Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank)

LỜI MỞ ĐẦU Trên cơ sở hoạt động có hiệu quả, tăng trưởng cao và an toàn trong tất cả các hoạt động, giải quyết dứt điểm các khoản nợ đọng, ngày 03/10/2006 Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 1562/TTg – KTTH đồng ý kết thúc thực hiện phương án chấn chỉnh củng cố Eximbank Việt Nam. Quyết định này đã đưa Eximbank Việt Nam trở lại hoạt động bình thường như những NHTM khác, mở ra giai đoạn mới trong lịch sử hoạt động của Eximbank Việt Nam – giai đoạn tăng tốc và phát triển. Từ năm 2007 đến nay,

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Eximbank Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực. Đóng góp vào sự phát triển đó phải kể đến một phần công sức không nhỏ của Eximbank chi nhánh Hà Nội – chi nhánh được coi là một trong những điểm then chốt trong mạng lưới Eximbank Việt Nam. Cho vay doanh nghiệp luôn là một sản phẩm chiến lược của Eximbank Hà Nội. Trong 3 năm trở lại đây, doanh số cho vay và dư nợ cho vay doanh nghiệp của chi nhánh đã tăng trưởng rất mạnh. Cùng với sự tăng trưởng đó, vấn đề nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp để đảm bảo an toàn và tạo ra lợi nhuận ngày càng lớn cho ngân hàng bao giờ cũng được quan tâm hàng đầu. Chính vì vậy, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu, dựa trên các số liệu được cung cấp, đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội” đã được lựa chọn nghiên cứu. Các nội dung chủ yếu của đề tài bao gồm: Nghiên cứu lý thuyết về chất lượng cho vay doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM. Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội. Trên cơ sở các nội dung đó, chuyên đề “Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội” được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP CỦA NHTM Chương 1 “Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM” bao gồm ba nội dung chính: Một là lý luận về cho vay doanh nghiệp của NHTM; Hai là lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM; Ba là các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM. CHO VAY DOANH NGHIỆP CỦA NHTM Trong phần này, trước hết cần điểm lại một số hoạt động cơ bản của NHTM với trọng tâm là hoạt động cho vay để làm cơ sở đưa ra lý luận về cho vay doanh nghiệp của NHTM. Các hoạt động cơ bản của NHTM Khái niệm và đặc trưng của NHTM Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Trước đây, luật pháp của các nước thường đưa ra khái niệm về NHTM theo chức năng hoạt động, như khái niệm của Thomas P.Fitch dưới đây: “Tổ chức ngân hàng là một công ty nhận tiền gửi, thực hiện cho vay, thanh toán séc và thực hiện các dịch vụ liên quan cho công chúng... NHTM đầu tư quỹ từ các người gửi tiền để cho vay”. Ở Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 ghi rõ: “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Ngày nay, khái niệm về NHTM không đơn giản như vậy nữa. Nguyên nhân là do chức năng hoạt động của NHTM đã và đang thay đổi cùng với sự thay đổi về chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng. Thực tế là, những chức năng độc quyền của NHTM đang bị thu hẹp lại, bởi các tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm đều cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Còn NHTM đối phó lại các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Chính điều này đã gây ra sự nhầm lẫn trong việc phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính khác. Do đó, để phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính, Peter S.Rose đã đưa ra khái niệm về NHTM theo cách tiếp cận từ những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp: “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Vậy NHTM có những đặc trưng gì? Đặc trưng của NHTM được thể hiện qua những khía cạnh sau: Thứ nhất, NHTM là một tổ chức tài chính nên khác với các doanh nghiệp khác, NHTM không cung cấp các hàng hoá, dịch vụ thông thường mà đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ. Thứ hai, NHTM là một tổ chức tín dụng; do đó, chức năng trung gian tài chính của NHTM khác với chức năng trung gian tài chính của các tổ chức tài chính trung gian khác (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư...) ở chỗ NHTM được thực hiện đồng thời hai nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. Theo đó, một mặt NHTM huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức kinh tế, các cơ quan đoàn thể và tiết kiệm của dân cư; mặt khác trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, NHTM sử dụng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Điều này cho thấy, NHTM đã thực hiện điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, chuyển vốn từ nơi có ít cơ hội đầu tư đến nơi có nhiều cơ hội đầu tư; qua đó, thúc đẩy quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp, kích thích quá trình luân chuyển vốn của xã hội và tạo lợi ích công bằng cho cả 3 bên trong mối quan hệ: người cho vay, ngân hàng và người đi vay. Cũng từ chức năng này mà NHTM được đặt vào vị trí làm trung gian thanh toán và thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. NHTM làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Với chức năng này, các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng vừa có thể lựa chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp, lại tiết kiệm được chi phí, thời gian và đảm bảo được thanh toán an toàn. Cùng với chức năng thanh toán, chức năng tạo phương tiện thanh toán được thực hiện thông qua hoạt động cho vay của NHTM. Bằng việc cho vay, NHTM làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, qua đó làm cho khối lượng tiền tệ M1 tăng lên (M1 bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kì hạn tại ngân hàng) và vì vậy tạo phương tiện thanh toán. Mặt khác, theo mô hình tạo tiền đơn giản, với hai giả thiết: một là, các NHTM cho vay ra hoàn toàn bằng chuyển khoản, không cho vay ra bằng tiền mặt và khách hàng không có nhu cầu rút tiền mặt, tiền sử dụng trong giao dịch chỉ là tiền tín dụng; hai là, hệ thống NHTM cho vay hết, chỉ giữ lại dự trữ theo quy định của NHTW... thì toàn bộ hệ thống NHTM cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Chức năng này chỉ ra đặc trưng của NHTM ở chỗ với một khối lượng tín dụng mà NHTM cho vay ra, NHTM làm tăng khả năng tạo tiền của cả hệ thống và từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế - điều mà không một tổ chức nào trong nền kinh tế có thể làm được. Thứ ba, NHTM thường phát triển hoạt động theo xu hướng đa năng, tức là cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Điều này cho phép phân biệt NHTM với tổ chức tín dụng khác (các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ, các liên hiệp tín dụng) – vốn cũng là những tổ chức tài chính trung gian được thực hiện đồng thời hai nghiệp vụ huy động vốn và cho vay – khi mà những tổ chức này hoạt động trong phạm vi hẹp hơn, chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho những đối tượng nhất định theo quy định của pháp luật. Các hoạt động cơ bản của NHTM Trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, các hoạt động của NHTM đã ngày càng trở lên đa dạng và phong phú. Các hoạt động cơ bản nhất của NHTM bao gồm: Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là hoạt động hình thành nên nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng. Hoạt động này bao gồm các nghiệp vụ sau: Hình thành vốn tự có và quỹ ngân hàng Huy động vốn nợ theo các hình thức sau: Huy động tiền gửi của khách hàng Vay trên thị trường vốn Vay NHNN Vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng Vốn nợ khác: bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác. Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng các khoản vốn huy động được từ hoạt động huy động vốn: Thiết lập dự trữ Tiền mặt tại quỹ Tiền gửi tại NHNN Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác Đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao Tín dụng: Đây là nghiệp vụ sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt động của NHTM. Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành chiết khấu thương phiếu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê tài chính. Hoạt động trung gian Hoạt động trung gian là hoạt động mà NHTM thay mặt khách hàng thực hiện việc thanh toán hay các uỷ thác khác để thu lệ phí. Hoạt động trung gian thường bao gồm các nghiệp vụ sau: Chuyển tiền, thanh toán hộ, thu hộ, uỷ thác, mua bán hộ, kinh doanh vàng bạc đá quý để kiếm lời, làm tư vấn về tiền tệ, tài chính... Hoạt động cho vay là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Theo khoản 1 điều 3 của Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Hoạt động cho vay của NHTM có thể chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo mỗi tiêu thức phân loại: Nếu chia theo đối tượng khách hàng, hoạt động cho vay của NHTM được chia thành: Cho vay khách hàng doanh nghiệp Cho vay khách hàng cá nhân Nếu chia theo mục đích cho vay, hoạt động cho vay của NHTM được chia thành: Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh Cho vay tiêu dùng cá nhân Cho vay bất động sản Cho vay nông nghiệp Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu Nếu chia theo thời hạn cho vay, hoạt động cho vay của NHTM được chia thành: Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của hình thức cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động. Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của hình thức cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định và một phần tài sản lưu động thường xuyên. Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của hình thức cho vay này là nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư. Nếu chia theo mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động cho vay của NHTM được chia thành: Cho vay không có bảo đảm: là hình thức cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc không có bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. Cho vay có bảo đảm: là hình thức cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 nào khác. Nếu chia theo phương thức cho vay, hoạt động cho vay của NHTM được chia thành: Cho vay thấu chi: là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức cho vay này thường được áp dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau. Hình thức cho vay này giúp ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt, khi có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn để đảm bảo an toàn. Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng này được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng và nhu cầu vốn của ngân hàng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì, đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể bị thiếu vốn, lúc đó, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay vốn để mua hàng và thu hồi nợ khi hàng hoá đã được tiêu thụ. Hình thức cho vay này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên đối với ngân hàng. Cho vay trả góp: là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định và hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng (thường là khấu hao hoặc thu nhập sau thuế của dự án, hoặc thu nhập hàng kì của người tiêu dùng). Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian như đội, nhóm, Hội Phụ nữ, Hội nông dân... theo đó ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay như phát tiền vay, thu hồi nợ... sang các tổ chức này khi thực hiện cho vay đối với các thành viên. Hình thức cho vay này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Nếu chia theo phương thức hoàn trả nợ, hoạt động cho vay của NHTM được chia thành: Cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn. Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ còn gọi là cho vay trả góp. Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn trả nợ cụ thể mà tuỳ vào khả năng tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào. Cho vay doanh nghiệp của NHTM Dựa trên những lý luận về NHTM, lý luận về cho vay doanh nghiệp của NHTM bao gồm 4 nội dung chính: Một là, khẳng định nhu cầu vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp là tất yếu; Hai là, đưa ra khái niệm và phân loại cho vay doanh nghiệp của NHTM; Ba là, những vấn đề về cho vay doanh nghiệp của NHTM; Và bốn là, mô tả quy trình cho vay doanh nghiệp của NHTM. 1.1.2.1. Nhu cầu vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp thường cần vốn để đầu tư vào tài sản lưu động và tài sản cố định. Về nguyên tắc, để tài trợ cho tài sản lưu động, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn ngắn hạn hoặc dài hạn. Tuy nhiên, do nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định là rất lớn nên vốn ngắn hạn là nguồn chủ yếu dùng để tài trợ cho tài sản lưu động. Vốn ngắn hạn của doanh nghiệp có thể lấy từ các nguồn sau: Các khoản nợ phải trả người bán Các khoản ứng trước của người mua Thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước Các khoản phải trả công nhân viên Các khoản phải trả khác Vay ngắn hạn từ ngân hàng Trong các nguồn ngắn hạn trên, doanh nghiệp chỉ sử dụng vốn vay ngắn hạn từ ngân hàng khi có sự thiếu hụt về vốn ngắn hạn mà các nguồn ngắn hạn khác đã được sử dụng hết. Sự thiếu hụt về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp có thể xuất phát từ sự chênh lệch về thời gian, về doanh số giữa tiền thu bán hàng và tiền đầu tư vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia tăng đầu tư tài sản lưu động đột biến theo thời vụ. Do đó, đứng ở góc độ doanh nghiệp, vay vốn ngắn hạn từ ngân hàng có thể giúp cho doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên hoặc nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ; trong đó, nhu cầu tài trợ thường xuyên do đặc điểm luân chuyển vốn của doanh nghiệp quyết định, còn nhu cầu tài trợ thời vụ do đặc điểm thời vụ của ngành sản xuất kinh doanh quyết định. Bên cạnh việc vay vốn ngắn hạn ngân hàng để tài trợ cho tài sản lưu động, doanh nghiệp cũng có nhu cầu vay trung và dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định và một phần tài sản lưu động thường xuyên. Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn dài hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn để tài trợ cho những loại tài sản này. Tuy nhiên, do vốn chủ sở hữu có giới hạn nên việc vay vốn dài hạn để tài trợ là điều không thể tránh khỏi. Doanh nghiệp có thể vay vốn dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu trên thị trường vốn hoặc vay từ ngân hàng. Trong khi không phải doanh nghiệp nào cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu thì vay vốn trung, dài hạn ngân hàng luôn là sự lựa chọn phù hợp nhất. Khái niệm và phân loại cho vay doanh nghiệp của NHTM Cho vay doanh nghiệp là một hình thức cho vay của NHTM mà đối tượng được vay vốn là doanh nghiệp. Theo khoản 1 điều 4 Luật doanh nghiệp ngày 29/11/2005 và khoản 1 điều 2 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh... Doanh nghiệp bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức Đảng và của các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”. Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, cho vay doanh nghiệp của NHTM thông thường được chia thành hai loại: Cho vay doanh nghiệp ngắn hạn: Đối với hình thức cho vay này, ngân hàng có thể áp dụng các phương thức cho vay như: cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo món, cho vay theo hạn mức, thấu chi hoặc luân chuyển... nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tăng thêm của doanh nghiệp cho sản xuất kinh doanh. Cho vay doanh nghiệp trung và dài hạn: Đối với hình thức cho vay này, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay nhằm mục đích mua sắm máy móc, trang thiết bị hoặc đầu tư vào dự án. Các vấn đề về cho vay doanh nghiệp của NHTM Nguyên tắc vay vốn Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của các doanh nghiệp và là cơ hội để ngân hàng cho vay và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cho vay liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của khách hàng gửi tiên nên để có thể vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải đảm bảo hai nguyên tắc: Sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng sau này. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng cho vay: Đây là nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay vì đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, do đó sau khi cho vay một thời gian nhất định, doanh nghiệp phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền; mặt khác, bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi. Điều kiện vay vốn Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải đảm bảo 2 nguyên tắc như vừa nêu trên, nhưng trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tuân thủ đúng các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho việc đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi doanh nghiệp thoả mãn một số điều kiện vay nhất định. Các điều kiện vay vốn mà doanh nghiệp cần có bao gồm: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Có mục đích vay vốn hợp pháp. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả. Thực hiện các quy định về bảm đảm tiền vay theo quy định của Chính Phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam. Hồ sơ vay vốn Khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp phải gửi cho ngân hàng giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn; đồng thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu này. Khi đó, ngân hàng sẽ hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện bộ hồ sơ vay vốn tuỳ theo đặc điểm cụ thể của từng loại cho vay và khoản vay. Thông thường, bộ hồ sơ vay vốn gồm có: Giấy đề nghị vay vốn. Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của doanh nghiệp như giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động. Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ hoặc dự án đầu tư. Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất. Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay. Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết. Thẩm định và quyết định cho vay Để có căn cứ ra quyết định cho vay hay không cho vay, ngân hàng đều xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc đảm bảo tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Khi thẩm định, ngân hàng sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của doanh nghiệp để quyết định cho vay. Ngân hàng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với doanh nghiệp, kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết của khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, ngân hàng thông báo cho doanh nghiệp bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Giới hạn cho vay Trong hoạt động tín dụng, NHTM bị giới hạn cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn. Do đó, khi thực hiện cho vay doanh nghiệp, ngân hàng phải tuân thủ các giới hạn cho vay sau: Tổng dư nợ cho vay đối với một doanh nghiệp không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một doanh nghiệp vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng hoặc doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì ngân hàng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay theo quy định vừa nêu khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể. Việc xác định vốn tự có của ngân hàng để làm căn cứ tính toán giới hạn cho vay được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hạn chế cho vay NHTM không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điểu 77 của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó. Quy trình cho vay doanh nghiệp của NHTM Cho vay doanh nghiệp được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ bao gồm các bước đi cụ thể từ khi ngân hàng tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng cho vay. Thông thường các bước cơ bản trong quy trình cho vay doanh nghiệp của NHTM bao gồm: Bước 1: Giúp doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ vay vốn Khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ tiếp xúc, phổ biến và hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Bước 2: Phân tích trước khi cấp tín dụng Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của khoản vay. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến doanh nghiệp bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến doanh nghiệp. Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin về doanh nghiệp là phỏng vấn trực tiếp (thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp,…); mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian; thu thập thông tin từ các báo cáo của doanh nghiệp (báo cáo tài chính, báo cáo bán hàng, báo cáo thường niên,…) qua đó đánh giá nhu cầu vốn, như cầu vay vốn, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xảy ra,… Nội dung phân tích thường có: Đánh giá tài sản của doanh nghiệp Đánh giá các khoản nợ Phân tích luồng tiền Phân tích các tỉ lệ: tỉ lệ đo khả năng thanh khoản, tỉ lệ đo khả năng sinh lời, tỉ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỉ lệ đo rủi ro Phân tích các điều kiện kinh tế hiện tại và dự đoán tương lai đối với doanh nghiệp. Bước 3: Xây dựng và ký kết hợp đồng cho vay Hợp đồng cho vay là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (doanh nghiệp) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho doanh nghiệp một khoản tiền vay (hoặc hạn mức cho vay) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Đây là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng. Do đó, cả ngân hàng và doanh nghiệp khi kí hợp đồng cho vay đều cần phải cân nhắc kỹ lưỡng. Nội dung chính của hợp đồng cho vay thường có: Thông tin doanh nghiệp Mục đích sử dụng vốn vay Số lượng vốn vay Lãi suất Phí Thời hạn cho vay Các khoản đảm bảo Điều kiện và hình thức giải ngân Điều kiện và hình thức thanh toán Các điều kiện khác Bước 4: Giải ngân và kiểm soát trong khi cho vay Sau khi hợp đồng cho vay đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp vốn cho doanh nghiệp như đã thoả thuận. Đồng thời, ngân hàng kiểm soát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp,… để có biện pháp xử lý kịp thời tránh xảy ra những tổn thất lớn. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu doanh nghiệp vi phạm hợp đồng cho vay, hoặc yêu cầu doanh nghiệp bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay khi doanh nghiệp có dấu hiệu không trả được nợ… Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm thông tin về doanh nghiệp để ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản cho vay xấu. Bước 5: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết mới Quan hệ cho vay kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản cho vay đảm bảo hoàn trả đầy đủ, đúng hạn là các khoản cho vay an toàn. Một số trường hợp khoản cho vay không được hoàn trả hoặc không được hoàn trả đủ, đúng hạn. Ngân hàng cần tìm nguyên nhân và đưa ra phán quyết kịp thời. - Nếu doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ dây dưa, làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản cho vay, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi,… - Nếu doanh nghiệp có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả được nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác như gia hạn nợ, giảm lãi, hoặc cho vay thêm. CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP CỦA NHTM Lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM được xây dựng căn cứ vào lý luận về cho vay doanh nghiệp của NHTM đã trình bày ở trên bao gồm hai nội dung chính: khái niệm về chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM và một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM. Khái niệm chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM “Chất lượng” là một khái niệm được sử dụng rất phổ biến, vậy chất lượng là gì? Hiểu một cách khái quát, “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan” – Theo dự thảo DIS 9000:2000 của Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá ISO. Một khoản cho vay có chất lượng là một khoản cho vay mà sau một thời hạn cho vay nhất định đã được thoả thuận trong hợp đồng cho vay, ngân hàng thu hồi được cả gốc và lãi từ khách hàng vay vốn, qua đó ngân hàng có thu nhập và đảm bảo được sự an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật. Vậy, chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM là gì? Hiểu một cách khái quát“Chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM là thuật ngữ chỉ mức độ an toàn và khả năng tạo ra thu nhập của cho vay doanh nghiệp mà NHTM thực hiện”. Chất lượng cho vay doanh nghiệp được đánh giá thông qua việc thu hồi nợ của NHTM đối với các doanh nghiệp: nếu NHTM thu hồi nợ tốt qua đó mức độ an toàn của cho vay doanh nghiệp được đảm bảo và ngân hàng có được thu nhập lớn thì điều đó có nghĩa là chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM là tốt; ngược lại, nếu ngân hàng thu hồi nợ nhưng mức độ an toàn của cho vay doanh nghiệp không được đảm bảo và ngân hàng không có thu nhập hoặc có rất ít thì tức là chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM là không tốt. Các NHTM luôn có xu hướng tăng quy mô cho vay doanh nghiệp qua các năm. Khi quy mô cho vay doanh nghiệp tăng lên thì chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM cũng thay đổi. Chính vì vậy, các ngân hàng thường xây dựng lên một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp để từ đó đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp của mình và đưa ra các biện pháp giải quyết kịp thời. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM Từ khái niệm chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM được nêu ra ở trên, một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28894.doc
Tài liệu liên quan