Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Cầu Giấy

Tài liệu Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Cầu Giấy: ... Ebook Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Cầu Giấy

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại như là huyết mạch của nền kinh tế. Trong nền kinh tế phát triển như hiện nay, sức cạnh tranh gay gắt cũng như một môi trường kinh doanh biến động liên tục làm cho bất kỳ các ngân hàng nào khi kinh doanh luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng - hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động quan trọng nhất, nó mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng song cũng hàm chứa rủi ro cao nhất. Do đó, các ngân hàng thương mại phải có các biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra và nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng. Một trong các biện pháp mà các ngân hàng rất coi trọng vấn đề là bảo đảm tiền vay. Cũng như để các ngân hàng thu được lợi nhuận và bảo đảm an toàn hơn trong cho vay thì ngân hàng cần phải có các giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay. Từ những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường đại học cũng như những trải nghiệm thực tế bước đầu trong thời gian thực tập tại chi nhánh NH No&PT NT Cầu Giấy, em nhận thức được tầm quan trọng của bảo đảm tiền vay đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy nên em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cầu Giấy” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu của chuyên đề gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay của NHTM Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cầu Giầy Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại chi nhánh. Em xin chân thành cảm ơn thày giáo hướng dẫn PGS.TS Lê Đức Lữ và các cán bộ tín dụng của phòng tín dụng chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cầu Giầy đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội ngày 2 tháng 5 năm 2007 Sinh viên Đỗ Thị Sâm CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về hoạt động cho vay của NHTM: 1.1.1. Khái niệm: Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại như là huyết mạch của nền kinh tế và hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của bất kỳ một ngân hàng thương mại. Một trong những hoạt động tín dụng chủ yếu, truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay. Đây là hoạt động mang lại thu nhập chính cho NHTM nhưng lại tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Hoạt động cho vay được hiểu là việc nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian nhất định với những điều kiện nhất định. Theo quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001, hoạt động cho vay được định nghĩa như sau: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Thu nhập của hoạt động cho vay là từ lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay được hiểu là giá cả của việc sử dụng vốn, được xác định trên cơ sở chi phí huy động vốn cũng như các chi phí khác của NHTM. Khoản mục cho vay là khoản mục sử dụng vốn chủ yếu, chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 thu nhập của ngân hàng thương mại. Do đó, có thể nói cho vay là hoạt động quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên đa dạng hơn. 1.1.2. Đặc điểm của cho vay: Cho vay của NHTM là một hoạt động phức tạp, thường xuyên chịu sự tác động của môi trường kinh tế. Nhưng về bản chất, hoạt động cho vay của NHTM có ba đặc điểm chính sau: Thứ nhất, cho vay là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. Điều đó có nghĩa là NHTM tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Thứ hai, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong một thời hạn xác định. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, ngân hàng thương mại thường xác định rõ thời hạn cho vay.Việc xác định thời hạn cho vay được dựa vào quá trình luân chuyển vốn của người đi vay và tính chất vốn của NHTM. Về quá trình luân chuyển vốn của người vay: Thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của người vay thì lúc đó người vay mới có điều kiện để trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì khi đến hạn, khách hàng chưa có nguồn thu để trả nợ. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn sai mục đích và không có nguồn để trả nợ. Về tính chất vốn của NHTM: nếu vốn của NHTM ổn định (vốn trung - dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hoặc khả năng huy động vốn tốt) thì thời hạn cho vay có thể dài hơn, ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả năng thanh toán của NHTM. Thứ ba, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của NHTM là vốn huy động của những người tạm thời có vốn nhàn rỗi nên sau một thời gian nhất định NHTM phải trả lại cho họ. Mặt khác, NHTM phải có nguồn để trả lãi cho người gửi tiền cũng như bù đắp chi phí hoạt động nên người vay vốn ngoài việc phải trả nợ gốc còn phải trả cho NHTM một khoản lãi. 1.1.3. Phân loại cho vay: Có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại hoạt động cho vay của NHTM. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu: 1.1.3.1. Theo phương thức cho vay: - Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay theo đó, ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô. Căn cứ vào ngân quỹ mà ta có thể xác định thời gian và số lượng thiếu để cho vay song không chính xác. Đây là hình thức ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho doanh nghiệp và cá nhân trong vài ngày hoặc vài tháng trong năm nhưng chỉ sử dụng cho khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. - Cho vay trực tiếp từng lần: Cho vay trực tiếp từng lần được sử dụng tương đối phổ biến khi ngân hàng cho vay khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khách hàng khi mở rộng sản xuất kinh doanh, nếu số vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại không đủ tài trợ thì khách hàng sẽ vay thêm ngân hàng. Như vậy vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khách hàng làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng sau đó đưa ra quyết định cho vay. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt và đảm bảo khả năng tương đối an toàn do tiền vay dựa vào tài sản đảm bảo, ngân hàng luôn kiểm tra mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng. - Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Ngân hàng sẽ kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ và ngân hàng sẽ phát tiền vay. Hình thức này áp dụng cho khách hàng có quan hệ vay mượn thường xuyên, vốn vay thường tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, hình thức này thuận lợi cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Nhưng lại gây khó khăn cho ngân hàng vì các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần vay. - Cho vay luân chuyển: Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Ngân hàng sẽ cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng bán được hàng hóa. Cho vay luân chuyển dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Khách hàng và ngân hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Khách hàng phải cam kết hoàn trả khoản vay và sử dụng mọi khoản thu bán hàng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi trích vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. - Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó khách hàng được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung - dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định và hàng hoá lâu bền. Hình thức này thường được áp dụng đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp, sau đó khách hàng sẽ trả tiền trực tiếp cho ngân hàng theo từng lần đã thỏa thuận. Hình thức này gặp rủi ro cao vì tài sản thế chấp lại chính là hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do vậy, lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: Nhằm đa dạng hóa các hình thức cho vay, ngân hàng phát triển hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian như là tổ, đội, hội, nhóm… Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như phát tiền vay hay thu nợ…Khi người vay không có hoặc không có đủ tài sản đảm bảo thì các tổ chức trung gian này đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay vốn. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Như thế nó tiết kiệm chi phí cho người vay. Hơn nữa nó còn làm giảm rủi ro cho ngân hàng do ngân hàng quản lý được vốn vay thông qua các tổ chức trung gian. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tổ chức trung gian đã lợi dụng vị thế của mình tăng lãi suất cho vay hoặc giữ số tiền cho riêng mình. Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ theo từng mục đích nghiên cứu 1.1.3.2. Theo thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Căn cứ vào thời hạn cho vay thì cho vay có thể được chia thành ba loại: - Cho vay ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc theo nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Các hình thức cho vay ngắn hạn được áp dụng là cho vay từng lần hay cho vay theo hạn mức, cho vay trực tiếp hoặc cho vay gián tiếp, cho vay có bảo đảm hoặc cho vay không cần bảo đảm, cho vay thấu chi hoặc luân chuyển. Khách hàng sẽ làm đơn và trình bày với ngân hàng kế hoạch sử dụng vốn vay. Từ đó ngân hàng thực hiện phân tích tín dụng, tính toán hiệu quả sử dụng vốn, xem xét rủi ro, các nguồn trả nợ. - Cho vay trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn. Bên cạnh đầu tư tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. - Cho vay dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn và có thời gian sử dụng dài. Cho vay dài hạn thường gắn với kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp, của từng ngành, từng địa phương và trong một số trường hợp được nhà nước chỉ định nguồn vốn có lãi suất ưu đãi. 1.1.3.3. Theo tài sản bảo đảm: - Cho vay có tài sản bảo đảm: Tài sản đảm bảo là hình thức hạn chế tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro. Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo thế chấp khi muốn ngân hàng cấp tín dụng. Trên cơ sở đó, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá, thẩm định tài sản và sẽ quyết định cho vay - Cho vay không có tài sản bảo đảm: hình thức này thường áp dụng đối với khách hàng quen thuộc, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Đôi khi ngân hàng cho vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản đảm bảo bởi có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đối với các công ty lớn, hoặc những khoản vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng giám sát tốt thì cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. 1.1.3.4. Theo mục đích sử dụng vốn: - Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cho vay đối với các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. - Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền… 1.2. Vai trò, nguyên tắc và đặc trưng của bảo đảm tiền vay 1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay: Hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế có vai trò quan trọng. Song hoạt động của các NHTM luôn tồn tại cùng với các rủi ro. Bên cạnh đó, trong hoạt động kinh doanh của các NHTM thì hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng nhưng cũng đem lại cho ngân hàng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy trong hoạt động tín dụng các ngân hàng phải có biện pháp để giảm bớt rủi ro cho mình. Đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản tiền vay. Biện pháp phổ biến mà các ngân hàng thường dùng là áp dụng cho vay có đảm bảo bằng tài sản. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng cho vay. Theo nghị định của chính phủ số 178/1999 NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thì: “Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay” Như vậy, Bảo đảm tiền vay là việc dùng tài sản hoặc uy tín của một cá nhân hay tổ chức để đảm bảo cho một khoản vay. Khi bên đi vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình thì ngân hàng sẽ coi bảo đảm tiền vay là nguồn thu nợ đã cho vay. 1.2.2. Vai trò bảo đảm tiền vay: Rủi ro tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được lãi hoặc gốc hoặc cả hai. Khi rủi ro tín dụng xảy ra đó là những yếu tố không bình thường trong quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động của ngân hàng như thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng, làm ngân hàng phá sản và tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Thường thì rủi ro tín dụng được thể hiện dưới hai hình thức: rủi ro mất vốn và rủi ro đọng vốn: rủi ro mất vốn là việc ngân hàng cho vay nhưng không thể thu hồi được nợ hoặc chỉ thu hồi được một phần, còn rủi ro đọng vốn là khách hàng chậm trễ trong việc trả nợ khi khoản vay đến hạn. Cho nên rủi ro tín dụng là mối đe doạ của các NHTM. Vì vậy trong hoạt động kinh doanh của mình các NHTM luôn chú trọng đến công tác phòng ngừa rủi ro. Việc hoàn thiện cũng như áp dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm tiền vay sẽ là một trong những biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất vì: Thứ nhất, Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được. Khi xem xét cấp tín dụng, ngân hàng đã xác định nguồn trả nợ thứ nhất như: cho vay tiêu dùng nguồn trả là thu nhập của khách hàng, cho vay vốn lưu động nguồn trả là doanh thu… Nhưng trong hoạt động kinh doanh có thể gặp phải bất kỳ việc gì kể cả những việc bất khả kháng và từ phía khách hàng làm cho nguồn trả nợ thứ nhất không thể thực hiện được, nếu như không có nguồn trả nợ thứ hai thì các ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro tín dụng. Vì vậy để bảo vệ lợi ích của chính của chính mình, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có những bảo đảm cần thiết. Thứ hai, Bảo đảm tiền vay gắn kết trách nhiệm vật chất của người đi vay trong quá trình sử dụng vốn vay tránh tình trạng khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc thiếu hiệu quả gây nên tổn thất và rủi ro cho ngân hàng. Bảo đảm tiền vay còn ràng buộc trách nhiệm vật chất, buộc khách hàng phải thận trọng trong việc sử dụng vốn vay làm sao để đảm bảo tính hiệu quả và hợp pháp, trả nợ cho ngân hàng đúng hạn để thu hồi tài sản đảm bảo thuộc sở hữu của mình và nâng cao uy tín với ngân hàng tạo điều kiện thiết lập quan hệ tín dụng lâu dài. Ngoài ra bảo đảm tiền vay còn ràng buộc trách nhiệm trả nợ khi họ cố tình lơ đi nghĩa vụ trả nợ của mình. Thứ ba, Bảo đảm tiền vay là một trong những điều kiện để các tổ chức cá nhận được cấp tín dụng, là bước khởi đầu trong quan hệ tạo lập tín dụng với NHTM vì đây là điều kiện để cấp tín dụng. Ví dụ như một khách hàng giao dịch lần đầu với ngân hàng, có phương án kinh doanh khả thi song khả năng tài chính chưa tốt và uy tín với ngân hàng sẽ khó cho ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định cấp tín dụng. Nhưng nếu có tài sản đảm bảo hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong quyết định của mình, tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, nhằm phòng tránh có sự sai sót về thẩm định khách hàng vay vốn hoặc khách hàng cố ý gian lận thì bảo đảm cho khoản vay cũng là biện pháp phòng chống gian lận hiệu quả. Nói chung bảo đảm tiền vay có vai trò quan trọng đối với NHTM, khách hàng vay vốn và toàn bộ nền kinh tế, giúp tạo lập quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, giúp ngân hàng phòng chống rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh. Song nếu quá chú trọng đến bảo đảm tiền vay hoặc đặt vai trò của bảo đảm tiền vay không đúng chỗ, coi bảo đảm tiền vay là cơ sở quyết định cho vay mà không quan tâm đến các yếu tố khác sẽ dẫn đến giảm chất lượng tín dụng. Bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng vệ khi gặp sự cố trọng hoạt động tín dung chứ không phải là nguyên tắc cấp tín dụng, phải biết vận dụng linh hoạt các biện pháp bảo đảm tiền vay để giảm bớt rủi ro, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển, nâng cao uy tín của ngân hàng. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay: Theo điều 4 của nghị định của Chính phủ số 178/1999 NĐ/CP quy định nguyên tắc của bảo đảm tiền vay là: Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của Nghị định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay được Chính phủ xử lý. Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, tổ chức tín dụng phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn. Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của Nghị định này và quy định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. Các đặc trưng bảo đảm tiền vay: Nói chung bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản được phép giao dịch mà có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy nhiên nhìn từ góc độ NHTM thì bảo đảm tiền vay phải thể hiện được 3 đặc trưng sau: Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm: Bảo đảm không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà có ý nghĩa thúc dục người đi vay phải trả nợ đúng hạn, ràng buộc trách nhiện vật chất. Nhưng nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người đi vay dễ có động cơ không trả nợ. Nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khách trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí không thuộc phạm vi bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ. Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ: Nghĩa là tài sản bảo đảm phải có tính thanh khoản, dễ trao đổi mua bán trên thị trường. Tính thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của ngân hàng thương mại. Nếu tính thanh khoản cao, tài sản dễ chuyển nhượng thì mức độ bảo đảm cao, còn nếu tính thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Ngược lại, tài sản có tính thanh khoản thấp ngân hàng thường không chấp nhận vì nguy cơ rủi ro cao. Có đầy đủ cơ sở pháp lý để NHTM có quyền ưu tiên về xử lý tài sản bảo đảm: Tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay, người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch để tạo điều kiện cho ngân hàng dễ dàng thực hiện hành vi chuyển giao, phát mại khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Tài sản phải được pháp luật thừa nhận và không thuộc diện cấm giao dịch. Điều này đảm bảo cơ sở pháp lý trong việc chuyển giao tài sản từ người đi vay sang người cho vay, đồng thời tránh những rắc rối phát sinh khi xảy ra sự cố, bảo đảm để ngân hàng có quyền ưu tiên về xử lý tài sản nhằm thu hồi nọ khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Tóm lại, Bảo đảm tiền vay vừa là nguồn thu nợ vừa có ý nghĩa tác động đến việc sử dụng vốn vay và thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Một khoản bảo đảm tiền vay có hiệu lực khi và chỉ khi nó có đầy đủ các đặc trưng trên. Các hình thức bảo đảm tiền vay: Trong nền kinh tế thị trường khi mà hoạt động của các doanh nghiệp, cá nhân ngày càng đa dạng và phong phú thì để thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng, hạn chế rủi ro đòi hỏi các NHTM phải áp dụng nhiều hình thức bảo đảm tiền vay, chấp nhận nhiều loại tài sản bảo đảm và vận dụng các hình thức đó một cách linh hoạt, thích ứng với từng khách hàng. Sau đây là các hình thức bảo đảm tiền vay 1.3.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản: 1.3.1.1. Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn: Thế chấp là việc bên đi vay dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Với hình thức này người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Không phải bất cứ một tài sản nào cũng có thể đem thế chấp mà nó phải thoả mãn một số điều kiện theo quy định của pháp luật. Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của ngân hàng song vẫn phải tham gia vào hoạt động. Những tài sản này ngân hàng không thể cầm cố. Ví dụ như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong quá trình sử dụng, hàng hoá đang trong quá trình luân chuyển. Các tài sản này thường cồng kềnh, phân tán. Hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhượng cũng không đơn giản. Trừ các ngân hàng, các công ty tài chính có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hoá cố định. Vì vậy, đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt là đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá trị của tài sản loại này thường lớn. vì vậy doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn. Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là một thuận lợi. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế káhch hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản gây thiệt hại cho ngân hàng. Chính vì thế mà khi nhận thế chấp ngân hàng cần phải xem xét kỹ càng cũng như có những thoả thuận hợp lý với bên đi vay để bảo đảm được chất lượng bảo đảm tiền vay đối với tài sản thế chấp. 1.3.1.2. Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn: Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ như các chứng khoán, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quí. Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Đối với hàng hoá, ngân hàng thường chấp nhận loại ít chịu tác động cuả môi trường( tính chất lý hoá và công dụng) trong thời gian cầm cố. Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là không an toàn cho ngân hàng. Thường là các hàng hoá dễ bán, dễ chuyển nhượng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể chấp nhận cầm cố các quyền tài sản phát sinh như: quyền tài sản phát sinh, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác. Các tài sản có thể cầm cố được thường phong phú hơn hơn các tài sản đem thế chấp và thường an toàn hơn vì ngân hàng được nắm giữ tài sản của khách hàng và những tài sản đó lại có khả năng chuyển đổi thành tiền cao. 1.3.1.3. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay (giá trị tài sản đó một phần hay toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó. Việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay thường được áp dụng trong trường hợp ngân hàng cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền hay cho vay tiêu dùng. Khách hàng sẽ thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Điều này mang lại cho ngân hàng rủi ro khá cao vì nguyên tắc cơ bản của bảo đảm tiền vay là muốn bảo đảm cho khoản vay trong khi đó tài sản bảo đảm lại được hình thành chính từ vốn vay ngân hàng. Điều này có thể làm giảm chất lượng bảo đảm tiền vay. Vì vậy khi cho vay có bảo đảm hình thành từ vốn vay thì ngân hàng luôn xem xét kỹ lưỡng khách hàng và các yêu cầu của khách hàng vay. Khách hàng được ngân hàng cho vay dưới hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là phải có độ tín nhiệm cao, có khả năng tài chính, có dự án đầu tư phát triển sản xuất, phương án kinh doanh khả thi và không trái quy định của pháp luật. 1.3.1.4. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh cam kết với ngân hàng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Bên nhận bảo lãnh là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh. Trong quan hệ tín dụng đó là các ngân hàng cho vay. Bên được bảo lãnh là khách hàng vay (con nợ), người có nghĩa vụ phải thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay. Bên bảo lãnh chỉ được phép bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu của chính mình hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất, còn lại đối với doanh nghiệp Nhà nước thì tài sản phải thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp đó để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện pháp cầm cố, thế chấp. Đây là hình thức bảo đảm kép, nhằm để phòng khi ngưòi bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ thì ngân hàng có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh. Để đảm bảo an toàn ngân hàng không chỉ thẩm định khách hàng mà còn cần phải thẩm định cả bên bảo lãnh một cách chặt chẽ. Trong quá trình bảo lãnh, người bảo lãnh phải có trách nhiệm trả nợ thay cho bên được bảo lãnh nếu như đến hạn thanh toán mà họ không trả được nợ cho ngân hàng và bên bảo lãnh cũng phải đôn đốc ngưòi đi vay thanh toán nợ cho ngân hàng. Mặt khác, ngưòi bảo lãnh cũng yêu cầu ngân hàng kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng khi cần thiết. Khi bên bảo lãnh đã trả nợ thay cho bên được bảo lãnh thì họ là chủ nợ trực tiếp, lúc này quan hệ giữa ngân hàng và bên bảo lãnh được chấm dứt. 1.3.2. Bảo đảm tiền vay khi cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: 1.3.2.1. Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Các ngân hàng được phép lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay phải có điều kiện sau: Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn trong quan hệ vay vốn với ngân hàng cho vay hoặc ngân hàng khác. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh,dịch vụ khả thi, có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật. Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của ngan hàng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản. 1.3.2.2. Tổ chức tín dụng cho vay theo đảm bảo bằng chỉ thị của Chính phủ Tổ chức tín dụng cho vay theo hình thức đảm bảo bằng chỉ thị của Chính phủ đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc các chương trình k._.inh tế trọng điểm, đặc biệt của Nhà nước, các chương trình kinh tế - xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ. Trách nhiệm của khách hàng vay theo hình thức bảo đảm bằng chỉ định của Chính phủ là: phải thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, thực hiện đúng các quy định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ khi sử dụng vốn vay đối với những khoản vay theo chỉ định; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tổn thất trong việc sử dụng vốn vay do các nguyên nhân chủ quan do mình gây ra. Trách nhiệm của các tổ chức tín dụng được cho vay theo hình thức bảo đảm bằng chỉ định của Chính phủ là: thực hiện đúng các quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với khoản cho vay được chỉ định và tuân thủ các quy định của pháp luật trong quá trình xem xét cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay và thu hồi nợ; Phải tổ chức theo dõi riêng các khoản cho vay theo chỉ định và báo cáo tình hình sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi nợ, kiến nghị xử lý những tổn thất trong các trường hợp không thu hồi được nợ. 1.3.2.3. Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Bảo lãnh bằng tín cháp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội là biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, theo đó tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở bằng uy tín của mình bảo lãnh cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ. Tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở của: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thực hiện bảo lãnh bằng uy tín của mình cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Người được bảo lãnh là các cá nhân, hộ gia đình nghèo là thành viên của một trong các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như ở trên khi họ vay một khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ. Mức vay tối đa của mỗi cá nhân, hộ gia đình nghèo được tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội bảo lãnh bằng uy tín của mình do Chủ tịch Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng cho vay quy định trong từng thời kỳ. Việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội tại cơ sở phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ các nội dung: số tiền vay, mục đích vay, nghĩa vụ của người vay, tổ chức tín dụng cho vay và tổ chức bảo lãnh. Tổ chức tín dụng cho vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội có quyền và nghĩa vụ: yêu cầu tổ chức bảo lãnh phối hợp với tổ chức tín dụngtrong việc kiểm tra sử dụng vốn và đôn đốc trả nợ, phối hợp với tổ chức bảo lãnh thực hiện cho vay và thu hồi nợ. Bên cạnh đó, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội bảo lãnh có quyền và nghĩa vụ: giúp đỡ, hướng dẫn,tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đinh nghèo vay vốn và sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu qủa, đôn đốc việc trả nợ đầy đủ, đúng hạncho tổ chức tín dụng, từ chối việc bảo lãnh nếu xét thấy cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sủ dụng vốn vay để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng. Và cá nhân, hộ gia đình nghèo được bảo lãnh vay vốn có nghĩa vụ: sử dụng vốn đúng như mục đích đã camkết, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụgn và tổ chức đoàn thể kinh tế - xã hội kiểm tra việc sử dụng vốn vay, trả nợ đầy đủ đúng hạn cho tổ chức tín dụng. 1.4. Quản lý tài sản bảo đảm: Quản lý tài sản bảo đảm là quá trình theo dõi, kiểm tra, đánh giá nhằm bảo đảm tài sản vẫn đang trong tình trạng bình thường hoặc kịp thời phát hiện các sự cố liên quan làm giảm giá trị của tài sản bảo đảm so với dự kiến đã nêu trong hợp đồng bảo đảm. Tuỳ theo tính chất và đặc điểm của tài sản bảo đảm mà cán bộ tín dụng cần chủ động đề xuất và thực hiện kiểm tra tài sản bảo đảm ít nhất 6 tháng/lần theo các nội dung: - Đánh giá tình trạng tài sản hiện tại; Những thay đổi về số lượng và chất lượng so với hiện trạng khi nhận tài sản bảo đảm. - Tình hình sử dụng và bảo quản tài sản bảo đảm. - Các trường hợp vi phạm cam kết của khách hàng vay theo quy định tại hợp đồng bảo đảm. 1.5. Xử lý tài sản bảo đảm: Trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại ngân hàng được xử lý để thu hồi nợ. Tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay giữa ngân hàng và bên bảo đảm. Các ngân hàng cho vay có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Bên thứ ba phải là tổ chức có tư cách pháp nhân và được quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải tuân thủ nguyên tắc công khai, thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích của ngân hàng cho vay và khách hàng đồng thời tiết kiệm được chi phí. Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thuhồi nợ trong trường hợp sau: Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ, mà tài sản bảo đảm tiền vay chưa được xử lý theo thoả thuận. Khách hàng vay phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trước hạn theo quy định của pháp luật, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Khách hàng vay là tổ chức kinh tế bị giải thể trước khi đến hạn trả nợ, thì nghĩa vụ trả nợ tuy chưa đến hạn cũng coi như là đến hạn, nếu khách hàng vay không trả nợ và không xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để trả nợ, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản để thu hồi nợ. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện được các biện pháp đối với tài sản bảo đảm khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi,cổ phần hoá thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trước khi thực hiện chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi,cổ phần hoá. Các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ: - Bán tài sản bảo đảm tiền vay. - Trực tiếp nhận các khoản tiền, tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh. - Nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. 1.6. Chất lượng bảo đảm tiền vay: 1.6.1. Quan niệm về chất lượng bảo đảm tiền vay: Hoạt động tín dụng là hoạt động có khả năng sinh lợi nhiều nhất cho hầu hết các ngân hàng nhưng nó cũng lại chịu rủi ro cao nhất. Do đó, để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay để ngăn ngừa được các rủi ro có thể xảy ra. Nên việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay ngân hàng mong muốn có chất lượng cao. Chất lượng của bảo đảm tiền vay không chỉ phản ánh về tài sản đảm bảo mà còn phải thể hiện ở thành quả thu được khi các khoản cho vay được bảo đảm bằng hình thức thích hợp. Như vậy, chất lượng bảo đảm tiền vay được hiểu là hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay để bảo đảm rằng các khoản cho vay của ngân hàng sẽ được trả đúng hạn và có lãi. Trong trường hợp khách hàng vay gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ thì ngân hàng chỉ có thể thu hồi được vốn thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo. Do đó có thể nói bảo đảm tiền vay là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng, không những đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay mà còn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và giúp ngân hàng hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra. Hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nên nếu thực hiện không tốt rất có thể sẽ có nguy cơ tiềm ẩn rủi ro xảy ra cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ vay, dẫn đến khả năng mất vốn và có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng đối với khách hàng. Từ lý do này có thể dẫn đến giảm uy tín của ngân hàng, tác động đến tâm lý của khách hàng gây ra tình trạng rút tiền hàng loạt dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản từ đó ảnh hưởng đến nền kình tế. Chính vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động bảo đảm tiền vay của mình. 1.6.2.Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng bảo đảm tiền vay: 1.6.2.1. Các chỉ tiêu định lượng: *Chỉ tiêu về dư nợ có tài sản bảo đảm so với tổng dư nợ: Dư nợ có tài sản bảo đảm Chỉ tiêu này được tính = Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu phần trăm dư nợ của ngân hàng được bảo đảm bằng tài sản. Nhìn chung, tỷ lệ này càng cao thì chất lượng bảo đảm tiền vay càng tốt. Nhưng cũng cần xem xét về chất lượng tài sản bảo đảm và chỉ tiêu này cao cũng chưa có nghĩa là việc cho vay của ngân hàng tốt. *Chỉ tiêu về dư nợ không có tài sản bảo đảm so với tổng dư nợ: Dư nợ không có tài sản bảo đảm Chỉ tiêu này được tính = Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu phần trăm dư nợ của ngân hàng không được bảo đảm bằng tài sản. Ngược lại với chỉ tiêu về dư nợ có bảo đảm bằng tài sản so với tổng dư nợ. Có thể nói là tỷ lệ dư nợ không có tài sản đảm bảo so với tổng dư nợ càng thấp thì chất lượng bảo đảm tiền vay của chi nhánh càng tốt. Song cũng phải cần xem xét khách hàng, món vay và chỉ tiêu này cao cũng không có nghĩa là chất lượng bảo đảm tiền vay đã tốt. Ví dụ như ngân hàng có nhiều khách hàng có tình hình kinh doanh tốt, quan hệ lâu dài với ngân hàng hoặc ngân hàng cho vay theo bảo đảm bằng chỉ định của Chính phủ thì chỉ tiêu trên sẽ cao nhưng không thể nói là chất lượng bảo đảm tiền vay thấp. *Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ không tài sản bảo đảm với dư nợ có bảo đảm bằng tài sản: Dư nợ không có tài sản bảo đảm Chỉ tiêu này được tính = Dư nợ có tài sản bảo đảm Chỉ tiêu này cho thấy tỷ trọng cho vay không đảm bảo bằng tài sản so với cho vay bảo đảm bằng tài sản. Chỉ tiêu này sẽ phản ánh rõ hơn chính sách cho vay của ngân hàng. Mỗi ngân hàng có chính sách cho vay khác nhau, nếu như có ngân hàng chấp nhận nhiều hình thức cho vay không có tài sản bảo đảm thì tỷ lệ dư nợ không có tài sản bảo đảm so với dư nợ có tài sản bảo đảm sẽ cao ngược lại với ngân hàng phụ thuộc vào tài sản bảo đảm khi đưa ra các quyết định cho vay. Nhìn chung như các chỉ tiêu đã đề cập ở trên tỷ lệ dư nợ cho vay không có tài sản bảo đảm so với dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm càng thấp càng tốt. Song cũng không phải lúc nào cũng vậycòn tuỳ vào khách hàng, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, chính sách tín dụng của ngân hàng….. * Chỉ tiêu về nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng sau khi vay đã đến thời hạn trả nợ theo thoả thuận trên hợp đồng tín dụng nhưng không hoàn trả được cho ngân hàng. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động tín dụng ngân hàng. Chỉ tiêu về nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm (%) giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng hay cuối năm. Đối với trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản thì: Nợ quá hạn với cho vay có bảo đảm bằng tài sản Tỷ lệ nợ quá hạn= Tổng nợ quá hạn Chỉ tiêu cho biết bao nhiêu phần trăm nợ qúa hạn của hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản so với tổng nợ quá hạn. Đối với trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản Nợ quá hạn cho vay không có tài sản bảo đảm Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng nợ quá hạn Chỉ tiêu cho biết bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn của hình thức cho vay không có bảo đảm so với tổng nợ quá hạn. Chỉ tiêu tổng thể như: Nợ quá hạn ứng với các hình thức bảo đảm tiền vay Tổng nợ quá hạn Các chỉ tiêu trên chỉ mức độ an toàn đối với từng hình thức bảo đảm tiền vay. Nếu các tỷ lệ này cao chứng tỏ biện pháp bảo đảm tiền vay là không có hiệu quả. Tỷ lệ nợ quá hạn cao biểu hiện độ an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng là thấp và ngược lại. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ an toàn trong hoạt động của ngân hàng và cũng đánh giá hiệu quả của hoạt động cho vay nói chung, chất lượng bảo đảm tiền vay nói riêng. 1.6.2.2. Các chỉ tiêu định tính: Ngoài các chỉ tiêu định lượng ở trên ngân hàng có thể sử dụng các chỉ tiêu định không thể lượng hoá được sau để đánh giá chất lượng của công tác bảo đảm tiền vay. Các chỉ tiêu này chủ yếu là việc ngân hàng tính trước các rủi ro mà các khoản vay đem lại. Chất lượng bảo đảm tiền vay thể hiện ở việc ngân hàng sau khi cho vay đã thu hồi được khoản nợ bao gồm cả gốc và lãi, hay có thể là khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ tiến hành xử lý các tài sản đảm bảo cho khoản vay đó. Tuỳ theo quan điểm của mỗi ngân hàng thì họ sẽ tiến hành phân loại các khoản cho vay theo các mức độ rủi ro khác nhau như là: khoản cho vay đạt tiêu chuẩn; cận chuẩn; có vấn đề; không thu hồi được. *Đạt tiêu chuẩn: Là khoản cho vay có bảo đảm tiền vay có chất lượng và không có nợ quá hạn. *Cận chuẩn: là khoản cho vay có bảo đảm nhưng có biểu hiện một số điểm yếu tín dụng như nguồn vốn của người vay có biểu hiện không đủ đáp ứng cam kết trả nợ hoặc là trên giấy tờ giá trị tài sản đảm bảo thỏa mãn nhưng hồ sơ không chắc chắn, khả năng tiêu thụ tài sản và tình hình phát mại tài sản gặp khó khăn. *Có vấn đề: là khoản cho vay cận chuẩn nhưng căn cứ vào thực tiễn và giá trị hiện tại thấy rằng việc thu đủ nợ là không chắc chắn và đáng ngờ. *Không thu hồi được: là khoản cho vay không thể thu hồi được hoặc khả năng thu hồi là rất ít, khả năng thanh lý gặp khó khăn như không bán được tài sản trên thị trường hoặc bị kiện tụng về pháp lý. Ngoài những chỉ tiêu trên chúng ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng công tác bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Chỉ tiêu về hao mòn vô hình của tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp thường là những máy móc, dây chuyền công nghệ.. có tính chất công nghệ cao, thường bị hao mòn rất nhiều, khó dự đoán. Nó có thể làm cho giá trị của tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay giảm đi rất nhiều so với khi được định giá ban đầu và làm cho ngân hàng bị thiệt thòi khi sử dụng tài sản là nguồn thu hồi nợ thứ hai. Độ chính xác của các giấy tờ liên quan đến tài sản: độ chính xác, rõ ràng và tính hợp pháp của các giấy tờ chứng nhận sở hữu và quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản sẽ ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo có được dễ dàng không. Do chất lượng bảo đảm tiền vay phản ánh sự thu hồi các khoản vay của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ, nên nếu ngân hàng không thể thanh lý tài sản đảm bảo thì không thể coi là có chất lượng bảo đảm tiền vay cao. Chỉ tiêu về khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay của khách hàng trên cơ sở tài sản bảo đảm: đương nhiên là ngân hàng chỉ cho vay món vay có giá trị thấp hơn giá trị của tài sản bảo đảm nhưng vấn đề ở chỗ là thấp hơn bao nhiêu thì hợp lý. Nếu mức chênh lệch về giá trị này qúa lớn thì khách hàng sẽ bị thua thiệt và sẽ không muốn vay vốn tại ngân hàng, còn nếu ngân hàng cho vay món vay gần với giá trị tài sản bảo đảm thì ngân hàng sẽ khó bảo đảm được chất lượng bảo đảm tiền vay. Chỉ tiêu về tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay: Ngân hàng nếu có sự lựa chọn tài sản bảo đảm phù hợp, sử dụng phương thức đảm bảo tốt thì sẽ tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo nên an toàn xã hội và chi phí bỏ ra thấp. Tài sản bảo đảm là yếu tố để ngân hàng quyết định mức cho vay. Do đó việc định giá chính xác tài sản bảo đảm là hết sức quan trọng. Nó giúp ngân hàng đảm bảo được quyền lợi cho chính bản thân mình và cho cả khách hàng. Trên đây là các chỉ tiêu định tính nhưng nó chỉ là những căn cứ để đánh giá hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay một cách khái quát. Để có những kết luận chính xác hơn cần dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể. 1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền vay: 1.7.1. Nhân tố thuộc về ngân hàng: Thứ nhất là chất lượng công tác thẩm định tài sản đảm bảo và thẩm định khách hàng: khi đưa ra các quyết ra các quyết định cho vay thì ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định. Mục đích của công tác thẩm định nhằm giúp ngân hàng biết được tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để đưa ra quyết định cho vay phù hợp. Chất lượng của công tác thẩm định quyết định hiệu quả của công tác đảm bảo tiền vay. Nếu chất lượng của công tác thẩm định tốt, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích đánh giá chính xác hoạt động của khách hàng vay để từ đó có quyết định đúng đắn đảm bảo khả năng thu hồi được vốn và lãi. Chất lượng của công tác thẩm định tài sản bảo đảm và thẩm định khách hàng phụ thuộc vào các nhân tố như: trình độ chuyên môn của cán bộ thẩm định, quy trình thẩm định…. Thứ hai, chất lượng của cán bộ tín dụng ngân hàng: cán bộ tín dụng là người thay mặt ngân hàng tiếp xúc khách hàng, thẩm định đánh giá khách hàng để đưa ra các biện pháp bảo đảm tiền vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Vì vậy trình độ của cán bộ tín dụng là rất quan trọng. Trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản, việc đánh giá chính xác được giá trị tài sản bảo đảm, xác định được tài sản là có thực hay không, khách hàng vay có gian lận trong tài sản bảo đảm hay không là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên môn giỏi. Còn đối với trường hợp cho vay dựa trên uy tín của khách hàng vay thì việc đánh giá chính xác được khách hàng vay cũng cần có các cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và kiến thức thì mới có thể xác định được chính xác vấn đề. Nhưng một cán bộ tín dụng ngoài có năng lực trình độ cao còn phải có đạo đức nghề nghiệp. Bởi nếu cán bộ tín dụng cố tình đánh giá sai giá trị tài sản bảo đảm để đưa ra mức cho vay cao hơn giá trị thật của nó, do đó gây ảnh hưởng rất lớn đên việc xử lý tài sản đảm bảo sau này khi mà khách hàng vay không có khả năng trả nợ…. Thứ ba, chiến lược kinh doanh, mục tiêu của ngân hàng: trong mỗi thời kỳ khác nhau thì mỗi ngân hàng cũng có những chiến lược và mục tiêu khác nhau. Đây là nhân tố tác động đến quyết định cho vay của ngân hàng. Nếu ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động tín dụng của mình thì ngân hàng sẽ mở rộng danh mục tài sản đảm bảo cũng như linh hoạt hơn trong các biện pháp bảo đảm tiền vay…. Ngoài ra công tác bảo quản, quản lý cũng như xử lý tài sản đảm bảo cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng bảo đảm tiền vay. Nếu quản lý không tốt tài sản bị giảm giá trị, gây mất lòng tin đối với khách hàng khi họ đem tài sản cầm cố, thế chấp đồng thời còn làm giảm doanh thu của ngân hàng khi thanhlý tài sản. Như vậy ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền vay. 1.7.2. Nhân tố thuộc về khách hàng: Trước hết phải nói đến năng lực tài chính, trình độ quản lý của khách hàng vay: Năng lực tài chính của khách hàng vay vốn là rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến chất lượng của công tác bảo đảm tiền vay. Ngân hàng thường chỉ cho vay trong trường hợp khách hàng vay có hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả, có tài sản bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng.Trình độ quản lý của khách hàng nếu bị yếu, chưa đủ sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường có thể dẫn đến tình trạng khách hàng không đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng khiến hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút. Nhân tố thứ hai từ phía khách hàng là vấn đề đạo đức khách hàng, tư cách đạo đức của khách hàng vay cũng có tác động đến hiệu quả của bảo đảm tiền vay. Trong nhiều trường hợp khách hàng vay vốn đã có sự thiếu trung thực trong các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, các chứng từ và tài liệu liên quan đến mục đích vay vốn và sử dụng vốn như thế nào. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc theo dõi, giám sát, quản lý vốn vay của khách hàng để từ đó có thể đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, những biện pháp tình thế kịp thời, điều này làm hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút. Những thông tin về khách hàng đều chủ yếu dựa trên sự cung cấp của khách hàng. Do đó, nếu các khách hàng cố tình lừa đảo, cung cấp các thông tin không đúng sự thật thì khả năng ngân hàng gặp phải rủi ro là rất cao hoặc có nhiều trường hợp khách hàng cố tình lợi dụng các khe hở của pháp luật để cố tình chây ỳ, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo khiến việc thu hồi nợ của ngân hàng bị kéo dài và như vậy làm cho vấn đề bảo đảm tiền vay trở nên không còn ý nghĩa. Vì vậy để đạt được hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay thì ngân hàng phải lựa chọn để tìm được những khách hàng có tư cách đạo đức, có đủ năng lực tài chính, có uy tín, có hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao. Ngoài ra, tính đúng mục đích của việc sử dụng vốn: Một trong những yêu cầu cơ bản của ngân hàng đối với khách hàng khi cho vay là khách hàng phải sử dụng vốn đúng mục đích và ngân hàng nào cũng có những biện pháp để giám sát mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp sử dụng vốn sai mục đích ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Chẳng hạn, các khách hàng sử dụng vốn ngân hàng không đúng với phương án, mục đích khi xin vay, không đúng đối tượng kinh doanh… Đây có thể là một trong những nguyên nhân của việc khách hàng không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng. 1.7.3. Nhân tố khác: - Môi trường pháp lý: Mỗi quốc gia đều có các văn bản pháp luật do Chính phủ, NHNN và các Bộ ngành có liên quan ban hành ra nhằm hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện hoạt động bảo đảm tiền vay. Các hình thức bảo đảm tiền vay áp dụng cho mỗi nước tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà các văn bản quy định được ban hành ra là nới lỏng hay thắt chặt. Các hệ thống văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay có sự thống nhất, hoàn thiện và chặt chẽ sẽ là hành lang pháp lý giúp các ngân hàng thương mại thực hiện vấn đề an toàn trong cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế thì quá trình thực hiện hoạt động bảo đảm tiền vay thì ngân hàng đã gặp phải những vướng mắc do các văn bản quy định đang có sự chồng chéo nhau, không phù hợp với thực tế. Do đó đã có những trường hợp khách hàng lợi dụng các kẽ hở pháp luật để lừa đảo ngân hàng. Vì vậy, để giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc ra quyết định cho vay, giảm bớt thời gian thẩm định thì Chính phủ, NHNN và các Bộ ngành có liên quan cần phải có chính sách, chủ trương chỉnh sửa các văn bản theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt các áp lực cho ngân hàng khi thực hiện vấn đề bảo đảm tiền vay. - Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế cũng có những tác động nhất định đến hoạt động của ngân hàng nên nó cũng tác động đến công tác bảo đảm tiền vay. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ làm giá cả ở mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mở rộng quy mô hoạt động của mình. Trong thời kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh sẽ có nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng sẽ tăng lên, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng cho vay và hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay được nâng lên. Ngược lại, trong thời kỳ kinh tế bị suy thoái, quy mô sản xuất bị thu hẹp, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, thua lỗ kéo dài dẫn đến các khách hàng khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút. - Môi trường chính trị xã hội: Một đất nước có vấn đề chính trị ổn định sẽ tạo tâm lý tốt cho người dân, từ đó tạo sự mạnh dạn trong đầu tư và ngân hàng cũng mạnh dạn hơn trong hoạt động cho vay. Môi trường chính trị ổn định, không có chiến tranh là môi trường thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Xã hội có nhiều truyền thống tốt đẹp, ít tệ nạn xã hội như lừa đảo, làm ăn phi pháp cũng góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay. - Mức độ an toàn của tài sản bảo đảm: Mức độ an toàn của tài sản bảo đảm cũng tác động đến hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay. Đối với những tài sản có mức độ an toàn cao hơn sẽ được các ngân hàng ưa chuộng vì nó sẽ có độ rủi ro thấp hơn, hiệu quả của bảo đảm tiền vay sẽ cao hơn. Những tài sản có độ an toàn cao là những tài sản dễ dàng xác định được quyền sở hữu, có thị trường tiêu thụ rộng rãi… và là những tài sản dễ bán với chi phí thấp nên ngân hàng sẽ dễ thu hồi được vốn nhanh và dễ dàng hơn. - Những nhân tố bất khả kháng: Những nhân tố như thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn, dịch bệnh là những nhân tố bất khả kháng mà khách hàng nào cũng phải đối mặt, nó có thể tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho khách hàng. Các nhân tố này được gọi là bất khả kháng vì chúng thường vượt quá tầm kiểm soát của cả ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, sự tác động của những nhân tố này tới người vay thường là rất nặng nề, họ thường bị tổn thất lớn, khả năng trả nợ của ngân hàng bị suy giảm, thậm chí không còn khả năng trả nợ. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CẦU GIẤY 2.1. Khái quát hoạt động kinh doanh của chi nhánh: 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NH No&PT NT) Cầu Giấy ®­îc thµnh lËp ngµy 20/10/1996. §©y lµ ng©n hµng cÊp 2 trùc thuéc NH No&PT NT Hµ Néi, cã quyÒn tù chñ kinh doanh vµ chÞu sù rµng buéc vÒ nghÜa vô, quyÒn lîi víi NH No&PT NT ViÖt Nam. Vèn ban ®Çu chØ lµ mét phßng giao dÞch nhá cña huyÖn Tõ Liªm ngay tõ nh÷ng ngµy ®Çu míi thµnh lËp, ngân hàng ®· ®øng tr­íc rÊt nhiÒu khã kh¨n: C¬ së vËt chÊt thiÕu thèn, l¹c hËu, ®éi ngò c¸n bé Ýt ái vµ tr×nh ®é cßn nhiÒu h¹n chÕ. Song do b¸m s¸t ®Þnh h­íng ho¹t ®éng, ®­îc sù quan t©m cña c¸c cÊp chÝnh quyÒn cïng víi sù cè g¾ng nç lùc cña c¸n bé c«ng nh©n viªn, ng©n hµng ®· tõng b­íc kh¾c phôc nh÷ng khã kh¨n, ®¹t ®­îc nh÷ng thµnh c«ng ®ãng gãp vµo thµnh tÝch chung cña NH No&PT NT Hµ Néi: Hu©n ch­¬ng lao ®éng h¹ng Ba- 1998, hu©n ch­¬ng chiÕn c«ng h¹ng Ba- 2001. §Çu n¨m 2004 Chi nh¸nh NH No&PT NT CÇu GiÊy ®· ®­îc x©y dùng míi- mét c«ng tr×nh khang trang ®· cho thÊy phÇn nµo quy m« vµ sù ph¸t triÓn kh«ng ngõng cña chi nh¸nh. §Õn n¨m 2006, c¨n cø QuyÕt ®Þnh sè 35/Q§- NHNN ngµy 12 th¸ng 1 n¨m 2006 cña thèng ®èc Ng©n hµng Nhµ n­íc vÒ viÖc chÊp nhËn më chi nh¸nh cña NH No&PT NT ViÖt Nam. C¨n cø §iÒu lÖ vÒ tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña NH No&PT NT ViÖt Nam; ban hµnh kÌm theo QuyÕt ®Þnh sè 117/Q§/H§QD- NHNN ngµy 3/6/2002 cña chñ tÞch Héi ®ång qu¶n trÞ NH NN&PT NT ViÖt Nam ®· ®­îc thèng ®èc Ng©n hµng Nhµ n­íc chuÈn y t¹i QuyÕt ®Þnh sè 571/2002/Q§-NHNN ngµy 5/6/2002. Theo ®Ò nghÞ cña tæng gi¸m ®èc NH No&PT NT ViÖt Nam. Ngµy 13/1/1006, Héi ®ång qu¶n trÞ NH No&PT NT ViÖt Nam quyÕt ®Þnh më chi nh¸nh NH No&PT NT ViÖt Nam chi nh¸nh CÇu GiÊy trªn c¬ së ®iÒu chØnh, n©ng cÊp chi nh¸nh cÊp 2 víi tªn gäi vµ ®Þa chØ lµ: Tªn gäi: Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n ViÖt Nam chi nh¸nh CÇu GiÊy. Trô së: t¹i nhµ sè 99, §­êng TrÇn §¨ng Ninh, Ph­êng DÞch Väng, QuËn CÇu GiÊy, Thµnh phè Hµ Néi. Chi nh¸nh NH No&PT NT ViÖt Nam chi nh¸nh CÇu GiÊy lµ ®¬n vÞ phô thuéc NH No&PT NT ViÖt Nam, cã con dÊu, b¶ng c©n ®èi kÕ to¸n, ®­îc tæ chøc vµ ho¹t ®éng theo Quy chÕ tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña chi nh¸nh NH No&PT NT ViÖt Nam ban hµnh kÌm theo QuyÕt ®Þnh sè 454/Q§/H§QT-TCCB ngµy 24/12/2004 cña Héi ®ång qu¶n trÞ NH No&PT NT ViÖt Nam. 2.1.2. Bộ máy tổ chức của chi nhánh và nhiệm vụ phòng tín dụng: S¬ ®å tæ chøc cña Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n CÇu GiÊy: Gi¸m ®èc Lª quèc tuÊn Phã Gi¸m §èc §ç V¨n §é Phã Gi¸m §èc NguyÔn ThÞ Lý KH-NV TÝn dông HC TC Vi tÝnh ThÈm ®Þnh TTQT Tæ KT KS KT-NQ Tæ tiÕp thÞ… C¸c phßng giao dÞch Phßng tÝn dông cã nhiÖm vô sau ®©y: Nghiªn cøu x©y dùng chiÕn l­îc kh¸ch hµng tÝn dông, ph©n lo¹i kh¸ch hµng vµ ®Ò xuÊt c¸c ._.̣ an toàn không cao bằng những tài sản thường được áp dụng nhưng như chúng ta đã biết thì yêu cầu về các tài sản bảo đảm chỉ là thứ yếu, quan trọng là hiệu quả của dự án vay vốn và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế đã có nhiều trường hợp xảy là khách hàng vay do không đủ tài sản bảo đảm nên được ngân hàng cho vay dù dự án của khách hàng đó là có tính khả thi và hoạt động kinh doanh của họ trong thời gian vừa qua được đánh giá là tốt. Vì vậy, có thể nói việc mở rộng danh mục tài sản bảo đảm là hết sức cần thiết đối với cả khách hàng lẫn ngân hàng. Một khi danh mục tài sản bảo đảm được đa dạng hoá thì tất yếu sẽ thu hút được đông đảo khách hàng tham gia vay vốn hơn. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các ngân hàng đang có sự cạnh tranh mạnh mẽ trên mọi phương diện thì việc ngân hàng bỏ lỡ cơ hội vì bất kỳ lý do gì cũng có thể làm cho ngân hàng thiếu sức hút đối với khách hàng. Do đó, để đạt được mục tiêu là mở rộng hoạt động tín dụng gắn liền với an toàn trong cho vay, tăng khả năng cạnh tranh thì đỏi hỏi ngân hàng phải sử dụng đồng thời nhiều loại tài sản bảo đảm, hình thức bảo đảm và phải vận dụng nó một cách khéo léo thích ứng với điều kiện của mỗi khách hàng. Ví dụ như đối với các doanh nghiệp lớn, tổng công ty thì việc ngân hàng yêu cầu tài sản quá khắt khe mà không mở rộng danh mục tài sản bảo đảm có thể dẫn đến việc khách hàng không vay vốn gây ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước thì để ra quyết định cho vay ngân hàng nên chú ý ưu tiên đến tính hiệu quả của dự án hơn là yêu cầu về tài sản bảo đảm. Như vậy, có thể nói việc đa dạng hoá danh mục tài sản bảo đảm bằng những tài sản bảo đảm mới là một công việc không dễ dàng đòi hỏi ngân hàng phải có được kế hoạch, chiến lược cụ thể phù hợp để sử dụng các hình thức bảo đảm tiền vay một cách có chất lượng và đạt hiệu quả. 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng và thẩm định tài sản bảo đảm: Trước khi quyết định cho vay cần phải phân tích tín dụng, đánh giá khả năng tài chính tư cách đạo đức tư cách pháp nhân. Thẩm định khách hàng là một công việc rất quan trọng, đặc biệt là trong trường hợp ngân hàng quyết định cho vay không có tài sản bảo đảm. Thông tin từ phía khách hàng chính là yếu tố quyết định xem ngân hàng có thể cho vay hay không. Ngân hàng cần phải thẩm định khách hàng nhằm xác định được các khách hàng có uy tín để cho vay trong trường hợp khách hàng vay không có tài sản bảo đảm và mở rộng hoạt động tín dụng trên quan điểm an toàn, sinh lợi. Thẩm định khách hàng dựa trên cơ sở thẩm định tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, nguồn thu và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Đây là điều kiện cần còn sử dụng hình thức bảo đảm cho các khoản vay là điều kiện đủ nhưng cũng không thể thiếu được trong tình hình hiện nay khi mà hoạt động tín dụng thường gặp rủi ro. Thực hiện tốt công tác thẩm định khách hàng sẽ giúp ngân hàng có thể phân loại khách hàng một cách chính xác hơn. Vì vậy, ngân hàng cần thiết lập những quy định thật chi tiết, chặt chẽ, cụ thể trong bảo đảm tiền vay để phù hợp với từng đối tượng khách hàng; bên cạnh đó ngân hàng còn phải thành lập một tổ thẩm định khách hàng riêng để có thể thẩm định khách hàng một cách tập trung hơn, thu thập thông tin về khách hàng được chính xác hơn. Trong quá trình thẩm định tài sản bảo đảm cần tập trung làm rõ: quyền sở hữu tài sản bảo đảm của khách hàng vay hay bên bảo lãnh, tài sản hiện có tranh chấp hay không, tài sản đó có được phép giao dịch hay không, tài sản đó có dễ chuyển nhượng không, xác định giá trị của tài sản đó, khả năng thu hồi nợ trong trường hợp phải xử lý tài sản bảo đảm. Đó là những nội dung quan trọngtrong công tác thẩm định tài sản nó quyết định tới an toàn của khoản vay sau này. 3.2.4. Hoàn thiện công tác định giá tài sản bảo đảm và thường xuyên định giá lại tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm là một trong những điều kiện để xem xét cho vay và định mức cho vay. Nếu định giá không đúng sẽ ảnh hưởng đến cả ngân hàng và khách hàng. Khi được sủ dụng làm bảo đảm cho khoản vay, tài sản phải được định giá đúng và trong trường hợp người vay không trả nợ ngân hàng có thể nắm quyền sở hữu, thanh lý để thu hồi nợ gốc và lãi phát sinh cộng với chi phí thanh lý. Một bước quan trọng trong việc bảo đảm là việc phải chắc chắn là nếu cần phải thanh lý thì số tiền bán tài sản có thể đủ để thu hồi nợ vay. Vì vậy, thẩm định đúng tài sản là vô cùng quan trọng nhưng việc định giá đúng không phải đơn giản mà đòi hỏi trình độ chuyên môn cao. Đối với những tài sản bảo đảm thuộc loại đặc biệt phải do tổ chức định giá chuyên nghiệp tiến hàng. Một giải pháp là chi nhánh thành lập một bộ phận thẩm định tài sản ngay tại ngân hàng và một tổ chuyên gia cộng tác với ngân hàng. Giá trị của tài sản bảo đảm cho một khoản vay của khách hàng luôn thay đổi theo thời gian do nhiều nguyên nhân như: giá cả thị trường biến động, tài sản hao mòn hữu hình hoặc vô hình…. Do vậy việc thường xuyên định giá tài sản bảo đảm là cần thiết để hạn chế rủi ro trong cho vay. Khi định giá cần phân tích những diễn biến thay đổi của thị trường để định giá những tài sản này để điều chỉnh mức cho vay một cách phù hợp hoặc nếu giảm mạnh có thể yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản bảo đảm. 3.2.5. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý tài sản bảo đảm và việc sử dụng vốn của khách hàng: Ngân hàng muốn thực hiện tốt vấn đề an toàn trong cho vay thì cần phải làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý tài sản đảm bảo và việc sử dụng vốn của khách hàng. Bởi vì có như vậy thì ngân hàng mới sớm phát hiện được tình trạng thức tế của khách hàng để từ đó có biện pháp xử lý thích hợp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng. Khi kiểm tra như vậy cũng mới phát hiện ra được khách hàng có sử dụng vốn vay đúng như cam kết với ngân hàng hay không. Khi áp dụng biện pháp cho vay không có tài sản bảo đảm thì việc kiểm tra lại càng phải chú ý hơn. Phải thiết lập được quan hệ thường xuyên với khách hàng nhầm giám sát kiểm tra nguồn vốn sử dụng, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó là cách để đánh giá khách hàng có khả năng trả nợ hay không từ đó có biện pháp thu nợ. Đó là biện pháp hữu hiệu để bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản hay không có bảo đảm bằng tài sản giúp cho ngân hàng ngăn chặn và giảm thiểu những rủi ro. 3.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác xử lý tài sản bảo đảm: Biện pháp cuối cùng để thu hồi nợ là xử lý tài sản bảo đảm, đây là một công việc hết sức khó khăn. Khi khách hàng vay không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng phải tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để làm cho hoạt động tín dụng của ngân hàng được an toàn và hiệu quả. Đây là một công việc phức tạp, đòi hỏi thời gian dài. Vì vậy đối với các khoản nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm cần phải tập trung nghiên cứu để phân tích nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển hoá tài sản này thành tiền. Trên thực tế, việc xử lý tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân như thủ tục pháp lý còn có sự bất cập, ngân hàng không nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng có liên quan đến việc thu hồi tài sản hay do chủ nợ không tự nguyện giao tài sản cho ngân hàng. Vì vậy, để đạt được mục đích của hoạt động bảo đảm tiền vay thì ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác xử lý tài sản bảo đảm. Có rất nhiều các hình thức để xử lý tài sản bảo đảm: theo thoả thuận trong hợp đồng(nếu có), nếu không ngân hàng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố để thu nợ, ngân hàng có thể uỷ quyền việc bán đấu giá tài sản cho trung tâm đấu gía tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Trong các hình thức xử lý thì việc phát mại tài sản là biện pháp mà cả ngân hàng và khách hàng đều không mong muốn dùng vì giá trị tài sản thu được thấp, tốn thời gian, khó trong định giá tài sản và đỏi hỏi cán bộ giỏi chuyên môn và am hiểu thị trường. Chi nhánh có thể cho thuê trực tiếp tài sản và đúng ra thu tiền, góp vốn liên doanh….hoặc thành lập một bộ phận chuyên xử lý các khoản nợ tồn đọng thông qua xử lý tài sản bảo đảm và áp dụng hàng loạt các biện pháp vừa mang tính thuyết phục, vừa mang tính cưỡng chế. 3.2.7. Xây dựng được hệ thống thông tin và từng bước đổi mới công nghệ ngân hàng: Việc nắm bắt thông tin là một điều quan trọng quyết định thành công trong cho vay. Vì vậy chi nhánh nên xây dựng một hệ thống thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định định giá khách hàng và tài sản bảo đảm. Cho nên khi cho vay phải nắm bắt thông tin về khách hàng vay vốn, thông tin có thể thu thập từ chính khách hàng hoặc cơ quan khác. Chi nhánh phải tạo lập mối quan hệ với các cơ quan như cơ quan công an, uỷ ban nhân dân các cấp, toà án hay tổ chức tín dụng khác để có được những thông tin chính xác, cập nhật. Đổi mới công nghệ ngân hàng sẽ giúp cho các cán bộ ngân hàng thuận lợi hơn trong việc quản lý nội bộ ngân hàng cũng như chất lượng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp ra. Đồng thời ngân hàng có thể xác định được thông tin về khách hàng một cách chính xác và nhanh nhất, có sự kiểm tra, quản lý các loại hình tài sản bảo đảm. Để công nghệ ngân hàng luôn được đổi mới phù hợp với xu thế thì ngân hàng phải luôn cập nhật được thông tin, các phần mềm ứng dụng mới. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần đào tạo các cán bộ có trình độ năng lực về tin học, chịu khó nghiên cứu tìm tòi học hỏi; bố trí những vị trí ổn định cho các cán bộ này để họ có thể yên tâm làm việc và đào sâu chuyên môn hơn nữa. 3.2.8. Một số giải pháp khác: Ngoài các giải pháp trên còn một số giải pháp khác để nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay như đơn giản hoá các hồ sơ thủ tục cho vay giúp khách hàng tiếp cận tốt hơn và nhanh hơn với nguồn vốn của ngân hàng cũng như giúp ngân hàng có thể mở rộng tín dụng. Hoặc yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm tài sản bảo đảm, có các quy định trong việc lựa chọn tài sản bảo đảm phù hợp với từng khoản vay……. 3.3. Kiến nghị: 3.3.1. Kiến nghị với NH No&PT NT Việt Nam: Thø nhÊt, Trong những năm qua, đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện luật NHNN, luật các tổ chức tín dụng và luật về quy chế bảo đảm tiền vay do Ngân hàng Nhà nước ban hành. NH No&PT NT Việt Nam đã có văn bản chỉ đạo kịp thời nhưng nhìn chung là còn chậm. Do vậy, NH No&PT NT cần phải triển khai kịp thời, ban hành thêm một số văn bản cụ thể hoá và hướng dẫn các văn bản pháp luật của NHNN ban hành nhưng chưa rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh trong hệ thống NH No&PT NT khi áp dụng. Bên cạnh đó cũng cần có những văn bản, quyết định của NH No&PT NT ban hành tới các chi nhánh trong cùng hệ thống NH No&PT NT được triển khai kịp thời, có hướng dẫn cụ thể việc thi hành các văn bản đó. Hoạt động của ngân hàng là một hoạt động hết sức nhạy cảm, nó xảy ra thường xuyên và liên tục trên cơ sở tuân thủ một cách chặt chẽ theo các quy phạm pháp luật đã đề ra và hướng dẫn của cấp trên nên nếu văn bản không được triển khai kịp thời thì nó sẽ làm cho hiệu lực của văn bản bị hạn chế và ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động tín dụng cũng như công tác bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Thø hai, Cần xây dựng chính sách bảo đảm tiền vay chung hợp lý hơn và có biện pháp triển khai áp dụng chính sách phù hợp với từng chi nhánh, tránh áp đặt chạy theo thành tích, đặt ra các chỉ tiêu cứng nhắc buộc các chi nhánh phải áp dụng giống nhau. Thø ba, Ngân hàng cần có các kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực sẵn cho nhu cầu tương lai, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ. Vai trò của người lãnh đạo có vị trí hết sức quan trong, đặc biệt là giám đốc các chi nhánh thành viên và các chi nhánh trực thuộc có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của toàn hệ thống ngân hàng. Bởi vậy, NH No&PT NT cần phải mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý, quản trị điều hành, nghệ thuật kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường. Thø t­, NH No&PT NT cần chỉ đạo sát sao các chi nhánh trong việc đổi mới phong cách làm việc hiệu quả hơn, tạo môi trường làm việc tốt. Bên cạnh đó NH No&PT NT cũng nên giao quyền tự quyết hơn nữa cho các chi nhánh của mình trong việc kinh doanh của mình và có các quy định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ về những quyết định của mình. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN: Trước hết NHNN cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo đảm tiền vay như hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay cầm cố, cho vay thế chấp…. NNHNN phải kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy phạm pháp luật tới các ngân hàng. Để tạo sự chủ động hơn cho các ngân hàng trong hoạt động cho vay thì NHNN phải nhanh chóng phổ biến sự thay đổi trong hướng điều chỉnh tới ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần giao quyền tự quyết nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh của mình cho các ngân hàng. Thứ hai, NHNN cần tăng cường công tác kiểm soát, xây dựng hệ thống thanh tra đủ lớn về số lượng và đủ mạnh về chất lượng để đảm bảo thực hiện hoạt động kiểm soát ngân hàng một cách có hiệu quả nhất, xử lý nghiêm túc các sai sót do vi phạm quy chế. Thứ ba, Để thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong việc sử dụng hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản do tổ chức tín dụng tự lựa chọn và cho vay theo chỉ định của Chính phủ thì NHNN cần ban hành các quy chế một cách đầy đủ, có hướng dẫn cụ thể. Thứ tư, NHNN đã nhận thức được tầm quan trọng của thông tin trong công tác tín dụng và hoạt động kinh doanh ngân hàng nên ban lãnh đạo NHNN đã có những chủ trương xây dựng trung tâm thông tin tín dụng (gọi tắt là CIC) nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng cho các NHTM. Trung tâm này đã phần nào cải thiện được tình trạng thiếu thông tin tín dụng cho các ngân hàng thương mại để phục vụ hoạt động cho vay của mình. Trên thực tế, do trung tâm mới đi vào hoạt động nền còn nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin. Việc thu thập thông tin không có hiệu quả của trung tâm đã làm cho các NHTM chưa thực sự tin tưởng vào những tài liệu do trung tâm cấp. Nguyên nhân của vấn đề này là do các số liệu, thông tin mà trung tâm thu thập được thường không cập nhật kịp thời, độ tin cậy thấp. Chính vì vậy mà NHNN cần từng bước hoàn thiện trung tâm này, có quy chế hoạt động phù hợp, thống nhất, đảm bảo thực hiện hiệu qủa vai trò và chức năng của trung tâm. NHNN cũng có kế hoạch mở rộng thành viên trong trung tâm từ đó đa dạng hoá các thông tin, đánh giá đúng mức thông tin. Ngoài ra, NHNN cần triển khai việc xây dựng một công ty định giá tài sản. Cũng như công tác thu nhập thông tin, từng ngân hàng có thể lập một bộ phận chuyên định giá tài sản, đây là hình thức giúp phòng tín dụng nhanh chóng xác định giá trị của khoản cho vay, phục vụ nhu cầu vay vốn của khách hàng kịp thời. Nhưng việc thực hiện cũng gặp trở ngại,vì nếu ngân hàng đầu tư vào một bộ phận định giá như vậy thì chi phí lớn, vượt khả năng chi trả của ngân hàng và do số lượng món vay nhiều nhưng giá trị món vay nhỏ. Hơn nữa, việc định giá tài sản đòi hỏi các nhân viên phải có trình độ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực. Nếu ngân hàng thành lập một bộ phận định giá thì đòi hỏi ngân hàng phải chuyên môn hoá trong từng giai đoạn trong tiến trình cho vay. Việc thực hiện như vậy là kém khả thi, đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay. Chính vì vậy, NHNN nên có kế hoạch xây dựng công ty định giá tài sản để giúp giải quyết khó khăn cho các ngân hàng và phù hợp với thực tế. Trên phương diện quản lý, việc thành lập công ty định giá tài sản sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước quản lý tốt các món vay về mặt chất lượng ngay từ đầu. Cuối cùng, NHNN nên phối hợp với các cơ quan có liên quan hơn nữa để tạo điều kiện cho các NHNN kinh doanh. NHNN cần chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan như toà án nhân dân, viện kiểm soát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an…. để nghiên cứu soạn thảo, ban hành các văn bản nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi, an toàn và tạo sự thông thoáng cho hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. 3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ: Bảo đảm tiền vay là một trong các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn trong cho vay. Thực hiện được an toàn trong cho vay có tác dụng tích cực đối với bản thân các NHTM. Do đó, nó cũng tạo ra những ngoại ứng tích cực cho toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, trên cương vị là cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước, Chính phủ cần có những biện pháp hữu hiệu để tạo điều kiện cho các NHTM trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của mình. Thứ nhất, Dễ nhận thấy ở nước ta hiện nay có rất nhiều loại văn bản pháp luật, giữa các văn bản đó còn có sự chồng chéo nên đã tạo ra những kẽ hở mà qua đó kẻ xấu có thể lợi dụng để làm những việc sai trái. Do đó, Chính phủ cần hoàn thiện môi trường pháp lý, ban hành ra các văn bản pháp luật một cách đồng bộ, hoàn thiện các bộ luật và xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Chính phủ cần thực hiện việc rà soát, tập hợp và thống nhất các quy định ban hành về cơ chế bảo đảm tiền vay, về xử lý tài sản đảm bảo cho phù hợp với các bộ luật đã đề ra như luật đất đai, luật các tổ chức tín dụng… Thứ hai, Chính phủ cần đưa ra chính sách về xử lý tài sản bảo hạn chế khó khăn cho các ngân hàng. Quy định thêm nhiều hình thức xử lý tài sản bảo đảm để các bên có thể lựa chọn khi ký kết hợp đồng như: bên đi vay tự bán, cả hai bên cùng bán, giao cho ngân hàng bán, uỷ quyền cho người thứ ba, gán nợ bằng tài sản….Nâng cao quyền hạn và tính tự chủ của ngân hàng về việc chủ động bán tài sản không được xử lý theo hướng tích cực để trả nợ mà không phải khởi kiện qua toà án kinh tế. Đưa ra nhiều phương thức bán tài sản như bán trực tiếp cho người mua, bán đấu giá qua trung tâm, đưa tài sản vào sử dụng…Ngoài ra cần có chính sách xử lý tài sản do vướng mắc thủ tục pháp lý, thủ tục hành chính: có tranh chấp giữa khách hàng và ngân hàng, khách hàng bỏ trốn, khách hàng phá sản, thủ tục hồ sơ thiếu hoàn chỉnh, tài sản bị kê biên vì liên quan đến vụ án khác đang chờ giải quyết…… Chính phủ nên quy định yêu cầu toà án tổ chức tổ chức xem xét xử theo thủ tục khẩn cấp và không đình hoãn phiên xử dù có liên quan đến vụ án khác vì đây là những vụ kiện món nợ ngân hàng được ưu tiên thanh toán. Phần bản án không nên có thủ tục hồi tố vì không bảo đảm quyền lợi cho ngân hàng. Cần có luật quy định việc xử vắng mặt …… Thứ ba, Chính phủ cũng nên giảm thuế hoặc miễn thuế khi phát mại tài sản. Tài sản bảo đảm là tài sản thuộc hoạt động bảo đảm tín dụng chứ không phải là hoạt động kinh doanh. Vì vậy đề nghị chính phủ cho phép ngân hàng miễn thuế đối với hành vi đấu giá tài sản bảo đảm để hoàn vốn cho ngân hàng. Thứ tư, Chính phủ cần dành một khoản vốn thích đáng để đầu tư vào phát triển công nghệ ngân hàng, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng để ngân hàng thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác. 3.3.4. Kiến nghị với các Bộ, ngành có liên quan: Các bộ, ngành có liên quan nên có thái độ hợp tác và giúp đỡ các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của họ, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thực hiện tốt hoạt động của mình. Kiến nghị với Bộ tư pháp: Bộ tư pháp nên có văn bản quy định cho phép thành lập một cơ quan chuyên trách về định giá tài sản, để từ đó có thể xác định giá trị của tài sản một cách chính xác nhất trên cơ sở tài sản đó phải bảo đảm đủ các cơ sở pháp lý. Kiến nghị với Bộ tài nguyên môi trường: để ngân hàng tránh phiền hà, có thủ tục đơn giản trong việc bán tài sản đảm bảo thì Bộ nên đưa ra những văn bản hướng dẫn riêng về việc chuyển nhượng tên tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, trong trường hợp người mua tài sản là tài sản phát mại của ngân hàng. Kiến nghị với Bộ tài chính: Bộ cần có các quy định để đảm bảo tính minh bạch cho các báo cáo tài chính, tính chính xác trong việc công bố số liệu của các doanh nghiệp để ngân hàng có được thông tin chính xác và đưa ra các quyết định cho vay và đầu tư an toàn hơn. Kiến nghị với Tổng cục địa chính và ban vật giá Chính phủ: việc định giá tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và nhà ở hiện nay, ngân hàng đang sử dụng là khung giá nhà, đất của Uỷ ban nhân dân thành phố và Bộ tài chính, nhưng khung giá này được xây dựng từ khá lâu. Trong khi đó thị tường bất động sản luôn biến động. Mặc dù các cán bộ định giá và cán bộ tín dụng có linh hoạt kết hợp với giá được quy định, giá thị trường và biên độ giao động để đưa ra mức giá bảo đảm nhằm thu hút khách hàng, nhưng việc thu thập giá thị trường của các tài sản này mất nhiều thời gian. Có nên không Tổng cục địa chính và ban vật giá Chính phủ phối hợp công bố giá nhà, đất trên thị trường ở từng vùng để việc cho vay có căn cứ phù hợp hơn. Ngoài ra kiến nghị với Tổng cục địa chính: cần phải tổ chức kê khai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở kịp thời; nên sớm có các biện pháp thúc đẩy tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với những khu đất đã có đủ điều kiện. Đề nghị toà án nhân dân tối cao có những cải cách về thủ tục và thời gian thụ lý vụ án kinhtế: Toà án nhân dân tối cao nên có những văn bản hướng dẫn cụ thể về quy trình thụ lý vụ án kinh tế. Nên rút ngắn thời gian và thủ tục, giấy tờ tạo điều kiện cho các bên liên quan tiết kiệm được chi phí và thời giờ, đồng thời đảm bảo khả năng thu nợ của ngân hàng. Ngoài ra, hiệu lực khởi kiện vụ án kinhtế nên kéo dài hơn mức 6 tháng theo quy định hiện nay vì ngân hàng thương mại thường áp dụng nhiều biện pháp hơn là áp dụng trước khi tiến hành khởi kiện ra toà. Khi đã đưa ra toà đề nghị toà án xử lý nhanh chóng và có biện pháp cưỡng chế thi hành án hiệu lực. KẾT LUẬN MÆc dï thời gian đi vào hoạt động chưa thực sự dài và míi ®­îc chuyÓn thµnh chi nh¸nh cÊp 1 trùc thuéc Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n ViÖt Nam ch­a ®­îc 1 n¨m. Nh­ng Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n CÇu GiÊy ®· ®¹t ®­îc mét sè thµnh c«ng trong qu¸ tr×nh kinh doanh. §ã lµ kÕt qu¶ cña sù nç lùc vµ hÕt m×nh cña tËp thÓ c¸n bé, nh©n viªn cña Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n CÇu GiÊy. Trong thành công đó phải kể đến thành công của bảo đảm tiền vay đã chứng tỏ được tác dụng trong việc hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng cho chi nhánh. Tuy nhiên hoạt động này vẫn còn một số hạn chế. Và trong chuyên đề thực tập này em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến với hy vọng sẽ có thể giúp ích cho công tác bảo đảm tiền vay tại chi nhánh. Tuy nhiên, do trình độ lý luận cũng như kiến thức thực tế còn hạn chế, thời gian thực tập không nhiều nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thÇy giáo hướng dẫn và các cán bộ thuộc chi nhánh Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n CÇu GiÊy để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo PGS. TS Lê Đức Lữ và sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ tín dụng tại chi nhánh đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Frederic Minskhin, TiÒn tÖ ng©n hµng vµ thÞ tr­êng tµi chÝnh, NXB Khoa häc vµ kü thuËt, 1998. Peter S.Rose, Qu¶n trÞ ng©n hµng th­¬ng m¹i, NXB Tµi chÝnh. Lª V¨n T­, TiÒn tÖ, tÝn dông vµ ng©n hµng, NXB Thèng kª, 1998. David Cox, NghiÖp vô ng©n hµng hiÖn ®¹i, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia. Edward W.Reed ph.D vµ Edward K.Gill ph.D, Ng©n hµng th­¬ng m¹i, NXB Thèng kª. TS. Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng thương mại, - NXB Thống kê 2004 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung Nghị định 178 về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng. Các báo cáo hoạt động tín dụng, hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh NH NN&PT NT Cầu Giấy trong giai đoạn 2004- 2006. T¹p chÝ ng©n hµng . T¹p chÝ ThÞ tr­êng tµi chÝnh tiÒn tÖ . Thêi b¸o kinh tÕ. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tæng quan vÒ ho¹t ®éng cho vay cña ng©n hµng th¬ng m¹i 3 1.1.1. Khái niệm 3 1.1.2. §Æc ®iÓm cña cho vay 4 1.1.3. Ph©n lo¹i cho vay 5 1.2. Vai trò, nguyên tắc và đặc trưng của bảo đảm tiền vay 9 1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay 9 1.2.2. Vai trò bảo đảm tiền vay 10 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay 12 1.2.4. Các đặc trưng bảo đảm tiền vay 13 1.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay 15 1.3.1.Bảo đảm tiền vay bằng tài sản 15 1.3.1.1.Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn 15 1.3.1.2. Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn 16 1.3.1.3. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay 17 1.3.1.4. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba 17 1.3.2. Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản 18 1.3.2.1.Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay vốn để cho vay không có tài sản bảo đảm 18 1.3.2.2. Tổ chức tín dụng cho vay theo đảm bảo bằng chỉ định của chính phủ 19 1.3.2.3. Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội 20 1.4. Quản lý tài sản bảo đảm 21 1.5. Xử lý tài sản bảo đảm 22 1.6. Chất lượng bảo đảm tiền vay 23 1.6.1. Quan niệm về chất lượng bảo đảm tiền vay 23 1.6.2. Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng bảo đảm tiền vay 24 1.6.2.1. Các chỉ tiêu định lượng 24 1.6.2.2. Các chỉ tiêu định tính 27 1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền vay 29 1.7.1. Nhân tố thuộc về ngân hàng 29 1.7.2. Nhân tố thuộc về khách hàng 30 1.7.3. Nhân tố khác 32 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CẦU GIẤY 2.1. Khái quát hoạt động kinh doanh của chi nhánh: 35 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 35 2.1.2. Sơ đồ bộ máy tổ chức của đơn vị và nhiệm vụ phòng tín dụng 36 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 38 2.2. Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay tại chi nhánh 44 2.2.1. Thực trạng d nî ph©n theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m 44 2.2.2. Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay bằng tài sản 46 2.2.3. Thực trạng chất lượng bảo đảm tiền vay không bằng tài sản 49 2.2.4. Thực trạng nî qu¸ h¹n ph©n theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m 2.2.5. Tình hình quản lý tài sản bảo đảm 50 2.2.6. Tình hình xử lý tài sản bảo đảm 52 2.3. Đánh giá chất lượng hoạt động bảo đảm tiền vay tại chi nhánh: 54 2.3.1. Những mặt đạt được 54 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 57 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI CHI NHÁNH. 3.1. Chiến lược phát triển của chi nhánh 63 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay tại chi nhánh 64 3.2.1. Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng trong ngân hàng 64 3.2.2. Đa dạng hoá danh mục tài sản bảo đảm 65 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng và thẩm định tài sản bảo đảm 67 3.2.4. Hoàn thiện công tác đánh giá tài sản bảo đảm và thường xuyên định giá lại tài sản bảo đảm 68 3.2.5. Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý tài sản bảo đảm và việc sử dụng vốn của khách hàng 69 3.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác xử lý tài sản bảo đảm 69 3.2.7. Xây dựng một hệ thống thông tin và từng bước đổi mới công nghệ ngân hàng 70 3.2.8. Một số giải pháp khác 71 3.3. Kiến nghị 71 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thông Việt Nam 71 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 73 3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ 75 3.3.4. Kiến nghị với các bộ, ngành liên quan 76 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 DANH MôC B¶NG BIÓU B¶ng 2.1. KÕt qña cho vay thu nî, d nî B¶ng 2.2. Tû lÖ c¸c nhãm nî B¶ng 2.3. KÕt qña nghiÖp vô b¶o l·nh B¶ng 2.4. D nî cho vay ph©n theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m B¶ng 2.5. D nî ph©n theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m b»ng tµi s¶n B¶ng 2.6. Tû lÖ nî qu¸ h¹n ph©n theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m BiÓu ®å 2.1. Quy m« d nî theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m qua c¸c n¨m BiÓu ®å 2.2. Tû lÖ d nî ph©n theo tÝnh chÊt b¶o ®¶m b»ng tµi s¶n n¨m 2006 BiÓu ®å 2.3. D nî cho vay kh«ng cã b¶o ®¶m b»ng tµi s¶n so víi tæng d nî BiÓu ®å 2.4. Tû lÖ nî qu¸ h¹n cña h×nh thøc cho vay kh«ng cã b¶o ®¶m b»ng tµi s¶n so víi tæng nî qu¸ h¹n. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHTM: Ngân hàng thương mại NHNN: Ngân hàng Nhà nước NH No&PT NT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32142.doc