Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

Lời nói đầu Tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng luôn là một hoạt động chủ đạo và mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Đối với doanh nghiệp tín dụng trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn để cải tiến công nghệ, kĩ thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho đến nay, loại hình tín dụng này vẫn là kênh tài trợ vốn chủ yếu cho doanh nghiệp dù bất kì thời đại hay nền kinh tế nào. Trên phương diện toàn bộ nền kinh tế, tín dụng trung, dài hạn là công cụ thực hiện công cuộc c

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp hoá - hiện đại hoá thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện, chúng ta đang thực sự cần vốn để phát triển và tín dụng tín dụng trung, dài hạn là công cụ đắc lực để đáp ứng nhu cầu đó. Tuy vậy để hoạt động tín dụng trung, dài hạn thực sự có hiệu quả thì vẫn còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp luôn cho rằng họ thiếu vốn trong khi các ngân hàng lại rất khó thực hiện việc cho vay vì các dự án mà các đơn vị vay vốn đưa ra nhiều khi không chứng minh được tính hiệu quả của nó. Hơn nữa trong một vài năm qua đã xảy ra những biến động xấu trong hoạt động ngân hàng như một số vụ đổ bể tín dụng với mức thất thoát lên tới hàng ngàn tỷ đồng , hiện tượng ứ đọng vốn trong các ngân hàng ... Hiện tượng này buộc các ngân hàng thương mại phải quan tâm hơn đến hoạt động tín dụng của mình và vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng mà đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn đã trở thành mối quan tâm lớn đối với những người hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. Là một ngân hàng thương mại phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực công thương nghiệp, hoạt động trên địa bàn Hà Nội – là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa luôn xác định tín dụng trung, dài hạn là nghiệp vụ truyền thống và quan trọng trong hoạt động của mình. Bước sang giai đoạn mới ,chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa đã và đang xây dựng cho mình một chiến lược phát trriển toàn diện trong đó tín dụng trung, dài hạn vẫn luôn được xác định là hoạt động hàng đầu . Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHCT Đống Đa, em quyết định chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh NHCT Đống Đa”. Từ những lí luận chất lượng tín dụng trung dài hạn cơ bản về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại em sẽ phân tích thực trạng, tìm nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế hiện nay của hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại một chi nhánh ngân hàng thương mại cơ sở , cụ thể là NHCT Đống Đa. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHCT Đống Đa . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHCT Đống Đa các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Kết cấu của luận văn gồm : Lời nói đầu Chương I : Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh NHCT Đống Đa . Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh NHCT Đống Đa. Kết luận. Danh mục tài liệu tham khảo. Do trình độ còn hạn chế nên bài viết này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót em mong sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để hiểu sâu hơn về vấn đề này. Để hoàn thành bài viết này, trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo Hoàng Xuân Quế, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện bài viết này. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô chú cán bộ tại NHCT Đống Đa đã nhiệt tình cung cấp tài liệu, chỉ dẫn và giải đáp những thắc mắc cho em trong thời gian thực tập tại ngân hàng . Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên Trần Thị Thu Nga. Chương I ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại I. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM) Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại các nhà kinh tế học có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại. Người thì cho rằng “ ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay ”. Người khác lại nhận định rằng “ngân hàng thương mại là trung gian tài chính có giấy phép của chính phủ để vay tiền và mởi tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc”. Sở dĩ có tình trạng trên là do hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. ở nước ta ngân hàng đầu tiên được thành lập đó là ngân hàng Đông Dương của Pháp vào giữa thế kỉ XIX để phục vụ cho giới thương gia Pháp trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm các ngân hàng nước ngoài của Trung Quốc , Anh ... Đến năm 1990 pháp lệnh ngân hàng Nhà nước ta ra đời đã chính thức phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là ngân hàng Trung Ương và ngân hàng thương mại . Từ đó khái niệm ngân hàng thương mại hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực đã ra đời. Theo luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12-12-1997 thì “ Tổ chức tín dụng là một tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cho vay cung ứng các dịch vụ thanh toán chi trả hộ ...” mà ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Như vậy “ Ngân hàng chính là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, cho vay, thực hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng các phương tiện thanh toán cùng các hoạt động kinh doanh khác”. Mục tiêu hoạt động kinh doanh của ngân hàng là lợi nhuận với đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Các hoạt động của ngân hàng thương mại . Ngân hàng thương mại hoạt động rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực nhưng hoạt động của ngân hàng tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay. Đó là hai mặt của hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu tạm thời thiếu hụt vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế hoặc các cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng hàng ngày. Trong quá trình phát triển mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh có thay đổi do có sự thay đổi về môi trưoừng kinh tế hoặc phương pháp hoạt động, có thể ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại và là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Trong xu thế hiện nay, các ngân hàng thương mại hoạt động theo loại hình ngân hàng đa năng thì hoạt động của nó bao gồm : Hoạt động huy động vốn . Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hộ để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nguyên thuỷ của ngân hàng. Nhận tiền gửi của khách hàng vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng như : chính sách lãi suất, phương thức trả lãi của ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội trong từng thời kì, tình hình thu nhập và chi tiêu ngân sách, phong tục tập quán thói quen từng vùng, lòng tin dân chúng đối với ngân hàng và Chính Phủ , địa điểm ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng cung cấp. Ngân hàng cần phải nắm vững các yếu tố đó để có thể điều chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình. Hoạt động huy động vốn được thể hiện dưới các hình thức sau : Nếu phân theo thời hạn + Tiền gửi không kì hạn : Bao gồm các loại tiền gửi thanh toán , tiền gửi tiết kiệm không kì hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư. Đó là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút bất cứ lúc nào . + Tiền gửi có kì hạn : Đây là loại tiền gửi mà có sự thoã thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy về nguyên tắc khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn đã thoã thuận. Lãi suất của loại tiền gửi này thường cao hơn so với tiền gửi không kì hạn. Nếu phân chia theo mục đích bao gồm : + Tiền gửi giao dịch : Đây là khoản tiền do khách hàng gửi vào ngân hàng và họ có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán và chi trả cho họ bất cứ lúc nào. Người gửi có thể nhận được khoản lãi hoặc không tuỳ thuộc vào qui định của ngân hàng nhưng mục đích chính của người gửi là phục vụ mục tiêu thanh toán giao dịch chứ không phải là mục tiêu hưởng lãi. + Tiền gửi phi giao dịch : Bao gồm tiền gửi có kì hạn của tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Mục tiêu chính của khách hàng là hưởng lãi, do vậy ngân hàng phải trả một khoản khá cao cho loại tiền gửi này . + Vay từ tổ chức tín dụng khác . Sau khi đã sử dụng hết vốn mà vẫn chưa đáp ứng dược nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng. Các ngân hàng thương mại có thể đi vay ở ngân hàng Trung Ương và ngân hàng thương mại khác bằng cách kí hợp đồng vay vốn có tài sản đẩm bảo, chiết khấu các giấy tờ có giá cho ngân hàng thương mại, vay dưới hình thức tiền gửi có kì hạn. Ngoài ra ngân hàng còn có thể vay các tổ chức ngoài nước... Vốn đi vay chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn nhưng nó rất cần thiết và quan trọng để đảm bảo ngân hàng kinh doanh một cách bình thường + Các hình thức huy động khác. Ngoài hai hình thức huy động chính là huy động tiền gửi, vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác, ngân hàng còn huy động bằng hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi , phát hành trái phiếu hoặc huy động các nguồn vốn trong thanh toán, vốn phát sinh từ các hoạt động dịch vụ khác. Như vậy, để hoạt động huy động vốn có kết quả cao thì ngân hàng cần có các chính sách hợp lí như : mức lãi suất,đa dạng hóa các hình thức huy động kết hợp với các chính sách marketing để thu hút khách hàng. Hoạt động sử dụng vốn. Khi đã có được đầu vào thì các ngân hàng phải tìm được đầu ra cho những đồng vốn huy động được. Hầu hết nguồn vốn của ngân hàng được sử dụng vào các hoạt động sau : Hoạt động ngân quỹ. Đây là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng phải thường xuyên xác định số tiền mặt đang nằm trong két, số tiền giữ lại tại NHTƯ và các ngân hàng thương mại khác và tiền đang trong quá trình thu. Đây là các tài sản không sinh lời hoặc sinh lời rấ thấp nhưng các ngân hàng thương mại buộc phải giữ lại vì hai lí do : Thứ nhất, luật ngân hàng quy định, và để được phép hoạt động nó phải tuân theo luật. Thứ hai, bản thân ngân hàng cũng thấy rõ sự cần thiết phải giữ lại một ít tiền mặt mà không nên cho vay hết dù cho nó có thừa khả năng làm điều đó. Việc giữ lại tiền mặt là để đảm bảo an toàn cho những hoạt động còn lại, và vì thế dữ trữ tiền mặt trong tài sản có còn được gọi là “ khoản đầu tư cho sự an toàn”. Hoạt động đầu tư. Đầu tư vào chứng khoán là loại hình phổ biến nhất trong hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại tại các nước phát triển.ở nước ta thị trường chứng khoán mới ra đời nên hàng hoá còn nghèo nàn, thị trường vận động chưa đúng quy luật do đó chưa thu hút được sự chú ý của các thành viên trong nền kinh tế trong đó có ngân hàng. Hoạt động tín dụng Hầu hết nguồn vốn mà ngân hàng huy động dược sẽ đưa vào hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động kinh doanh chính tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng thương mại vì chỉ có lãi suất cho vay mới ù đắp nổi các chi phí khác của ngân hàng. Thông thường hoạt động tín dụng bao gồm : Hoạt động cho vay: Đây là một trong những hoạt động đầu ra và là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của ngân hàng. Chỉ khi nào ngân hàng điều hành tốt hoạt động này thì hoạt động chung của ngân hàng mới đem lại hiệu quả cao vì đây chính là hoạt động sinh lời chủ yếu. Là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng nên cho vay cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh điều đó quản lí tiền vay được tiến hành rất chặt chẽ, đặc biệt là đối với các món vay lớn, thời hạn dài. Căn cứ vào các hình thức phân loại khác nhau ta có các hình thức cho vay khác nhau + Căn cứ vào thời hạn cho vay. - Cho vay không kì hạn : Đây là loại hình cho vay mà khách hàng có thể trả tiền bất kì thời gian nào họ có tiền mà không bị ràng buộc bởi thời gian. - Cho vay ngắn hạnbao gồm: . Cho vay ngắn hạn thông thường : Là loại cho vay có thời hạn ít hơn một năm như : Chiết khấu thương phiếuvà các giấy tờ có giá : Đây là nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay ngắn, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lí tài sản có của ngân hàng. Đây chính là tiền đề để người mua thực hiện được hoạt động kinh doanh của mình và có khả năng để thanh toán nợ cho ngân hàng. Đồng thời, tất cả những người kí tên trên thương phiếu đều chịu trách nhiệm liên đới theo qui định của pháp luật. Như vậy , trách nhiệm thanh toán nợ cho ngân hàng gồm nhiều chủ thể khác nhau. Hơn nữa , với nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu ở NHTƯ khi gặp khó khăn về vốn để cũng cố, tăng cường năng lực thanh toán cũng như mở rộng qui mô tín dụng. Nghiệp vụ chiết khấu mang lại lợi ích cho ngân hàng tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy, trước khi chiết khấu ngân hàng phải nghiên cứu kĩ khách hàng đến xin chiết khấu, xem xét các thương phiếu, mối liên hệ giữa những người liên quan đến thương phiếu. Cho vay cầm cố : Đây là hình thức cho vay trả góp từng phần và vật thế chấp của người đi vay đối với ngân hàng.Thông thường vật thế chấp là bất động sản như nhà cửa, đất đai ....Các ngân hàng giám định cẩn thận về tình hình tài sản và chủ quyền của ó trước khi quyết định cho vay để mua, cũng như rất quan tâm đến tính ổn định và mức cao hay thấp của thu nhập của người xin vay nhằm hạn chế rủi ro không trr được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn. - Cho vay trung dài hạn : Là loại hình tín dụng có kì hạn trên 12 tháng đến 5 năm đối với cho vay trung hạn và trên 5 năm đến hết thời hạn khấu hao tài sản ccố định đối với cho vay dài hạn. + Căn cứ vào thành phần kinh tế Cho vay đối với kinh tế quốc doanh Cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh + Căn cứ vào mục đích cho vay Cho vay phát triển sản xuất kinh doanh Cho vay tiêu dùng Cho vay thanh toán công nợ + Căn cứ vào tính chất bảo đảm bao gồm: Cho vay có bảo đảm Cho vay không có bảo đảm + Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng Cho vay bằng tiền Cho vay bằng tài sản Hoạt động cho thuê tài chính . Là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng và khách hàng thuê. Trong đó nói rõ bên cho thuê sẽ mua tài sản và cho bên khách hàng thuê và trong thời hạn thuê khách hàng phải trả tiền thuê theo thoã thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều khoản trong hợp đồng. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Hoạt động trung gian Đây là hoạt động mà ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, thông qua đó ngân hàng tăng thêm thu nhập và nâng cao uy tín cho ngân hàng. Hoạt động trung gian của ngân hàng bao gồm : Dịch vụ thanh toán hộ. Theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng nhằm thực hiện thanh toán cho khách hàng, tức là nhận hộ tiền cho người bán, trả hộ tiền cho người mua thông qua hình thức kế toán trên chứng từ. Dịch vụ mua bán hộ chứng khoán. Do có uy tín nên ngân hàng thường tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các Công ty cổ phần muốn huy động vốn, tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng. Do thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động nên thị trường chưa sôi nổi. Các hoạt động bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư ...chủ yếu là do công ty chứng khoán đảm nhiệm mà không có sự tham gia của các ngân hàng trong lĩnh vực đó. Dịch vụ mua bán ngoại tệ. Ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường ngoại hối để đáp ứng nhu cầu chi trả thanh toán ngoại tệ của khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có các dịch vụ như bảo quản tài sản quỹ, cho thuê két sắt. ở nước ta hiện nay hoạt động trung gian vẫn chưa phát triển mạnh vì nền kinh tế còn phát triển chậm. Có thể nói, các hoạt động của ngân hàng đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với nhau. Hoạt động huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho hoạt động sử dụng vốn. Ngược lại hoạt động sử dụng vốn thực hiện có hiệu quả mới thúc đẩy hoạt động hoạt động huy động vốn phát triển. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại thu nhập chính cho ngân hàng còn các hoạt động khác nâng cao uy tín và thu hút thêm khách hàng tạo điều kiện mở rộng hoạt động thu hút tiền gửi và kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng vẫn là quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. 3. Vai trò của ngân hàng thương mại. Vai trò của ngân hàng thương mại được thẻ hiện ở hai khía cạnh : 3.1 Vai trò thực thi chính sách tiền tệ. Ta biết rằng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá trình hoạt động đó, ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán... đảm bảo hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường. Bằng chính sách và những biện pháp tín dụng ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất, lưu thông và dịch vụ. Ngân hàng thương mại có thể gia tăng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và từng doanh nghiệp, hoặc có thể thực hiện quan hệ tín dụng đối với doanh nghiệp trong từng trường hợp cần thiết. Tất cả những vấn đề đó đều liên quan, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, việc sử dụngvốn vay ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong kinh doanh, vừa ý thức cho doanh nghiệp về trách nhiệm của mình trong quá trình sử dụng vốn. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn, những quyết dịnh của mình trong việc sử dụng vốn vay ngân hàng mở rộng hoặc thu hẹp qui mô kinh doanh hiện có . Vai trò điều tiết kinh tế vi mô của ngân hàng thương mại được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ nền kinh tế vào NHTM cũng như cung ứng tiền mặt theo nhu cầu của khách hàng. Quá trình thu nhận và cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong khu vực. Khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đi qua quỹ nghiệp vụ NHTM là những công cụ tác động trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp dân cư. Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ, NHTM còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là dịch vụ trung gian tạo cho ngân hàng thương mại những nguồn lợi đáng kể góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân hàng, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển toàn diện và thoã mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Như vậy, với vai trò thực thi chính sách tiền tệ, điều tiết kinh tế vi mô ngân hàng đã xâm nhập vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán. Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô thuộc về NHTƯ. NHTƯ thực hiện chức năng này thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là loại công cụ chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó. Nhưng NHTƯ không trực tiếp giao dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế tài chính trung gianđể soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vậy, rõ ràng là nếu không có hệ thống NHTM hoàn chỉnh , không có thông tin phản hồi do NHTM cung cấp thì việc hoạch định chiến lượcvà soạn thảo chính sách tiền tệ của NHTƯ sẽ không hoàn hảo. Chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ NHTƯ lan ra đến mợi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây chuyền của NHTM và các tổ chức tài chính trong nước. Như vậy, nếu không có sự chấp hành của hệ thống NHTM thi ý đồ chính sách tiền tệ của NHTƯ không thực hiện được. Do phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp nên có hai loại tiền. Tiền trung ương là loại tiền do NHTƯ độc quyền phát hành, tiền ngân hàng là loại tiền do NHTM tạo ra qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Nó được mở rộng gấp nhiều lần thông qua hệ số tạo tiền. Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lí vĩ mô của NHTƯ trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình NHTM đã thể hiện vai trò trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của NHTƯ . II Tín dụng trung, dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Khái niệm Tín dụng được định nghĩa là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Qua định nghĩa ta có thể thấy rằng : trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng cho người đi vay, sau một thời gian nhất định theo thoã thuận, người đi vay sẽ hoàn trả lại cho người cho vay. Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức.Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn giữa ngân hàng với các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Tín dụng trung, dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng được phân theo thời hạn. Tín dụng trung, dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên một năm và thời gian cho vay không quá thời gian khấu hao của tài sản hình thành từ vốn vay. Tuỳ theo từng quốc gia mà quy định cụ thể về thời hạn của tín dụng trung, dài hạn sẽ khác nhau. ở Việt Nam một khoản cho vay có thời hạn từ 1 dến 5 năm được coi là trung hạn và khoản vay được coi là dài hạn nếu có thời gian từ 5 năm trở lên. Tín dụng trung hạn thường được người vay sử dụng dể mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc xây dựng các công trình mới nhưng có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Còn tín dụng dài hạn thường để đầu tư vào việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất hiện đại, xây dựng các công trình có qui mô lớn, thời gian hoạt động dài. Hiện nay tín dụng trung, dài hạn không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay với thời hạn trên 1 năm mà nó còn được thể hiện dưới nhiều hình thức. Cụ thể như sau : + Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp . Đây là loại cho vay được thực hiện theo phương pháp cho vay thông thường dựa trên cơ sở nhu cầu vốn của từng công trình, hạng mục công trình được xác định trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp . + Cho vay theo dự án là một phương pháp cho vay dựa trên một văn bản hoàn chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu soạn thảo xét duyệt, kí kết giữa người đi vay và ngân hàng, đồng thời dựa trên những căn cứ khoa học kĩ thuật phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước. + Tín dụng tuần hoàn : là phương thức cho vay dựa vào chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung, dài hạn khi thời hạn của hợp đồng kéo dài từ 1 đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. Tín dụng tuần hoàn có thể chuyển thành tín dụng trung, dài hạn theo hợp đồng kí kết nếu người vay thấy cần thiết vì tình trạng tài chính không sẳn sàng để thực hiện tín dụng tuần hoàn. +Tín dụng thuê mua : là hình thức cho vay tín dụng trung, dài hạn bằng tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua. Sau một thời gian thuê nhất định tuỳ theo thoã thuận của hợp đồng, người đi thuê có thể mua lại tài sản đó. 2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn . Hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thường có các đặc điểm sau: Rủi ro lớn Nền kinh tế luôn chứa đựng những biến động lớn không thể lường trước được. Những biến động đó có thể là tích cực hay tiêu cực. Chính vì vậy các khoản tiền cho vay tín dụng trung, dài hạn luôn có độ rủi ro cao hơn khoản cho vay ngắn hạn tương ứng. Lãi suất cao Lãi suất cho vay trung , dài hạn bao giờ cũng cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn như thế nó mới bù đắp nổi những rủi ro cao có thể xảy ra. 3. Mục đích, đối tượng, điều kiện cho vay tín dụng trung, dài hạn. Cho vay tín dụng trung, dài hạn là loại hình tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm đối với cho vay trung hạn và cho vay trên 5 năm đến hết thời gian khấu hao tài sản đối với cho vay dài hạn. Tín dụng trung, dài hạn có vai trò rất lớn trong việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các dự án kinh doanh của các doanh nghiệp. Đây là nguồn động lực tiềm năng đối với chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo địng hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Mục đích của tín dụng trung, dài hạn là để đầu tư mở rộng sản xuất mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới dây chuyền công nghệ... tức là những dự án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn, trong khi mục đích của vay ngắn hạn là phục vụ chi tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ sung vốn lưu động... điều đó có nghĩa là để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Ngoài ra tín dụng trung, dài hạn giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. - Đối tượng của tín dụng trung, dài hạn là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục ,đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ nó bao gồm : giá trị vật tư, máy móc, thiết bị , công nghệ chuyển giao sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư , chi phí khác. - Điều kiện cho vay trung ,dài hạn. . Bên cho vay phải có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật, hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ theo đúng ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh và quy định của pháp luật Việt Nam. . Sản xuất kinh doanh phải có lãi, có như thế các doanh nghiệp mới có đủ khả năng trả lãi cho ngân hàng và thu lợi nhuận. . Dự án đầu tư trung, dài hạn phải có tính khả thi và các điều kiện kèm theo đối với những dự án bắt buộc như : xây dựng cơ bản phải có giấy xác nhận quyền sử dụng đất có thiết kế xây dựng cơ bản được cơ quan Nhà nước phê duyệt, đối với những ngành nghề ảnh hưởng đến đời sống xã hội phải có giấy phép của cơ quan quản lí môi trường. . Phải có vốn tự có đầu tư cho dự án theo mức cụ thể do giám đốc tổ chức tín dụng qui định theo các đối tượng của dự án . . Phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bão lãnh của người thứ ba theo quy chế thế chấp, cầm cố bảo lãnh của thống đốc ngân hàng Nhà nước. . Phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành bằng vốn vay tại một Công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp ở Việt Nam, nếu tài sản dó quy định phải mua bảo hiểm và cam kết số tiền được bồi thường khi gặp rủi ro sẽ dùng trả nợ cho tổ chức tín dụng. Các trường hợp không phải mua bảo hiểm do giám đốc tổ chức tín dụng qui định. . Tổ chức hạch toán, kế toán và quản lí tài chính theo đúng pháp luật kế toán, thống kê và điều lệ của tổ chức tín dụng. . Chấp nhận điều lệ quản lí đầu tư xây dựng của Nhà nước, quy định của thể lệ cho vay trung , dài hạn. . Đối với bên vay là pháp nhân, ngoài những điều kiện qu định trên còn phải có thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoạc giấy phép thành lập phù hợp với thời gian cho vay trung, dài hạn. 4. Nguyên tắc của tín dụng trung, dài hạn. Tín dụng đúng nghĩa như Các Mác đã chỉ ra xưa nay, khoa học kinh tế dưới nhiều phương thức sản xuất khác nhau đã cùng đúc kết, xác lập thành một số nguyên tắc: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả. Vốn vay phải được bảo đảm bằng vật tư hàng hoá tương đương. Vốn vay phải đượchoàn trả cả gốc và lãi đúng kì hạn cam kết. Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoã thuận giữa bên cho vay và bên vay theo chế độ hợp đồng kinh tế trong khuôn khổ pháp luật và thể lệ tín dụng trung, dài hạn. Rõ ràng 3 nguyên tắc tín dụng đầu hình thành như một quy luật phát triển nội tại của tín dụng, là “ điều luật” bất khả xâm phạm, tước bỏ, tách rời trong quan hệ tín dụng. Thực tế cho thấy, một khi cả 3 nguyên tắc hoặc một trong 3 nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này, tuỳ tiện với nguyên tắc kia, thì sớm muộn đều dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng, tín dụng sẽ tiêu tan dần vai trò, tác dụng của nó, nó sẽ là vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế. + Mức cho vay đối với một dự án đầu tư của bên vay bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án trừ đi vốn tự có đầu tư cho dự án của bên vay ( mức vốn tự có tối thiểu bắt buộc theo qui định của giám đốc tổ chức tín dụng) nhưng tối đa không quá 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bão lãnh. Ví dụ tại NHCT Việt Nam qui định mức vốn tự có của chủ đầu tư tham gia dự án : Vốn tự có tối thiểu 40% giá tri công trình đối với cho vay, xây dựng mới. Vốn tự có tối thiểu 30% cho các đối tượng mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ. Vốn tự có tối thiểu 15% giá trị công trình đối với cho vay cải tiến kĩ thuật mở rộng sản xuất . Ngân hàng yêu cầu chủ đầu tư phải có vốn tự có tham gia dự án để tăng cường trách nhiệm, ràng buộc của chủ đầu tư đối với dự án và phân tán rủi ro đối với ngân hàng cho vay. Mặt khác, vốn tự có thể hiện năng lực của chủ đầu tư và khả năng chủ độngtc đối với dự án. Vốn tự có của chủ đầu tư vào dự án có tỷ lệ càng cao càng tốt. Tổng dư nợ vốn lưu động trung, dài hạn đối với một khách hàng không vượt quá mức 30% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng đó. + Thời hạn cho vay đợc tính toán trên nhiều yếu tố, nhưng thời hạn tối đa không quá 5 năm dối với cho vay trung hạn, không quá thời hạn khấu hao tài sản cố định thuộc đối tượng đầu tư đối với cho vay dài hạn. Các yếu tố được xác định là: chu kì sản xuất kinh doanh, khả năng hoàn trả vốn của dự án đầu tư, khả năng thu nhập của bên vay và tính chất nguồn vốn của ngân hàng cho vay, mức khấu hao tài sản cố._. định. Thời hạn cho vay được tính từ ngày bên vay bắt đầu nhận tiền vay đến khi trả hết nợ cho bên cho vay, được hai bên kí kết trên hợp đồng vay vốn. + Lãi suất cho vay. Việc áp dụng mức lãi suất cho vay như thế nào là vấn đề các NHTM luôn quan tâm. Về phương diện ngân hàng, cơ sở để xem xét và áp dụng mức lãi suất đối với một khách hàng thường căn cứ vào các yếu tố. Thứ nhất, lãi suất phải bao gồm tất cả chi phí huy động vốn. Thứ hai, đủ bù đắp cho việc thực hiện khoản vay. Thứ ba, trang trải được các yếu tố rủi ro từ khoản vay. Cuối cùng, là phần thặng dư để đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Lãi suất cho vay trung dài hạn bằng đồng nội tệ đối với khách hàng có thể được biễu diễn theo công thức : RV = RC + DKH + DTV + DTG Trong đó : RV Lãi suất cho vay riêng lẻ RC Lãi suất cho vay cơ bản DTV Tỉ lệ điều chỉnh rủi ro số tiền vay DKH Tỉ lệ điều chỉnh rủi ro về khách hàng DTG Tỉ lệ điều chỉnh rủi ro thời hạn vay Theo nguyên tắc chung, cùng với một số tiền và khách hàng vay thì lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn vì tính thanh khoản cao và khả năng rủi ro cao hơn các khoản vay ngắn hạn. Do vậy, thông thường khoản vay có thời hạn càng dài thì lãi suất cũng có xu hướng càng cao. Ngoài ra, lãi cho vay không vượt quá mức lãi suất trần của thống đốc ngân hàng quy định. Tóm lại, mức lãi suất phải bảo đảm quyền lợi của người vay và ngân hàng, mức lãi suất được khách hàng chấp nhận và có thể cạnh tranh được với NHTM khác. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ có kinh nghiệm trong việc nắm bắt thị trường và thẩm dịh dự án đầu tư . Do vậy, ngân hàng tài trợ vốn đầu tư trung, dài hạn cho các doanh nghiệp vừa bảo đảm lợi ích cho các doanh nghiệp vì ngân hàng cho vay có thể giúp các dự án đầu tư và quan hệ thanh toán với khách hàng. Trong thời gian này, ngân hàng đã phát huy hết khả năng và năng lực của mình, khác hẳn với ngân hàng ở chế độ cũ do Nhà nước định đoạt. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn được thể hiện ở những nội dung sau : Tín dụng trung, dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế theo hướng công nhiệp hoá - hiện đại hoá . Đây là vai trò to lớn nhất của tín dụng trung, dài hạn. Nền kinh tế càng phát triển, hàng hoá được sản xuất càng nhiều thì nhu cầu của con người không ngừng nâng cao. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải nắm bắt và tìm mọi khả năng thoã mãn những nhu cầu đó. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm và muốn vậy thì doanh nghiệp cần có vốn. Nguồn vốn ngắn hạn chỉ đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời trong doanh nghiệp chứ không thể giúp doanh nghiệp trong việc mua sắm dây chuyền sản xuất hiện đại, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng... vì để làm được điều đó doanh nghiệp cần nhiều vốn và việc thu hồi vốn đàu tư phải kéo dài trong nhiều năm. Do đó hiển nhiên là doanh nghiệp rất cần vốn trung , dài hạn. Có nhiều cách tài trợ dài hạn cho doanh nghiệp như : phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tự tích luỹ... nhưng phổ biến nhất vẫn là cách vay vốn qua các trung gian tài chính. Đối với Việt Nam thì vay vốn ngân hàng có thể coi là lối thoát lớn nhất cho nhu cầu vốn doanh nghiệp bởi vì thị trường chứng khoán chưa phát triển sôi động, kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới, nhu cầu vốn lớn nhưng việc cho vay lại chứa đựng nhiều rủi ro, chính vì vậy các NHTM rất ngại cho vay trung, dài hạn do đó xảy ra nghích lí : các ngân hàng thừa vốn trong khi đó các các doanh nghiệp “ khát vốn” trầm trọng. ở các ngân hàng không cung cấp vốn cho doanh nghiệp hoặc cung cấp với thời han ngắn thì doanh nghiệp không có vốn để đầu tư phát triển đổi mới công nghệ và chỉ dừng lại ở mức tái sản xuất. Việc cho vay ngắn hạn chỉ có lợi cho những doanh nghiệp thuộc ngành thương mại mà đây chỉ là ngành giúp cho quá trình lưu thông hàng hoá, điều đó sẽ khiến cho nền kinh tế của đất nước không có sự tăng trưởng bền vững. Để từ một nước nông nghiệp lạc hậu có nền sản xuất nhỏ manh mún trở thành một nước có nền kinh tế phát triển thì chúng ta không còn cách nào khác ngoài việc phải tiến hành công nhiệp hoá - hiện đại hoá. Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình công nhiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là tập trung vốn đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, máy móc chuyển dịch nền kinh tế, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu... Như vậy, trong điều kiên thị trường chưa phát triển hoàn thiện thì hiện tại cũng như thời gian tới tín dụng trung, dài hạn của NHTM vẫn đóng vai trò quyết định trong giai đoạn đầu thực hiên công nhiệp hoá - hiện đại hoá. 5.2. Tín dụng trung, dài hạn góp phần chuyển dịch cơ bản nền kinh tế . Tín dụng trung, dài hạn thông qua huy động và cho vay theo dự án có định hướng, có vai trò rất lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nhiệp hoá - hiện đại hoá làm cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh đạt hiệu quả cao, tạo công ăn việc làm cho người lao động, làm cho thu nhập của họ tăng lên. Từ đó ngân hàng mở rộng được qui mô thị trường tín dụng cả “đầu vào” và “đầu ra” giảm được rủi ro trong kinh doanh để ngân hàng ngày cang phát triển tiến lên. Tín dụng trung, dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. Thật vậy, nguồn vốn trung, dài hạn sẽ được các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc thiết bị, xây dựng cơ bản dẫn tới sản xuất kinh doanh được kích thích phát triển. Khi đó doanh nghiệp sẽ cần nhiều vốn lưu động hơn để tiến hành sản xuất kinh doanh và điều đó có nghĩa là tín dụng trung, dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. Tín dụng trung, dài hạn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp có tiềm năng để mở rộng phát triển. Tín dụng trung, dài hạn cung ứng vốn giúp các doanh nghiệp phát triển tiềm năng mở rộng sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh tế vào việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Vì ngân hàng không cho vay đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và dự án kém tính khả thi nên bắt buộc người vay phải năng động sáng tạo, nâng cao chất lượng đi đôi với hạ giá thành sản phẩm để đứng vững trong cạnh tranh. Người vay sẽ phải sử dụng vốn của ngân hàng một cách tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất để có trả nợ vay ngân hàng và tái sản xuất mở rộng. Ngoài ra tín dụng trung, dài hạn còn đóng vai trò một trong những yếu tố nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh góp phần khẳng định tính khả thi của dự án. Khi ngân hàng quyết định tham gia vốn đầu tư có nghĩa là những dự án đó được ngân hàng tìm hiểu, nghiên cứu kĩ. Điều này buộc các nhà đầu tư lập dự án phải hết sức thận trọng cân nhắc khi đưa ra các dữ kiện, số liệu, luận cứ... để thuyết phục ngân hàng cho vay. Vì vậy, ngay từ khi lập dự án tiền khả thi, ngân hàng đã đóng vai trò là một nhà tư vấn quan trọng giúp đỡ doanh nghiệp. Khi dự án thành công sẽ tạo nên không gian đầu tư rộng lớn, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển, làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, làm tăng nguồn thu ngân sách thông qua thuế, làm sôi động khả năng cạnh tranh cùng phát triển trong nền kinh tế thị trường. Bản thân ngân hàng có điều kiện phát triển mở rộng thị trường vốn ngắn hạn bởi ví các dự án đầu tư sẽ không thực hiện được và trở nên vô nghĩa khi thiết bị, công nghệ được đầu tư không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng để mua bán nguyên vật liệu cho sản xuất. Qua những phân tích trên ta thấy, tín dụng trung, dài hạn có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế và đối với xã hội. Nếu thiếu nó sẽ gây ra bất lợi, khó khăn cho việc ổn định và phát triển kinh tế của đất nước cũng như đời sống nhân dân. Các vấn đề cơ bản về tín dụng trung, dài hạn tại NHTM . Lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi suất như là chi phí cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của người khác vì bản thân lãi suất chứa đựng một mâu thuẫn : người cho vay muốn lãi cao trong khi người đi vay muốn lãi thấp. Do đó, cũng như giá cả của mọi hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu dược xác định bởi cung cầu về vốn. Bên cạnh đó, lãi suất còn phụ thuộc vào mức độ rủi ro, số lượng ,thời han vốn vay và tình hình kinh tế. Do đặc điểm của những khoản vay trung, dài hạn là thời gian vay vốn dài nên chứa đựng nhiều rủi ro hơn những khoản vay ngắn hạn. Vì thế để giảm rủi ro về thay đổi lãi suất cho cả ngân hàng và khách hàng đối với những món vay dài hạn thường áp dụng lãi suất thả nổi. ở Việt Nam mức lãi suất còn phụ thuộc vào lãi suất trần do NHTƯ quy định, lãi suất trần được ấn định theo kì ạn 3 tháng và các NHTM sẽ căn cứ vào đó để điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp sao cho vừa duy trì hoạt động vừa cạnh tranh được với NHTM khác. Hạn mức tín dụng. Lượng vốn mà NHTM có thể chấp nhận cho khách hàng của mình vay còn phụ thuộc vào hạn mức tín dụng mà NHTM phân bổ và giới hạn cho vay đối với mỗi khách hàng. Theo qui định trong pháp luật ngân hàng, NHTM không được phép cho vay đối với một khách hàng vượt quá 10% vốn tự có và quỹ dự trữ, tổng số vốn cho vay 10 khách hàng lớn nhất không vượt quá 30% tổng dư nợ cho vay. Trong thực tế, tỉ lệ này là thấp so với nhu cầu vốn vay của một số doanh nghiệp nhà nước và các tổng Công ty lớn vì vốn tự có của các NHTM không lớn. Để khắc phục được điều này luật ngân hàng đã quy đinh lại là : Tổng dự nợ cho vay đối với khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của một số tổ chức tín dụng trừ đi các khoản cho vay từ các nguồn uỷ thác của Chính Phủ, tổ chức và cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác, trường hợp đặc biệt NHTM có thể quy định tổng dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng không vượt quá mức quy định này trong một thời gian nhất định. Thế chấp khoản cho vay. Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên vay. Do đặc điểm cho vay trung, dài hạn là thời gian vay vốn lâu vì vậy yêu cầu đầu tiên đối với tài sản thế chấp là tuổi thọ của tài sản phải lớn hơn thời gian vay vốn. Yêu cầu thứ hai đối với tài sản thế chấp là phải có khả năng chuyển nhượng mua bán dễ dàng. Ngân hàng căn cứ vào tài sản để xác định số tiền cho vay nhưng không vượt quá 70% giá trị tài sản thế chấp. II Chất lượng tín dụng trung, dài hạn và các chỉ tiêu đánh giá. Khái niệm. Chúng ta đều biết rằng một nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng là nhận tiền gửi để cho vay nhằm góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Tỉ trọng về doanh số cũng như về thu nhập của nghiệp vụ tín dụng thường chiếm tỉ lệ khá cao trong bảng cân đối của ngân hàng. Tại nhiều ngân hàng tỉ lệ ấy đứng hàng thứ nhất so với các nghiệp vụ khác. Có thể nói rằng chất lượng tín dụng của ngân hàng cao hay thấp phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng đó như thế nào. Bởi vậy nâng cao chất lượng tín dụng là mối quan tâm hàng đầu của mỗi ngân hàng.Chất lượng tín dụng là khái niệm khá rộng và được coi là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồi tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung ,dài hạn là chất lượng của các món vay có thời hạn trên 1 năm. Khi nói đến chất lượng tín dụng và vai trò bà đỡ của tín dụng ngân hàng đối với tiến trình phát triển kinh tế là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa mà chất lượng của nó bao giờ cũng tuân thủ 3 nguyên tắc tín dụng : . Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả . Vốn vay phải được đảm boả bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương. . Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng hạn cam kết. Do vậy việc thanh tra, kiểm soát phát hiện vấn đề nảy sinh trong tín dụng cũng từ việc chấp hành, tôn trọng các nguyên tắc đó đã diễn ra như thế nào, điều kiện tổ chức đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc đó như thế nào, từ đó có thể sơ bộ hình dung được chất lượng tín dụng. Dĩ nhiên chất lượng tín dụng không phải là cái trừu tượng, mơ hồ mà chính là thể hiện kết quả thực hiện trọn vẹn 3 nguyên tắc tín dụng phản ánh vào tốc độ tăng trưởng nền kinh tế và phát triển xã hội qua từng giai đoạn. 2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM . 2.1 Nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi bức thiết đối với phát triển của nền kinh tế xã hội. Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội. Trong điều kiện đó chất lượng tín dụng càng được quan tâm bởi vì : + Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng. + Chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, tăng cường chất lượng tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ . + Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn dịnh tiền tệ tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của các NHTM, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có hoặc lí do nào đó các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách hàng vượt quá số tiền thực tế của họ. Như vậy, nghiệp vụ tín dụng của NHTM có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trong tương lai của các công trình đầu tư. + Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh quan hệ tín dụng : Hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục dơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết , giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn đi vay nặng lãi chủ yếu đang hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh. Để có chất lượng tín dụng, ngoài nổ lực của bản thân ngân hàng, đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và có một cơ chế phù hợp về chính sách, chế độ, sự phối hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành, các cấp, tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động của tín dụng. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế, xã hội. Thiết lập một cơ chế chính sách tín dụng đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội, điều đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng, uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. + Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lí, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay và yêu cầu kiểm tra tối thiểu. + Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng bởi vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ sung vốn đầu tư . + Chất lượng tín dụng cũng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng bằng những điều kiện tốt nhất. Với những ưu thế trên, việc cũng cố và tăng cường chất lượng tín dụng của các NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của các NHTM, và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải được cải tiến. Các chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng tín dụng . Đối với ngân hàng + Chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận từ tín dụng trung, dài hạn Chỉ tiêu 1 = Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung, dài hạn. Một khoản tín dụng dù ngắn hay dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân hàng. Tuy nhiên đối với các NHTM quốc doanh thì chỉ tiêu về lợi nhuận nhiều khi không phải là mục tiêu cuối cùng mà là phải thực hiện các chủ trương chính sách Nhà nước nhằm tao ra hiệu quả xã hội. Lợi nhuận từ trung, dài hạn Chỉ tiêu 2 = Tổng lợi nhuận cho vay Chỉ tiêu này cho thấy rõ vị trí của trung, dài hạn trong hoạt động của ngân hàng. Chỉ tiêu này có thể sử dụng để so sánh với dư nợ trung, dài hạn và chỉ tiêu sử dụng vốn trung, dài hạn để đưa ra kết luận về hiệu quả của việc cho vay và món vay có thời hạn trên 1 năm. + Chỉ tiêu vòng vay vốn Thu nợ trung, dài hạn Chỉ tiêu 3 = Tổng dư nợ trung, dài hạn bình quân Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay càng lớn chứng tỏ ngân hàng càng thu được nhiều nợ và chứng tỏ rằng nguồn vốn trung, dài hạn mà ngân hàng đầu tư hoạt động có hiệu quả. + Chỉ tiêu nợ quá hạn. Nợ quá hạn trung, dài hạn Chỉ tiêu 4 = Tổng dư nợ trung, dài hạn Đến kì trả nợ và trả lãi tiền vay nếu bên vay không đủ tiền trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn không bao giờ là điều mong muốn của ngân hàng nhưng đây không phải là thước đo chính xác để đánh giá chất lượng khoản vay. Trên thực tế các ngân hàng luôn cố hạ đến mức thấp nhất tỉ lệ nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn dưới 3% đưọc coi là chấp nhận được. Nợ quá hạn khó đòi trung, dài hạn Chỉ tiêu 5 = Tổng dư nợ trung, dài hạn Nếu tỉ lệ này cao chứng tỏ món vay của ngân hàng có chất lượng thấp. Nó cho thấy hoạt động của ngân hàng đã không có hiệu quả và các chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng tín dụng khi đó trở nên vô nghĩa. + Chỉ tiêu sử dụng vốn. Sử dụng vốn * 100% Chỉ tiêu 6 = Huy động vốn Chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng được nhiều nguồn huy động được. Nhìn chung khi đánh giá chất lượng tín dụng ta không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể mà phải sử dụng tổng hợp một hế thống các chỉ tiêu để đưa ra chất lượng chính xác. ở đây muốn đề cập đến các chỉ tiêu định lượng không phải lúc nào cũng là chỉ tiêu hàng đầu mà đôi khi các chỉ tiêu định tính, chỉ tiêu về mặt xã hội được coi trọng hơn trong một số trường hợp. Đối với doanh nghiệp . Doanh nghiệp là người trực tiếp quản lí, sử dụng vốn trung, dài hạn. Đối với mỗi doanh nghiệp chất lượng tín dụng biểu hiện qua một số chỉ tiêu : Doanh thu tăng từ dự án . Lợi nhuận tăng từ dự án . Ngoài ra một số khoản tín dụng trung, dài hạn được coi là có chất lượng cao khi nó giúp doanh nghiệp đổi mới được công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh, cũng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân. Một khoản tín dụng được coi là tốt với ngân hàng thường là tốt với doanh nghiệp và ngược lại, tuy nhiên mức độ tốt của khoản tín dụng có thể khác nhau. Ví dụ khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đầu tư vào dây chuyền sản xuất hiện đại, doanh nghiệp sẽ cần ít lao động hơn, do giảm được chi phí tiền lương và đem lại khoản lợi lớn hơn cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong trường hợp này thì chất lượng tín dụng là tốt trong khi đối với các ngân hàng nhất là các NHTM quốc doanh chỉ tiêu tăng lao động rất được quan tâm thì chất lượng khoản tín dụng sẽ không được đánh giá cao về mặt này. Tóm lại mục tiêu cho vay trung, dài hạn của ngân hàng không chỉ đơn thuần là để thu lãi suất mà thông qua nguồn vốn đó, ngân hàng kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho sự phát triển nề kinh tế. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi lại muốn đầu tư vào dự án mới , lại xuất hiịen nhu cầu tín dụng mới. Cứ như vậy ngân hàng và doanh nghiệp cùng hỗ trợ cho nhau tồn tại và phát triển. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung ,dài hạn . Về phía ngân hàng . Hoạt động thẩm định. Bất kì nghiệp vụ nào của ngân hàng cũng chứa đựng rủi ro các cấp độ khác nhau. Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất là hoạt động tín dụng trong đó hoạt động có hệ số rủi ro cao, phức tạp và khó quản lí nhất là tín dụng trung, dài hạn. Do vậy các ngân hàng phải có các giải pháp tự bảo vệ mình, giảm tỉ lệ rủi ro để bảo toàn vốn tín dụng. Một trong các yếu tố bảo toàn vốn là phải thẩm định khách hàng, thẩm định dự án đầu tư trung hạn đối với món vay có thời hạn trên 1 năm dưới 5 năm và thẩm định dự án đầu tư dài hạn đối với món vay có thời hạn trên 5 năm. Nếu việc thẩm định không được tiến hành theo đúng trình tự, nội dung đầy đủ thì khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng là rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp trả được nợ trong tương lai thì món vay đó chưa chắc đã được coi là chất lượng cao vì bên cạnh lợi nhuận đem lại cho ngân hàng, doanh nghiệp phải đem lại lợi ích cho cả xã hội. Ngược lại, công tác thẩm định được tiến hành chặt chẽ trên các phương diện như phương diện thị trường, phương diện kĩ thuật, tính khả thi và nội dung kinh tế tài chính, môi trường xã hội, phương diện tổ chức quản lí thì khả năng món vay đó có chất lượng cao là rất lớn. Khi khách hàng đề xuất nhu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn, giải thích đầy đủ ,rõ ràng về điều kiện tín dụng và thủ tục hồ sơ xin vay cho khách hàng. Hồ sơ này sẽ là hồ sơ để cán bộ tín dụng thẩm định dự án đầu tư nên yêu cầu phải chính xác, khách quan và trung thực bao gồm hồ sơ đơn vị và hồ sơ dự án. Để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay, cán bộ tín dụng điều tra thu thập tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin do khách hàng cung cấp và thông tin tự mình điều tra từ các nguồn ở các cơ quan có liên quan và thị trường như từ các ngân hàng, cơ quan có quan hệ thanh toán tiền gửi, tín dụng với khách hàng, điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay, thông tin từ hồ sơ vay vốn và sổ sách kế toán của người vay, thông tin từ các cơ quan cấp trên, cơ quan thuế, quản lí thị trường, công an kinh tế, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Sau khi hoàn tất hồ sơ vay vốn, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thẩm định khách hàng và thẩm định dự án đầu tư để đi đến quyết định có đầu tư hay không. 4.1.1.1 Thẩm định khách hàng. + Thẩm định về năng lực pháp lí của khách hàng. Người vay phải có năng đủ năng lực pháp lí theo quy định của pháp luật trong quan hệ vay vốn ngân hàng. - Đối với thể nhân : Người vay phải có quyền công dân, có sức khoẻ, kĩ thuật, tay nghề và có kinh nghiệm sử dụng trong lĩnh vực vay vốn, có phẩm chất đạo đức tốt. - Đối với thể nhân : Thể nhân phải có đầy đủ hồ sơ chứng minh pháp nhân đó được thành lập hợp pháp, có đăng kí kinh doanh, có giấy phép hành nghề, có quyết định bổ nhiệm người đại diện pháp nhân trước pháp luật. Những giấy tờ này phải phù hợp với các quy định trong các luật tổ chức hoạt động như luật doanh nghiệp, luật Công ty , luật doanh nghiệp tư nhân... Kiểm tra tính chất pháp lí của người đại diện pháp nhân đứng ra kí hồ sơ thủ tục vay vốn phù hợp với điều lệ hoạt động của tổ chức đó và phải có văn bản uỷ quyền vay vốn của các cổ đông , các sáng lập viên, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh... Ngoài ra phải thẩm định xem khách hàng có thuộc đối tượng được vay vốn theo quy định cụ thể, theo chế độ, thể lệ cho vay hay không. + Thẩm định tính cách và uy tín của khách hàng. Để hạn chế mức thấp nhất các rủi ro do chủ quan của khách hàng gây nên như : rủi ro về đạo đức, rủi ro do thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường và đề phòng phát hiện những âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Thẩm định tính cách người vay không chỉ bằng phẩm chất, đạo đức mà phải kiểm nghiệm qua hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược trong tương lai. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía cạnh như chất lượng hàng hoá, dịch vụ, mức độ chiếm lĩnh sản phẩm trên thị trường, các quan hệ kinh tế, tài chính, vay vốn trả nợ với khách hàng và với ngân hàng. Trong các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, yếu tố con người là rất quan trọng vì vậy việc thẩm định khách hàng là rất cần thiết và là việc làm đầu tiên của ngân hàng trước khi thẩm định các vấn đề khác trước khi thẩm định các vấn đề khác của dự án đầu tư. + Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp. Thẩm định hoạt động sản xuất kinh doanh lấy số liệu 3 năm gần nhất để phân tích sản xuất kinh doanh trong từng thời kì, kết quả kinh doanh lỗ hay lãi của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu kinh tế hteo mẫu của ngân hàng công thương Việt Nam . Kiểm tra năng lực thanh toán để xem xét khả năng tài chính của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các khoản nợ của đơn vị để đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kiểm tra năng lực tự cân đối tài chính của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu hồ sơ tài trợ và năng lực đi vay. Kiểm tra tình hình công nợ của doanh nghiệp, xem xét tình hình quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, tình hình thanh toán với người mua, người bán, tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước . Ta cần thẩm định đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp trước khi thẩm định dự án đầu tư và đối với một doanh nghiệp, dự án đầu tư dù qui mô lớn hay nhỏ, đầu tư mới hay mở rộng đều là một bộ phận thống nhất hợp thành doanh nghiệp đó. Góp phần thay đổi qui mô doanh nghiệp đó trong tương lai. Mọi hoạt động cả cũ và mới của doanh nghiệp đều được phản ánh vào một bảng cân đối duy nhất. Việc sử dụng vốn và nguồn vốn có trước đây với nguồn vốn và tài sản mới hình thành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhất là quá trình góp vốn tự có, thanh toán các khoản nợ, trả nợ cũ và mới. Nếu năng lực của chủ đầu tư trong quá khứ và hiện tại tốt sẽ là điều kiện tốt cho thực thi dự án. Ngược lại, năng lực của chủ đầu tư kém không những không hỗ trợ cho dự án mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình thực hiện dự án. Vì vậy phải xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp để qua đó đánh giá một cách tổng hợp khả năng tự cân đối nhu cầu thanh toán của cả dự án và hoạt động hiện tại. Phân tích những tồn tại khó khăn, thuận lợi về tài chính sản xuất kinh doanh và tiền thu chưa được xử lí đang phát sinh hoặc sẽ phát sinh. Phân tích các yếu tố liên quan đến quản lí điều hành sản xuất kinh doanh như khả năng về thị trường, môi trường kinh doanh, khả năng quản lí điều hành, phương hướng phát triển của doanh nghiệp trong tưong lai. Phân tích và dự báo các rủi ro thường xảy ra trong kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở các chỉ tiêu trên để rút ra kết luận đánh giá ưu điểm, nhược điểm của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh trên các mặt, về khả năng tài chính, khẩ năng quản lí điều hành kinh doanh, năng lực sản xuất và uy tín của doanh nghiệp một cách chính xác nhất. Thẩm định dự án đầu tư . Thẩm định dự án đầu tư là kiểm tra xem xét một cách khách quan ảnh hưởng một cách trực tiếp đến tính khả thi của dự án để ra quyết định đầu tư . Thẩm định dự án là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của tín dụng ngân hàng. Phải xem xét thẩm định các dự án đầu tư một cách tổng thể trước khi quyết định cho vay vốn, để đảm bảo khả năng thu hồi vốn và hạn chế các yếu tố rủi ro. + Thẩm định sự cần thiết của dự án . Một dự án được đầu tư và phát huy tác dụng sẽ có ảnh hưởng tới nền kinh tế. Vì vậy phải thẩm định xem mục tiêu của dự án có phù hợp và đáp ứng mục tiêu phát triển của ngành, của thành phố và cả nước hay không. Đánh giá cung cầu của sản phẩm hiện tại và dự đoán trong tương lai. Nếu là đầu tư cải tiến mở rộng sản xuất thì đánh giá về trình độ sản xuất, chất lượng , qui cách, giá cả, xem xét sự cần thiết về việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vay vốn, lợi ích kinh tế xã hội ... để rút ra kết luận dự án có thực sự cần thiết hay không. + Thẩm định về phương diện thị trường . Xem xét tính chính xác trung thực của số liệu trên dự án về mặt giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã hàng hoá, thị hiếu người tiêu dùng... Kiểm tra tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua, cả trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Kiểm tra tình hình đầu ra của sản phẩm như đơn đặt hàng, các hợp đồng tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm về số lượng, chủng loại, giá cả, thời hạn và phương thức thanh toán. Cần phải lưu ý về tính hợp lí, hợp pháp và mức độ tin cậy của những văn bản này. Ngoài ra, còn phải tìm hiểu xu hướng, mức độ cũng như đối thhủ cạnh tranh chủ yếu trên thị trường để đánh giá khả năng cạnh tranh của dự án. Từ đó có những đề xuất bổ sung giúp đơn vị có đề án nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm. + Thẩm định về phương diện kĩ thuật. Thẩm định toàn diên trên các mặt. - Qui mô dự án có phù hợp với khả năng đáp ứng vốn cung cấp nguyên liệu, năng lực sản xuất của doanh nghiệp và có phù hợp với khả năng thị trường tiêu thụ sản phẩm đầt ra hay không. - Công nghệ và trang thiết bị : Thẩm định xem doanh nghiệp đã đưa ra mấy phương án để so sánh lựa cọn công nghệ thiết bị, ưu nhược điểm của từng phương án. Nêu lí do doanh nghiệp lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại. Trường hợp đầu tư vào công nghệ thiết bị mới và phức tạp yêu cầu phải được đảm bảo bằng các hợp đồng chuyển giao ._. vay xây dựng cơ bản. Điều này sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quản lí. Chính vì vậy cần có sự chuyên môn hoá trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên thực hiện chuyên môn hoá với từng cán bộ tín dụng bằng cách chia khách hàng theo từng nhóm có đặc điểm riêng rõ nhất là chia theo ngành. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực sở trường và kinh nghiệm của từng nhóm cán bộ tín dụng để phân công thực hiện cho vay đối với một loại khách hàng nhất định. Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thể hiểu biết khách hàng một cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng trong quá trình sắp xếp phân công lại nhân viên cũng cần phải hạn chế. Việc chuyên môn hoá như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng dễ dàng giám sát, sát cánh cùng khách hàng trong vấn đề quản lí vốn. Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hoá, ngân hàng phải không ngừng nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên định kì mở các lớp huấn luyện bồi dưỡng cán bộ về thị trường, công nghệ để giúp cán bộ tín dụng vững vàng, tự tin hơn trong công việc của mình. Tuy nhiên các cán bộ sau khi được cử đi học phải chịu trách nhiệm thực hiện các công việc cụ thể tránh bệnh hình thức, ngân hàng bỏ tiền cho đi học nhưng không đóng được gì cho ngân hàng. Tăng cường kiểm tra các khoản tín dụng. Nhiệm vụ của ngân hàng không phải chỉ là thẩm định dự án nếu có khả thi thì tiến hành giải ngân thế là ngân hàng hết trách nhiệm. Để một khoản tín dụng có chất lượng cao ngân hàng phải thực hiện nguyên tắc “ giám sát trước, trong và sau khi cho vay”. Trước khi cho vay các doanh nghiệp đã vay vốn tại các ngân hàng khác thì ngoài việc cần phải nắm chắc tình hình dư nợ thực tế của đơn vị tại các ngân hàng, cần phải xem xét kĩ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Sau khi cho vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay đối với doanh nghiệp được xử lí như thế nào ? Trong trường hợp đơn vị có nhu cầu sử dụng vốn để trả công lao động hay trả tiền mua vật tư bằng tiền mặt... như đã dự kiến trong phương án vay, nhưng khi đã vay được tiền tại ngân hàng A thì nợ tại ngân hàng B đến hạn do khoản thu nhập dự kiến để trả ngân hàng B chưa về kịp buộc đơn vị phải sử dụng số tiền đã vay ngân hàng A để trả cho ngân hàng B để chi dùnh theo thực tế ban đầu. Hiện tượng đảo nợ thường xuyên xảy ra đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng do họ thường xuyên bị chiếm dụng vốn từ các chủ đầu tư và để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường buộc họ phải thực hiện biện pháp trên để tránh tình trạng thường xuyên xin khất nợ do vốn thanh toán khối lượng công trình luôn bị chậm. Vì là kiểm tra sau nên việc phát hiện đơn vị dùng sai mục đíh đã xảy ra khắc phục bằng cách thu hồi nợ trước hạn thì phải chờ đơn vị có nguồn. Như vậy, sự cần thiết phải giám sát trong quá trình vay là rất quan trọng, nếu phát hiện doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích lập tức có biện pháp can thiệp đúng đắn có như thế khoản tín dụng mới đảm bảo an toàn và phát triển. Thực tế hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp khi thực hiện chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp nếu có thể tách ra cụ thể là vốn vay của ngân hàng nào để thực hiên riêng dự án, và nguồn thu của món nào được dùng để trả nợ cho món vay đó là sẽ quá đơn giảm cho từng ngân hàng khi thực hiện chức năng quản lí việc thực hiện vốn vay . Nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị là một guồng máy vận hành liên tục và vốn của doanh nghiệp, vốn của ngân hàng đều vận hành theo quỹ đạo đó, khi có nguồn thu họ sẽ tính toán trả nợ những món vay nào đến hạn trước, do vậy bản thân đơn vị vay vốn cũng không có khả năng thực hiện ý đồ tách bạch từng món nợ của từng ngân hàng và chính ngân hàng cũng không thể buộc đơn vị là tiền thu được từ món vay ngân hàng mình phải trả nợ cho mình khi mà chưa đến thời hạn trả. Từ thực tế đó các ngân hàng cần có các biện pháp phù hợp thực hiện quản lí khoản vay của mình sao cho có hiệu quả cao nhất . 4. Tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là sự bảo đảm cho khoản vay, ngân hàng chỉ nên coi đó là cam kết sẽ trả nợ chứ kông phải là nguồn trả nợ. Ngân hàng cần có sự thẩm định kĩ càng đối với tài sản thế chấp cả về giá trị thị trường và tính pháp lí để tránh tình trạng các doanh nghiệp dùng một loại tài sản đi thế chấp và vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau hoặc tài sản có giá trị thấp hơn so với giá trị trên giấy tờ. Tuy nhiên các thủ tục phải nhanh chóng tránh sự phiền hà. Hiện nay các doanh nghiệp đang phàn nàn rất nhiều về thủ tục công chứng quá phức tạp tốn thời gian (công chứng phải rà từng chữ trong văn bản cầm cố thế chấp, bảo lãnh ). Ngân hàng cần có sự kết hợp với phòng công chứng để giảm bới một số thủ tục, thời gian và chi phí giao dịch. Như ta đã biết trong chương II một trong ba nguyên tắc cơ bản của tín dụng là “ vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương” và cũng như đã trình bày trong chương II “ một khi cả ba nguyên tắc ấy hoặc một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này, tuỳ tiện với nguyên tắc kia” thì sớm muộn cũng dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng . Bước vào nền kinh tế thị trường, thời gian gần đây, về nguyên tắc tín dụng, dường như người ta quá nhấn mạnh đến nguyên tắc “ thế chấp, cầm cố” do nguyên tắc “ giá trị vật tư hàng hoá tương đương đảm bảo” qui định, quá lơ là hai nguyên tắc cấu thành cơ bản khác. Như vậy là không ổn. Và thực tế do thiên lệch trong quan niệm về cầm cố, thế chấp một mặt đã làm méo mó, xói mòn ba nguyên tắc tín dụng, mặt khác các tổ chức tín dụng đã trở thành các tiệm cầm đồ ngày càng nhiều đồ giả, mà với đồ thật dù đã chất thành “núi thế chấp”, tín dụng vẫn trắng tay không có cách nào và bao giờ thu lại được vốn. Phải chăng cùng chung điều kiện kinh tế thị trường trên lãnh thổ Việt Nam, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang cạnh tranh thành đạt như thế nào trong hoạt động huy động và cho vay, có thể thực tiễn đó đang cho lời giải vận dụng, chấp hành các nguyên tắc tín dụng như thế nào là cần thiết và có ý nghĩa nhất. 5. Thành lập quĩ rủi ro tín dụng. Ngân hàng cần lập quĩ dự phòng để bù đắp thiệt hại do hoạt động tín dụng gây nên. Quĩ này có vai trò tích cực trong việc hạn chế các thiệt hại xảy ra rủi ro giúo ngân hàng ổn định hoạt động bảo tồn và phát triển nguồn vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng là rất lớn, chính vì vậy ngân hàng cần nghiêm chỉnh thực hiện dúng qui định của Chính Phủ về lập quĩ. Hiện nay theo nghị định số 166/1999/NĐ - CP về chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng thì lợi nhuận của các ngân hàng sau khi nộp thuế doanh nghiệp, trích lập quĩ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, bù lỗ năm trước, nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trừ tiền phạt vi phạm pháp luất sẽ được trích 10% trong số còn lại để lập quĩ dự phòng tài chính( nhưng số dư của quỹ không quá 25% số vốn điều lệ của tổ chức tín dụng ). Quĩ dự phòng tài chính dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí. 6. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng, tích cực tìm kiếm khia thác khách hàng. Chiến lược khách hàng tức là làm marketing ngân hàng, đây là hình thức quan trọng trong giai đoạn hiện nay đối với các ngân hàng. Qua đó có thể giữ được khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả. Nếu thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng thì ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư hơn, hoạt động tín dụng càng được mở rộng. Vì vậy các ngân hàng cần đẩy mạnh công tác khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng. Các ngân hàng hướng dẫn khách hàng giải quyết thủ tục vay vốn một cách nhanh gọn, nhưng bảo đảm tốt quy trình thẩm định. Tăng cường quan hệ với các Tổng công ty để tạo điều kiện cho quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các thành viên của Tổng công ty. Chủ động bố trí nguồn vốn lớn bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ để đầu tư cho ngành,các Tổng công ty, các dự án có vị trí chiến lược đối với nền kinh tế như :Bưu chính viễn thông, điệnlực, than, dầu khí... Nghiên cứu xây dựng mục tiêu, kế hoạch đầu tư trung, dài hạn theo chiến lược khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, tìm kiếm các tổ chức kinh tế và cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn đi đôi với tư vấn đầu tư để chủ độngcho quan hệ tín dụng và khai thác khách hàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn trung, dài hạn. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng bằng một chính sách lãi suất, phí dịch vụ thấp, có khả năng cạnh tranh được với các ngân hàng khác, luôn coi lợi ích của khách hàng chính klà lợi ích của bản thân ngân hàng. Thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất phí dịch vụ cho những khách hàng thực hiện giao dịch trọn gói với ngân hàng bao gồm từ khâu vay vốn kinh doanh ngoại tệ đến khâu thanh toán xuất nhập khẩu và chuyển tiền. Ngân hàng phải chủ động đặt quan hệ với khách hàng làm ăn có hiệu quả chứ không phải bị động ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, nếu không sẽ bỏ phí những cơ hội đầu tư lớn đem lại lợi nhuận cao cho kinh doanh ngân hàng. Xử lí khoản nợ quá hạn. Để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì vấn đề quan trọng là phải xử lí các khoản nợ, gia hạn để giúp các ngân hàng giải quyết nguồn vốn đang bị ứ đọng. Trước tiên, phải tiến hành rà soát lại các khoản nợ quá hạn, xác định nguyên nhân của nó và đưa ra các biện pháp xử lí kịp thời. Đối với các đơn vị kinh tế vẫn có khả năng phục hồi sản xuất thì cần tạo cho họ cơ hội làm ăn để trả nợ ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng nên làm thủ tục gia hạn nợ hoặc điều chỉnh hợp đồng. Nếu nợ quá hạn là do hàng hoá của khách hàng bị ứ đọng, chậm tiêu thụ ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp phát triển mạng lưới tiêu thụ, tăng cường chiến dịch quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm ... Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng phải có biện pháp thu hồi lại vốn ngay. Đối với khách hàng có biểu hiện chây lì, lừa đảo thì kiên quyết chuyển hồ sơ xin vay khách hàng sang cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phối hợp giải quyết. Bên cạnh việc xử lí nợ quá hạn, ngân hàng cần quan tâm đến biện pháp hạn chế phát sing nợ quá hạn. Do vậy, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi các khoản vay và khi phát hiện khoản vay có vấn đề thì tuỳ vào từng trường hợp mà ngân hàng có biện pháp giúp đỡ khách hàng hoặc có thể khôi phục năng lực tài chính của khách hàng... Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần phải tổ chức phân loại khách hàng một cách thường xuyên để có biện pháp mở rộng thị phần trong kinh doanh tiền tệ thông qua các sản phẩm của ngân hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng quan hệ với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vì đặc điểm sản xuất kinh doanh của thành phần này năng động, nhạy bén, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường,dộ máy sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế luôn gắn liền với lợi ích của từng người nên họ liên tiếp tìm ra các biện pháp giảm chi phí lưu thông, tìm kiếm mặt hàng mới, mẫu mã phong phú, chủng loại đa dạng. Đây cũng là nhân tố hấp dẫn với qui luật cạnh tranh trên thị trường cũng như đối với ngân hàng khi xem xét khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Vì vậy mở rộng tín dụng đối với thành phần kinh tế này không những bảo đảm vững chắc góp phần vào việc tăng trưởng nền kinh tế mà còn bảo đảm hệ số an toàn vốn cho ngân hàng. Lãi suất cho vay . Lãi suất cho vay là vấn đề không chỉ ngân hàng quan tâm mà các chủ thế kinh doanh luôn chú ý, là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ, liên quan đến lợi ích vật chất của các bên. Lãi suất cho vay phụ thuộc vào nhều yếu tố kinh tế khác nhau nên để đưa ra mức lãi suất mới cần phải thay đổi nhiều yếu tố khác. hiện nay ngân hàng công thương Đống Đa thực thi mức lãi suất dựa trên khung lãi suất do ngân hàng công thương Việt Nam qui định. Ngân hàng đã thực hiện mức lãi suất linh hoạt cho từng khách hang như ng vẫn còn sự phân biệt đối với kinh tế ngoaì quốc doanh. Điều này gây cản trở khách hàng ngoài quốc doanh đến với ngân hàng. Trước tình hình ứ đọng vốn nhiều như vậy, ngân hàng nên mở rộng cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc đưa ra một mức lãi suất “mềm” hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thể vay vốn của ngân hàng và sử dụng vốn để kinh doanh có lãi. Ngân hàng cần áp dụng lãi suất linh hoạt theo mức vay vốn. Để khuyến khích khách hàng vay vốn, ngân hàng nên đưa ra mức lãi suất linh hoạt theo lượng vốn vay của khách hàng, những khoản vay với khối lượng lớn nên áp dụng mức lãi suất thấp hơn. Thiết lập trung tâm thông tin và tư vấn đầu tư . Vấn đề của các ngân hàng thương mại hiện nay trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là khâu thông tin và xử lí thông tin của doanh nghiệp. Tại các ngân hàng nước ngoài thông tin về các doanh nghiệp được dữ trữ đầy đủ tại các ngân hàng “mẹ”. Do đó các chi nhánh khi cần xử lí thông tin chỉ cần lấy từ các ngân hàng “mẹ”. Khoản cho vay ra sao, giá trị như thế nào, do từng cấp thẩm quyền quyết định và chịu trách nhiệm. Vì vậy, trong khi các ngân hàng thương mại Việt Nam lúng túng thì các ngân hàng nước ngoài cho vay trung, dài hạn với tỉ trọng cao mà không có rủi ro. Việc thành lập phòng thông tin và tư vấn đầu tư của ngân hàng sẽ phần nào gỡ rói cho ngân hàng. Đây sẽ là thông tin tổn hợp bao quát toàn bộ vấn đề thông tin để đồng thời thực hiện các nhiệm vụ đặt ra ở phần “ cải tiến quy trình cho vay” và “nâng cao chất lượng thẩm định”. Xa hơn nữa, phòng này sẽ có thể tư vấn giúp đỡ khách hàng trong việc tìm và xây dựng dự án đầu tư . Như vậy phòng thông tin tư vấn đầu tư có tác dụng nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. III. Một số kiến nghị. Kiến nghị với ngân hàng công thương Việt Nam . Với vai trò là cơ quan chỉ đạo trực tiếp hoạt động của ngân hàng công thương Đống Đa, ngân hàng công thương Việt Nam cần có nhưng hướng dẫn cụ thể hoạt động của ngân hàng công thương Đống Đa, ngân hàng công thương Việt Nam cần thực hiện các công việc sau. + Chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của Chính Phủ và của ngành. Hiện nay để hoàn thiện môi trường pháp lí tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, Chính Phủ thường xuyên đưa ra những nghị định để chỉ đạo hoạt động của ngân hàng. Nên sau khi các văn bản pháp luật này ra đời ngân hàng công thương Việt Nam nên có văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện đến từng chi nhánh, giải toả kịp thời những vướng mắc để nâng cao hiệu quả hoạt động. + Các văn bản hướng dẫn do ngân hàng công thương ban hành cần phải nghiên cứu một cách cẩn thận hơn trước khi công bố gây khó khăn hoặc vô tình tạo nên sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại. Ví dụ như quyết định 35/QĐ - HĐBT ngày 25/5/1998 của chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng công thương Việt Nam qui định ưu đãi về lãi suất cho vay (giảm 15% so với lãi suất thường) và mức phí dịch vụ, điều kiện vay vốn, về kí quĩ và ưu đãi đầu tư khác đối với khách hàng là Tổng công ty Nhà nước thành lập theo quyết định 90 – 91 có dư nợ cao. Điều này khiến cho các đơn vị thành viên của công ty tập trung về nhờ Tổng công ty vay vốn để hưởng chế độ ưu đãi. Điều này làm khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lí và sử dụng vốn vay. Và một chế độ ưu đãi nữa cũng gây khó khăn cho ngân hàng là việc phân biệt ưu đãi lãi suất với khách hàng của các ngân hàng có tổng dư nợ khác nhau : - Các ngân hàng có tổng dư nợ dưới 100 tỉ thì khách hàng có dư nợ từ 5 tỉ trở lên sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi, giảm lãi suất cho vay. - Các ngân hàng có tổng dư nợ cho vay từ 100 – 200 tỉ khách hàng dư nợ từ 7 tỉ trở lên được hưởng lãi suất ưu đãi. - Còn các ngân hàng có tổng dư nợ lớn hơn 200 tỉ thì khách hàng có dư nợ trên 10 tỉ mới được hưởng lãi suất ưu đãi. Do khách hàng được tự do lựa họn ngân hàng nên các khách hàng có số dư nợ thấp sẽ bỏ các ngân hàng dang giao dịch để đến với ngân hàng có tổng dư nợ thấp để hưởng lãi suất ưu đãi. Điều này tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng . Phạm vi quyết định món vay của ngân hàng công thương Đống Đa cũng gây ra sự phân biệt đối với các thành phần kinh tế . . Đối với thành viên Tổng công ty, được cho vay nhiều nhất là 20 tỉ đồng cho một dự án . . Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì mức quyết định là 5 tỉ đồng cho một dự án. Mức phán quyết này thể hiện một sự phân biệt đối xử rất rõ ràng giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Với mức phán quyết 5 tỉ thì khách hàng ngoài quốc doanh có muốn vay nhiều sẽ rất phiền hà, mất thời gian. Qui định này gần như là một sự thu hẹp đối với cho vay ngoài quốc doanh. + Ngân hàng công thương Việt Nam cũng nên tạo một sự tự chủ hơn nữa cho các ngân hàng thương mại, có thể bỏ bới một số chỉ tiêu kế hoạch hoặc mở rộng phạm vi quyết định cho giám đốc ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu vốn điều hoà nộp lên ngân hàng công thương Việt Nam mặc dù có mặt rất tốt là giúp ngân hàng công thương san sẽ hỗ trợ vốn cho các ngân hàng khác nhưng chính nó lại làm triệt tiêu động lực kinh doanh. Ngân hàng công thương Đống Đa mặc dù không cho vay được nhiều nhưng vẫn có lãi vì một lượng vốn lớn điều chuyển lên ngân hàng công thương Việt Nam vẫn được hưởng lãi. Như vậy, rõ ràng là ngân hàng công thương Đống Đa cũng không cần thiết phải tìm kiếm khách hàng để cho vay va cũng khong lo bị thua lỗ vì vốn thừa cứ đem nộp lên cấp trên. Chỉ tiêu vốn điều hoà trở thàh sự bao cấp của ngân hàng công thương Việt Nam cho các ngân hàng chi nhánh và tất nhiên đã là bao câpớ thường kém hiệu quả. Thiết nghĩ rằng chỉ tiêu này cũng nên được duy trì ở mức độ nào đó nhưng dần dần giảm bớt đi và khoong phải cứ vượt chỉ tiêu là được khuyến khích. Có như vậy mới khiến cho các ngân hàng công thương chi nhánh trong đó có ngân hàng công thương Đống Đa phải tự vận động tìm khách hàng làm ăn có hiệu quả để cho vay ngắn và trung, dài hạn. Ngân hàng công thương Việt Nam nên có một công ty chuyên trách trong việc mua bán khai thác tài sản, bắt nợ cho các chi nhánh, nhanh chóng giải quyết được nợ từ nhưng vụ cho vay có vấn đề nhằm khơi thông bảo toàn nguồn vốn. Kiến ghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam . Ngân hàng Nhà nước cần phải ban hành thông tư liên tịch để hướng dẫn thủ tục xử lí tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn của các tổ chức tín dụng. Đề nghị Nhà nước cấp bù hoặc xoá nợ cho những ngân hàng có những khoản nợ quá hạn vì lí do khách quan, xá định và cấp đủ vốn cho ngân hàng thương mại quốc doanh. Sớm đưa ra những quyết định về thiết lập quĩ bù đắp rủi ro để các tổ chức tín dụng chủ động giải quyết các khoản nợ có vấn đề. Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hơn nữa chất lượng của trung tâm tín dụng để giúp các ngân hàng nắm bắt thông tin về các tổ chức kinh tế một cách chín xác, kịp thời. Ngân hàng Nhà nước nên qui định hạn mức tín dụng cho phù hợp với khả năng của từng ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cùng các ngân hàng thương mại quốc doanh cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng, tăng khả năng đáp ứng yêu cầu thanh khoản và tín dụng cho ngân hàng. Thiết lập và sớm đưa ra hoạt động các công ty mua bán nợ góp phần xử lí các khoản nợ, lành mạnh hoá các khoản nợ của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa công tác thanh tra ngân hàng nhằmhạn chế thấp nhất những sai lầm có thẻe gặp phải ở các ngân hàng. 3. Kiến nghị với Chính Phủ và các cơ quan Nhà nước. Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lí va tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức kinh tế chịu tác động của niều yếu tố kinh tế, chính trị , xã hội, luât pháp... Do đó, một môi trường pháp lí đồng bộ và hoàn thiện sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện các khoản vay của mình một cách hiệu quả hơn. Để đạt được điều này Quốc hội cũng như các cơ quan khác, bên cạnh luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng thì cần sữa đổi và hoàn thiện một số luật khác có liên quan như luật doanh nghiệp, luật đầu tư trong nước, luật bảo hiểm, luật thế chấp... Việc này có tác dụng bảo đảm cho quan hệ tín dụng được dựa trên một nền tảng vững chắc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Chính Phủ cần tăng cường các biện pháp quản lí Nhà nước đối với các doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp hoạt động theo đúng chức năng, ngành nghề đã đăng kí kinh doanh, qui mô hoạt động phù hợp với vốn đều lệ, năng lực và trình độ quản lí. Thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng kí kinh doanh đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh của mình như buôn lâu, làm hàng giả, lừa đảo... Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh thông kê kế toán, thực hiện kế hoach kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với các doanh nghiệp nhằm xác lập sự lành mạnh của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế vì điều này sẽ giúp nền kinh tế vận hành hoàn hảo hơn qua đó sẽ giúp các ngân hàng xác định chính xác năng lực tài chính của đơn vị vay vốn. Các cơ quan quản lí vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối giữa nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một lĩnh vực, một ngành nào đó gây lãng phí do thừa cung, nhưng cũng tránh việc đầu tư một cách dàn trải vì điều này sẽ dãn tới việc thực hiện dự án đầu tư không hiệu quả làm suy hại đến hiệu quả kinh tế nói chung va chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng. Nhà nước cũng cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay trung, dài hạn để phát triển kinh tế như giảm thuế đối với hoạt động này tạo hành lang pháp lí đồng bộ, tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài. Một trong những khó khăn lớn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam là tình trạng thế chấp quay vòng mà lỗi là do sự quan liêu, thiếu trách nhiệm của các bên lien quan. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng cần kiểm tra chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, các tài sản chỉ được cấp một gấy chứng nhận bản gốc duy nhất để tránh tìnhtrạng trên. Mặt khác việc phát mại tài sản thế chấp hiện nay cũng còn rất nhiều khó khăn vướng mắc. Nhà nước cần sớm cho ra đời một uỷ ban đặc biệt của Chính Phủ, hoạt động với một cơ chế đặc biệt, có đủ thẩm quyền để xử lí các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh một cách nhanh chóng giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thu hồi nợ, chuyển các tài sản này thành nguồn vốn luân chuyển được. Chính Phủ cần thành lập các công ty có chức năng kinh doanh bất động sản và mua bán nợ dưới các hình thức doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần hay liên doanh để mua lại các tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh của các ngân hàng thương mại nhằm giải phóng nợ đọng, làm lành mạnh hoá tình trạng tài chính của ngân hàng. Nói cách khác Chính Phủ nên thành lập và sớm đi vào hoạt động thị trường mua bán nợ và tài sản đảm bảo của ngân hàng thương mại. Đẩy nhanh tốc độ phê duyệt dự án đầu tư, giảm thời gian ở từng khâu của dự án trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Điều này thực sự có ý nghĩa đối với ngân hàng. 4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Các doanh nghiệp tăng cường tích luỹ vốn tự có, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lí, áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với môi trường trình độ sản xuất trong nước. Doanh nghiệp phải có phương thức hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng nhanh với biến động của môi trường kinh tế, môi trường pháp lí. Kết luận Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, ngân hàng cần phải đảm bảo được chất lượng của hoạt động tín dụng. “ Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn” không chỉ là mong muốn riêng của ngân hàng công thương Đống Đa mà còn là của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và cũng là mong muốn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Nhận thức được vấn dề này, dưới sự nhìn nhận của một sinh viên thực tập, bài viết này mong muốn đề cập đến hoạt động tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với mong muốn có thể nâng cao chất lượng tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. Như đã đề cập, tín dụng trung, dài hạn có ảnh hưởng tới nhiều vấn đề và lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau, đồng thời loại tín dụng này cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố. Tuy vậy với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay cùng với những kinh nghiệm và nổ lực của toàn bộ tập thể cán bộ chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa chúng ta tin rằng trong một tương lai không xa, chi nhánh đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng. Mục lục Lời nói đầu. 1 Chương I : Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại. 3 I. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3 Khái niệm ngân hàng thương mại . 3 Các hoạt động của ngân hàng thương mại. 4 2.1 Hoạt động huy động vốn. 4 Hoạt động sử dụng vốn. 6 Hoạt động ngân quĩ. 6 Hoạt động đầu tư . 6 Hoạt động tín dụng . 6 2.3 Hoạt động trung gian. 8 Dịch vụ thanh toán hộ. 8 Dịch vụ mua bán hộ chứng khoán. 8 Dịch vụ mua bán ngoại tệ. 9 3. Vai trò của ngân hàng thương mại. 9 Vai trò thực thi chính sách tiền tệ. 9 Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. 10 II. Tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. 11 Khái niệm. 11 Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn. 12 Mục đích, đối tượng, điều kiện cho vay trung, dài hạn. 13 Nguyên tắc tín dụng trung, dài hạn. 14 Vai trò tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế. 16 Tín dụng trung, dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 16 Tín dụng trung, dài hạn góp phần chuyển dịch cơ bản nền kinh tế. 17 Tín dụng trung, dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. 18 Tín dụng trung, dài hạn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp có tiềm năng để mở rộng và phát triển. 18 Các vấn đề cơ bản về tín dụng trung, dài hạn tại ngân hàng thương mại. 19 Lãi suất cho vay. 19 Hạn mức tín dụng. 19 Thế chấp khoản cho vay. 20 Chất lượng tín dụng trung, dài hạn và các chỉ tiêu đánh giá. 20 Khái niệm 20 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. 21 Nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị trường. 21 Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. 22 Các chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng tín dụng. 23 Đối với ngân hàng. 23 Đối với doanh nghiệp. 25 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn. 25 4.1 Về phía ngân hàng. 25 Hoạt động thẩm định. 25 Thẩm định khách hàng. 26 Thẩm định dự án đầu tư. 28 Công tác kiểm tra, kiểm soát. 33 Chất lượng cán bộ tín dụng. 33 Về phía khách hàng. 33 Năng lực của khách hàng. 33 Sự trung thựccủa khách hàng. 33 4.3 Môi trường pháp lí, môi trường kinh tế, chính trị. 34 Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 35 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam. 35 Giới thiệu chung về ngân hàng công thương Đống Đa. 36 Quá trình hình thành và phát triển. 36 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng công thương Đống Đa. 38 Hoạt động huy động vốn. 38 Hoạt động sử dụng vốn. 42 Hoạt động trung gian. 47 Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại. 47 Hoạt động bảo lãnh. 47 Hoạt động thanh toán 48 Kết quả kinh doanh. 48 Thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa. 49 1. Thực tế hoạt động cho vay trung, dài hạn. 49 Thực trạng cho vay ngắn và trung, dài hạn. 49 Cho vay trung, dài hạn xét theo cơ cấu thành phần kinh tế. 50 Doanh số cho vay trung, dài hạn. 50 Doanh số thu nợ trung, dài hạn. 51 Dư nợ trung, dài hạn. 52 Cho vay trung, dài hạn xét theo cơ cấu ngành kinh tế. 53 Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 54 2. Những thành tựu đạt được trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn. 56 Những hạn chế trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn và nguyên nhân của nó. 58 Những hạn chế. 58 Các nguyên nhân. 59 Nguyên nhân chủ quan. 59 Nguyên nhân khách quan. 61 Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 64 Định hướng hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 64 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. 65 1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. 65 Nâng cao chất lượng thu thập và xử lí thông tin của ngân hàng. 65 Thành lập nhóm hoặc phòng chuyên trách thẩm định dự án. 67 Nâng cao năng lực chuyên môn hoá của cán bộ tín dụng. 67 Tăng cường kiểm tra các khoản tín dụng. 69 Tài sản thế chấp. 70 Thành lập qũi rủi ro tín dụng. 71 Thực hiện tốt chiến lược khách hàng, tích cực tìm kiếm khai thác khách hàng. 71 Xử lí khoản nợ quá hạn. 72 Lãi suất cho vay 73 Thiết lập trung tâm thông tin và tư vấn đầu tư 73 Một số kiến nghị. 74 Kiến nghị với ngân hàng công thương Việt Nam. 74 Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 76 Kiến nghị với Chính Phủ và các cơ quan hữu quan. 76 Kiến nghị đối với doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. 78 Kết luận. Tài liệu tham khảo Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric Miskin Tìm hiểu nghiệp vụ NHTM – PTS Hồ Diệu Ngân hàng thương mại – Lê Văn Tư Tài chính doanh nghiệp – PTS Vũ Duy Hào Tạp chí ngân hàng năm 1998, 1999, 2000, 2001 Thời báo kinh tế năm 1998, 1999, 2000, 2001 Tạp chí tài chính doanh nghiệp 1999, 2000, 2001 Tạp chí kinh tế phát triển 1997, 1999, 2000, 2001 Tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 1999, 2000, 2001 Thể lệ tín dụng trung, dài hạn của NHCT Việt Nam Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng của NHCT Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0188.doc
Tài liệu liên quan