Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của tất cả các cấp, các ngành, của mọi thành viên trong xã hội. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần phải có một hệ thống chính sách kinh tế đúng đắn, phù hợp và thống nhất. Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách kinh tế trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nó phối hợp với c

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1330 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác chính sách quan trọng khác: chính sách tài khoá, chính sách lương, chính sách kinh tế đối ngoại, cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế và phát triển kinh tế. Đáp ứng mục tiêu nhiệm vụ đề ra trong từng thời kỳ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang đi đến kết thúc chiến lược ổn định và phát triển kinh tế (1991 - 2000) tạo tiền đề vật chất cơ bản cho ổn định và phát triển lâu dài, tiếp tục thực hiện chiến lược 2001 - 2005 với mục tiêu đề ra là: Huy động nội lực, ngăn chặn đà giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát huy các nhân tố ổn định để phát triển kinh tế cao hơn. Đứng trước tình hình đó. Là một sinh viên thuộc ngành Ngân hàng thì việc nghiên cứu, tìm hiểu mục tiêu của chính sách tiền tệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Do hạn chế về khả năng, kinh nghiệm và điều kiện thu nhập thông tin nên bài viết này còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý, bổ sung của thầy, cô giáo và bạn bè để những bài viết sau được tốt hơn. Sinh viên Nguyễn Trường Giang Phần I- Lý luận chung về chính sách tiền tệ I- Khái niệm về chính sách tiền tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ. 1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ (CSTT) là chính sách quản lý kinh tế vĩ mô do Ngân hàng Nhà nước xây dựng và thực hiện nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của từng thời kỳ đạt được mục tiêu đề ra. Việc xây dựng CSTT là chức năng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuy vậy CSTT là một bộ phận trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nên mục tiêu của CSTT cần phải gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu của các chính sách kinh tế khác. Việc thực thi chính sách tiền tệ cũng là chức năng riêng của NHNN, nhưng NHNN là một bộ phận trong hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước nên trong việc thực thi CSTT, NHNN cần phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan khác. Đặc biệt là Bộ Tài chính. Chính sách tiền tệ tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thống, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo định hướng, kiểm soát hệ thống Ngân hàng thương mại, xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương. Nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá là hàng hoá, trên cơ sở đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu của CSTT luôn luôn gắn liền với mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Mục tiêu kinh tế vĩ mô được thực hiện bằng các công cụ chính sách kinh tế của Nhà nước, CSTT là một trong những chính sách đó nên ngoài việc phục vụ mục tiêu chung thì CSTT cũng có những mục tiêu cụ thể của nó. 2.1. Kiểm soát lạm pháp - ổn định giá trị đồng tiền. Lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung của hàng hoá trong một thời gian dài. Tuỳ theo mức độ tăng giá mà người ta có thể phân thành lạm phát vừa phải lạm phát không kiểm soát được và siêu lạm phát. Theo quan điểm của trường phái Keynes và trường phái tiền tệ cùng với đại đa số các nhà kinh tế thì lạm phát cao chỉ xẩy ra với một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Họ đều đồng ý với quan điểm của nhà kinh tế lỗi lạc Milton Fried man là "lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ". Khi có lạm phát cao sẽ đem lại những hậu quả không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế. Nó sẽ làm tăng chi phí giao dịch: "Chi phí dày da" do phải nhiều lần đến gửi, rút tiền tại ngân hàng; chi phí điều chỉnh giá cả: "chi phí thực đơn" vì thay đổi bảng giá; sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả do sự thay đổi mức giá tương đối; làm mất tính cân đối trong dự toán ngân sách; sai lệch so với dự tính của các luật thuế; ảnh hưởng đến các quyết định tài chính, đối với doanh nghiệp nó sẽ làm hạn chế đầu tư, đối với cá nhân sẽ làm ảnh hưởng đến các kế hoạch trong cuộc sống; gây ra sự phân phối thu nhập bất hợp lý; làm giảm thu nhập thực tế của những người có mức thu nhập cố định theo hợp đồng. Mọi người sẽ quan tâm đến lợi ích trước mắt; họ đổ xô vào mua sắm tài sản, gây ra sự tăng cầu giả tạo làm cho nền kinh tế tiến sâu vào vòng xoáy lạm phát. Từ sự phân tích trên, đặt ra mục tiêu ngăn chặn và kiểm soát lạm phát của CSTT. Bằng việc sử dụng các công cụ của CSTT. NHNN có thể thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, làm giảm tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, từ đó kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. 2.2. Giải quyết việc làm, tăng trưởng kinh tế. Thất nghiệp là tình trạng của những người có khả năng làm việc, mong muốn và nổ lực tìm kiếm việc làm nhưng chưa có việc làm. Thất nghiệp là vấn đề kinh tế vĩ mô ảnhh hưởng tới con người trực tiếp nhất và nghiêm trọng nhất. Đối với cá nhân, thất nghiệp đồng nghĩa với giảm mức sống và sức ép tâm lý. Đối với toàn bộ nền kinh tế , khi có tỷ lệ thất nghiệp cao, thu nhập của toàn bộ dân cư trong toàn xã hội, dẫn đến nhu cầu tiêu dùng thấp, hàng hoá không tiêu thụ được. Điều này sẽ hạn chế khả năng và không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất. Các nguồn lực cho phát triển sản xuất không được khai thác sử dụng tối đa cả về qui mô và hiệu quả. Nền kinh tế không đạt đến mức toàn dụng, dẫn đến tốc độ tăng trưởng chậm lại và nền kinh tế đi vào tình trạng đình trệ, suy thoái. Tình trạng này có thể được khắc phục bằng việc thực thi chính sách tiền tệ mở rộng, hạ lãi suất, khuyến khích đầu tư, tăng khối tiền tệ sẽ làm tăng cầu, thúc đẩy quá trình lưu chuyển, tiêu thụ hàng hoá nhanh hơn, giải quyết hàng hoá tồn đọng, tạo điều kiện cho đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi mà nền kinh tế gữ được mức độ lạm phát vừa phải có lợi cho sản xuất - tiêu dùng. Các nguồn lực được khai thác sử dụng một cách hợp lý, nền kinh tế đạt mức toàn dụng. Trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy tăng trường kinh tế, thực hiện mục tiêu chung, cuối cùng của chính sách kinh tế vĩ mô là thúc đẩy nền kinh tế phát triển. II- Mối quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Giữa hai mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và mục tiêu giải quyết việc làm của chính sách tiền tệ có cái chung và cũng có cái riêng. Xét trong dài hạn thì hai mục tiêu trên có cái chung là nếu ổn định được nền kinh tế, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút thêm lao động, sử dụng tối đa hiệu quả các nguồn lực sẽ thúc đẩy tăng trường kinh tế. Trên thực tế cho thấy trong ngắn hạn không phải khi nào hai mục tiêu đó cũng thống nhất. Nó được biểu diễn bằng đường phillips. Cho thấy có sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. Sự gia tăng ngắn hạn của mức giá chung 0 Tỷ lệ thất nghiệp Đường philip ở nhiều nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng cao thường gắn với tốc độ lạm phát và mất ổn định nào đó. Ví dụ: ở Hàn Quốc giai đoạn 1965 - 1980 tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trung bình là 9,9% và tốc độ lạm phát trung bình là 18,4%. Chỉ trong giai đoạn 1987 - 1989 Hàn Quốc nhấn mạnh đến ổn định kinh tế, khi đó lạm phát đạt trung bình là 5% và tốc độ tăng trưởng GDP trung bình là 9,7%. ở Indonexia, giai đoạn 1965 - 1980 tốc độ tăng trưởng GDP đạt trung bình là 7%. Với mức lạm phát là 35,5%. Chỉ khi nhân mạnh đến ổn định kinh tế giai đoạn 1980 - 1989 thì tỷ lệ lạm phát trung bình mới giảm xuống còn 8,3% và tốc độ tăng trưởng GDP còn trung bình 5,3%. Qui luật này cũng không đúng cho tất cả các nước có những nước với mức độ lạm phát vừa phải mà vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng GDP cao như Singapore, Malaixia, Hồng Kông, Thái Lan. ở Thái Lan giai đoạn 1965 - 1980 mức độ lạm phát trung bình là 6,2%, giai đoạn 1980 - 1989 là 3,2% với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình chung hơn 7%. III- Công cụ của chính sách tiền tệ. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế mà Ngân hàng Nhà nước có thể lựa chọn các công cụ sau để thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ. 1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Là tỷ lệ nhất định giữa số tiền mà Ngân hàng Nhà nước buộc các Ngân hàng thương mại phải giữ lại so với số tiền gửi của khách hàng taị Ngân hàng Nhà nước mà không được sử dụng cho bất kỳ mục đích gì. Ngân hàng Nhà nước có thể tăng (hoặc giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm (hoặc tăng) khả năng tạo tiền của hệ thống Ngân hàng thương mại qua đó sẽ thực thi chính sách thị trường thắt chặt (hoặc nới lỏng). 2. Lãi suất chiết khấu, tài chiết khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi các Ngân hàng thương mại đem các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán đến xin "vay vốn" ) lãi suất tài chiết khấu là lãi suất áp dụng cho các thương phiếu đã chiết khấu nhưng chưa đến hạn thanh toán). Bằng việc tăng (hoặc giảm) lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu Ngân hàng Nhà nước sẽ hạn chế (hoặc khuyến khích) hệ thống Ngân hàng thương mại đem các thương phiếu chưa đến hạn thanh toán xin "vay vốn" qua đó sẽ làm giảm (hoặc tăng) lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. 3. Nghiệp vụ thị trường mở. Là việc Ngân hàng Nhà nước mua (hoặc bán) các trái phiếu kho bạc Nhà nước thông qua đó sẽ làm tăng (hoặc giảm) lượng tiền cung ứng cho phù hợp với mục đích "nới lỏng" (hoặc "thắt chặt") của chính sách tiền tệ. 4. Quản lý lãi suất tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Bằng biện pháp gián tiếp là tác động vào cung - cầu tiền tệ thông qua việc mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quí thông qua đó sẽ làm thay đổi lãi suất trên thị trường, tác động đến cầu tín dụng sẽ làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Hoặc Ngân hàng Nhà nước có thể trực tiếp xác định lãi suất tín dụng của Ngân hàng thương mại thông qua khung lãi suất, trần lãi suất... tác động đến cung - cầu tín dụng do đó làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho phù hợp mục tiêu đề ra. 5. Quản lý hạn mức tín dụng của Ngân hàng thương mại. Là việc Ngân hàng Nhà nước xác định giới hạn cụ thể doanh số cho vay ra nền kinh tế của mỗi Ngân hàng thương mại. Đây là biện pháp trực tiếp khống chế tổng phương tiện thanh toán xã hội theo chỉ tiêu đề ra. Thường chỉ được sử dụng trong những hoàn cảnh nhất định và thường đem lại nhiều hạn chế. Phần II- Mục tiêu chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. I- Đánh giá chung. Đối mặt với khó khăn, bất ổn định kinh tế trong những năm 1988 - 1991. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra hàng loạt các chính sách đổi mới, chuyển nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sau hơn 10 năm thực hiện chúng ta đã thu được kết quả khá tốt đẹp: đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, cùng với tốc độ lạm phát được kìm hãm và đi vào ổn định, thu hút lòng tin đối với đầu tư nước ngoài, tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân vào đồng nội tệ, khuyến khích tiết kiệm, tích luỹ, đầu tư, từng bước nâng cao đời sống người dân, đặc biệt là trong các năm 1997 - 1998 đã hạn chế đến mức thấp nhất có thể những ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Chuẩn bị cơ sở hạ tầng vật chất cho phát triển lâu dài. Trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng bao gồm: pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính do Hội đồng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 23 tháng 5 năm 1990 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 1990. Đã tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng một cấp chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp. Phân định chức năng của Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng phát hành, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của Chính phủ, quản lý dự trữ ngoại tệ và vùng của Nhà nước, còn Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian hoạt động kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ pháp luật. Trên cơ sở đó đã tăng tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước và nhấn mạnh chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới cơ chế hoạt động, quản lý của hệ thống Ngân hàng thương mại, thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại, hình thành môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách tiền tệ và đảm bảo mục tiêu đề ra của chính sách tiền tệ, chuẩn bị nền móng "tiền tệ" vững chắc cho phát triển kinh tế, góp phần tích cực vào kết quả chung của công cuộc đổi mới. II- Đánh giá thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh vào cuối những năm 1980. Các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phải đối mặt với không ít khó khăn trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. ở Việt Nam, khi chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, chúng ta đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn, trong đó mối đe doạ lớn nhất là tốc độ lạm phát cao, nền kinh tế không ổn định của những năm 1988 - 1990. Đứng trước tình hình đó, mục tiêu đặt ra của chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1991 - 1995 là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị đồng nội tệ. Để thực hiện mục tiêu đó, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các cấp, ngành và vận dụng các công cụ chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam. Đã đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn một chữ số, thành công đáng nói còn ở chỗ trong khi hạ thấp được tỷ lệ lạm phát, nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, bình quân hàng năm khoảng 7 - 8%. Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở Việt Nam (%). 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tốc độ tăng trưởng GDP 5,1 8,0 5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 Tỷ lệ lạm phát 110,9 34,8 67,2 67,4 17,2 5,2 14,4 12,7 Sự thành công đó được thể hiện cụ thể ở các mặt sau. 1. Thắt chặt đúng mức lượng tiền cung ứng để kiềm chế lạm phát. Nhờ có môi trường pháp lý thuận lợi, tạo điều kiện cho các phương pháp tính toán và điều hành lượng tiền cung ứng trong chính sách tiền tệ được phát triển, bổ sung dần từ chỗ đơn giản, sơ khai đến hoàn thiện bao quát hơn, chú ý đầy đủ hơn đến ảnh hưởng của các nhân tố khác, nhanh chóng, linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh theo tín hiệu thị trường. Tình hình chủ động của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành cung ứng tiền được nâng cao. Cho phép Ngân hàng Nhà nước chủ động về thời điểm, khối lượng tiền đưa vào hay rút ra khỏi lưu thông và chủ động lựa chọn mục tiêu, công cụ điều tiết và đối tượng tác động. Ngân hàng Nhà nước cũng đã chủ ý đến ảnh hưởng của các luồng ngoại tệ vào Việt Nam qua các con đường (ODA, FDI, vay thương mại, du lịch...) đã đảm bảo lượng tiền Trung ương tương đối phù hợp coh nhu cầu đổi ra Việt Nam đồng, đồng thời với sự điều chỉnh tỷ giá cần thiết nhằm nâng dự trữ ngoại tệ của Quốc gia và mở rộng phạm vi, vị trí của VNĐ trên thị trường. Hệ thống tổ chức tài chính cũng không ngừng được củng cố, Ngân hàng Nhà nước giảm dần tính bao cấp về vốn, thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng, điều đó đã thúc đẩy các Ngân hàng thương mại chủ động trong việc thu hút, huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động mang tính chất cạnh tranh hơn. Trên cơ sở đó, lượng tiền cung ứng đã tăng phù hợp với mức tăng về nhu cầu phương tiện thanh toán. Bảng 2: Số liệu về tăng cung tiền tệ hàng năm (%) Năm Chỉ tiêu 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 Tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) 324 445 189 53 79 34 27 Lạm phát 110,9 34,8 67,2 67,4 17,2 5,2 14,4 M2/GDP 26,7 27,1 26,5 24,5 25,3 30,7 Qua đó cho thấy, giai đoạn 1991 - 1994 , tỷ lệ lạm phát có quan hệ chặt chẽ và biến đổi cùng chiều với tỷ lệ tăng lượng cung ứng tiền tệ. 2. Thực thi chính sách lãi suất thực dương. Trên cơ sở tỷ lệ lạm phát giảm xuống và đi vào ổn định. Để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng cho đầu tư phát triển kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh hạ khung lãi suất tiền gửi vào cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo một mức lãi suất thực dương cho người gửi tiền và các tổ chức tín dụng. Để xoá bỏ tình trạng bao cấp tín dụng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thực sự chuyển sang hoạt động kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước đã chuyển từ cơ chế lãi suất "âm" sang lãi suất thực "dương". Qua đó đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển. Nếu năm 1991 tổng tài sản của tất cả các tổ chức tín dụng chỉ chưa đầy 27.000 tỷ đồng thì đến thời điểm 30/06/1995 đã lên đến 75.000 tỷ đồng, tăng khoảng 2,77 lần trong vòng 4 năm, vốn tự có của các tổ chức tín dụng cũng tăng từ 2.000 tỷ đồng lên khoảng 5.000 tỷ đồng trong cùng thời gian đó, tức là tăng 2,5 lần. Cũng để tác dụng đến cơ cấu tích luỹ - đầu tư cuối năm 1993 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã thu hẹp dẫn đến khoảng cách giữa lãi suất cho vay đồng nội tệ và cho vay đồng ngoại tệ, lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn và cho vay ngắn hạn. 3. Điều hành chính sách tỷ giá theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ. Để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi ra đồng Việt Nam của các ngoại tệ khác khi luồng ngoại tệ vào Việt Nam ngày càng lớn theo nhiều con đường (ODA, FDI, kiều hối, vay thương mại....), Ngân hàng Nhà nước đã mở hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã làm cho tỷ giá danh nghĩa (tỷ giá giữa VNĐ so với USD) bắt đầu ổn định từ năm 1993. 4. Hạn chế phát hành tiền cho bù đắp bội chi ngân sách. Trên cơ sở mức bộ chi ngân sách giảm xuống 5 - 6% vào năm 1991, 1992 và 6,9% vào năm 1993. Theo quyết định của Chính phủ về việc chấm dứt phát hành tiền cho bù đắp bội chi ngân sách Ngân hàng Nhà nước đã giảm đáng kể cung ứng tiền cho bù đắp bội chi ngân sách, góp phần kiềm chế lạm phát. III- Thực hiện mục tiêu chặn đà giảm sút kinh tế. Sau giai đoạn đạt mức tăng trưởng cao và ổn định liên tục, kể từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm sút. Bảng 3: Số liệu về tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát (%) 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tốc độ tăng trưởng GDP 9,3 8,8 5,8 4,8 5,5 6,25 Lạm phát 4,5 3,7 9,2 5,32 4,8 5,9 Tình hình kinh tế xã hội trong nước đang đứng trước những khó khăn làm ảnh hưởng đến công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước: ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt, hạn hán, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm đáng kể, sức mua hàng tiêu dùng yếu, hoạt động của các doanh nghiệp kém hiệu quả (doanh nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là ngân hàng....) tiêu thụ hàng hoá chậm, nợ quá hạn tăng, lợi nhuận giảm xuống, thu nhập người lao động giảm, hạn chế đầu tư mở rộng sản xuất, việc làm giảm, số người thất nghiệp tăng, tổng số nguồn vốn huy động và cho vay ra nền kinh tế tăng chậm chênh lệch lớn. Bảng 4: Tổng nguồn vốn huy động và cho vay với năm trước (%) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng nguồn vốn huy động 31,5 25 27 30 35 Tổng dư nợ cho vay 27,1 19 22 24 30 Nền kinh tế đang trong tình trạng giảm phát. Đặc biệt là trong năm 1999, mức giá chung giảm liên tục (trừ tháng 1, tháng 2) tính đến 11 tháng đầu năm, mức lạm phát là -0,4%. Chính phủ đã tập trung nhiều giải pháp khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, kích thích tiêu dùng.... Các giải pháp đã bao quát được một số vấn đề đang nổi cộm bức thiết của nền kinh tế và đã đạt được một số kết quả, nhưng dấu hiệu giảm sút kinh tế vẫn chưa được khắc phục. Nổ lực của Chính phủ tập trung vào kích cầu qui mô lớn, trên cơ sở chính sách tiền tệ nới lỏng, thể hiện ở chỗ: chỉ tính trong năm 1999, Chính phủ đã 5 lần hạ lãi suất tín dụng, lãi suất tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Bảng 5: Điều chỉnh trần lãi suất tín dụng, lãi suất tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc (năm 1999). 1 2 6 7 8 9 10 11 NT TT Lãi suất tín dụng (%/tháng) Ngắn hạn 1,2-1,1 1,15 1,05 0,95 1 0,85 Dài hạn 1,25-1,15 Lãi suất tái cấp vốn (%/tháng) 1,1-1 0,9 0,7 0,5-0,45 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (% tổng tiền gửi có kỳ hạn <12 tháng) Đã bị điều tiết 0-7 6 1 Chưa bị điều tiết 0-5 4 5 Trên thực tế việc giảm lãi suất liên tục này chưa tác động nhiều đến việc mở rộng khối lượng tiền trong lưu thông, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản nhằm nới lỏng điều kiện cho vay vốn như Quyết định 67/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp của các bộ ngành, các tỉnh thành phố trong việc tài trợ cho các dự án vay vốn như (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Sơn La...). Ngân hàng Nhà nước tiến hành mua ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại, làm tăng lượng tiền Việt Nam. Đợt phát hành công trái vừa qua đã thu được 4.496,22 tỷ động được tập trung chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Quốc hội cho phép mở rộng thâm hụt ngân sách hơn 5% GDP. IV- Mục tiêu của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của đời sống kinh tế xã hội. Tốc độ chu chuyển vốn trên thế giới tăng mạnh, năm 1994 vốn đầu tư thực tế (vốn xuất khẩu - vốn nhập khẩu) vào các nước đang phát triển là 200 tỷ USD so với 100 tỷ năm 1990 và 11 tỷ năm 1970. Doanh số hoạt động tài chính cũng tăng đáng kể, ở năm 1994 đạt bình quân 1.200 - 1.300 tỷ USD/ngày so với năm 1984 là 170 - 180 tỷ USD/ngày. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, tốc độ khu vực hoá nền kinh tế ngày càng nhanh đã tạo ra nhiều thuận lợi là phát huy lợi thế so sánh, phân công lao động sâu rộng, phân bố nguồn lực hợp lý, mở rộng thị trường, thúc đẩy đầu tư mở rộng sản xuất, chuyển giao công nghệ, áp dụng những thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động ..... Nhưng cũng đặt ra cho các nước có nền kinh tế kém phát triển những thách thức của sự tụt hậu, phụ thuộc kinh tế vào các nước mạnh dẫn đến sự phụ thuộc về chính trị, sự thôn tính thị trường của các tổ chức độc quyền. Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và xuất phát điểm rất thấp so với các nước khác. Do đó để tránh khỏi tụt hậu, nền kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm. Theo các chuyên gia kinh tế thì đây là "giai đoạn cất cánh" như kinh nghiệm của một số nước trong khu vực trước đây. Trong khi nền kinh tế có lạm phát cao thì chúng ta đã áp dụng chính sách tiền tệ để chặn đứng, kiềm chế, giảm lạm phát là cần thiết như ở giai đoạn 1989 - 1995. Hiện nay, nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng, khả năng vật chất và tài chính để khống chế lạm phát đã có. Hơn nữa chúng ta đang đứng trong hoàn cảnh suy thoái kinh tế thì mục tiêu đặt ra của chính sách tiền tệ là "chặn đà giảm sút nhịp độ tăng trưởng, phát triển kinh tế đạt tốc độ cao hơn năm 1999, đạt được chuyển biến mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, theo kịp tiến trình hội nhập quốc tế". (Báo cáo Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội ngày 08/11/1999). Phần III- Định hướng và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở tìm hiểu các ý kiến của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Nhà nước, em đề xuất một số giải pháp sau: I- Giải pháp chung. Để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ đã đề ra, chúng ta cần thiết phải chú trọng các vấn đề sau: Tạo môi trường thuận lợi cho việc thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Nâng cao hiệu lực điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của cơ chế thị trường, đảm bảo tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi chính sách tiền tệ như đã được qui định trong luật Ngân hàng Nhà nước, chuyển hướng tác động của Ngân hàng Nhà nước từ trực tiếp sang gián tiếp. Củng cố, hoàn thiện hệ thống các tổ chức tài chính trung gian, chú ý kịp thời các vướng mắc trong khâu thực hiện chính sách tiền tệ, nhanh chóng có các biện pháp tháo gỡ linh hoạt, kịp thời, chú ý hơn đến ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu của chính sách tiền tệ và mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô khác. II- Giải pháp cụ thể. Trên cơ sở định hướng và giải pháp chung, chúng ta đi vào từng vấn đề cụ thể trong mục tiêu của chính sách tiền tệ. 1. Quản lý lượng tiền cung ứng. Tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế cần phải được kiểm soát, điều hành chủ động và là hiệu lực, bám sát các tín hiệu thị trường nhằm đảm bảo một mức độ tăng lên hàng năm của tổng phương tiện thanh toán phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ trên cơ sở bản báo cáo cân đối vĩ mô. Trong các đại lượng về khối tiền, đại lượng M2 ở Việt Nam được định nghĩa bao gồm: tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng, số dư trên tài khoản tiền gửi séc và tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng tại ngân hàng, có tính cả tiền gửi bằng ngoại tệ. Đây là đại lượng tổng quát nhất biểu hiện tổng cung về tiền, cần được tính toán, theo dõi, dự báo và điều hành sát sao với tư cách là mục tiêu trung gian để kiểm soát tiền tệ và lạm phát. Thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước điều khiển mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cung ứng tiền tệ, lạm pháp. Trải qua nhiều thập kỷ, người ta chứng minh được rằng, đối với từng nước, trong mọi giai đoạn phát triển cụ thể cần có tỷ lệ lạm phát phù hợp với tốc độ tăng trưởng và trong từng thời kỳ lại cần có tr lệ tăng trưởng phù hợp với tiềm năng sản xuất. Về mối quan hệ này kinh nghiệm ở một số nước cho thấy: Đối với các nước công nghiệp phát triển (các nước G7. thì tỷ lệ lạm phát thường được kiềm chế, chỉ số tăng giá cả ở mức khoảng từ 2% đến 3%/năm, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm khoảng từ 3% đến 5%/năm, cán cân thương mại thường cân bằng, cán cân thanh toán là số dư khoảng từ 3 - 3% tổng sản phẩm quốc dân (GDP), tỷ lệ thất nghiệp thường xuyên và không thường xuyên thường dưới 4% số người trong độ tuổi lao động. Còn ở các nước mới phát triển (NICs) thì chỉ số trên có những biểu hiện khác nhau. Có những nước đạt được tốc độ tăng trưởng cao hàng năm từ 8 đến 10% như Hàn Quốc, Malaysia, Singapore... nhưng lạp phát chỉ ở mức 3% đến 4%/năm. Có những nước thì tốc độ tăng trưởng và lạm phát có cùng tỷ lệ như Indonesia (năm 1994, lạm pháp 9%, tăng trưởng 7,4%) và Auntraylia (năm 1994, lạm phát 4,5%, tăng trưởng 3,7%)... Nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở các nước NICs thường ở mức trên dưới 4%. ở Việt Nam cũng cần có các dự báo về tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng mong muốn, theo ý kiến của một chuyên gia tài chính tiền tệ ở tổ chức hợp tác và phát triển quốc tế của 24 nước công nghiệp phát triển (DOCE) cho rằng, những nước đang phát triển nếu kéo lạm phát xuống mức quá thấp sẽ kìm hãm nhịp độ tăng trưởng kinh tế, đối với Việt Nam để có mức tăng trưởng kinh tế cao thì kiềm chế lạm phát ở mức xấp xỉ 10% là thích hợp. Cụ thể là hai vấn đề này, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá IX ngày 18/11/1999 đã đề ra mục tiêu phấn đấu cho năm 2000 là mức độ lạm phát khoảng 6% và tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 5,5-6,0%. Trong cấu thành của lượng tiền cung ứng là hai bộ phận: tiền do Ngân hàng Nhà nước phát hành - là lượng tiền mặt do Ngân hàng Nhà nước phát hành đang trong lưu thông và tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra, thường gọi lầ tiền tín dụng - là do Ngân hàng thương mại tạo ra trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng (vàng, bạc hoặc tiền mặt), và cung cấp tín dụng cho khách hàng trong nền kinh tế. Trên thực tế trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tiền mặt còn chiếm tỷ trọng rất lớn khoảng 35-40% trong tổng lượng tiền cung ứng. Do đó để quản lý lượng tiền cung ứng cần thiết phải: Cần chú trọng đến vấn đề nghiên cứu sâu hơn, lựa chọn phù hợp cơ chế phát hành tiền tệ cho hợp lý với công cuộc đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng. Cần có các biện pháp tạo thuận lợi, khuyến khích các tổ chức, các cá nhân sử dụng các nghiệp vụ tham toán qua ngân hàng, làm quen với thanh toán không dùng tiền mặt, cất giữ tiền và các tài sản có giá trị khác (vàng, ngoại tệ) bằng cách gửi vào ngân hàng. Để làm được điều này cần phải có các biện pháp hiện đại hoá công nghệ thanh toán và các dịch vụ thanh toán như xây dựng cơ sở hạ tầng tin học cho hệ thống thanh toán, lắp đặt mạng máy gửi, rút tiền tự động, áp dụng các thẻ thanh toán điện tử, tiến tới các giao dịch ngân hàng hiện đại (telefon banlaing, elec tronic banking...). Nên chăng thực hiện việc trả lương, tiền công cho những người lao động, cán bộ công nhân không qua hệ thống ngân hàng bằng các nghiệp vụ trên tài khoản séc của họ tại ngân hàng. Kiểm soát để các tổ chức, cá nhân chỉ được phép dùng tiền mặt trong một lần thanh toán trong một giới hạn nào đó, quá giới hạn đó thì phải thông qua hệ thống ngân hàng (đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, mua bán, trao đổi với nước ngoài). Một vấn đề hết sức quan trọng nữa là Ngân hàng Nhà nước cần phải hoàn thiện và sử dụng có hiệu quả hơn nữa các công cụ cảu chính sách tiền tệ, chuyển dần từ sử dụng các biện pháp can thiệp mang nặng tính chất hành chính bao cấp sang sử dụng các biện pháp can thiệp gián tiếp, trên cơ sở tôn trọng các qui luật của cơ chế thị trường, dựa theo tín hiệu thị trường. Nhanh chóng tạo điều kiện cho việc áp dụng các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ. Nâng cao hiệu lực của công cụ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, thuận lợi cho việc kiểm soát khả năng cho vay và tạo tiền gửi của các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng một cách linh hoạt tiền dự trữ của mình tại Ngân hàng Nhà nước. Nhanh chóng đưa vào sử dụng công cụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở cho phép sử dụng các thương phiếu trong nền kinh tế, giảm dần việc cho vay tái cấp vốn không dựa trên cơ sở các giấy tờ có giá. Ngân hàng Nhà nước tham gia điều tiết lãi suất trên thị trường thông qua lãi suất chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước , thay thế dần việc can thiệp bằng lãi suất trực tiếp. Xây dựng và phát triển sớm các nghiệp vụ thị trường mở, tiến tới tổ chức việc đấu giá thường xuyên tín phiếu kho bạc, phát triển thị trường thứ cấp tín phiếu kho bạc, dần dần áp dụng nghiệp vụ thị trường mở cho các loại g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35220.doc
Tài liệu liên quan