Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Ba Đình đối với Doanh nghiệp ngành xây dựng

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NHCTVN: Ngân hàng Công thương Việt Nam NHTM: Ngân hàng thương mại NHNN: Ngân hàng Nhà nước DADT: Dự án đầu tư PASXKD: Phương án sản xuất kinh doanh Mục lục Trang LỜI MỞ ĐẦU Định hướng phát triển kinh tế của nước ta đến năm 2020 là tiếp tục đổi mới toàn diện, thực hiện quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước, tiến tới đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Định hướng này đã và đang được thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư mạnh mẽ tro

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1101 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Ba Đình đối với Doanh nghiệp ngành xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thời gian qua. Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng gia tăng đã và đang đặt ra cho các Ngân hàng thương mại nhiều cơ hội và thách thức trong hoạt động cho vay. Một hệ thống giao thông thuận tiện, các trung tâm thương mại sầm uất,… là kết quả và cũng là đòi hỏi tất yếu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hay nói cách khác quá trình này chỉ có thể thực hiện dựa trên sự phát triển đồng bộ của cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy, ngành xây dựng luôn đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phát triển như hiện nay. Với tốc độ phát triển của ngành xây dựng, số lượng các dự án xây dựng và dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tăng nhanh trong thời gian gần đây là mối quan tâm của các Ngân hàng thương mại nói chung và của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng. Tuy nhiên, cho vay theo dự án một mặt đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. Chính vì lẽ đó, ngân hàng cần thẩm định dự án trước khi cho vay. Hiện nay chất lượng thẩm định tài chính dự án ở các Ngân hàng thương mại còn chưa cao, nhiều dự án không phát huy được hiệu quả khi vào hoạt động, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Với những lý do trên, đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng” được em lựa chọn để viết luận văn tốt nghiệp. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay các dự án tại chi nhánh ngân hang Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS.TS.Vũ Duy Hào và toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ Phòng Khách hàng số 1 – chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình, đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành bài viết này. CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái niệm chung về dự án 1.1.1. Khái niệm Có thể nói đứng trên các quan điểm khác nhau các khái niệm về dự án cũng khác nhau. Song một cách tổng quát nhất, dự án được hiểu là tập hợp các đối tượng được hình thành và hoạt động theo một kế hoạch cụ thể để đạt được một lợi ích nhất định trong khoảng thời gian xác định. Xét về hình thức: dự án là một bộ hồ sơ tài liệu được trình bày một cách chi tiết và có hệ thống, cho biết mục tiêu các nguồn lực của đầu tư, thời hạn của đầu tư cũng như các hoạt động của dự án đầu tư. Đây cũng chính là cơ sở chính để các nhà đầu tư thuyết phục ngân hàng ủng hộ về tài chính. Xét về nội dung: dự án là tập hợp các hoạt động liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian xác định thông qua việc sử dụng nguồn lực xác định. Xét trên góc độ quản lý: dự án được lập như một bản kế hoạch chi tiết của một hoạt động đầu tư, là một công cụ đắc lực của nhà đầu tư cũng như các tổ chức có liên quan bao gồm cả ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện quản lý, giám sát tất cả các hoạt động đầu tư. Xét trên góc độ kế hoạch hoá: là công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một hoạt động đầu tư, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Là một trung gian tài chính và là một đơn vị kinh doanh tiền tệ, ngân hàng luôn cố gắng đáp ứng một cách tốt nhất có thể nhu cầu của khách hàng thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, cung cấp các dịch vụ như thanh toán, tư vấn,…trong đó nhu cầu vay vốn của khách hàng được ngân hàng xem xét quan tâm nhiều mặt nhất vì tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi ích nhất nhưng đồng thời cũng chứa nhiều rủi ro nhất, đặc biệt đối với cho vay trung và dài hạn. Theo quan điểm của ngân hàng DAĐT/ PASXKD là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống, trong đó vốn của khách hàng có thời hạn sử dụng dưới 12 tháng gọi là phương án sản xuất kinh doanh, trên 12 tháng gọi là DAĐT. Vì vậy khái niệm dự án trong thẩm định tài chính dự án mà luận văn nghiên cứu là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống, trong một khoảng thời gian xác định trên 12 tháng. 1.1.2. Phân loại dự án Trên thực tế các dự án rất đa dạng và được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường dự án được chia theo một số tiêu thức sau: Theo tính chất đầu tư: dự án được chia thành 2 loại là dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. - Dự án đầu tư mới: là các dự án có mục tiêu tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới đưa vào thị trường. Dự án loại này được đầu tư toàn bộ từ nhà xưởng, máy móc, thiết bị tới nguyên nhiên vật liệu, nhân công, thị trường… vì vậy các dự án này thường có quy mô lớn, thời gian rất dài và rủi ro cao. - Dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh: là các dự án có mục tiêu tăng cường năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Các dự án này có quy mô nhỏ hơn, thời gian ngắn hơn và mức độ rủi ro ít hơn. Dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh gồm 2 loại: dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Dự án đầu tư theo chiều sâu là các dự án nhằm mua sắm, cải tiến thiết bị máy móc, áp dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, và xây dựng các phân xưởng mới nhằm cugn cấp những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, năng suất lao động cao hơn. Dự án đầu tư theo chiều rộng: là các dự án nhằm mua các máy móc thiết bị đang sử dụng và sửa chữa, mở rộng các trang thiết bị hiện có để tăng thêm sản lượng. Theo lĩnh vực hoạt động trong sản xuất: dự án được chia thành 3 loại sau: Dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: bao gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội Dự án đầu tư phát triển khoa học - kỹ thuật. Hoạt động đầu tư của các dự án này có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Dự án đầu tư phát triển KH – KT và cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại, thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển KH – KT, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư. Bên cạnh cách phân loại trên, người ta còn phân loại dự án theo nhiều tiêu thức khác như theo thời gian, loại hình, cấp độ… Mặc dù có thể được phân thành các loại khác nhau theo các tiêu thức khác nhau nhưng dù có thuộc vào bất kỳ loại nào thì các dự án cũng có chung các đặc điểm sau. 1.1.3. Đặc trưng của dự án. Theo các tiêu thức khác nhau dự án được phân thành nhiều loại khác nhau nhưng nhìn chung, bất kỳ dự án nào cũng mang những đặc điểm sau: - Nhu cầu vốn lớn: để thực hiện việc đầu tư mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị hay ễây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án thường đòi hỏi lượng vốn lớn, vượt quá khả năng tự tài trợ của khách hàng, thậm chí có những dự án có nhu cầu vốn vượt quá khả năng đáp ứng của một ngân hàng đòi hỏi nhiều ngân hàng cùng tài trợ. - Thời gian vay vốn dài: các dự án thường có thời gian sử dụng vốn vay dài do các tài sản cố định được tạo bởi dự án phải đi vào hoạt động sau một thời gian mới đủ tạo ra nguồn thu mới bù đắp chi phí đầu tư. Đặc trưng này khiến cho dự án chịu tác động của nhiều yếu tố có thể dẫn đến rủi ro. Chính vì vậy ngân hàng phải tiến hành thẩm định dự án và lãi suất áp dụng trong cho vay dự án thường cao hơn nhiều so với cho vay PASXKD. - Dự án bị khống chế bởi thời gian và nguồn lực: dự án được thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể và bị ràng buộc về vốn, vật tư, lao động; đặc biệt các dự án càng lớn thì mức độ ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp -Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn: một dự án đầu tư thường được thực hiện trong một thời gian dài nên rất khó tránh khỏi sự thay đổi của các yếu tố không ổn định về mặt tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế…hay nói cách khác dự án chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên dự án có mức độ rủi ro cao. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc bịêt của các nhà quản lý dự án. - Dự án có mục đích cụ thể: khi tiến hành hoạt động đầu tư các chủ dự án phải xác định được đầu tư vào đâu, đầu tư để làm gì… do đó các dự án đầu tư luôn luôn chứa đựng các mục tiêu cụ thể của chủ dự án. Các mục tiêu này có thể là mục tiêu trước mắt hoặc mục tiêu lâu dài tuỳ theo mục đích đầu tư của chủ dự án. 1.2. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.2.1. Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Cho vay là hoạt động kinh doanh đưa lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất trong ngân hàng. Là một trung gian tài chính, ngân hàng cho vay chủ yếu trên nguồn tiền huy động được vì vậy mục tiêu bảo toàn vốn và đảm bảo khả năng thanh khoản luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng. Một hình thức cho vay phổ biến hiện nay ở các ngân hàng thương mại là cho vay theo dự án đầu tư bởi nhu cầu vốn của các dự án thường vượt quá khả năng tự tài trợ của các chủ dự án. Xuất phát từ đặc trưng của dự án là nhu cầu vay vốn lớn, thời gian vay vốn dài, và môi trường thực hiện dự án thường xuyên thay đổi vì vậy cho vay theo dự án chứa đựng nguy cơ rủi ro cao. Sự thất bại của một khoản cho vay đầu tư không chỉ đơn thuần làm giảm lợi nhuận của khách hàng mà còn có thể làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Hơn nữa, dự án do khách hàng tự xây dưng hoặc thuê tư vấn, và vì dự án được đệ trình ra ngân hàng với mục đích nhận được sự tài trợ của ngân hàng nên thông thường các dự án thường được xây dựng theo hướng có lợi cho khách hàng, do đó có thể ẩn chứa những rủi ro đối với ngân hàng. Với những lý do trên, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay theo dự án đòi hỏi ngân hàng phải xem xét, kiểm tra lại dự án một cách độc lập, hay nói cách khác cần thẩm định dự án kỹ lưỡng nhằm thực hiện mục đích bảo toàn vốn. Thẩm định dự án là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng đến tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định đầu tư. Thẩm định dự án giúp ngân hàng lường trước các rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới quá trình triển khai thực hiện dự án như các yếu tố về công nghệ, sự biến động của thị trường đầu vào, sự thay đổi của công suất, số lượng sản phẩm, giá bán, chi phí sản xuất….từ đó giúp ngân hàng đưa ra các giải pháp đối với chủ đầu tư, kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước để nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án và hạn chế, giảm thiểu rủi ro. Nội dung thẩm định dự án thường bao gồm: thẩm định kỹ thuật (gồm thẩm định sự cần thiết của dự án, quy mô của dự án, công nghệ và trang thiết bị, nguồn nguyên liệu và các yếu tố đầu vào,…), thẩm định kinh tế của dự án và cuối cùng là thẩm định tài chính dự án. Trong đó thẩm định dự án về phương diện tài chính là nội dung được các ngân hàng quan tâm hơn cả. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại thực chất là việc xác định tính chính xác của những chỉ tiêu mà khách hàng đề xuất để từ đó xem xét dự án sẽ tạo ra những lợi ích tài chính gì trong tương lai. Thẩm định tài chính dự án là nội dung quan trọng nhất trong thẩm định dự án, nó đòi hỏi sự tổng hợp của toàn bộ các biến số đã được lượng hoá trong các nội dung thẩm định trước, nhằm phân tích xây dựng những bảng dự báo tài chính, những chỉ tiêu tài chính phù hợp… từ đó rút ra kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Vì vậy thẩm định tài chính dự án là thước đo quan trọng hàng đầu giúp ngân hàng đưa ra quyết định cuối cùng là chấp nhận tài trợ hay không. Thẩm định tài chính dự án còn giúp ngân hàng xác định hiệu quả vốn đầu tư, khả năng hoàn vốn của dự án, khả năng trả nợ của nhà đầu tư. Qua đó ngân hàng có thể trả lời những câu hỏi quan trọng như: chấp nhận cho vay dự án nào, giá trị khoản vay, thời điểm cho vay, lãi suất cho vay là bao nhiêu, áp dụng hình thức thu nợ nào, sử dụng hình thức bảo đảm gì,… Mặt khác quá trình thẩm định tài chính dự án còn giúp cho ngân hàng tích luỹ được những kinh nghiệm và rút ra những bài học quý báu để hoàn thiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Như vậy thẩm định tài chính dự án là hoạt động hết sức cần thiết đối với ngân hàng thương mại. Thực hiện tốt thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro. Ngược lại, việc thực hiện thẩm định tài chính dự án không tốt có thể làm ngân hàng mất vốn, thời gian thu hồi vốn kéo dài, mất cơ hội đầu tư vào các dự án hiệu quả… làm ảnh hưởng đến kế hoạch nguồn vốn cũng như việc bảo đảm an toàn và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của ngân hàng. Chính vì vậy, thực hiện tốt thẩm định tài chính dự án là một yêu cầu quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Muốn làm được điều đó, trước hết ngân hàng cần phải nắm rõ các nội dung trong thẩm định tài chính dự án. 1.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với nhau. Những nội dung chủ yếu được ngân hàng chú trọng khi thẩm định là: Thẩm định tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn và tiến độ bỏ vốn. Thẩm định vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn đến việc không cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng tài trợ của dự án. Thẩm định tổng vốn đầu tư là việc xem xét dự án đã được tính toán đầy đủ các khoản chi phí cần bỏ ra ban đầu để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động hay chưa. Tổng vốn đầu tư thường được chia làm hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Vốn đầu tư vào tài sản cố định: bao gồm chi phí mua sắm, lắp đặt, chạy thử thiết bị và chi phí dự phòng hợp lý kèm theo. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động: với các dự án sản xuất kinh doanh, để máy móc, dây chuyền sản xuất có thể đi vào hoạt động bình thường trong chu kỳ sản xuất đầu tiên thì cần phải có các tài sản lưu động ban đầu. Chi phí để tạo ra tài sản lưu động ban đầu này gọi là vốn lưu động, là một bộ phận của tổng vốn đầu tư khi dự toán. Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án cần được tiến hành trên cơ sở các thông tin về thị trường, ngành và các dự án tương tự đã biết. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án. Một dự án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định mức cho vay của ngân hàng Số tiền cho vay = Tổng vốn đầu tư của dự án - Các nguồn tài trợ cho dự án Trong đó, các nguồn tài trợ cho dự án có thể bao gồm: - Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: đây là nguồn từ khấu hao, lợi nhuận để lại, quỹ thặng dư… mà khách hàng có thể dùng để tài trợ cho dự án. Do đó ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó xác định phần nguồn vốn chủ sở hữu có thể tham gia tài trợ dự án của doanh nghiệp. - Nguồn vốn ngân sách cấp: một số dự án được nhà nước cấp vốn để triển khai và doanh nghiệp chỉ được dùng số vốn này để thực hiện dự án. Khi đó ngân hàng cần xem xét bảo đảm của cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn ngân sách. - Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác: ngân hàng cần kiểm tra độ tin cậy về khả năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời hạn cho vay của các nguồn tài trợ dự án từ các tổ chức tín dụng khác dựa trên các cam kết băng văn bản của chủ thể cho vay. Thông thường để tránh sự rườm rà trong thủ tục vay vốn, thủ tục đảm bảo, khách hàng chỉ muốn vay vốn một ngân hàng. Tuy nhiên một số dự án có nhu cầu vay vốn lớn đòi hỏi sự đồng tài trợ của nhiều ngân hàng. Bên cạnh việc thẩm định tính khả thi, ngân hàng còn xem xét thời điểm mà doanh nghiệp nhận được khoản tài trợ đó, để có kế hoạch giải ngân vốn phù hợp với tiến trình của dự án. Để hạn chế rủi ro của mình và nâng cao trách nhiệm của chủ dự án, ngân hàng thường yêu cầu tỷ lệ nhất định vốn tự có của doanh nghiệp tham gia tài trợ cho dự án và thường chỉ giải ngân vốn vay một cách song song hoặc sau khi khách hàng sử dụng vốn tự có. Theo quy định hiện hành mức vốn tự có tối thiểu của doanh nghiệp tham gia vào dự án là 30%. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án tránh cho ngân hàng rơi vào thế bị động khi cho vay khi các nguồn tài trợ khác không khả thi, giúp ngân hàng đưa ra mức tài trợ hợp lý cũng như kế hoạch đầu tư của mình đối với dự án, nhằm đảm bảo cho dự án không bị thiếu vốn và nguồn vốn của ngân hàng cũng được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của dự án Về bản chất, việc thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của dự án là một phần trong thẩm định dòng tiền của dự án nhưng các ngân hàng thường tách công việc này thành một bước riêng để tiện cho việc đánh giá và tính toán. Và vì vậy bước này có trách nhiệm đảm bảo đầu vào để việc thẩm định dòng tiền được chính xác. Doanh thu của dự án bao gồm các khoản lợi ích thu được từ việc vận hành tài sản cố định được đầu tư bởi dự án, gồm doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ, doanh thu từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. Khi thẩm định yếu tố này ngân hàng phải xem xét tính hợp lý của hai yếu tố giá cả và sản lượng sản phẩm. Chi phí của dự án gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi. - Chi phí cố định gồm chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, khấu hao máy móc thiết bị, lãi vay…thường được tính theo phần trăm trên doanh thu - Chi phí biến đổi gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương… được tính toán dựa trên sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao. Vì doanh thu và chi phí ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh, mà doanh thu lại phụ thuộc vào giá bán, trong khi giá bán phải dựa trên cơ sở chi phí thực tế và giá của các sản phẩm thay thế. Như vậy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, chi phí đều ảnh hưởng đến doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy ngân hàng cần thẩm định tính chính xác và hợp lý của các yếu tố chi phí như khách hàng đã đưa đủ chi phí vào giá thành chưa? Các mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu của dự án có hợp lý không (nên so sánh với các dự án còn lại), tỷ lệ trích khấu hao vào giá thành hợp lý không?... Thẩm định dòng tiền của dự án Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản thu, chi được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Chênh lệch giữa các khoản thu chi này tạo ra dòng tiền ròng của dự án tại từng thời điểm. Thẩm định dòng tiền của dự án là việc ngân hàng xác định dòng tiền của dự án được phát sinh tại các thời điểm khác nhau để làm cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, xây dựng kế hoạch trả nợ hợp lý và tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án. Khi thẩm định dòng tiền dự án cần chú ý ba yếu tố: Một là, phải xem xét đến giá trị thời gian của tiền. Vì tiền có giá trị thời gian nên chúng ta không thể so sánh dòng tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau với nhau mà phải quy chúng về cùng một mốc thời gian để so sánh bằng cách sử dụng lãi suất chiết khấu. Hai là, cần phân biệt dòng tiền thực và dòng lợi nhuận kế toán. Dòng lợi nhuận kế toán được xác định dựa trên thu nhập và chi phí được chấp nhận, còn dòng tiền của dự án xác định trên cơ sở thu nhập và chi phí có thật bằng tiền. Ví dụ như khấu hao là một khoản chi phí cố định của dự án. Tuy nhiên đây không phải là một khoản chi phí thực bằng tiền nên không được tính vào dòng tiền chi ra của dự án. Bởi vì khấu hao tác động gián tiếp đến lợi nhuận, nó làm giảm thuế thu nhập nên phải được coi là khoản thu nhập của dự án. Ba là, cần nắm vững nguyên tắc xác định dòng tiền phù hợp. Dòng tiền dự án là dòng tiền phù hợp. Một dòng tiền phù hợp là một sự thay đổi trong tổng dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp mà được coi là hệ quả trực tiếp của việc thực hiện dự án. Dòng tiền phù hợp còn được gọi là dòng tiền chênh lệch vì nó chính là chênh lệch của dòng tiền ròng của doanh nghiệp khi không thực hiện và có thực hiện dự án. Do đó các dòng tiền mà sự tồn tại của nó không liên quan đến việc thực hiện hay không thực hiện dự án thì phải loại bỏ khi tính dòng tiền dự án: - Chi phí chìm: là chi phí đã xuất hiện từ trước cho dù dự án có được thực hiện hay không. Do đó khi phân tích dòng tiền cần loại bỏ chi phí này. - Chi phí cơ hội: là cơ hội thu nhập tốt nhất bị bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp đã sở hữu sẵn một số tài sản hữu dụng cho việc thực hiện dự án. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra để mua những tài sản này nữa. Chẳng hạn doanh nghiệp đang sở hữu một khu đất thích hợp cho việc xây dựng một toà cao ốc làm văn phòng. Liệu giá trị khu đất trên có được tính vào chi phí đầu tư không? Khi sử dụng mảnh đất vào việc xây dựng toà nhà cao ốc, doanh nghiệp đã phải từ bỏ một dòng tiền mà lẽ ra nó đã có thể có bằng việc cho thuê khu đất đó. Nhưng dòng tiền này không được đưa vào dự án vì chi phí cơ hội đã được tính đến trong lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên giá trị thị trường của mảnh đất phải được đưa vào chi phí đầu tư vì mảnh đất cũng là một tài sản có khả năng sinh lợi cho doanh nghiệp khi tham gia vào dự án. - Tác động phụ: Vì dòng tiền chênh lệch của một dự án bao gồm tất cả các sự thay đổi luồng tiền của doanh nghiệp được gây ra bởi việc thực hiện dự án. Trong nhiều trường hợp việc chấp nhận thực hiện dự án mới có thể gây ra tác động phụ kể cả tốt và xấu đối với luồng tiền của doanh nghiệp. Tác động này cần được tính vào luồng tiền của dự án. Ví dụ: công ty sơn Nipon thực hiện dự án sản xuất một loại sơn mới, dự kiến sau khi sản phẩm mới được bán thì doanh thu từ sơn Ankit bị giảm xuống. Trong trường hợp này, luồng tiền của dự án mới cần tính đến sự sụt giảm của luồng tiền bán sản phẩm sơn Ankit. - Vốn lưu động ròng: là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định. Thông thường, một dự án yêu cầu phải đầu tư vào vốn lưu động ròng bên cạnh đầu tư vào tài sản cố định. Để dự án đi vào hoạt động thường cần một lượng vốn lưu động ban đầu như tiền để đáp ứng nhu cầu chi trả, hàng tồn kho ban đầu cần thiết để bắt đầu sản xuất…Tuy nhiên nhu cầu này được tài trợ bởi các khoản nợ ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp chỉ cần đầu tư vào phần vốn lưu động ròng. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là nó không được khấu hao và được thu hồi khi dự án kết thúc. Trong tính toán dự án, đầu tư vào vốn lưu động ròng được coi là đầu tư ban đầu, và được thu hồi khi dự án kết thúc. Vốn lưu động ròng được đưa vào dòng tiền của dự án. - Phân bổ chi phí quản trị chung: chi phí quản trị chung là những chi phí hoạt động không liên quan trực tiếp tới bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào như chi phí quản lý, chi phí hành chính, văn phòng,…Sự chênh lệch của những chi phí này trước và sau thời điểm có dự án mới nên được tính vào dòng tiền. Một cách tổng quát, dòng tiền của dự án được cấu thành bởi ba bộ phận sau: dòng chi phí đầu tư, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền thu hồi sau đầu tư. - Dòng chi phí đầu tư gồm: chi phí mua tài sản cố định; chi phí lắp đặt, vận chuyển, chạy thử; chi phí dự phòng và đầu tư vào vốn lưu động ròng (nếu có). Dòng chi phí đầu tư được gọi là dòng tiền ra của dự án (COF). - Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh: = LNST +KH = DT – CF - THUẾ = ( DT – chi phí không kể khấu hao)*(1-T) + KH*T - Dòng tiền thu hồi sau đầu tư: gồm thu hồi vốn lưu động ròng và thu hồi từ thanh lý tài sản cố định, trong đó: Thu hồi từ thanh lý TSCĐ = thu thanh lý – (thu thanh lý – GTCL)*T Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền thu hồi sau đầu tư tạo thành dòng tiền vào của dự án (CIF). Chênh lệch giữa dòng ra và dòng vào của dự án tạo nên dòng tiền ròng của dự án, là cơ sở để tính hiệu quả kinh tế của dự án: NCF = CIF - COF Đây là ba bộ phận cơ bản để xác định dòng tiền của dự án. Tuy nhiên đứng trên các góc độ thẩm định khác nhau, dòng tiền của dự án có thể có những hiệu chỉnh nhất định như trừ đi dòng trả nợ gốc hàng năm (nếu người thẩm định là chủ đầu tư) hoặc cộng trở lại lãi vay (nếu người thẩm định là ngân hàng). Thẩm định lãi suất chiết khấu Xuất phát của việc đưa lãi suất chiết khấu vào tính toán trong dự án được bắt nguồn từ nguyên lý giá trị thời gian của tiền. Đồng tiền xuất hiện có giá trị cao hơn cũng đồng tiền đó vào một thời điểm trong tương lai. Để có thể đánh giá hiệu quả tài chính của dự án một cách chính xác trên cơ sở có tính đến giá trị thời gian của tiền, ngân hàng cần chiết khấu dòng tiền của dự án trong tương lai về hiện tại theo một tỷ lệ hợp lý, tỷ lệ đó gọi là lãi suất chiết khấu. Cơ sở tính lãi suất chiết khấu gắn liền với khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án. Đứng trên các quan điểm, vị trí khác nhau của người thẩm định, lãi suất chiết khấu được xác định một cách khác nhau: - Quan điểm nhà đầu tư: lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với phần vốn đầu tư hay thực chất là chi phí cơ hội của chủ đầu tư. Khi đó lãi suất chiết khấu được tính dựa trên mô hình CAPM hoặc APT. - Quan điểm của nhà tài trợ: lãi suất chiết khấu chính bằng lãi suất cho vay - Quan điểm của doanh nghiệp: lãi suất chiết khấu là chi phí bình quân của dự án Việc xác định lãi suất chiết khấu hợp lý là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Các dự án khách hàng trình lên ngân hàng có lãi suất chiết khấu thường là lãi suất cho vay trung dài hạn của ngân hàng hoặc lãi suất huy động trung dài hạn của ngân hàng cộng với phần chênh lệch nhất định. Dựa trên những đánh giá về khả năng sinh lời và mức rủi ro của dự án, ngân hàng tiến hành điều chỉnh lại tỷ lệ này trên góc độ của ngân hàng. Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án Kết quả thẩm định tài chính dự án được thể hiện thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. Trên phương diện nhà tài trợ, bên cạnh việc xem xét tính chính xác hợp lý của các chỉ tiêu tài chính mà khách hàng đưa ra trong bản báo cáo khả thi trình lên ngân hàng, ngân hàng cần tính toán thêm một số chỉ tiêu khác mà khách hàng chưa xây dựng để phục vụ cho việc ra quyết định tài trợ như thời gian hoàn vốn vay, cân đối khả năng trả nợ,… Để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án ngân hàng thường sử dụng những chỉ tiêu sau: - Giá trị hiện tại ròng (NPV) - Tỷ suất hoàn vốn nội bộ - Tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh - Thời gian hoàn vốn - Chỉ số doanh lợi - Chỉ tiêu cân đối Lợi ích – Chi phí - Lợi nhuận kế toán bình quân - Điểm hoà vốn Giá trị hiện tại ròng( NPV) NPV là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0. NPV phản ánh giá trị tăng thêm của chủ đầu tư có tính đến giá trị thời gian của tiền. NPV mang giá trị dương nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư; hay nói cách khác dự án không những bù đắp đủ vốn đầu tư bỏ ra mà còn tạo lợi nhuận. Ngược lại, nếu NPV âm có nghĩa là dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư. NPV càng lớn chứng tỏ hiệu quả tài chính dự án càng cao, nguồn trả nợ cho ngân hàng càng dồi dào. NPV là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định tài chính dự án. Tuy nhiên, điều ngân hàng quan tâm nhiều nhất là việc đảm bảo thu hồi nợ vay chứ không phải quy mô giá trị tăng thêm từ dự án, vì vậy, chỉ tiêu này chưa đủ để quyết định đối với việc tài trợ cho dự án. Nhiều dự án tuy NPV không cao nhưng ngân hàng vẫn cho vay khi xét thấy dự án sẽ trả nợ đầy đủ. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu mà tại đó NPV nhận giá trị bằng 0. Tỷ lệ này cho ngân hàng biết lãi suất tối đa mà dự án có thể đạt được hay mức lãi suất cao nhất mà dự án có khả năng thanh toán. Vì vậy khi thẩm định dự án trên góc độ ngân hàng, ngân hàng so sánh IRR với lãi suất cho vay. Nếu chỉ có một dự án, chọn dự án khi IRR lớn hơn lãi suất cho vay. Trường hợp có nhiều dự án, dự án có giá trị IRR dương lớn nhất và lớn hơn lãi suất cho vay sẽ được lựa chọn vì IRR càng cao thì khả năng chịu biến động về lãi suất cho vay của dự án càng tốt. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh (MIRR) IRR phản ánh giá trị hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên, giả định này là không thuyết phục vì lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi trong các năm thể hiện chi phí cơ hội của chủ đầu tư trong từng năm thay đổi. Để khắc phục nhược điểm này, ngân hàng sử dụng kết hợp với chỉ tiêu MIRR. MIRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí dự án tương đương với giá trị hiện tại của giá trị cuối cùng của nó. Giá trị cuối cùng là tổng giá trị tương lai của những luồng tiền vào tại chi phí của vốn. Thời gian hoàn vốn đầu tư ( PP) Thời gian hoàn vốn đầu tư là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu hay là độ dài thời gian cần thiết để các luồng tiền ròng của dự án bù đắp được chi phí của nó. PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn đầu tư mà không quan tâm đến khả năng tạo ra thu nhập sau đó. Tuy nhiên chỉ tiêu này giúp ngân hàng có một cái nhìn tương đối chính xác về mức độ rủi ro của dự án. Một dự án có thời gi._.an hoàn vốn càng dài thì rủi ro mà ngân hàng phải đương đầu khi chấp nhận tài trợ cho dự án càng lớn. Vì vậy, các dự án có các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính khác thấp nhưng thời gian thu hồi vốn đầu tư ngắn được ngân hàng ưu tiên hơn các dự án có thời gian thu hồi vốn đầu tư dài dù có các chỉ tiêu tài chính khác tốt hơn. Thời gian hoàn vốn vay: Là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn vay. Tuy nhiên luồng tiền bù đắp vốn vay không phải là toàn bộ luồng tiền tạo ra từ dự án mà chỉ là phần dành để trả nợ và các nguồn tiền khác không phát sinh từ dự án được khách hàng sử dụng để bổ sung nguồn trả nợ cho ngân hàng. Đối với ngân hàng chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là căn cứ để ngân hàng xác định thời hạn cho vay phù hợp. Thông thường ngân hàng sẽ quyết định cho khách hàng vay đúng bằng thời gian hoàn vốn vay. Nếu thời hạn cho vay ngắn hơn thời gian hoàn vốn vay của dự án thì gây khó khăn cho khách hàng khi trả nợ, làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu ngân hàng cho vay quá thời gian thu hồi vốn, điều này sẽ khiến ngân hàng có thể gặp bất lợi khi thu hồi vốn vì khách hàng có thể dùng phần thu nhập dư thừa của dự án tái đầu tư hay thực hiện một nghĩa vụ tài chính khác. Thời gian hoàn vốn đầu tư và thời gian hoàn vốn vay thường có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, một số dự án có nguồn trả nợ ngoài dự án rất dồi dào nên thời gian thu hồi vốn vay có thể ngắn hơn rất nhiều so với thời gian thu hồi vốn đầu tư. Điều này có tác động thuận lợi đến quyết định cho vay của ngân hàng đối với dự án. Chỉ số doanh lợi (PI) PI là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, tính bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu. Chỉ tiêu này thường được sử dụng như là chỉ tiêu xếp hạng dự án khi bị giới hạn về nguồn vốn. Đối với chủ đầu tư, chỉ tiêu này khá quan trọng vì nó cho biết khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư, so sánh các dự án có thời hạn khác nhau, vốn đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, các ngân hàng thường ít quan tâm đến chỉ tiêu này vì với tư cách là nhà tài trợ, điều ngân hàng quan tâm nhất là khả năng trả nợ của khách hàng. Nhiều dự án có tổng vốn đẩu tư ban đầu lớn nên dù thu nhập cao thì chỉ số PI vẫn thấp so với các dự án có thu nhập ít nhưng vốn đầu tư ban đầu nhỏ. Khi đó, nếu mức độ rủi ro là như nhau, ngân hàng sẽ lựa chọn và tài trợ dự án lớn hơn vì sẽ đưa lại thu nhập lớn hơn cho ngân hàng. Chỉ tiêu cân đối lợi ích – chi phí (B/C) Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Về bản chất chỉ tiêu này có ý nghĩa tương tự NPV khi đánh giá một dự án vì NPV >0 thì B/C >1, NPV = 0 thì B/C = 1 và NPV < 0 thì B/C <1.Tuy nhiên vì là số tương đối nên chỉ tiêu này tuy không phản ánh được quy mô giá trị tăng thêm của dự án nhưng lại có thể so sánh được các dự án có thời hạn khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau. Vì B/C khắc phục được nhược điểm của NPV nên nó thường được sử dụng bổ trợ cho chỉ tiêu NPV khi phải so sánh nhiều dự án có thời hạn và vốn đầu tư khác nhau. B/C không ảnh hưởng nhiều đến các quyết định tài trợ của ngân hàng. Chỉ tiêu lợi nhuận kế toán bình quân ( APP) Là lợi nhuận kế toán thuần tuý bình quân trong các năm của dự án. APP cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận kế toán bình quân trong từng năm thực hiện dự án. Do vậy APP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu nhập cho chủ đầu tư. Tuy nhiên APP không xem xét đến giá trị thời gian của tiền do vậy nó không phản ánh chính xác khả năng sinh lời của dự án. Do đó APP cũng thường được sử dụng kết hợp với NPV như một chỉ tiêu bổ trợ. Điểm hoà vốn ( BP) Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư Nếu PP phản ánh thời gian thu hồi đủ vốn thì BP cho biết phải sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm để thu hồi đủ vốn dựa trên chi phí biến đổi, chi phí cố định và giá bán sản phẩm. BP giúp ngân hàng có cái nhìn trực quan hơn về khả năng hoàn vốn của dự án. BP không quan tâm đến khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi đủ vốn đầu tư, không tính đến giá trị thời gian của tiền nên không chính xác như các chỉ tiêu tài chính khác, vì vậy chỉ được sử dụng như một chỉ tiêu bổ trợ. Thẩm định về rủi ro của dự án Rủi ro của dự án được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện. Rủi ro xảy ra đối với một dự án có thể chia làm ba loaị: - Rủi ro loại 1: Đây là rủi ro riêng của bản thân dự án, tức là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của doanh nghiệp và được đo bằng sự biến thiên lợi tức của dự án. Đo lường rủi ro loại một là đo lường sự biến động dòng tiền của dự án. - Rủi ro loại 2: Rủi ro này thể hiện sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh nghiệp, được đo bằng sự tác động của dự án đối với sự bíên thiên thu nhập của doanh nghiêp. - Rủi ro loại 3: Đây là rủi ro của dự án được đánh giá từ quan điểm của nhà đầu tư cổ phiếu. Đó là phần rủi ro của dự án mà không thể bỏ qua được bằng việc đa dạng hoá đầu tư. Rủi ro này đo lường thông qua hệ số b của dự án. Các loại rủi ro của dự án vừa có tính độc lập tương đối vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đứng trên các giác độ khác nhau của người thẩm định, mỗi loại rủi ro có mức độ quan trọng khác nhau. Đối với ngân hàng là người tài trợ cho dự án thì rủi ro loại một là đáng quan tâm nhất vì nó liên quan đến khả năng thu hồi nợ. Sự biến động thu nhập của dự án thấp hơn mức dự kiến ảnh hưởng đến nguồn trả nợ của khách hàng, khiến cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn vay. Đo lường rủi ro loại 1 chính là đo lường sự biến động dòng tiền của dự án. Phân tích rủi ro dự án giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay. Tuy nhiên với mỗi loại rủi ro khác nhau có các phương pháp phân tích phù hợp. Với rủi ro loại 1, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau: * Phân tích độ nhạy: Dòng tiền của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Vì vậy khi một biến quan trọng thay đổi sẽ làm dòng tiền thay đổi rất lớn, từ đó làm cho các chỉ tiêu tài chính cũng thay đổi. Phân tích độ nhạy là chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài chính (thường là NPV hoặc IRR) khi các biến đầu vào thay đổi. Phân tích tình huống có thể thực hiện theo 2 cách sau: + Xem xét ảnh hưởng đơn lẻ của từng yếu tố: trong phân tích này người ta chọn những biến có khả năng thay đổi và tác động lớn đến dòng tiền như số lượng bán hàng, giá bán sản phẩm, chi phí biến đổi, chi phí cố định,…và cho một biến thay đổi còn giữ nguyên các yếu tố khác để xem xét tác động của nó tới NPV hoặc IRR. + Xem xét ảnh hưởng đồng thời của nhiều yếu tố: Thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố tác động đến dòng tiền của dự án và các biến này thường thay đổi đồng thời. Do vậy cán bộ thẩm định cũng phải phân tích và xem xét sự thay đổi của nhiều yếu tố cùng tác động đến NPV hoặc IRR, trên cơ sở đó giúp cho việc đánh giá độ an toàn, phòng ngừa rủi ro và quản lý dự án được tốt hơn. * Phân tích tình huống: Vì phân tích độ nhạy không được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất nên khó có thể lượng hóa được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong trường xấu nhất và tốt nhất so với trường hợp cơ sở. Phương pháp phân tích tình huống cho phép ngân hàng khắc phục được điều đó. Với phương pháp này, người ta lập ra các tình huống xấu nhất và tốt nhất cùng với xác suất xảy ra tương ứng. Tốt nhất và xấu nhất ở đây chỉ có nghĩa là ta ước tính một loại các khả năng, khả năng gần với tiềm năng cao nhất gọi là tốt nhất, còn khả năng gần với giới hạn thấp nhất trong ước tính gọi là xấu nhất. Trên cơ sở các tình huống và xác suất xảy ra đó, người ta tính ra hệ số biến thiên IRR và NPV để đánh giá mức độ rủi ro. * Phân tích tình huống mô phỏng Là phương pháp phân tích kết hợp cả hai phương pháp trên. Nó đề cập đến phạm vi các kết cục có khả năng xảy ra chứ không chỉ ra một vài kết cục rời rạc. Khi đó đường biểu diễn hàm mật độ xác suất là một đường liên tục nên việc tính toán các hệ số đo lường rủi ro sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên khi thay đổi tất cả các yếu tố cùng một lúc với xác suất xảy ra tương ứng, khối lượng tính toán sẽ rất lớn, do đó cần có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật. Vì vậy, mặc dù có tính ưu việt hơn hẳn nhưng do tính phức tạp trong áp dụng của phương pháp này nên hầu như các ngân hàng chưa áp dụng phương pháp này trong phân tích rủi ro dự án. 1.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay của ngân hàng thương mại 1.3.1. Khái niệm Thẩm định tài chính dự án được coi là có chất lượng tốt khi nó thoả mãn được các yêu cầu mà ngân hàng và khách hàng đặt ra. Yêu cầu của ngân hàng đối với việc thẩm định tài chính dự án là thời gian ngắn và chi phí thẩm định thấp, đánh giá được chính xác hiệu quả tài chính của dự án, làm căn cứ chính yếu nhất để ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn: cho vay hay không, cho vay bao nhiêu, thời hạn vay bao lâu, phương thức giải ngân, hình thức thu nợ thế nào cho phù hợp…nhằm hạn chế tối đa được rủi ro nhưng không bỏ lỡ cơ hội đầu tư với những dự án tốt. Yêu cầu của khách hàng là được tài trợ đủ nhu cầu vốn với thời hạn và lãi suất phù hợp, thời gian thẩm định hợp lý không bị lỡ thời cơ kinh doanh, được ngân hàng cung cấp các tiện ích khác như tư vấn tài chính … Vì dự án vừa là cơ hội đầu tư của khách hàng vừa là cơ hội đầu tư của ngân hàng nên việc thẩm định tài chính dự án được đánh giá là có chất lượng tốt khi nó đáp ứng đồng thời yêu cầu của cả hai bên. Do đó, nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng chính là nâng cao sự thoả mãn hai yêu cầu nói trên. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án là các chỉ tiêu thể hiện mức độ thoả mãn yêu cầu đặt ra của ngân hàng và khách hàng. 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án Chất lượng thẩm định tài chính dự án thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau: - Thời gian thẩm định - Chi phí thẩm định - Chất lượng của báo cáo thẩm định - Chất lượng các quyết định cho vay - Việc cung cấp những tư vấn cho khách hàng 1.3.2.1. Thời gian thẩm định Để thẩm định một dự án trước hết cần thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và tổng hợp các thông tin đó nhằm đưa ra kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Để thực hiện được những công việc trên đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định. Trong điều kịên cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chi phí cơ hội của dự án là rất lớn, thời gian đối với chủ đầu tư là vàng là bạc, các khách hàng khi đến với ngân hàng luôn mong muốn được ngân hàng trả lời sớm nhất dù cho vay hay không cho vay. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng là cần phải tổ chức thẩm định và thiết lập hệ thống công nghệ hỗ trợ phù hợp sao cho thời gian thẩm định phải đủ để tổ chức khâu thẩm định được kỹ càng nhưng không được quá dài sẽ làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng. Có như vậy mới đảm bảo cơ hội đầu tư cho cả ngân hàng và khách hàng. 1.3.2.2. Chi phí thẩm định Chi phí thẩm định bao gồm tất cả các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi trả cho việc tiến hành thẩm định dự án như chi phí mua thông tin, công tác phí của cán bộ đi thẩm định và các chi phí khác…Hơn nữa trong cùng một thời gian, ngân hàng phải trả lời cho vay hay không cho vay đối với nhiều dự án khác nhau vì vậy chi phí thẩm định của ngân hàng còn bao gồm cả chi phí cơ hội đối với việc xem xét cho vay dự án khác cùng thời điểm. Thu nhập của ngân hàng từ dự án là tiền lãi vay và các khoản phí dịch vụ cung ứng. Là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy khi tiến hành thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần phải so sánh thu nhập của ngân hàng từ dự án và chi phí thẩm định. Nếu chi phí thẩm định mà quá lớn so với thu nhập nhận được từ dự án thì ngân hàng vẫn có thể từ chối cho vay dù dự án hiệu quá. 1.3.2.3. Chất lượng báo cáo thẩm định Báo cáo thẩm định là sự thể hiện kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình thẩm định dự án. Báo cáo này có vai trò rất quan trọng vì nó là căn cứ hàng đầu để ngân hàng ra các quyết định cho vay, là cơ sở để tiến hành tái thẩm định. Là sự tổng kết của toàn bộ quá trình thẩm định nên chất lượng của báo cáo tài chính thể hiện chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án. Bản báo cáo thẩm định có chất lượng tốt phải được trình bày khoa học, đầy đủ, chính xác và khách quan, sát với thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Báo cáo thẩm định tốt phải giúp người đọc nắm bắt được những thông tin cơ bản nhất về hiệu quả tài chính của dự án, phải thể hiện được các quyết định và chứng minh được tính hợp lý của các quyết định tài trợ cho dự án. 1.3.2.4. Chất lượng các quyết định cho vay Vì mục tiêu cuối cùng của thẩm định tài chính dự án là để ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay một cách hợp lý nên chất lượng các quyết định cho vay cũng phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án. Chất lượng các quyết định cho vay thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động của các dự án được ngân hàng tài trợ và kết quả hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng. Khi bỏ vốn tài trợ cho một dự án, ngân hàng bao giờ cũng mong muốn dự án hoạt động có hiệu quả để đảm bảo thu hồi được cả vốn và lãi. Thẩm định tài chính dự án là căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hay không. Điều đó có nghĩa là các dự án được ngân hàng tài trợ vốn là các dự án được ngân hàng thẩm định là có hiệu quả. Vì vậy các dự án đã được xét duyệt cho vay mà hoạt động tốt theo đúng dự kiến chứng tỏ ngân hàng đã ra quyết định đúng đắn hay chất lượng thẩm định tài chính dự án tốt. Ngược lại, nếu dự án được ngân hàng cho vay hoạt động không hiệu quả - điều đó thể hiện sự yếu kém trong chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Hiệu quả hoạt động của các dự án tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng, hay nói cách khác kết quả hoạt động cho vay theo dự án phần nào cũng phản ánh chất lượng các quyết định cho vay. Nếu các quyết định cho vay đúng đắn, dự án hoạt động có hiệu quả sẽ làm tăng dư nợ, giảm tỷ lệ nợ quá hạn của hoạt động cho vay theo dự án. Nếu các quýêt định cho vay không hợp lý, dự án hoạt động không có hiệu quả sẽ làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn, có thể làm cho ngân hàng bị mất vốn,… 1.3.2.5. Việc cung cấp những tư vấn cho khách hàng Thẩm định tài chính dự án có chất lượng tốt sẽ mang lại cho cán bộ ngân hàng cái nhìn sâu sắc về dự án, từ đó có thể tư vấn cho khách hàng nhiều vấn đề hữu ích như: kế hoạch kinh doanh phù hợp, phương án về nguồn vốn sao cho hiệu quả,…Những tư vấn này sẽ giúp doanh nghiệp triển khai dự án được tốt hơn, đồng thời ngân hàng cũng có lợi ích hơn khi cho vay các dự án hiệu quả. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án Để có được kết quả tốt nhất về thẩm định tài chính dự án đòi hỏi cán bộ thẩm định phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Các nhân tố này được chia thành hai nhóm chính: nhóm nhân tố về phía ngân hàng và nhóm nhân tố bên ngoài ngân hàng. 1.3.3.1. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng. Tổ chức công tác thẩm định Công tác thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều giai đoạn và được thực hiện bởi sự phối hợp của nhiều người nên tổ chức công tác thẩm định có ảnh hưởng không nhỏ tới thẩm định tài chính dự án. Nếu công tác này được tổ chức một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân phù hợp với trình độ chuyên môn, có kiểm tra giám sát chặt chẽ, chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ tốt hơn. Chất lượng của đội ngũ cán bộ: Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Do tính chất phức tạp, hàm chứa nhiều vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực trong công tác thẩm định tài chính dự án, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn vững vàng, sự hiểu biết toàn diện về những vấn đề cần thẩm định như: hiểu biết về lĩnh vực doanh nghiệp đầu tư, hiểu biết về sự phát triển chung của nghành, của nền kinh tế,…cũng như phải nắm vững các quy định, quy chế liên quan đến hoạt động cho vay. Bên cạnh yêu cầu có kiến thức chuyên sâu, hiểu biết rộng, các cán bộ thẩm định cần phải có phẩm chất đạo dức tốt nhằm giúp cho ngân hàng tránh gặp phải rủi ro đạo đức. Chất lượng đội ngũ cán bộ là hết sức quan trọng nhưng nếu số lượng cán bộ thẩm định quá ít so với yêu cầu tất yếu xảy ra hiện tượng mỗi cán bộ phải thực hiện khối lượng công việc quá tải, từ đó dẫn đến việc thẩm định thiếu kỹ càng, kém hiệu quả. Do đó số lượng cán bộ quá ít cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thông tin Thẩm định tài chính dự án được thực hiện trên cơ sở phân các thông tin trực tiếp và gián tiếp liên quan đến dự án. Thông tin càng đầy đủ, chính xác bao nhiêu thì việc thẩm định càng thuận lợi và chất lượng bấy nhiêu. Nếu thông tin sai lệch thì kết quả thẩm định tài chính sẽ bị hạn chế, có thể dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm, gây tổn thất lớn và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Chính vì vậy, yếu tố thông tin có một vai trò rất quan trọng đối với chất lượng thẩm định tài chính dự án. Và vị trí của yếu tố này đang ngày càng được coi trọng trong thời đại thông tin hiện nay. Phương pháp thẩm định Phương pháp thẩm định thể hiện thông qua hệ thống chỉ tiêu và cách áp dụng khi thẩm định tài chính dự án. Mỗi chỉ tiêu đều có những ưu nhược điểm nhất định khi thẩm định dự án, do đó cán bộ thẩm định phải biết sử dụng kết hợp các chỉ tiêu để đưa ra các kết quả toàn diện và chính xác. Tùy theo đặc điểm tính chất của từng dự án mà đặt chỉ tiêu nào là quan trọng đối với việc ra quyết định cho vay. Trang thiết bị, công nghệ của ngân hàng: Đây là nhân tố ảnh hưởng tới thời gian và độ chính xác của kết quả thẩm định tài chính dự án. Với trang thiết bị hiện đại, việc thu thập và xử lí các thông tin sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác, dự báo nhanh nhiều phương án, các cơ hội đầu tư sẽ được nắm bắt kịp thời. Nhờ vậy chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án sẽ được nâng cao. 1.3.3.2. Nhóm nhân tố bên ngoài ngân hàng: Đây là những nhân tố không thuộc tầm kiểm soát của Ngân hang. Nhóm nhân tố bên ngoài ngân hàng bao gồm các nhân tố từ môi trường pháp lí, môi trường kinh tế xã hội tác động tới quá trình thẩm định tài chính dự án. Về môi trường pháp lý: đó là các cơ chế chính sách của nhà nước. Nếu cơ chế này nhất quán đồng bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng khi thẩm định các yếu tố pháp lý của dự án. Về môi trường kinh tế xã hội: Nền kinh tế chưa phát triển, sự bất ổn của các điều kiện kinh tế vĩ mô đã hạn chế việc cung cấp những thông tin xác thực phản ánh đúng mối quan hệ thị trường, những thông tin dự báo tình trạng nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định và tăng trưởng của môi trường kinh tế xã hội sẽ hạn chế bớt rủi ro cho dự án. Nhờ đó Ngân hàng cũng lường trước các rủi ro được tốt hơn trong điều kiện cho vay thời hạn dài. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG 2.1. Giới thiệu khái quát về ngân hàng Công thương Ba Đình 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh Chi nhánh Ngân hàng Công thương - tiền thân là chi điếm ngân hàng Đội Cấn được thành lập từ năm 1959, là một trong những ngân hàng đầu tiên được thành lập trên địa bàn thủ đô Hà Nội, có trụ sở chính tại số 126, phố Đội Cấn quận Ba Đình, Hà NỘi. Ngày 01/07/1988, thực hiện Nghị định số 53 ngày 16 tháng 03 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng, ngành ngân hàng chuyển sang hoạt động theo mô hình 2 cấp, lấy lợi nhuận làm mục tiêu trong hoạt động kinh doanh, các Ngân hàng thương mại quốc doanh lần lượt ra đời, trong đó có Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trong bối cảnh đó ngân hàng Ba Đình cũng được chuyển đổi thành một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh với tên gọi là chi nhánh ngân hàng Công thương quận Ba Đình trực thuộc ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội, hoạt động kinh doanh với mục tiêu lợi nhuận. Ngày 24/03/1993, Tổng giám đốc Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã ra quyết định số 93/NHCT-TCCB về việc giải thể Chi nhánh NHCT Thành phố Hà Nội, đồng thời chuyển giao hoạt động của các Chi nhánh NHCT trên địa bàn Thủ đô trực thuộc NHCT Việt Nam. Từ đó, chi nhánh NHCT Thành phố Hà Nội tách ra làm 6 chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam trong đó có ngân hàng Ba Đình mang tên gọi mới là Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Với quyết định này, hệ thống NHCT Việt Nam đã chuyển đổi mô hình hoạt động từ hệ thống ngân hàng 3 cấp (Trung ương – Thành phố - Quận) thành hệ thống 2 cấp (bỏ đi cấp trung gian là ngân hàng thành phố). Từ năm 1993 trở lại đây, chi nhánh NHCT Ba Đình đã không ngừng đổi mới, sắp xếp lại bổ máy tổ chức, đề bạt, bổ nhiệm các cán bộ trẻ có năng lực, trình độ, đa dạng các sản phẩm, dịch vụ, thực hiện cơ chế điều hành mới…Trải qua một giai đoạn không ngừng phấn đấu phát triển, ngày nay chi nhánh NHCT Ba Đình đã trở thành một trong những chi nhánh dẫn đầu của hệ thống NHCT Việt Nam, có nhiều đóng góp quan trọng cho hệ thống NHCT Việt Nam. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHCT Ba Đình hiện có trên 300 cán bộ công nhân viên chức làm việc tại chi nhánh, phòng giao dịch và 11 quỹ tiết kiệm được đặt rải rác trên khắp địa bàn quận. Ngân hàng hoạt động dưới sự điều hành của ban lãnh đạo gồm một giám đốc và bốn phó giám đốc phụ trách các mảng công việc khác nhau. Căn cứ quyết định 151/QĐ-HĐBT-NHCT1 ngày 20/10/2003 của hội đồng quản trị NHCT Việt Nam về việc phê duyệt mô hình tổ chức của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình theo dự án hiện đại hoá ngân hàng được thể hiện qua sơ đồ sau đây: Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng khách hàng 1 Phòng khách hàng 2 Phòng khách hàng cá nhân Phòng kế toán giao dịch Phòng kế toán tài chính Phòng thông tin điện toán Phòng tài trợ thương mại Phòng tổng hợp tiếp thị Phòng kiểm tra nội bộ Phòng tổ chức hành chính Phòng tiền tê kho quỹ Phòng khách hàng số 1: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn ( có vốn dăng kí kinh doanh từ 10 tỷ VND trở lên) để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của ngân hàng Công thương. Phòng khách hàng số 2: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (có vốn đăng ký kinh doanh dưới 10 tỷ VNĐ). Phòng khách hàng cá nhân: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để huy động vốn xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay bằng VNĐ và ngoại tệ, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ thể lệ hiện hành của NHNN và NHCT; Quản lý hoạt động của các quỹ tiết kiệm, Điểm giao dịch. Phòng kế toán giao dịch: là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng, tổ chức hạch toán kế toán theo quy định của Nhà nước và của NHCT Việt Nam. Cung cấp các dịch vụ ngân hàng theo quy định của NHNN và NHCT Việt Nam. Quản lý hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt trong ngày, thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm của ngân hàng. Phòng tài trợ thương mại: là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện các hoạt động về tài trợ thương mại tại chi nhánh theo đúng quy định của Nhà nước và NHCT Việt Nam. Phòng kế toán tài chính: là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tài chính kế toán của hoạt động ngân hàng và thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ tại chi nhánh. Phòng tổng hợp tiếp thị: là phòng vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoach kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động kinh doanh hàng năm của chi nhánh. Phòng tổ chức hành chính: là phòng chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt động của ngân hàng từ bố trí nguồn nhân lực đến việc đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết cho các phòng để hoàn thành chức năng cho mình. Phòng thông tin điện toán: là phòng nghiệp vụ thực hiện quản lý và duy trì hệ thống thông tin tại chi nhánh, là đầu mối về các mặt công nghệ thông tin giữa chi nhánh với các ngân hàng bên ngoài. Phòng Tiền tệ kho quỹ: là phòng nghiệp vụ đảm nhiệm chức năng quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và của NHCT Việt Nam. Phòng Kiểm tra nội bộ: là phòng nghiệp vụ có chức năng giúp Giám đốc giám sát, kiểm tra, kiểm toán các mặt kinh doanh của chi nhánh nhằm đảm bảo thực hiện theo đúng pháp luật của Nhà nước và cơ chế quản lý của ngành. 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Trong thời gian qua, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt nhưng chi nhánh vẫn hoàn thành nhiều chỉ tiêu kế hoạch, đảm bảo hoạt động hiệu quả và đã đạt được những kết quả nhất định. Sau đây là một số hoạt động chính của chi nhánh trong những năm qua: BẢNG 2.1: NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2003 31/12/04 31/12/05 2004 so với 2003 2005 so với 2004 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tốc độ tăng trưởng (%) Số tiền Tốc độ tăng trưởng (%) Tổng nguồn vốn huy động 3192 100 3639 100 4146 100 447 14 525 14.43 1. Theo thành phần kinh tế - Tiền gửi của các TCKT 1408 44.13 1806 49.6 2050 49.45 398 28.27 244 13.51 - Tiền gửi dân cư 1784 55.81 1833 50.4 2114 50.55 49 2.7 281 15.33 2.Theo đơn vị tiền tệ - VNĐ 2718 83.25 2984 82 3469 83.67 266 9.7 485 16.25 - Ngoại tệ 474 16.75 655 18 695 16.33 181 38.2 40 6.11 (Nguồn: Phòng tổng hợp tiếp thị ) - Hoạt động huy động vốn: mặc dù tình hình lãi suất có nhiều biến động do sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và nhiều nguyên nhân khác, nhưng với mạng lưới giao dịch rộng (gồm 11 quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên khắp địa bàn quận) cùng với những biện pháp như đa dạng hóa các hình thức tiền gửi, thực hiện các chương trình khuyến mãi cho khách hàng, …chi nhánh đã huy động được nguồn vốn lớn, không những đủ đáp ứng nhu cầu tín dụng của chi nhánh mà hàng năm đều vượt kế hoạch điều chuyển vốn về NHCT Việt Nam. Nhìn chung, trong mấy năm gần đây, tăng trưởng huy động vốn của chi nhánh đều đạt mức trên 14%. Đến ngày 31/12/2004 tổng nguồn vốn huy động đạt 3639 tỷ đồng, tăng 14.01% so với cùng kỳ năm trước, đến 31/12/2005 tổng nguồn vốn huy động đạt 4164 tỷ đồng, tăng 14.43% so với năm 2004. Hoạt động huy động vốn tốt đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng hoạt động tài trợ cho các dự án trung và dài hạn trong thời gian qua. BẢNG 2.2: DOANH SỐ CHO VAY, DƯ NỢ ĐỐI VỚI NÊN KINH TẾ Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2003 31/12/2004 31/12/2005 2004 so với 2003 2005 so với 2004 Doanh số (tỷ) Tỷ trọng(%) Doanh số (tỷ) Tỷ trọng(%) Doanh số (tỷ) Tỷ trọng(%) Số tiền (tỷ) Tốc độ tăng trưởng(%) Số tiền (tỷ) Tốc độ tăng trưởng(%) 1. Dư nợ cho vay 1703 100 1894 100 2816 100 191 11.2 922 48.7 - Ngắn hạn 1112 65.00 1261 66.6 1853 65.8 149 13.4 592 31.95 - Trung và dài hạn 591 35.00 633 33.4 963 34.2 42 7.1 330 32.13 2. Nợ quá hạn 6.139 0.36 5.904 0.31 19.6 0.7 (Nguồn: Phòng tổng hợp và tiếp thị) - Hoạt động tín dụng: Qua bảng 2.1 ta thấy: tính đến cuối năm 2004 dư nợ cho vay của chi nhánh đối với nền kinh tế là 1894 tỷ đồng, tăng 191 tỷ ( + 11.2% ) so với cùng kỳ 2003, tính đến cuối 2005 con số này lên tới 2816, tăng 922 tỷ (+48.7% ). Mức dư nợ tăng cao trong năm 2005 có được chủ yếu là do chi nhánh đã chủ động tìm kiếm, khai thác, lựa chọn khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh về vay vốn tại chi nhánh như công ty VILEXIM vay 25 tỷ, VINAFOOD 665 tỷ…, đồng thời thường xuyên nắm bắt tình hình tài chính của các doanh nghiệp vay vốn. Tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2005 lên tới 0.7%, trong khi năm 2004 chỉ có 0.31%. Điều này là do một số mặt hàng phân bón sắt thép có thời điểm tiêu thụ chậm, nợ đọng vốn trong đầu tư XDCB kéo dài nên làm tăng nợ gia hạn và nợ quá hạn cuối tháng 9/2005 lên tới 178 tỷ. Trước tình hình đó, chi nhánh đã tiến hành phân tích nợ xấu, đưa ra các biện pháp khắc phục cụ thể, phân công trách nhiệm thu nợ cho từng cán bộ,…nên đến 31/12/2005 nợ gia hạn và nợ quá hạn chỉ còn 65 tỷ đồng, trong đó nợ quá hạn 19.6 tỷ đồng. - Các hoạt động khác nhìn chung có tốc độ tăng trưởng cao trong mấy năm qua: thanh toán quốc tế có tốc độ tăng trưởng trên 20%, kinh doanh ngoại tệ trên 30% (đặc biệt trong 2005 tổng doanh số mua bán ngoại tệ tăng 80.55% so với năm 2004),… Trong những năm qua, lợi nhuận của chi nhánh luôn đạt vượt mức kế hoạch được giao, thu nhập của người lao động được tăng lên rõ rệt. Trong năm 2005, lợi nhuận hạch toán đạt trên 90.681 triệu đồng, vượt 5.681 triệu so với kế hoạch, tăng hơn so với năm trước 12.524 triệu đồng, tương đương với 16,02%. Đạt được những kết quả này là nhờ sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh cũng như nhờ có sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo NHCT Việt Nam. Những kết quả này đã và đang tạo đà phấn khởi cho toàn bộ chi nhánh tiếp tục thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm tiếp theo. 2.2. Đặc điểm dự án của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại ngân hàng công thương Ba Đình. 2.2.1. Đặc điểm dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc mở rộng đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như phát triển các khu chung cư, các khu công nghiệp, xây dựng và mở rộng đường xá,…là một yêu cầu tất yếu. Cùng với sự phát triển của ngành xây dựng, số lượng dự án xây dựng ngày càng tăng nhanh. Việc quản lý hiệu quả các dự án xây dựng là cực kỳ quan trọng nhằm tránh gây ra lãng phí những nguồn lực vốn đã rất hạn hẹp. Để quản lý hiệu quả, trước hết chúng ta cần nắm được các đặc điểm của dự án xây dựng. Bên cạnh những đặc điểm chung của dự án, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng còn có một số đặc điểm sau: - Thời gian đầu tư và vận hành của dự án thường dài hơn so với dự án thông thường, đặc biệt thời gian khai thác dự án có thể kéo dài hàng chục năm như các dự án thuỷ điện, giao thông,… - Việc thi công dự án được thực hiện ngoài trời nên chịu ảnh hưởng lớn của những biến động của môi trường tự nhiên. Những thay đổi môi trường tự nhiên nằm ngoài dự báo như lố._.LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH 3.1. Định hướng trong hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng 3.1.1. Định hướng hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình Phát huy các kết quả đã đạt được và để góp phần xây dựng chi nhánh ngày càng lớn mạnh, ngân hàng luôn chủ động đề ra mục tiêu mở rộng hoạt động tín dụng với phương châm “ An toàn và hiệu quả”. Để đẩy mạnh công tác tín dụng, chi nhánh đề ra chiến lược thu hút khách hàng, chủ động tìm kiếm các khách hàng tiềm năng đồng thời duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống với những ưu đãi về lãi suất, phí và dịch vụ. Để nâng cao chất lượng tín dụng bảo đảm an toàn vốn, bên cạnh viêc tiếp tục khai thác khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, ngân hàng tiền hành song song việc phân tích đánh giá, chọn lọc, xếp hạng khách hàng vay vốn để xác định giới hạn tín dụng hợp lý cho từng đơn vị vay vốn trước khi ký hợp đồng tín dụng, thực hiện nghiêm túc các quy trình nghiệp vụ, chính sách pháp luật của nhà nước. Trong quá trình cho vay phải thườgn xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính doanh nghiệp để có các biện pháp xử lý kịp thời. Mở rộng tín dụng đi kèm nâng cao chất lượng tín dụng là hai nội dung chính để thực hiện tăng trưởng tín dụng bền vững. Đây là quan điểm và cũng là định hướng chung trong hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình trong thời gian tới. 3.1.2. Định hướng trong hoạt động cho vay của chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng. Trong năm qua, do giá nguyên liệu đầu vào trong một số ngành tăng giảm bất thường như phôi thép, xăng dầu, phân bón,…nợ nần dây dưa, kéo dài, đặc biệt vốn không được thanh toán kịp thời trong lĩnh vực XDCB, đã tiềm ẩn nhiều rủi ro trong đầu tư tín dụng nhất là đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng. Trước tình hình đó, để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng bền vững, một mặt đối với các doanh nghiệp đang có vấn đề về nợ, ngân hàng tiến hành phân tích từng khoản nợ xấu và bám sát từng khoản thu của doanh nghiệp để thu nợ và hạn chế cho vay đối với những doanh nghiệp này.Mặt khác, tiếp tục khai thác các doanh nghiệp có tình hình hoạt động kinh doanh tốt, chủ động tìm kiếm, lựa chọn khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh đồng thời thường xuyên nắm bắt tình hình hoạt động, phân tích tài chính của các doanh nghiệp vay vốn. Đặc biệt công tác thẩm định đối với các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng cần được chú trọng để đảm bảo mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này một cách an toàn, hiệu quả nhất. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình Giảm thời gian và chi phí thẩm định nhưng vẫn đảm bảo các quyết định cho vay đúng đắn trên cơ sở các báo cáo thẩm định chính xác, khoa học là những nội dung cần thiết để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Muốn vậy ngân hàng cần thực hiện những giải pháp sau: 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay. Vấn đề nhận thức rất quan trọng vì nhận thức chi phối hành động, do đó ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án từ khâu thẩm định chung cho đến thẩm định chi tiết. Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng thẩm định tài chính dự án vì thế là một đòi hỏi tất yếu, đầu tiên cho việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của chất lượng thẩm định tài chính dự án, ban lãnh đạo sẽ có những quyết định đúng đắn kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, vật chất, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ thẩm định tốt dự án. Nhận thức đầy đủ về mối quan hệ khăng khít giữa lợi ích ngân hàng và hiệu quả thẩm định dự án sẽ giúp cán bộ thẩm định có trách nhiệm cao với công việc của mình, áp dụng đúng quy trình nghiệp vụ, thực hiện đầy đủ các khâu cần thiết cho kết quả thẩm định dự án cao nhất có thể. Việc nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chất lượng thẩm định dự án còn được thể hiện ở vai trò quyết định của kết quả thẩm định tài chính đối với việc cho vay dự án của ngân hàng. Những yếu tố khác như uy tín doanh nghiệp và tài sản thế chấp là những yếu tố bổ trợ sau kết quả thẩm định tài chính dự án, không nên quá chú trọng vào vấn đề tài sản thế chấp như hiện nay ở nhiều ngân hàng. Tóm lại, vấn đề nhận thức ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm đình tài chính dự án, vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định trước hết cần nâng cao nhận thức của cán bộ về vai trò của chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay. 3.2.2. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định tài chính dự án. Để chuyên môn hóa công tác thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng Công thương Ba Đình nên thành lập phòng “Thẩm định dự án” riêng, chứ không nên để cán bộ phòng tín dụng kiêm nhiệm như hiện nay. Phòng này sẽ chỉ chuyên làm nhiệm vụ thẩm định các dự án và trên cơ sở đó cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, lập dự án cho khách hàng. Trong phòng nên phân thành những tổ thẩm định theo các loại dự án, ví dụ như tổ chuyên thẩm định về cho vay thương nghiệp, tổ chuyên thẩm định về cho vay xây dựng cơ bản, tổ về cho vay công nghiệp… Việc chuyên môn hoá công tác thẩm định sẽ tạo điều kiện đào tạo kiến thức chuyên môn, thực hiện quy trình thẩm định khoa học, có như vậy công tác thẩm định dự án mới phát huy hiệu quả, chất lượng thẩm định tài chính dự án mới được nâng cao. Bên cạnh đó, để chủ động và đánh giá có hiệu quả thẩm định dự án trên phương diện kỹ thuật, làm cơ sở xác định chính xác hơn doanh thu và chi phí dự tính của dự án, ngân hàng nên có một tổ tư vấn kỹ thuật với nhiệm vụ chuyên tư vấn cho cán bộ thẩm định và hội đồng tín dụng những yếu tố thuộc lĩnh vực kỹ thuật. 3.2.3. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án. Với những hạn chế còn tồn tại trong phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần hoàn thiện một số nội dung sau: Về thẩm định tổng chi phí đầu tư và nguồn tài trợ. Vì vai trò quan trọng của tổng đầu tư nên công tác thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án cần được thực hiện kỹ lưỡng, ngay cả đối với các dự án đã được phê duyệt tổng mức đầu tư của cấp có thẩm quyền. Tất cả các chi phí đầu tư phải có căn cứ hợp lý dựa trên tham khảo các dự án tương tự, thông tin ngành, thông tin thực tế của doanh nghiệp. Mức dự phòng cho các chi phí cần được xác định hợp lý trên cơ sở phân tích các yếu tố có thể tác động đến dự án như lạm phát, biến động tỷ giá,… Hiện nay theo thông tư số 03/2005/ TT – BXD tổng dự toán của 1 công trình xây dựng gồm đầy đủ các khoản mục sau: chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí dự phòng, chi phí quản lý dự án và một số chi phí khác của dự án. Với các dự án đầu tư vào thiết bị thi công cần tính toán đầy đủ các chi phí sau: chi phí mua sắm thiết bị (giá mua, chi phí vận chuyển, lưu kho lưu bãi (nếu có), chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ (nếu có)…), chi phí lắp đặt thiết bị và thí nghiệm, chi phí dự phòng. Trường hợp khách hàng là công ty cung cấp nguyên vật liệu xây dựng, trình dự án đầu tư sản xuất mà không có vốn lưu động ròng thì ngân hàng nên bổ sung thêm phần chi phí này vào tổng vốn đầu tư của dự án. Việc xem xét tính khả thi của các nguồn tài trợ khác cũng cần được thẩm định kỹ hơn, đặc biệt là nguồn vốn chủ sở hữu. Hiện nay Ngân hàng Công thương Việt Nam quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án phải đạt mức 30%. Đây là tỷ lệ lớn vì vậy tính khả thi của nguồn này có ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi của tổng vốn đầu tư, do đó cán bộ tín dụng cần thẩm định kỹ càng dựa trên sự phân tích tình hình tài chính cụ thể của doanh nghiệp, cần chỉ rõ phần vốn chủ đầu tư tham gia được lấy từ bộ phận nào của vốn chủ sở hữu, hiện tại số dư của các bộ phận này có thực sự đủ để đáp ứng lượng vốn cần thiết tham gia dự án hay không. Về thẩm định kế hoạch kinh doanh của dự án trên phương diện tài chính. Vì việc tính toán các chi phí trong lĩnh vực xây dựng có sự điều chỉnh của các quy định của Bộ xây dựng (như chi phí nhân công, chi phí máy thi công, phương pháp tính khấu hao...) nên khi thẩm định yếu tố chi phí cán bộ tín dụng phải chú ý đến các văn bản này. Bên cạnh đó không thể thiếu việc so sánh với mức giá cả hiện tại trên thị trường, với các đơn vị khác trong ngành xây dựng khi thẩm định tính hợp lý của doanh thu, chi phí của dự án. Đồng thời với các yếu tố xác định phức tạp do liên qua đến lĩnh vực kỹ thuật, ngân hàng cần thuê tư vấn hoặc tham khảo các dự án tương tự đã đi vào hoạt động. Về thẩm định dòng tiền của dự án. Hiện tại để việc tính toán dòng tiền dự án được chính xác hơn, cán bộ thẩm định cần tính đến dòng tiền thu hồi sau đầu tư, nhất là đối với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp ngành xây dựng tại chi nhánh. Hầu hết các dự án này đầu tư vào thiết bị máy móc thi công và được tính khấu hao hết vào năm cuối của dự án. Tuy nhiên trên thực tế tuổi thọ của các máy móc này dài hơn rất nhiều so với vòng đời của dự án, vậy nên sau khi dự án kết thúc phần thu hồi từ thanh lý tài sản có giá trị đáng kể, do đó ảnh hưởng đến độ chính xác của dòng tiền. Mặt khác, đối với các dự án có vốn đầu tư dàn trải trong nhiều năm thì cán bộ thẩm định nên xác định lượng vốn cụ thể chi ra trong các năm đó rồi quy về năm 0, không nên đưa tất cả vốn đầu tư vào thời điểm năm 0. Về xác định tỷ lệ chiết khấu. Theo nguyên tắc nhất quán giữa việc áp dụng lãi suất chiết khấu và cách xác định dòng tiền, với dòng tiền dự án hàng năm là lợi nhuận sau thuế và khấu hao thì lãi suất chiết khấu áp dụng cho dự án là lãi suất bình quân tài trợ cho dự án. Do chi phí vốn chủ sở hữu cao hơn lãi vay của ngân hàng nên mức lãi suất bình quân này cũng sẽ cao hơn mức lãi cho vay của ngân hàng.Tuy nhiên hiện nay việc xác định lãi suất cho vốn chủ sở hữu còn nhiều khó khăn, vì vậy ngân hàng có thể lấy lãi suất cho vay dự án cộng thêm một phần bù rủi ro nhất định. Nhưng để có sự thống nhất về mức phần bù rủi ro đối với mỗi dự án cần có quy định cụ thể về lĩnh vực đầu tư, quy mô và thời gian thực hiện dự án. Với các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro như xây dựng thì lãi suất chiết khấu áp dụng trong thẩm định nên bằng lãi suất cho vay cộng với mức phần bù cao nhất có thể. Trường hợp lãi suất chiết khấu được xác định bằng lãi suất cho vay tại chi nhánh hiện nay thì dòng tiền hàng năm phải được tính = LNST + KHCB + lãi vay phải trả cho ngân hàng trong năm tương ứng. Thống nhất về quan điểm lãi suất chiết khấu sẽ giúp ngân hàng tính toán hợp lý hơn về khả năng trả nợ của khách hàng, và có thể so sánh được các dự án với nhau. Về hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính. Bên cạnh các chỉ tiêu cơ bản đang áp dụng là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn vay, điểm hoà vốn trung bình năm, ngân hàng cần bổ sung thêm một số chỉ tiêu hỗ trợ như hệ số hoàn vốn có hiệu chỉnh, tỷ lệ lợi ích chi phí, chỉ số doanh lợi, điểm hoà vốn cả đời dự án vì ý nghĩa tương ứng của từng chỉ tiêu (đã được trình bày trong chương I ). Mặc dù không thể đánh giá dự án nếu chỉ có các chỉ tiêu này nhưng sự có mặt của chúng đi kèm với các chỉ tiêu cơ bản sẽ giúp việc đánh giá dự án được chính xác hơn. Về lập bảng dự trù tài chính. Ngoài bảng báo cáo kết quả kinh doanh như hiện nay, ngân hàng cần lập thêm các bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán cả đời dự án để việc đánh giá dự án được toàn diện hơn. Các bảng trung gian cũng nên lập đầy đủ tạo điều kiện cho khâu tái thẩm định, tư vấn, xét duyệt cho vay. Về phân tích rủi ro dự án. Trong thực tế rất ít khi có trường hợp một yếu tố đầu vào thay đổi, vì vậy với phương pháp phân tích độ nhạy đang sử dụng hiện nay, ngân hàng nên xem xét sự biến động của các chỉ tiêu tài chính dự án dưới sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều yếu tố đầu vào thường được cố định bởi các hợp đồng cung cấp thì dự án vẫn khá an toàn. Mặt khác, phương pháp phân tích độ nhạy không được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất nên khó có thể lượng hoá được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong những trường hợp tốt nhất và xấu nhất so với cơ sở. Vì vậy để đánh giá rủi ro dự án một cách toàn diện và chính xác hơn, ngân hàng nên áp dụng thêm phương pháp phân tích tình huống và phương pháp phân tích mô phỏng. Tóm lại, để chất lượng thẩm định tài chính dự án được tốt hơn, ngân hàng cần chú trọng hơn đến việc xây dựng một hệ thống nội dung và phương pháp thẩm định tài chính hoàn thiện hơn. 3.2.4. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho công tác thẩm định. Ngân hàng cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn từ khách hàng, thông tin nội bộ ngân hàng, thông tin từ trung tâm tín dụng NHNN, báo chí, Internet,…Nếu chỉ dựa vào một nguồn thông tin thì độ chính xác không cao. Với nhiều nguồn bổ sung cho nhau sẽ mang lại thông tin tổng hợp và đầy đủ hơn. Tuy nhiên số liệu của các nguồn thông tin có thể chênh lệch nhau, khi đó cán bộ sẽ có sự chắt lọc, điều chỉnh để tạo ra nguồn thông tin tổng hợp hợp lý nhất. Đồng thời ngân hàng cần có biện pháp xử lý thông tin hiệu quả hơn. Việc phân tích thông tin phải được xem xét, đánh gía dựa trên các phương pháp toán học và thống kê để kết quả được chính xác, phù hợp với xu hướng diễn ra trên thực tế. Những thông tin thu thập được phải được lưu trữ lại làm cơ sở thống kê cho nhiều dự án sau đó. Tránh tình trạng phải đi thu thập lại các thông tin đó khi có dự án tương tự, gây lãng phí nguồn lực và thời gian. 3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Năng lực của cán bộ thẩm định là nhân tố mang tính chất quyết định đối với chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nhân tố này đóng vai trò trung tâm ở tất cả các khâu từ thu thập và xử lý thông tin, phân tích thẩm định, lập báo cáo và ra quyết định cho vay. Vì vậy nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi tất yếu. Trước hết ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng hợp lý để tuyển chọn được đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao. Khi bố trí công việc, cần ưu tiên những cán bộ có chuyên môn giỏi, có hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, có kinh nghiệm trong công tác tín dụng và có đạo đức tốt. Ngân hàng nên tổ chức các khoá học đào tạo ngắn hạn với sự giảng dạy của các chuyên gia trong và ngoài nước có uy tín từ các bộ, ban, ngành, trường đại học…để cán bộ không chỉ nắm vững lý thuyết mà hiểu rõ thực tế, không chỉ hiểu biết một lĩnh vực mà nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt đối với các dự án của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng yêu cầu cán bộ thẩm định không những phải nắm rõ các văn bản liên quan mà còn phải có kiến thức kỹ thuật tốt, giúp ngân hàng chủ động hơn trong quá trình tiến hành công tác thẩm định. Thường xuyên tổ chức học tập, rút kinh nghiệm trong công tác này qua các dự án đã thẩm định, đặc biệt là những dự án kém hiệu quả phải gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ…để cán bộ có thể rút ra những bài học bổ ích. Thường xuyên tổ chức rà soát đánh giá đội ngũ cán bộ thẩm định để có những điều chỉnh hợp lý kịp thời đảm bảo chất lượng và số lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu. Ngân hàng cần có cơ chế đãi ngộ hợp lý cho các cán bộ làm công tác thẩm định dự án như phương tiện, trợ cấp kinh phí cho việc đi lại, tìm hiểu thông tin, …Để khuyến khích cán bộ thẩm định thực hiện tốt công tác của mình, ngân hàng cần có chế độ lương thưởng hợp lý, tạo động lực vật chất cho việc phát huy chất xám của cán bộ. Đồng thời ngân hàng nên có những quy định xử lý nghiêm khắc những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, gian dối, mưu lợi cá nhân gây thất thoát vốn cho ngân hàng. 3.2.6. Tăng cường trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định dự án. Hiện nay ngân hàng đã trang bị cho mỗi cán bộ tín dụng một máy tính cá nhân. Tuy nhiên để tạo điều kiện thuận tiện cho cán bộ thẩm định khi thực hiện công việc ngân hàng cần xây dựng một phòng tra cứu thông tin về thị trường, khách hàng, pháp luật. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần tiến hành nghiên cứu xây dựng các chương trình phần mềm phục vụ công tác thẩm định tài chính dự án để tiết kiệm thời gian, đảm bảo thực hiện đầy đủ các phân tích theo yêu cầu của chương trình, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong ngân hàng. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ Chính phủ cần thiết lập một hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán trong lĩnh vực đầu tư và hoạt động ngân hàng, có những chính sách đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động của các công ty tư vấn đầu tư, tài chính là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay. Vì vậy Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý và hỗ trợ các doanh nghiệp này hoạt động để làm nhiệm vụ giúp đỡ các doanh nghiệp và cả ngân hàng trong lĩnh vực đầu tư, tạo nên tính chuyên nghiệp và hiệu quả. Cần đẩy mạnh hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập trong nền kinh tế vì đây là những cơ quan có thể cung cấp các thông tin tương đối chính xác giúp ích rất nhiều cho các cơ quan quản lý, cho các ngân hàng và đối với cả doanh nghiệp. Nhà nước cần có chế tài xử lý thích hợp với việc doanh nghiệp thực hiện sai chế độ kế toán, tài chính hoặc cố tình cung cấp thông tin sai lệch để nâng cao tính chính xác nguồn thông tin từ khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thẩm định dự án. Việc xây dựng quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế cho cả nước cũng như cho từng ngành phải đảm bảo tính hợp lý và ổn định, tránh sự trùng lặp. Một chính sách kinh tế ổn định sẽ góp phần hạn chế sự thay đổi nằm ngoài dự tính của các biến số, giúp việc thẩm định rủi ro dự án được chính xác hơn. Chính phủ cần chỉ đạo hoạt động của các cơ quan thống kê. Các cơ quan này cần hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm cần công bố các thông tin về định mức trung bình của các ngành, các lĩnh vực… để giúp ngân hàng có cơ sở để so sánh, đánh giá. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có sự chỉ đạo kịp thời bằng các văn bản, quy định sự phối hợp trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện dự án, cần tạo ra cơ chế gắn kết quả của dự án với các ý kiến thẩm định, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, đặc biệt là các dự án phải qua nhiều cấp phê duyệt như dự án của các doanh nghiệp xây dựng tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần cụ thể hóa các luật ngân hàng, cần phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng các văn bản, quy phạm dưới luật (như Nghị định, Thông tư, các văn bản hướng dẫn) trong đó hướng dẫn cụ thể hơn nữa về hai luật Ngân hàng, cần sửa đổi những nội dung bất hợp lý, không phù hợp với thực tế hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (TRR), cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại, xếp loại doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án. NHNN cần nâng cao vai trò của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) bằng cách quy định việc cung cấp thông tin của các NHTM phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ, chính xác về khác hàng, tích cực thu thập thông tin từ các nguồn khác như Tổng cục thống kê, các Bộ, ban ngành… hoặc mua thông tin của các tổ chức thông tin quốc tế, nhằm tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho các NHTM. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và ban hành quy trình, nội dụng thẩm định dự án thống nhất trên cơ sở nội dung thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của các ngân hàng thương mại cho phù hợp với thực tiễn của nước ta đồng thời hòa nhập với thông lệ quốc tế. Hiện nay, do chưa có sự thống nhất giữa các hệ thống ngân hàng thương mại về quy trình thẩm định dự án cũng như các tiêu chuẩn của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính …dẫn đến khi thẩm định cùng một dự án sẽ có những kết quả khác nhau. Ví dụ, do lãi suất chiết khấu tại các hệ thống ngân hàng khác nhau xác định khác nhau nên với cùng một dự án thẩm định ở các ngân hàng khác nhau có thể cho kết quả các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại khi tiến hành đồng tài trợ cho các dự án lớn. Vì vậy, để thuận tiện cho công tác thẩm định, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để đưa ra quy trình và nội dung thẩm định thống nhất cho hệ thống ngân hàng thương mại phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Tư vấn cho các ngân hàng thương mại những thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, những ngành kinh tế mũi nhọn, giúp có hướng đầu tư đúng đắn. Hướng dẫn các NHTM tăng cường hợp tác trong việc cung cấp thông tin khách hàng lẫn nhau nhằm hạn chế lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông tin không cân xứng. Bên cạnh đó, NHNN cần có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ với Bộ Xây dựng để xây dựng hệ thống tiêu thức và phân loại doanh nghiệp thống nhất, tránh tình trạng cùng một doanh nghiệp nhưng các Ngân hàng đánh giá, xếp loại khách hang khác nhau, gây khó khăn cho công tác thẩm định, cho vay cũng như công tác quản lý, trao đổi thông tin khách hàng giữa các ngân hàng. 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam Về quy trình tín dụng, Ngân hàng Công thương Việt Nam nên bám sát thực tiễn để hoàn thiện quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay, từ đó chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện quy trình, quy chế trước đó. Cần hỗ trợ tốt hơn trong việc cung cấp thông tin cho các chi nhánh. Tại Việt Nam hiện nay, các ngân hàng thương mại thường kiểm tra thông tin từ hai nguồn cơ bản là trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước và trung tâm phòng ngừa rủi ro TRP của các ngân hàng thương mại. Thực chất nguồn thông tin này là do báo cáo từ các chi nhánh của các ngân hàng thương mại tập hợp lại nên thông tin mà các ngân hàng thương mại lấy để đối chiếu là chưa cập nhật, chưa khách quan và chưa có tính thuyết phục. Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin, NHCT VN đã xây dựng phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên để phòng này có được những thông tin chính xác, kịp thời, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần trang bị mạng lưới thông tin hiện đại cho toàn hệ thống, từ cấp cơ sở lên trên. Qua đó mà thông tin của từng khách hàng có quan hệ với ngân hàng đều được kiểm tra, cập nhập. Nhưng đây mới chỉ giải quyết được khâu kiếm thông tin về khách hàng đã có quan hệ với ngân hàng. Đối với khách hàng lần đầu có quan hệ thì phòng phòng ngừa rủi ro phải tiến hành trao đổi thông tin với các ngân hàng thương mại khác đã có quan hệ với khách hàng hay các cơ quan tư pháp, các tổ chức phi ngân hàng… Ngân hàng Công thương Việt Nam phải tích cực phối hợp với các chi nhánh để thẩm định các dự án vay vốn vượt quyền phán quyết của chi nhánh. Giữa chi nhánh và Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tích cực trao đổi thông tin với nhau, cần tinh giảm các thủ tục để đẩy nhanh thời gian thẩm định dự án, tránh tình trạng dự án đã được thông qua ở cấp chi nhánh nhưng khi trình lên Ngân hàng Công thương Việt Nam lại bị chậm trễ trong khâu tái thẩm định. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần nắm bắt các chủ trương, kế hoạch của Nhà nước, của các Bộ ngành, kịp thời phổ biến cho các chi nhánh, từ đó xác định đúng đắn phương hướng hoạt động, đặc biệt là đối với hoạt động cho vay các dự án mang tính chiến lược. Ngân hàng Công thương Việt Nam cần làm tốt công tác đào tạo cán bộ. Ngân hàng Công thương Việt Nam phải không ngừng nâng cao trình độ cho cán bộ của toàn hệ thống để đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hiện đại hóa ngân hàng. Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo ngắn ngày để cán bộ ngân hàng có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn. Hơn nữa, vì hoạt động tài trợ cho dự án chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, xã hội…Các yếu tố này cần đưa ra để tranh luận về nguyên nhân, xu hướng diễn biến và hậu quả tác động của nó đến dự án đầu tư như thế nào. Do đó Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo, các lớp tập huấn nghiệp vụ để các cán bộ có dịp gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, giúp các chi nhánh nâng cao năng lực trong công tác thẩm định tài chính dự án. Đi đôi với công tác đào tạo chuyên môn Ngân hàng cũng cần chú trọng tới công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp, tác phong, phương pháp làm việc nhằm tạo lập đội ngũ cán bộ toàn diện cho toàn hệ thống. 3.3.4. Kiến nghị đối với Bộ xây dựng Theo điều lệ quản lý đầu tư xây dựng của Nghị định số 52/CP của chính phủ, các dự án đầu tư trước khi trình lên ngân hàng thì đều phải xin phê duyệt của các đơn vị chủ quản. Để tránh các thủ tục phức tạp gây mất thời gian cho chủ đầu tư, Bộ xây dựng cần xem xét giảm bớt các thủ tục không cần thiết gây phiền hà cho chủ đầu tư. Bên cạnh đó, Bộ xây dựng nên có các quy định gắn kết trách nhiệm thẩm định với kết quả thực hiện dự án, có như vậy công tác xét duyệt dự án mới được thực hiện nghiêm túc, sự cần thiết và tính khả thi của dự án mới được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi phê duyệt. Do việc lập và quản lý chi phí, điều chỉnh dự toán công trình xây dựng cơ bản được thực hiện theo các thông tư của Bộ xây dựng nên đề nghị Bộ xây dựng cần xem xét, sửa đổi để một số quy định được hợp lý hơn. Ví dụ, trong thông tư số 03/2005/TT-BXD của Bộ xây dựng về hướng điều chỉnh dự toán công trình xây dựng, quy định tổng dự toán không bao gồm vốn lưu động ban đầu cho sản xuất là chưa phù hợp với thực tế vốn đầu tư cần thiết để dự án có thể đi vào hoạt động. Đồng thời phải có các văn bản cụ thể hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng khi áp dụng. Đề nghị Bộ phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, nâng cao chất lượng thẩm định dự án nhất là về mặt thị trường, công nghệ kỹ thuật, kinh tế - xã hội, làm cơ sở cho ngân hàng thẩm định tài chính. Ngoài ra Bộ xây dựng cũng cần có hệ thống lưu trữ và thu thập thông tin, cần công khai hóa thông tin, xây dựng những chuẩn mực cho các ngành. 3.3.5. Kiến nghị với chủ dự án đầu tư Để giúp cho ngân hàng có thể nâng cao chất lượng thẩm định dự án,cần có sự hợp tác giữa chủ đầu tư và ngân hàng. Chủ đầu tư cần phải cung cấp đầy đủ những tài liệu cần thiết cho ngân hàng đúng như quy định, đảm bảo chính xác, trung thực. Ngược lại, với kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của mình, ngân hàng có thể tư vấn cho nhà đầu tư việc lập dự án chính xác, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các chủ đầu tư cần nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, cần nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Chủ đầu tư cần nghiêm chỉnh chấp hành việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định của các văn bản pháp luật vì khâu lập dự án có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự thành công của dự án sau này. Nếu một dự án được lập cẩn thận sẽ giúp khi phân tích dự án có thể đưa ra quyết định đầu tư chính xác, đồng thời chỉ ra được những rủi ro có thể xảy ra để chủ dự án có biện pháp hạn chế rủi ro khi thực hiện dự án. Các chủ dự án phải tuân thủ nghiêm túc những cam kết với ngân hàng, khi thực hiện dự án cần đảm bảo thực hiện đúng những nội dung trong dự án, nếu có sửa đổi gì hay có những trục trặc thì cần phối hợp với ngân hàng để có biện pháp giải quyết hợp lý. KẾT LUẬN Tăng trưởng tín dụng bền vững là mục tiêu quan trọng của các Ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng. Muốn đạt được điều đó ngân hàng cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án vì kết quả thẩm định chính là thước đo quan trọng hàng đầu để ngân hàng đưa ra các quyết định tài trợ đúng đắn. Tuy nhiên thẩm định tài chính dự án hiện nay tại các ngân hàng còn chứa đựng nhiều hạn chế, đòi hỏi các ngân hàng cần có sự nghiên cứu và có những giải pháp khắc phục để nâng cao hơn chất lượng công tác này. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, luận văn “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng.” đã đề cập được những vấn đề sau: Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định dự án của Ngân hàng thương mại, nội dung, chất lượng và các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thứ hai, luận văn đã đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó. Thứ ba, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án dựa trên định hướng cho vay của chi nhánh đối với các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng. Đồng thời luận văn cũng đưa ra những kiến nghị với Chính phủ, NHNN, NHCTVN và Bộ xây dựng để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chi nhánh trong quá trình thực hiện thẩm định tài chính dự án có hiệu quả. Với kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và những người có kinh nghiệm quan tâm đến đề tài này để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, ĐHKTQD, NXB Tài chính. 2. PTS Vũ Duy Hào, TS Đàm Văn Huệ, ThS Nguyến Quang Ninh (1997), Quản trị tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD 3. PGS. TS Lưu Thị Hương (2003), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD, NXB Thống kê 4. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2004), Sổ tay tín dụng 5. Nguyễn Văn Đáng, Quản lý dự án xây dựng, NXB Tổng hợp Đồng Nai 6. Chi nhánh ngân hàng Công thương Ba Đình, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2003, 2004, 2005 7. Thông tư số 03/2005/ TT – BXD ngày 4 /3/ 2005 của Bộ xây dựng, Hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình xây dựng cơ bản 8. Thông tư số 04/ 2005/ TT – BXD ngày 01/ 04/ 2005 của Bộ xây dựng, Hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình 9. Nghị định số 16/ 2005/ NĐ – CP ngày 07/02/ 2005 của Chính phủ, Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36376.doc
Tài liệu liên quan