Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - Xã hội

LỜI NÓI ĐẦU Trong quan niệm trước đây ở nước ta về quá trình công nghiệp hóa,vai trò của con người mặc dù đã được đề cao ở mức độ đáng kể,song con người với tất cả tiềm năng,hiện trạng và sức mạnh của mình thì lại chưa được nhìn nhận như là một nguồn lực của bản thân quá trình công nghiệp.Do vậy,trên thực tế trong một thời gian tương đối dài con người đã vô tình bị đặt ra ngoài hệ thống các nguồn lực nội tại của sự phát triển.Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quá trình phát tri

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển kinh tế xã hội nước ta trước đây thiếu động lực và đạt kết quả rất hạn chế. Ngày nay,do sự tác động chi phối bởi những đặc điểm mới của thời đại và do những nhu cầu của sự phát triển đất nước,cũng với những bài học rút ra từ thực tiễn và qua kinh nghiệm của nhiều nước,trong thực tiễn cũng như trong lý luận,đã có sự thay đổi đáng kể về nội dung và giải pháp.Vị trí và đặc điểm của nguồn nhân lực cũng được nhìn nhận lại,trong đó con người được coi vừa là nguồn lực nội tại,cơ bản,quyết định sự nghiệp phát triển đất nước.Mặt khác,với thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay,việc khai thác sử dụng và phát triển nguồn lực đó sao cho có hiệu quả nhất,đáp ứng được các yêu cầu phát triển cũng đang là những vấn đề bức xúc mà sự nhận thức và giải quyết tốt những vấn đề đó sẽ là điều kiện tiên quyết,bảo đảm cho sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam. Nhằm góp phần vào việc phát huy yếu tố con người và đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực,em đã lựa chọn đề tài:"Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội". Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay và đưa ra những quan điểm và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề có nội dung rộng lớn,phức tạp và liên quan đến nhiều ngành,nhiều lĩnh vực khác nhau,do vậy đề tài không tránh khỏi thiếu sót hạn chế,em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn.Em xin trân thành cảm ơn đến Thầy Mai Văn Bưu đã hướng dẫn em thực hiện tốt đề án này. CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 1.1.Nguồn nhân lực. 1.1.1.Khái niệm. Nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân,cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển của xã hội.Với cách hiểu như vậy,khái niệm nguồn nhân lực có nội dung rộng lớn,bao gồm những mặt cơ bản sau: Lịch sử loài người trước hết là lịch sử lao động sản xuất,vì vậy nguồn nhân lực trước hết cũng được biểu hiện ra là người lao động, là lực lượng lao động(số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động),là nguồn lao động(đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần).Từ khía cạnh này,có thể hiểu rằng khai thác,sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trước tiên là tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động. Đồng thời,khái niệm nguồn nhân lực cũng phản ánh quy mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của một nước trong một thời kỳ nhât định. Nguồn nhân lực phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành,các vùng,cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế,cơ cấu trình độ lao động,cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động,cơ cấu nguồn lao động dự trữ...Cơ cấu và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn nhân lực. Khái niệm nguồn nhân lực chủ yếu phản ánh phương diện chất lượng dân số, đặc biệt là chất lượng lực lượng lao động trong hiện tại và trong tương lai gần,thể hiện qua hàng loạt yếu tố. Đó là sức khỏe cơ thể và sức khỏe tâm thần,mức sống tuổi thọ,trình độ giáo dục đào tạo về văn hóa và chuyên môn nghiệp vụ,trình độ học vấn,trình độ phát triển trí tuệ,năng lực sáng tạo,khả năng thích nghi,kỹ năng lao động,văn hóa lao động,các khía cạnh tâm lý,ý thức, đạo đức,tư tưởng tình cảm,tính cách,lối sống..trong đó trí lực,thể lực và đạo đức là những yếu tố quan trọng nhất,quyết định chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người. Có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại trong nguồn nhân lực,sự tác động qua lại giữa con người và tự nhiên,môi trường sống và các nguồn lực khác.Mặt khác,nó cũng nói lên sự biến đổi về số lượng,chất lượng,cơ cấu dân cư và lực lượng lao động. Con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực,nguồn lực nội tại,cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội.Mặt khác,không chỉ là chủ thể quyết định sự vận động và phát triển của xã hội,mà còn là khách thể của các quá trình kinh tế-xã hội,là đối tượng mà chính sự phát triển xã hội phải hướng vào phục vụ. Vì vậy,khi xem xét nguồn nhân lực đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện,phải nhìn nhận con người với tất cả hiện trạng,tiềm năng, đặc điểm và sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội ở cả phương diên chủ thể lẫn phương diện khách thể. 1.1.2.Vai trò nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế-xã hội. a) Con người là động lực của sự phát triển. Từ thời kỳ xa xưa con người bằng công cụ lao động thủ công và nguồn lực do chính bản thân mình tạo ra để sản xuất ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của bản thân.Sản xuất ngày càng phát triển,phân công lao động ngỳa càng chi tiết,hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động cuả con người cho máy móc thiết bị thực hiện(các động cơ phát lực),làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.Nhưng ngay cả trong điều kiện đạt được khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ: -Chính con người đã tạo ra máy móc thiết bị hiện đại đó, điều đó thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người. -Ngay cả đối với máy móc hiện đại,nếu thiếu sự điều khiển,kiểm tra của con người thì chúng chỉ là vật chất.Chỉ khi có sự tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào sản xuất. Trong phạm vi xã hội,nguồn lực con người là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta dân số đông,nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất.Nếu biết khai thác nó sẽ tạo nên một động lực to lón cho sự phát triển. b) Con người là mục tiêu của sự phát triển. Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội và như vậy nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.Mặc dù mức độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng,song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác đông mạnh mẽ tới sản xuất, đinh hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường.Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hóa nào tăng lên,lập tức thu hút lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó và ngược lại. Nhu cầu của con người là vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên,nó bao gồm nhu cầu vật chất,nhu cầu tinh thần,về số lượng và chủng loại hàng hóa càng ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. c) Yếu tố con người trong phát triển kinh tế-xã hội. Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển,thể hiện mức độ chế ngự thiên nhiên,bắt thiên nhiên phục vụ cho con người,mà còn tạo ra những điều kiện để hoàn thiện chính bản thân con người. Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải qua quá trình lao động hàng triệu năm mới trở thành con người ngày nay và trong quá trình đó,mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự tự nhiên,tăng thêm động lực cho sự phát triển. Như vậy động lực.mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố năng động nhất,quyết định nhất của sự phát triển. 1.1.3.Phân loại nguồn nhân lực. a) Nguồn nhân lực sẵn có trong dân số. Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động,có khả năng lao động,không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể tâm lý-sinh lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động.Giới hạn độ tuổi lao động được quy định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ.Giới hạn độ tuổi lao động bao gồm: -Giới hạn dưới: quy định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động, ơ nước ta hiện nay là 15 tuổi. -Giới hạn trên: quy định độ tuổi về hưu, ở nước ta quy định độ tuổi này là 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam. Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số,thường từ 50% hoặc hơn nữa,tùy theo đặc điểm dân số và nhân lực của từng nước. b) Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế. Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế. Đây là lực lượng bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm.Như vậy giữa nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và dân số hoạt động kinh tế có sự khác nhau.Sự khác nhau này là do có một bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau,chưa tham gia vào hoạt động kinh tế(thất nghiệp,có việc làm nhưng không muốn làm việc,còn đang học tập,có nguồn thu nhập khác không cần đi làm,...)Năm 2003 số người không có việc làm ở nước ta chiếm 5,78% dân số hoạt động kinh tế. c) Nguồn nhân lực dự trữ. Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người trong độ tuổi lao động,nhưng vì các lý do khác nhau,họ chưa có công việc làm ngoài xã hội.Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực gồm có: -Những người làm công việc nội trợ trong gia đình:khi điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi,nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội,họ có thể nhanh chóng rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. Đây là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ,hàng ngày vẫn đảm nhiệm chức năng duy trì,bảo vệ và phát triển gia đình về nhiều mặt, đó là những hoạt động có ích và cần thiết.Công việc nội trợ gia đình đa dạng,vất vả đối với phụ nữ ở các nước chậm phát triển(do chủ yếu là lao động chân tay),dẫn đến năng suất lao động thấp so với những công việc tương tự được tổ chức ở quy mô lớn hơn,có trang bị kỹ thuật cao hơn. -Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên,có học vấn,có trình độ chuyên môn(nếu được đào tạo tại các trường dạy nghề và các trường trung cấp, đại học).Tuy nhiên,khi nghiên cứu nguồn nhân lực nay cần phân chia tỷ mỷ hơn: Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động,tốt nghiệp trung học phổ thông,không tiếp tục học nữa,muốn tìm việc làm. Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động,chưa học hết trung học phổ thông,không tiếp tục học nữa,muốn tìm việc làm. Nguồn nhân lực ở đọ tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp(trung cấp,cao đẳng, đại học)thuộc các chuyên môn khác nhau tìm việc làm. -Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ,có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội.Số người thuộc nguồn nhân lực dự trữ này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề,trình độ văn hóa,sức khỏe,...từ đó tạo công việc làm thích hợp. -Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp(có nghề hoặc không có nghề)muốn tìm việc làm,cũng là nguồn nhân lực dự trữ,sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế. 1.2.Chất lượng nguồn nhân lực. 1.2.1.Khái niệm. Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực.Chất lượng nguồn nhân lực không những chỉ là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế,mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội,bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển,mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định. 1.2.2.Vai trò. Nhu cầu về lao động là nhu cầu dẫn xuất do nhu cầu sản xuất sản phẩm nhất định;nhu cầu sản xuất sản phẩm lại xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của con người.Cùng với sự phát triển của nền sản xuất,nhu cầu của con người ngày càng đa dạng,sản phẩm sản xuất ra càng nhiều hơn và chất lượng càng cao hơn. Điều đó chỉ có thể có được do loại lao động có trình độ cao sản xuất ra,nên không thể không chăm lo tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.Sự tác động qua lại giữa chất lượng nguồn nhân lực với điều kiện phát triển kinh tế thúc đẩy kinh tế phát triển theo chiều hướng có lợi cho xã hội chất lượng lao động được đảm bảo nâng cao sẽ thúc đẩy khoa học kỹ thuật,nâng cao tay nghề chất lượng người lao động,thúc đẩy sản xuất kinh doanh,dẫn đến mức sống được đảm bảo. Trong quá trình phát triển đất nước không tránh khỏi việc chuyển từ lao động thủ công sang lao động máy móc cơ khí,lao động trí tuệ.Do đó vai trò của chất lượng nguồn lao động phải được đảm bảo đáp ứng sự cần thiết đổi mới của xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao chứng tỏ sự quan tâm của xã hội cho giáo dục và đạo tạo,qua đó cho thấy kết quả của giáo dục đào tạo. 1.2.3.Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu,trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau: a)Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của dân cư. Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất và tinh thần chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật.Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài,giữa thể chất và tinh thần.Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe.Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại: A:Thể lực tốt loại không có bệnh tật gì. B:Trung bình. C:Yếu,không có khả năng lao động. Gần đây Bộ Y tế kết hợp với Bộ Quốc phòng căn cứ vào 8 chỉ tiêu để đánh giá: Chỉ tiêu thể lực chung:chiều cao,cân nặng,vòng ngực. Mắt. Tai mũi họng. Răng hàm mặt. Nội khoa. Ngoại khoa. Thần kinh tâm thần. Da liễu Căn cứ chỉ tiêu trên để chia thnàh 6 loại:rất tốt,tốt,khá,trung bình,kém và rất kém. Bên cạnh việc đánh gía trạng thái sức khỏe của người lao động người ta còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khỏe của quốc gia thông qua: Tỷ lệ sinh thô,tỷ lệ chết thô,tỷ lệ tăng tự nhiên. Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi. Tỷ lệ sinh thấp cân ở trẻ em. Tỷ lệ dừng mức sinh. Tuổi thọ trung bình. Tỷ lệ GDP/Đầu người. Cơ cấu giới tính,tuổi tác... b) Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động. Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội.Trong chừng mực nhất định,trình độ văn hóa của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó.Trình độ văn hóa được biểu hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ như: Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ. Số người có trình độ tiểu học. Số người có trình độ phổ thông cơ sở(cấp II) Số người có trình độ phổ thông trung học(cấp III). Số người có trình độ đại học và trên đại học... Trình độ văn hóa của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng cuả nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. c)Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết,khả năng thực hành về chuyên môn nào đó,nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp,cao đẳng, đại học và sau đại học,có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc chuyên môn nhất định.Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng: Tỷ lệ cán bộ trung cấp. Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học. Tỷ lệ cán bộ trên đại học. Trong mỗi chuyên môn có thể chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như đại học:bao gồm kỹ thuật,kinh tế,ngoại ngữ...thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa. Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ con người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,những kỹ năng thực hành về công việc nhất định.Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông. Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng. Trình độ tay nghề theo bậc thợ. Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau,thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không đào tạo trong từng tập thể nguồn nhân lực. d)Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua chỉ số phát triển con người(HDI-Human Development Index) Chỉ số này được tính bởi 3 chỉ tiêu chủ yếu: Tuổi thọ bình quân. Thu nhập bình quân đầu người(GDP/người). Trình độ học vấn(tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư) Như vậy,chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế,mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng tiến bộ xã hội. e)Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên người ta còn xem xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động.Chỉ tiêu này phản ánh mặt định tính mà khó có thể định lượng được.Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt: Truyền thống dân tộc bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống về văn hóa văn minh dân tộc. Phong tục tập quán,lối sống... Nhìn chung chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý chí,năng lực tinh thần của người lao động. 1.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. a) Tuyển dụng Tuyển dụng nhân lực là một tiến trình nhằm thu hút những người có khả năng từ nhiều nguồn khác nhau đến nộp đơn và xin việc làm.Để có hiệu quả,quá trình tuyển dụng nên theo sát các chiến lược và kế hoạch nguồn nhân lực chỉ ra số lượng nhân lực còn thiếu để đáp ứng kế hoạch mở rộng của tổ chức.Nguồn thông tin này đóng vai trò quan trọng trong việc xã định mức tuyển mộ của tổ chức đó.Để tiết kiệm thời gian và chi phí,các nỗ lực tuyển dụng chỉ nên tập trung vào những người nộp đơn xin việc có những điều kiện cơ bản tối thiểu.Các điều kiện cơ bản này phải được xác địn nhờ vào kỹ thuật phân tích xác định các yêu cầu và đặc điểm công việc cần tuyển dụng. Tuyển dụng đóng vai trò khá lớn trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực cho xã hội,tuyển dụng càng chặt chẽ đến đâu sẽ làm cho quá trình thực hiện kết quả sau này càng dễ dàng bấy nhiêu,chất lượng cán bộ sẽ phù hợp với tiêu chuẩn đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra của công việc cần tuyển dụng. b) Đào tạo Đào tạo là các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho người lao động trong việc đóng góp vào hoạt động của tổ chức.Nội dung: -Đào tạo kỹ năng thực hiện công việc nhằm bổ sung những kỹ năng còn thiếu hụt của nhân viên dưới dạng đào tạo lại hoặc đào tạo mới -Đào tạo nhiều chức năng,nội dung đào tạo liên quan đến việc trang bị cho nhân lực khả năng thực hiện linh hoạt nhiều công việc cho tổ chức. -Đào tạo hoạt động theo nhóm,nội dung đào tạo tập trung vào hướng dẫn cho học viên làm thế nào để làm việc theo nhóm hiệu quả nhất. -Đào tạo tính sáng tạo,nội dung này giúp nhân lực có những cơ hội để suy nghĩ tự do,để giải quyết vấn đề theo những phương pháp mới mà không lo ngại sự đánh giá của các nhà quản lý hay đồng nghiệp. Để đội ngũ nguồn nhân lực được nâng cao chất lượng cũng cần phải có phương pháp đào tạo thích hợp. -Đào tạo gắn với thực hành công việc(đào tạo tại chỗ)là cách đào tạo mà những người học thực hiện công việc thực tế dưới sự hướng dẫn của những nhân lực có kinh nghiệm,những người quản lý hoặc giảng viên.Ưu điểm của cách đào tạo này là nội dung liên quan rõ ràng đến công việc cụ thể.Tuy nhiên khi thực hiện công việc thực tế,những người được đào tạo có thể làm hỏng và gây tổn thất cho tổ chức. -Đào tạo không gắn với thực hành công việc:như tổ chức khóa học chính thức,đào tạo đóng kịch,đào tạo mô phỏng..Cách đào tạo này ít tốn kém chi phí do học viên không được hoặc chỉ được sử dụng dụng cụ giả và không gây thiệt hại tài sản cho tổ chức.Tuy nhiên phương pháp đào tạo này không gắn liền với thực tế công việc do đó hiệu quả đào tạo không cao. c) Đãi ngộ Đây là hình thức mang lại lợi ích cho người lao động,các chỉ tiêu được đặt ra với các mức thưởng phạt khác nhau giúp cho người lao động có được sự say mê trong công việc.Bao gồm hình thức trả công,khen thưởng thỏa đáng,các chính sách mở cho người lao động giúp họ yên tâm hơn trong công việc,làm hết mình để đạt được hiệu quả cao nhất có thể.Công cụ làm việc cũng là một phần yếu tố quan trọng giúp cho việc nâng cao chất lượng,nâng cao năng suất lao động,kể cả lao động quản lý.Chất lượng hoạt động không chỉ phụ thuộc vào trình độ,năng lực mà còn cả phương tiện kỹ thuật.Vì vậy trang bị đủ và đúng phương tiện làm việc cho cán bộ quản lý là một đòi hỏi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Lợi ích luôn là động lực cho các hoạt động của con người.Hoạt động công vụ có đặc điểm là không vụ lợi,điều đó không có nghĩa tiền lương,khen thưởng và kỹ luật không ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực quản lý và các hoạt động của họ.Ảnh hưởng của tiền lương đến chất lượng nguồn nhân lực là quá rõ ràng,không thể đòi hỏi cao về cả năng lực và phẩm chất trong khi tiền lương và thu nhập lại không tương xứng.Tiền lương phải phản ánh được hoạt động của cán bộ quản lý về cả chất lượng và số lượng,tạo ra động lực phấn đấu vươn lên về mọi mặt đối với cán bộ quản lý. d) Đánh giá Đánh giá là quá trình so sánh,phân tích mức độ đạt được của quá trình phấn đấu,rèn luyện và thực hiện công việc của người cán bộ theo yêu cầu,tiêu chuẩn đề ra cho công việc được giao theo chức danh.Công tác đánh giá là hết sức quan trọng vì những mục đích cũng như những ảnh hưởng của nó đến các cá nhân và tổ chức. Mục đích của việc đánh giá nhằm cung cấp các thông tin phản hồi cho người quản lý biết năng lực và việc thực hiện công việc của họ và người bị đánh giá đang ở mức nào,giúp họ phấn đấu để tự hoàn thiện mình và làm công việc tốt hơn.Cung cấp thông tin cho công tác quản lý cán bộ,từ quy hoạch,đào tạo,bố trí sử dụng,tuyển chọn cán bộ cho đến quản lý hệ thống lương thưởng cán bộ,công chức.Đánh giá suy cho cùng không phải chỉ biết kết quả,mà nhằm nâng cao chất lượng,kết quả và hiệu quả công tác của người cán bộ công nhân viên,đem lại lợi ích cho cả cá nhân,tập thể và Nhà nước. Qua công việc đánh giá giúp cho hiểu được đội ngũ nguồn nhân lực đang ở mức nào và qua đó đưa ra các giải pháp khắc phục,nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực.. CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM HIỆN NAY. 2.1.Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay. 2.1.1.Số lượng(quy mô) nguồn nhân lực. Số lượng về nguồn nhân lực tiếp tục gia tăng,hệ quả của tăng trưởng dân số thời gian trước,từ năm 1976 nước ta có hiện tượng "bùng nổ" số người trong độ tuổi lao động.Nhịp độ tăng bình quân hằng năm qua các thời kỳ là: -Thời kỳ 1960-1975 : 3,2% /năm -Thời kỳ 1976-1980 : 3,37%/năm -Thời kỳ 1981-1985 : 3,28%/năm -Thời kỳ 1986-1990 : 3,55%/năm -Thời kỳ 1991-1995 : 2,92%/năm -Thời kỳ 1996-2000 : 3% /năm Nhịp độ này vượt hẳn nhịp tăng thường thấy ở các nước chậm phát triển và gấp 1,5 lần nhịp tăng dân số. Năm 1997 dân số trong độ tuổi lao động cả nước có gần 42,5 triệu người,tăng 8,5 triệu người so với năm 1990: Ước tính năm 2000 có 45,2 triệu người,tăng 11,5 triệu người so với năm 1990.Bình quân mỗi năm tăng thêm gần 1,15 triệu người(3,0%/năm).Trong đó nữ chiếm 52%. Bảng 1 . Số người trong độ tuổi lao động Năm Dân số trong tuổi lao động (ngàn người) % so với tổng số dân Mức tăng bình quân mỗi năm (ngàn người) Tốc độ tăng bình quân /năm (%) 1990 33.728 50,8 845,6 3,55 1995 38.955 52,6 1045,4 2,92 2000 45.175 55,5 1244,0 3,00 2010 57.772 60,8 1260,0 2,49 2020 68.000 64,7 1023,0 1,65 (Nguồn:Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội trang 384) Đến năm 2010 sẽ có gần 57,8 triệu và 2020 sẽ có 68 triệu người trong độ tuổi lao động,chiếm 60,9% dân số 2010 và 63,8% dân số năm 2020. Số người vào độ tuổi lao động tăng nhanh,số người ra khỏi tuổi lao động thấp và tăng chậm nên mức gia tăng của dân số trong độ tuổi lao động rất cao.Hằng năm có trên 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động và chỉ có trên 3,5 vạn người ra khỏi tuổi lao động đã tạo ra áp lực rất lớn về đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Bảng 2.Mức tăng dân số trong độ tuổi lao động Đơn vị : Ngàn người Năm Tổng số vào tuổi lao động (BQ mỗi năm) Tổng số ra tuổi lao động (BQ mỗi năm) Tổng số trong tuổi lao động tăng thêm Mức gia tăng bình quân hàng năm 1991-1995 7543(1510) 1888(378) 5020 1004 1996-2000 8570(1715) 1780(356) 6100 1200 2001-2005 8800(1760) 1954(390) 6200 1240 2006-2010 8300(1660) 2500(500) 5300 1060 (Nguồn:Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội trang 384) Phần lớn nguồn nhân lực của cả nước (58,5%) tập trung ở cả 3 vùng là đồng bằng sông Cửu Long (8,7 triệu người chiếm 22,3% trong cả nước), đồng bằng sông Hồng(7,8 triệu chiếm 20% cả nước) và đồng bằng Nam Bộ(6,3 triệu chiếm 16,2 % cả nước).Khoảng 60% của tổng mức gia tăng nguồn nhân lực cũng tập trung tại 3 vùng này.Tây Nguyên và Tây Bắc là 2 vùng có diện tích lớn nhưng quy mô nguồn nhân lực lại nhỏ nhất(Tây Bắc 1,1 triệu,Tây Nguyên hơn 1,1 triệu).Nguồn nhân lực tăng nhanh ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ còn do di dân có tổ chức và di dân tự do nên ngoài tác động tích cực là tăng thêm lao động cho phát triển kinh tế-xã hội nhưng cũng đang gây ra những tác động tiêu cực về xã hội và môi trường.Nhu cầu giải quyết việc làm trên các vùng đến năm 2010 đều rất cao. Bảng 3.Dân số trong tuổi lao động(1000 người) Năm Khu vực 1995 2000 2005 2010 Nhịp tăng BQ 2001-2010 Cả nước 38.954,5 45.175,0 51.607,0 57.771,8 2,50 1. Đông Bắc 5.568,2 6.480,8 7.496,0 8.352,7 2,6 2.Tây Bắc 1.253,3 1.253,3 1.504,5 1.753,4 3,45 3. ĐB Sông Hồng -ĐBTĐ Bắc Bộ 7.822,8 4.225,0 8.945,9 4.778,4 10.071,1 5.329,4 10.952,4 5.793,4 2,05 1,95 4.Bắc Trung Bộ 5.023,8 5.857,8 6.814,7 7.584,3 2,65 5.Duyên hải Trung Bộ -ĐBTĐ Trung Bộ 3.363,3 2.239,0 3.832,3 2.539,8 4.346,5 2.880,5 4.927,2 3.249,2 2,55 2,5 6.Tây Nguyên -ĐBTĐ Nam Bộ 1.140,7 4.696,0 1.344,3 5.262,9 1.593,3 5.834,9 1.882,6 6.422,6 3,45 2,0 7. Đông Nam Bộ 6.305,7 7.149,8 8.023,8 8.930,3 2,25 8. ĐB Sông Cửu Long 8.673,0 10.310,8 11.757,1 13.388,1 2,65 (Nguồn:Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội trang 385) Nguyên nhân :Sự phát triển của dân số 15 năm trước đã tác động đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực hiện nay và thực trạng hiện nay đã tác động cho 15 năm sau.Số người trong độ tuổi lao động đến năm 2010 đã được sinh ra, đang được nuôi dạy trên đất nước ta hiện nay... Dân số cả nước năm 1997 là 76.709 nghìn người, ước tính năm 2000 là 80,5-81 triệu người.Tỷ lệ phát triển dân số kể từ năm 1990 đến nay đã giảm đáng kể từ 2,4%(1992) xuống còn 1,68%(1997) đến năm 2000 là 1,75.Vượt chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra.Tỷ lệ sinh giảm nhanh,từ 31,3% năm 1988 xuống còn khoảng 22,8%(1996).Tổn tỷ suất sinh(số con trung bình của nữ trong độ tuổi sinh đẻ)giảm từ3,88(1988),2,7 (1997) đến năm 2000 là 2,55.Tỷ lệ áp dụng các biện pháp tránh thai tăng khá nhanh từ 53% năm 1988 lên 68,3 năm 1996. Điều đó tạo tiền đề cho việc tiếp tục giảm tỷ lệ sinh và theo đó là tốc độ tăng dân số trong những năm tới.Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tỷ lêj sinh ở các vùng nghèo và các nhóm dân cư có thu nhập thấp còn khá cao,tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn nhiều,gây ra các tác động tiêu cực về chất lượng dân số do phần lớn số trẻ em đó không có điều kiện nuôi dưỡng,chăm sóc và giáo dục tốt và sự nghèo đói ngày càng trầm trọng hơn. Do đó,cùng với đầu tư lớn hơn cho công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình giảm sinh ổn định tiến tới ngừng tăng dân số,cần tập trung đầu tư và nâng cao chất lượng dân số.Khu vực nông thôn và các vùng miền núi Bắc Bộ,Bắc Trung Bộ,Duyên hải Nam Trung Bộ,Tây Nguyên và đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt là đối tượng dân cư nghèo và có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu vùng xa nhằm xóa đói giảm ngheo,tạo ra những chuyển biến tích cực giảm nhanh tỷ lệ sinh chung,nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực. Nhịp độ tăng dân số bình quân hằng năm khác biệt giữa các vùng cao nhất là Tây Nguyên (3,99%),Tây Bắc (3,3%),đồng bằng sôngCửu Long(3,08%)...Riêng hai địa bàn trọng điểm Bắc và Nam bộ và Tây Nguyên do có tăng cơ học nên tốc độ tăng còn nhiều. Giảm nhanh tỷ lệ sinh đã làm cho cơ cấu dân số được cải thiện.Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng còn tỷ lệ trẻ em không ngừng giảm.Tuy nhiên quá trình giảm sinh khác nhau ở các vùng sẽ dẫn đến xu thế đòi hỏi sự đầu tư khác nhau cho phát triển xã hội ở các vùng.. 2.1.2.Cơ cấu nguồn nhân lực. Cơ cấu nguồn nhân lực phản ánh qua cơ cấu dân cư,lao động trong các nghành,cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và các khu vực kinh tế,cơ cấu trình độ lao động,cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động,cơ cấu nguồn lao động dự trữ trong các trường đai học cao đẳng,trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.. Bảng 4.Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động Đơn vị : % Ngành Kế hoạch 2001-2005 Thực hiện Ước thực hiện 2001 2002 2003 2004 2005 Nông lâm ngư nghiệp 56-57 60,54 60,67 59,04 59,29 57,44 Công nghiệp và dịch vụ 20-21 14,41 14,13 16,41 17,69 18,79 Thương mại và dịch vụ 22-23 25,05 24,20 24,55 24,02 23,78 (Nguồn :2006-2010,Tạp chí Lý luận chính trị,Số 4-2004 Trang 70) Theo số liệu thống kê ở trên,cơ cấu dân cư và lao động ở nước ta đã có sự chuyển biến tích cực.Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp có xu hướng giảm dần,lao động trong công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng,mặc dù tốc độ còn chậm.Nếu như trước đây,lao động trong sản xuất nông nghiệp chiếm tới 73%,trong khi đó lao động trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ mới chỉ có 27%,thì hiện nay cơ cấu lao động đã có chuyển biến như bảng trên.Tuy nhiên,so với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra(nông -lâm-ngư nghiệp:20-21%;công nghiệp và xây dựng:38-39%;các ngành dịch vụ:41-42%)thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá chậm,dẫn đến khoảng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế.Nhưng điều đáng lưu ý hơn là cơ cấu lao động đã được đào tạo giữa các ngành,các khu vực sản xuất,các vùng,các dạng lao động và giữa các trình độ rất bất hợp lý.Nông thôn chiếm gần 75% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38 lực lượng lao động được đào tạo cả nước, đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực nông,lâm,ngư nghiệp,số được đào tạo mới chỉ chiếm 7%.Đây thực sự là trở ngại lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hóa,hiện đại hóa nông nghiệp và nông._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35987.doc