn cung ứng vốn. Và dưới đây là một số biện pháp nhằm huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để tăng cường tiềm lực tài chính của Công ty : ¯ Vay vốn của các Ngân hàng thương mại: Với phương thức này Công ty có thể vay vốn dưới nhiều hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các Ngân hàng thương mại. ¯ Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp: Biện pháp này có thể được tiến hành dưới hình thức là: Công ty mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm, và ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá cả, số lần và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả. Như thế, Công ty có máy móc thiết bị sử dụng ngay nhưng tiền lại phải chưa trả ngay, số tiền chưa phải trả là số tiền mà Công ty chiếm dụng được từ người cung ứng. ¯ Tín dụng thuê mua: Đây là phương thức giúp cho Công ty sử dụng vốn đúng mục đích, khi Công ty có cầu về sử dụng máy móc thiết bị cụ thể thì đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê mua trong thời gian sử dụng thích hợp. Công ty không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Công ty sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc, thiết bị không đúng yêu cầu hoặc do mua nhầm. Công ty sử dụng có được máy móc thiết bị cần thiết mà không cần phải đầu tư nhiều lần với vốn lớn. Mặt khác Công ty sử dụng máy móc thiết bị có thể giảm được tỉ lệ nợ/ vốn vì tránh phải vay Ngân hàng thương mại. Với phương thức thuê mua này Công ty có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 3.3. Điều kiện để thực hiện Để thực hiện việc huy động vốn cần có những điều kiện sau: ¯ Phải xây dựng kế hoạch huy động vốn phù hợp với thực trạng thị trường và môi trường kinh doanh trong từng thời kỳ. ¯ Tạo niềm tin nơi cung ứng vốn. Uy tín, danh tiếng của Công ty với khách hàng là tài sản vô giá của Công ty không chỉ trên thị trường tiêu thụ mà cả trên thị trường tài chính. ¯ Chứng minh mục đích sử dụng vốn. Công ty phải xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật vững chắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, cho các dự án đầu tư cụ thể cần huy động vốn nói riêng. ¯ Xác định tính hiệu quả của việc sử dụng vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh việc phân tích hiệu quả kinh tế theo các tiêu thức thích hợp phải được tiến hành một cách thường xuyên. Những nguồn được huy động có thể bổ sung những khiếm khuyết cho nhau. Song vấn đề quan trọng đặt ra với Công ty là làm sao có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Muốn vậy, Công ty cần nhanh chóng giải quyết tình trạng bị nợ đọng và chiếm dụng vốn hiện nay như yêu cầu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thanh toán tiền ngay hoặc có thể thế chấp, ký quỹ, ký cược, kiên quyết dừng cấp hàng. Ngoài ra, Công ty còn phải tính toán và xây dựng kế hoạch tài chính rõ ràng cho từng khoản đầu tư và cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty để đảm bảo có vốn hoạt động mà vẫn có thể trả được lãi suất và các khoản nợ. Kế hoạch này phải quán triệt đến từng bộ phận và cán bộ có liên quan để đảm bảo kế hoạch được thực hiện một cách hiệu quả. Đặc biệt trước khi đầu tư vào một hạng mục nào đó Công ty cần suy xét một cách kỹ lưỡng về tầm quan trọng và hiệu quả của nó, tránh hiện tượng đầu tư một cách dàn trải, thiếu đồng bộ mà nên tập trung vào khâu thiếu then chốt, khâu mũi nhọn có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển của Công ty. Đồng thời, Công ty cũng cần phải tìm hiểu đối tượng trước khi đầu tư, nhất là đầu tư vào máy móc thiết bị vì đây là hạng mục có giá trị đầu tư khá lớn và quan trọng, nên lựa chọn đối tác đầu tư đáng tin cậy và có thể đảm bảo được chất lượng cao cho hoạt động đầu tư. 3.4. Hiệu quả của biện pháp Với việc huy động vốn từ các nguồn vốn khác nhau trong đó việc huy động vốn từ tín dụng thương mại sẽ giúp cho Công ty có được lợi thế về giá cả, kỳ hạn trả,…khi thị trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau. Và với phương thức tín dụng này Công ty có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mình. Khi đã có được nguồn vốn rồi thì phải sử dụng làm sao cho có hiệu của mới là quan trọng. Với những cách thức như đã nói trên sẽ tạo điều kiện Công ty sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn phù hợp với yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong từng thời kỳ. Từ đó sẽ giúp cho Công ty có được nguồn vốn ổn định để đầu tư công nghệ kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, chiến thắng trong cạnh tranh. 4. Nâng cao trình độ quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Con người là trung tâm của mọi hoạt động. Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh. Xu thế xây dựng nền kinh tế tri thức đòi hỏi đội ngũ lao động phải có trình độ chuyên môn cao, có năng lực sáng tạo. Vấn đề tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nhằm thường xuyên nâng cao chất lượng cho đội ngũ lao động là nhiệm vụ mà mọi doanh nghiệp phải hết sức quan tâm. Đặc biệt đội ngũ lao động quản trị phải có khả năng hoạch định chiến lược, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, chủ động đối phó với những thay đổi bất thường của môi trường kinh doanh. Hiện nay, hầu hết tất cả các doanh nghiệp Nhà nước đều tồn tại một số đội ngũ cán bộ lãnh đạo lâu năm và như vậy việc quản lý có thể sẽ không bắt kịp với xu thế thời đại. Do đó, việc nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo là một yếu tố quyết định đối với việc nâng cao sức cạnh tranh. Đội ngũ quản lý này tham gia vào tất cả các quá trình sản xuất kinh doanh nên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng công việc của Công ty. Một quản trị gia phải biết khéo léo kết hợp hài hoà giữa lợi ích của các hành viên với lợi ích chung của toàn Công ty, một Công ty có đội ngũ quản lý, cán bộ giỏi thì chắc chắn công việc kinh doanh của họ có hiệu quả hơn. Để kích thích các thành viên làm việc nhiệt tình có trách nhiệm và hiệu quả thì nhà quản trị phải đóng vai trò là “phương tiện” để thoả mãn nhu cầu mong muốn của các thành viên và phải xác định được quyền hạn và nhiệm vụ của mỗi thành viên để hoàn thành mục tiêu một cách tốt nhất. Đồng thời, trong một nhóm phải là thành viên đứng đầu tạo ra sự phấn khích cho cả nhóm trong quá trình hành động thực hiện các mục tiêu của tổ chức, tránh tình trạng nhiều nhà quản trị cho mình là cấp trên đứng ngoài tổ chức ra lệnh, dọa nạt, mắng mỏ cấp dưới, điều đó sẽ làm cho mối quan hệ giữa nhà quản trị và cấp dưới trở nên đối phó, mất đoàn kết, mức độ nhiệt tình giảm xuống và hiệu quả công việc không cao, điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty. Vì vậy, có thể nói khả năng lãnh đạo của nhà quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Và việc nâng cao trình độ quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực là rất cần thiết. 4.2. Phương thức thực hiện Nâng cao trình độ quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cần được tiến hành theo các phương thức sau: Y Công ty cần xây dựng cơ cấu lao động tối ưu, đảm bảo đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. Y Phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết của quá trình sản xuất, đảm bảo sự cân đối thường xuyên trong sự biến động của môi tường kinh doanh Y Phải chú trọng công tác vệ sinh công nghiệp và các điều kiện về an toàn vệ sinh lao động. Y Ngoài ra, muốn nâng cao trình độ quản lý cũng như đào tạo, bồi dưỡng cán độ công nhân viên thì Công ty có thể thực hiện bằng cách: mời gia sư, chuyên viên giỏi về đào tạo bổ túc, nâng cao trình độ kiến thức cho họ hoặc cử nhân viên đi học, mời họ tham gia vào các hội thảo, hội nghị những nhà quản trị có năng lực để thay thế những người thiếu khả năng. Có như vậy Công ty mới có thể đảm bảo cạnh tranh được trên thị trường cũng như đối đầu với các đối thủ cạnh tranh của mình. Biện pháp này được các doanh nghiệp chú ý rất nhiều và ngày càng được quan tâm hơn nữa. 4.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Công ty cần sắp xếp lao động cho hợp lý, đúng người, đúng việc thì kinh doanh mới có hiệu quả vì thị trường thường xuyên thay đổi nên Công ty phải luôn nắm bắt được những thay đổi đó để đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, Công ty cũng phải xây dựng một nội quy, kỷ luật rõ ràng, bắt buộc mọi người phải tuân theo nhằm bảo đảm tính kỷ luật trong khi làm việc. Mặt khác, mọi người cần phải xây dựng một chế độ khuyến khích về kinh tế nghĩa là Công ty nên chú trọng tới việc khen thưởng kịp thời, phần thưởng tài chính sẽ có tác dụng thúc đẩy hiệu lực nhất mà các nhà quản lý hay sử dụng để khuyến khích nhân viên làm việc tốt hơn. 4.4. Hiệu quả của biện pháp Thực hiện biện pháp này Công ty sẽ có được một lực lượng lao động có chất lượng cao, có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới sẽ tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác như : máy móc, thiết bị, nguyên liệu…nên sẽ tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Bên cạnh đó sẽ đưa những sáng tạo công nghệ, kỹ thuật mới vào sử dụng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán được tạo tiềm năng lớn cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Qua đây, ta thấy Công ty có thể kết hợp những biện pháp trên để có được sự cạnh tranh hợp lý nhất và có hiệu quả cao nhất. II.Một số kiến nghị đối với nhà nước Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ hiện nay phát triển theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Mọi doanh nghiệp đều phải tuân theo các chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước vách ra. Vì vậy, ta có thể thấy rằng các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động của doanh nghiệp. Công ty Electrolux là một doanh nghiệp thương mại nên cũng bị ảnh hưởng thông qua một số chính sách như: tỷ giá hối đoái, chính sách thuế ... Do vậy để tạo điều kiện cho Công ty nâng cao khả năng cạnh tranh của mình cần có một số kiến nghị đối với Nhà nước như sau: 1.Điều chỉnh tỷ giá hối đoái 1.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn Tỷ giá hối đoái phản ánh mối tương quan về sức mua của đồng tiền quốc gia. Nó là phương tiện so sánh về mặt giá trị chi phí sản xuất của doanh nghiệp với cả thị trường thế giới. Thông qua việc phản ánh tương quan giá trị của đồng tiền ở những mức khác nhau, tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên xét ở góc độ toàn bộ nền kinh tế xã hội thì sẽ gây bất lợi cho nhà sản xuất vì hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn so với hàng hoá trên thị trường thế giới, hàng hoá đó sẽ trở khó bán hơn, từ đó gây bất lợi cho thu ngoại tệ do không xuất khẩu được làm cho khối lượng ngoại tệ ngày càng giảm đi do. Điều này sẽ làm mất cân đối trong cán cân thanh toán gây nên hiệu quả âm cho toàn bộ nền kinh tế. Là một quốc gia đang trên con đường thực hiện mở cửa nền kinh tế và hội nhập vào các khu vực kinh tế thế giới. Do đó, chúng ta không thể không quan tâm. Hiện nay tình trạng tài chính tiền tệ nước ta tuy đã được cải thiện một bước cơ bản song vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố mang tính bất ổn định. Chính vì vậy, với tư cách về mặt đối ngoại của chính sách tiền tệ tuy có những đặc thù riêng song hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái xuất phát từ những định hướng phù hợp với các mục tiêu của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn, tăng trưởng nhanh và bền vững góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí là Công ty thương mại hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nên cũng chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái. Do vậy, đảm bảo tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới phải thường xuyên được xác lập và duy trì một cách linh hoạt ổn định và bền vững. Thêm vào đó dần giảm đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của thị trường tài chính quốc tế. 1.2. Phương thức thực hiện Vấn đề trên cần phải được tiến hành, và không thể thiếu được vai trò của Chính phủ để điều chỉnh cung cầu nội ngoại bằng những phương thức nhất định. Sau đây là một số phương thức cần thực hiện: à Điều chỉnh chiết khấu - Chính sách chiết khấu: Đó là việc NHNN dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của Ngân hàng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm, muốn làm cho tỷ giá hối đoái hạ xuống, NHNN nâng cao tỷ suất chiết khấu. Kết quả là vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới chảy vào nước mình để thu lãi cao; nhờ đó giảm căng thẳng của cầu ngoại hối; tỷ giá hối đoái sẽ hạ xuống. Ngược lại khi tỷ giá xuống thấp, NHNN hạ thấp tỷ suất chiết khấu thì tư bản ngắn hạn nước ngoài rút ra nên nguồn cung ngoại tệ giảm, do đó tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên. à Điều tiết cung cầu ngoại tệ – Chính sách hối đoái: Đó là sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào thị trường ngoại hối bằng cách thu mua hay bán ngoại tệ. Khi giá tiền tăng lên trên mức ấn định( giá tiền nội tệ giảm xuống dưới mức ấn định) do cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoaị tệ. 1.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Để thực hiện được những phương thức trên Nhà nước cần phải có sự điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thông qua việc thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán. Đồng thời, thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tài chính duy trì nền kinh tế ổn định, duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. 1.4. Hiệu quả của biện pháp Điều chỉnh tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm của Công ty trên thị trường quốc tế. Khi giá cả sản phẩm nội địa rẻ tương đối so với sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế thì Công ty sẽ được lợi vì giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng lên, khả năng cạnh tranh của Công ty cũng sẽ tăng lên. Mặt khác Công ty sẽ có những điều kiện thuận lợi về phương diện thanh toán, quan hệ ngoại hối, quan hệ kinh tế đối ngoại. 2.Cải cách hệ thống thuế 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Thuế là công cụ để Nhà nước điều chỉnh nền kinh tế quốc dân, thậm chí điều chỉnh quan hệ ngoài kinh tế khác. Trong hoạt động ngoại thương thì thuế là một công cụ mà Nhà nước sử dụng để quản lý XNK nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thường, góp phần bảo vệ sản xuất- tiêu dùng và tăng ngân sách. Thuế có tác động một cách trực tiếp đến giá cả đối với người sản xuất lẫn người tiêu dùng, đồng thời có thể làm cho các hoạt động thương mại phát triển hoặc bị thu hẹp. Mặc dù trong những năm gần đây, vai trò của thuế trong thương mại quốc tế đang bị giảm dần song khoản thu về thuế trong thương mại quốc tế vấn chiếm vị trí đáng kể, ở Việt Nam thuế XNK chiếm khoảng 25% nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Trong những năm qua hệ thống thuế của nước ta tuy đã được sửa đổi song còn tồn tại những bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là cải cách hệ thống thuế hiện hành. 2.2. Phương thức thực hiện Việc cải cách hệ thống thuế trước hết phải đảm bảo cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, đồng thời phải đảm bảo động viên hợp lý, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó chính sách thuế phải đưa ra một hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, nhất là đối với thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra, thuế xuất khẩu đối với các lô hàng mới được xuất sang thị trường mới, thị trường khó tính hoặc những lô hàng xuất khẩu có chất lượng cao nên được giảm trừ để khuyến khích xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước nói chung và Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí nói riêng. 2.3.Điều kiện để thực hiện biện pháp ² Tiến hành giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0-5% với 5-7% mức thuế xuất trong tương lai . ² Cải tiến phương pháp tính giá hàng xuất nhập khẩu sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đơn giản hoá các thủ tục khai báo, kiểm tra hải quan và nộp lệ phí xuất nhập khẩu. ² Công ty nào sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn thuế lợi tức với phần đầu tư đó. 2.4. Hiệu quả của biện pháp Như vậy, với chính sách trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc xuất khẩu hàng hoá sang nước khác, cũng như nâng cao được khả năng nhập khẩu của Công ty. Từ đó sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó sẽ phần nào khắc phục được tình trạng trốn lậu thuế của các doanh nghiệp khi mà phải nộp thuế suất cao. Kết luận Qua đây chúng ta có thể thấy rằng, cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh đang là vấn đề nóng bỏng đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và Công ty Electrolux. Ngày nay do sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô hết sức rộng lớn, nó không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi thế giới. Điều này làm cho cạnh tranh càng trở nên quyết liệt và sâu rộng. Cạnh tranh được xem như là yếu tố nội tại của quá trình kinh doanh và đi vào cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Cũng như các doanh nghiệp khác thì Công ty Electrolux khi muốn đưa ra các chính sách chiến lược nhằm tăng khả năng cạnh tranh cần phải biết khả năng cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp, đồng thời hiểu được thực trạng kinh doanh của đối thủ. Bên cạnh đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh thì ngoài sự nỗ lực của Công ty cần có những chính sách bảo hộ đúng đắn của Nhà nước, với vai trò tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (bằng quản lý vĩ mô, bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế, bằng các chính sách ưu đãi...), kết hợp với các giải pháp ổn định và phát triển hợp lý như đã trình bày. Với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Electrolux ”. Em mong muốn đóng góp những suy nghĩ nghiên cứu tìm tòi và một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Cuối cùng, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - GS.TS Nguyễn Thành Độ, cùng các CôChú, các Anh Chị cán bộ công nhân viên Phòng Kế hoạch tổng hợp và Phòng Tổ chức hành chính của Công ty vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Chiến lược cạnh tranh – M.Porter. Giáo trình: Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp - Nhà xuất bản lao động thương binh - xã hội: Hà Nội-2002. Giáo trình : Quản trị kinh doanh tổng hợp – Nhà xuất bản thống kê:Hà nội – 2001. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thị Kim Dung: Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước - Hà Nội 1998. Tạp chí Công nghiệp Việt Nam: Số 12+13/2001,Số2+3/2002, Số9/2002. Tạp chí Cộng Sản : Số 7/2000. Tạp chí Phát triển kinh tế. Tạp chí Thương mại: Số 17/2001 Tạp chí Kinh tế và Phát triển: Số 50+52/2001. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế: Số 254/1999,Số 270/2000. Báo cáo kết quả kinh doanh 1999-2000-2001-2002 của Công ty Elextrolux Kế hoạch sản xuất kinh doanh 2002-2006 của Công ty Elextrolux Một số tài liệu tham khảo khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4621.doc
Tài liệu liên quan