Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung & dài hạn tại Ngân hàng thương Mại cổ phần Hàng Hải - Chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung & dài hạn tại Ngân hàng thương Mại cổ phần Hàng Hải - Chi nhánh Hà Nội: ... Ebook Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung & dài hạn tại Ngân hàng thương Mại cổ phần Hàng Hải - Chi nhánh Hà Nội

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung & dài hạn tại Ngân hàng thương Mại cổ phần Hàng Hải - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NHTM : Ngân hàng thương mại NTHMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần NHHH (MSB) : Ngân hàng Hàng Hải NHNN : Ngân hàng nhà nước T&DH : Trung và dài hạn KH DN : Khách hàng doanh nghiệp TNHH : Trách nhiệm hữu hạn Lời mở đầu Năm 2006 là năm thứ 20 của công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế ở nước ta. Trải qua biết bao khó khăn và thử thách ở chính nội tại đất nước và từ môi trường thế giới đem lại. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bước đầu đã tạo dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hệ thống công – nông nghiệp - dịch vụ ngày càng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để có được những thành tựu kinh tế như hiện nay trước tiên phải kể đến sự đóng góp vô cùng quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng của nước ta. Cũng như các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trên thế giới, hoạt động kinh doanh của những tổ chức này vốn dĩ là loại hình hoạt động rất nhạy cảm, mang tính năng động và rủi ro hơn nhiều so với hoạt động của các lĩnh vực khác, đồng thời cũng giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng cho hoạt động của các lĩnh vực khác, bởi đây là ngành tạo và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy trong xu thế quốc tế hoá ngày nay vấn đề đặt ra là các ngân hàng thương mại nước ta phải luôn luôn giữ thế phát triển dẫn đầu cho nền kinh tế, không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, sớm bắt kịp với nhịp điệu trong khu vực và trên thế giới. Thực tế các ngân hàng đã có nhiều cố gắng nỗ lực phấn đấu, nhưng do sự phát triển còn thiếu đồng bộ về con người, môi trường và kỹ thuật trong nước nên vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng, cụ thể hơn nữa là hoạt động cho vay các dự án đầu tư trung và dài hạn đạt hiệu quả không cao. Mà nguyên nhân chính xuất phát từ những yếu kém, chủ quan trong công tác thẩm định. Dẫn đến hậu quả là rất nhiều dự án được lựa chọn đầu tư nằm ở cả ba miền có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả, không trả được nợ cho ngân hàng, gây lãng phí thất thoát hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước và nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng và tới toàn nền kinh tế. Từ sự nhận thức được những vấn đề trên và sau một thời gian dài tìm hiểu thực tế tại cơ sở, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải - chi nhánh Hà Nội” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải – Chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng Hàng Hải – Chi nhánh Hà Nội. Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong luận văn này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các anh chị trong ngân hàng MSB Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa ngân hàng tài chính trường ĐHKTQD, đặc biệt là thầy Phạm Long đã tạo điều kiện, hướng dẫn giúp em hoàn thành luận văn này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô chú – anh chị trong ngân hàng MSB Hà Nội đã nhiệt tình hướng dẫn chỉ bảo em trong suốt thời gian thực tập để em có thể hoàn thành những kiến thức thực tế trong luận văn của mình. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM. 1.1 Hoạt động cho vay của NHTM. 1.1.1 Những vấn đề chung về hoạt động cho vay của NHTM Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể hiện tầm quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia riêng biệt. Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện đại (Ngân hàng điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không gian và thời gian làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn. Ngày nay sản phẩm của ngân hàng không còn chỉ đơn điệu với nhận tiền gửi, đổi tiền, giữ tiền hộ…mà đã trở nên vô cùng phong phú đa dạng với thẻ ngân hàng, chuyển tiền điện tử, bao thanh toán, phonebanking,….Tuy nhiên những dịch vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu tài sản của ngân hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng vẫn là các dịch vụ cho vay. Ở hầu hết các nước khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý có thẩm quyền cấp phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Do đó, cho vay được coi là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng. Hoạt động cho vay cũng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi cho vay thúc đẩy tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Không những vậy thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm những thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, đặc biệt ở các nước đang phát triển thì thu nhập từ cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tổng nguồn thu của ngân hàng. Với tầm quan trọng như vậy thì thực chất cho vay vẫn được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức phân loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm nhiều loại, nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của khách hàng. Nếu dựa vào tiêu chí mục đích thì cho vay được chia ra các loại: - Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn, giải phóng mặt bằng hay các khoản cho vay dài hạn nhằm mua đất canh tác, nhà, các trung tâm thương mại….. - Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc trang trải những khoản chi phí như mua hàng nhập kho, mua sắm máy móc thiết bị để sản xuất kinh doanh…. - Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ cho người nông dân trong thời điểm mùa vụ như lúc chuẩn bị gieo trồng, khi bảo quản và chế biến sản phẩm. - Cho vay các tổ chức tài chính: đây là các khoản tín dụng cung cấp giữa các tổ chức tài chính với nhau để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. - Cho vay cá nhân: hình thức này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân như tài trợ cho việc mua sắm ô tô, xe máy, nhà ở…. - Cho thuê: Đây là hình thức mà ngân hàng đứng ra mua sắm máy móc thiết bị sau đó cấp tín dụng cho khách hàng thông qua việc cho thuê những tài sản này. Trong suốt thời hạn thuê ngân hàng sẽ nhận được tiền từ người thuê và đến cuối thời hạn có thể bán lại tài sản cho khách hàng theo hợp đồng thuê mua đã kí kết. Nếu dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay lại được chia làm hai loại: - Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay mà ngân hàng không cần sự thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của bên thứ ba. - Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay mà ngân hàng chỉ cho vay khi khách hàng có tài sản đủ tiêu chuẩn để thế chấp, cầm cố, hay có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Nếu dựa vào thời hạn cho vay thì bao gồm: - Cho vay ngắn hạn; - Cho vay trung hạn; - Cho vay dài hạn Ngoài những căn cứ trên thì còn nhiều cách phân chia nữa của hoạt động cho vay. Trong đó đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho vay theo tiêu thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu cho vay 1.1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM * Khái niệm về cho vay trung và dài hạn của NHTM Hiện nay giữa các nước khác nhau trên thế giới quan niệm về cho vay trung và dài hạn không hoàn toàn giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt Nam cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm. Trong đó theo qui định cách đây vài năm thì cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm và cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 3 năm. Nhưng hai năm trở lại đây NHNN Việt Nam đã qui định thời hạn của khoản cho vay trung hạn là từ 1 đến 5 năm và dài hạn là trên 5 năm để nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các doanh nghiệp vì thông thường tài sản hình thành từ khoản vay trung dài hạn của doanh nghiệp có thời gian sử dụng tương đối dài. * Mục đích đi vay trung dài hạn của các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp đi vay trung và dài hạn chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định mới, phương tiện vận tải mới, đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng các dự án mới về nhà ở, các xí nghiệp - nhà máy sản xuất, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng qui mô vừa và lớn…..ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế. * Lý do lựa chọn phương án vay trung và dài hạn của khách hàng: Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đi vay trung và dài hạn từ các định chế tài chính và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là hai nguồn tài trợ dài hạn chủ yếu của các khách hàng doanh nghiệp. Chính bởi vậy mà có nhiều lý do để các khách hàng lựa chọn nguồn vốn vay trung và dài hạn từ các ngân hàng. Trước hết là do các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên thị trường, họ không thể có đủ các điều kiện để có thể huy động vốn trung và dài hạn cho mình thông qua thị trường chứng khoán. Vì vậy khi nhu cầu vốn phát sinh họ phải đi vay ở các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác. Thứ hai đó là, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy vay trung dài hạn tốt hơn phát hành chứng khoán. Bởi so với phát hành trái phiếu, đi vay mượn các doanh nghiệp có thể có điều kiện vay muợn thích hợp hơn cho nhu cầu của mình: Sau khi nhận tiền vay họ vẫn có thể thương lượng với người cho vay một số điều kiện đã được xác định ban đầu. Hơn nữa đi vay họ sẽ không phải tốn thêm những chi phí về bảo lãnh, đăng ký, phát hành…, không phải cân nhắc là liệu các cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp phát hành ra có được nhà đầu tư chấp nhận hay không (bởi nó còn phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng khoán, tâm lý của nhà đầu tư, và quan trọng là uy tín của doanh nghiệp). Thứ ba là, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn vì ngại phải công bố thông tin về mình hoặc đang ở trong điều kiện thị trường không thuận lợi cho việc phát hành. Và thứ tư đó là, cho vay trung dài hạn sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ phải tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, cho dù doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với ngân hàng. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp về sau này. Với những lý do trên cho thấy đi vay trung dài hạn tại các tổ chức tài chính thực sự là một kênh không thể thiếu của các khách hàng doanh nghiệp. Nhu cầu lớn nên loại hình cho vay này cũng có nhiều hình thức khác nhau cho khách hàng lựa chọn để phù hợp với mình. Như: Cho vay mua sắm thiết bị trả góp Cho vay kỳ hạn Tài trợ theo dự án Cho vay hợp vốn Cho thuê tài chính Forfaiting (một hình thức cấp tín dụng người bán trong các giao dịch mua bán hàng trả chậm và không truy đòi đối với người bán mà thu tiền thẳng từ người mua). 1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. 1.2.1 Khái niệm về thẩm định tài chính dự án. Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện thì vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của dự án sẽ được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và tài chính của dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước, với nhà đầu tư và với chủ dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ cho các mục đích khác nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, dự án xây dựng nhà máy mới...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về tài chính sẽ được đề cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì sự xem xét thẩm định về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực thi là không thể coi nhẹ. Và cũng bao hàm những vấn đề cơ bản của công tác thẩm định, “Thẩm định tài chính dự án chính là sự rà soát đánh giá một cách khoa học, toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân”. (Nguồn: sách thẩm định tài chính dự án – NXB tài chính – 2004) Trong hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại chính là các nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng yếu tố lợi nhuận không được đặt nên hàng đầu, còn lại hầu hết các dự án khác được ngân hàng cho vay đều nhằm mục đích tạo thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy việc thẩm định tài chính dự án là vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. 1.2.2 Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay trung dài hạn của NHTM. Để cho một lượng vốn lớn được bỏ ra ở hiện tại có thể được thu hồi dần trong tương lai xa, thì trước khi chi vốn vào các dự án, các nhà đầu tư đều tiến hành soạn lập chương trình cụ thể, chi tiết theo tính chất của từng dự án. Những công việc này hết sức phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, đòi hỏi phải có sự phối hợp hoạt động của nhiều người. Thực tế những giải trình từ phía doanh nghiệp đối với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài, đôi khi có số liệu không đủ căn cứ để chứng minh tính sát thực, do đó phải rà soát, điều chỉnh lại. t Đối với ngân hàng, để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi muốn tài trợ hay cho vay vốn vào dự án thì cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của dự án, đặc biệt sự hiệu quả về mặt tài chính. Điều này đảm bảo cho chính bản thân sự tồn tại của một ngân hàng. Bởi nếu để xảy ra bất kỳ rủi ro nào dẫn đến sự không thu hồi được vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến thu nhập của ngân hàng, nhất là khi đó là các dự án lớn. t Đối với xã hội, mỗi một dự án khi thực hiện không chỉ có ảnh hưởng đến chủ dự án, ngân hàng (hay các nhà đầu tư khác) mà còn chứa đựng cả những ảnh hưởng đối với người dân nơi thực hiện dự án, đến nguồn tài nguyên đất nước sẽ được sử dụng, đến các ngành nghề khác liên quan….Vì vậy ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định lại dự án để xem xét một cách toàn diện khi có chi phí xã hội dự án, hiệu quả tài chính của dự án còn được đảm bảo không, có phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của vùng, của địa phương hay không. t Đối với chủ dự án, khi ngân hàng tiến hành thẩm định lại dự án chính là dịp để khẳng định tính đúng đắn trong quyết định đầu tư của chủ dự án. Đồng thời giúp chủ dự án tránh được những sai sót có thể không nhận thấy khi tiến hành lập dự án, làm cho dự án hoàn thiện hơn, tránh lãng phí vốn của chính chủ dự án. Với sự cần thiết như vậy thì khi thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án sẽ bao gồm những nội dung cơ bản sau. 1.3 Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. 1.3.1 Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ. Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối đa hoá vốn chủ sở hữu, còn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh nghiệp là không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được người ta đưa ra câu hỏi về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư chính là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động cần thiết và vốn dự phòng. Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định (như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu động ròng cần thiết để thực hiện dự án (như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền thuê nhân công, chi phí quản lý…). Lượng vốn lưu động ròng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi dự án; Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn dự phòng để kịp thời cung cấp khi có phát sinh những chi phí ngoài dự kiến hay khi xảy ra rủi ro dự kiến. Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự toán vốn. Thông thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào năm tiêu chí cơ bản là: chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh tranh, chi phí tài chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Những tiêu chí này được sử dụng trong các phương pháp dự toán vốn như dự báo theo tỷ phần doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định sẽ xem xét toàn bộ quá trình lập dự toán vốn này để biết được mức vốn chính xác cần thiết cho dự án. Và: Tổng vốn đầu tư của dự án = Vốn cố định + Vốn lưu động + Vốn dự phòng Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn nào? Đây là câu hỏi không chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ đặt ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình thức tài trợ vốn khác nhau: Trước hết dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có: Loại vốn này có được từ bốn nguồn: từ phát hành cổ phiếu thường, từ thặng dư vốn và từ lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Như sau khi phát hành doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành thêm khi cần thiết….Nên loại này cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc biệt là các dự án qui mô lớn. Nguồn thặng dư vốn: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch giữa giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát hành. Tuỳ theo sự đánh giá của thị trường về trị giá của cổ phiếu của doanh nghiệp mà phần vốn này thu được là lớn hay nhỏ so với phần vốn doanh nghiệp dự tính có được từ phát hành cổ phiếu thường. Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại được tài trợ cho dự án chỉ khi quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả. Tài trợ bằng thu nhập giữ lại là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tài trợ cho dự án bằng nợ: phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ nguồn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn. Trên thị trường thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau (trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái phiếu có thể chuyển đổi). Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài trợ cho dự án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing: thực chất đây là hình thức tài trợ dự án thông qua cho thuê các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn hạn tài sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến do nó có nhiều ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác đối với cả người cho thuê, người đi thuê và với nền kinh tế. Tài trợ bằng hình thức kết hợp: Đó là cách mà nguồn vốn cho dự án hình thành từ sự kết hợp theo một tỷ lệ nhất định giữa vốn vay, vốn chủ sở hữu; Ứng với mỗi hình thức tài trợ doanh nghiệp sẽ phải chịu một khoản chi phí vốn nhất định. Nhất là trong hình thức tài trợ hỗn hợp chi phí vốn của dự án được đặc biệt quan tâm. Bởi từ đó mà nhà soạn lập xác định nên đi vay bao nhiêu, nên dùng vốn chủ bao nhiêu sao cho có được cơ cấu vốn tối ưu. Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp. Ke : Chi phí thực của vốn chủ sở hữu Kd: Chi phí của vốn vay We: Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn Wd: Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn Ta có công thức xác định chi phí vốn trung bình của dự án: WACC = We.ke + Wd.(1 – T).kd Nhiệm vụ của nhà thẩm định trong giai đoạn này là xác định xem nguồn vốn của dự án được tài trợ bằng hình thức nào, cơ cấu như thế nào, có hợp lý so với thực tế không, chi phí vốn dự tính có phù hợp không…. Chẳng hạn như khách hàng cơ cấu dự định 50% vốn của dự án là vốn chủ sở hữu, thì cán bộ thẩm định phải xác định xem khách hàng có đủ khả năng để cung cấp vốn đúng như vậy không - hay nói cách khác là phải xem xét năng lực tài chính của khách hàng. 1.3.2 Thẩm định kế hoạch doanh thu – chi phí – lợi nhuận hàng năm của dự án. Khi thực hiện công tác thẩm định về doanh thu của dự án điểm xuất phát đầu tiên của nhà thẩm định là tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án. Cán bộ thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có hay sản phẩm tương tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Nhu cầu về sản phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính sản phẩm của dự án có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay không? Công suất dự tính của dự án sẽ là bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của dự án. Doanh thu mỗi năm của dự án = Lượng hàng dự tính tiêu thụ mỗi năm X Giá bán dự tính của một đơn vị sản phẩm Về chi phí của dự án: Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn của dự án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng. Cán bộ thẩm định phải xem xét giá cả nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây dựng cũng như giá cả máy móc sản xuất của dự án bao nhiêu là phù hợp với thị trường của khu vực, chất lượng máy móc ra sao…nhằm đánh giá chính xác cho phần vốn cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi vào hoạt động thì những chi phí về nguyên nhiên vật liệu, đơn giá tiền công, khấu hao... hình thành nên giá thành sản phẩm sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền sản xuất, với thị trường hiện tại không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng đặc biệt được quan tâm bởi nó ảnh hưởng khá lớn đến dòng tiền ròng của dự án. Cán bộ thẩm định cần xem xét phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp sử dụng là phương pháp nào: khấu hao đường thẳng, khấu hao giảm dần,… có phù hợp với loại tài sản và với qui định của nhà nước hay không. Những chi tiết này sẽ được cán bộ thẩm định làm rõ trên cơ sở những nguyên tắc kế toán nhất định để xác định chi phí hợp lý cho từng năm của dự án. Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định sẽ xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dòng tiền của dự án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của dự án cũng như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án. 1.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một dự án là các khoản chi và thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dòng tiền của dự án có dòng tiền ra, dòng tiền vào và dòng tiền ròng (chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án). Trong đó dòng tiền ròng được coi là con số chính để xác định giá trị hay hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dòng tiền các nhà phân tích và thẩm định có những nguyên tắc nhất định. tNguyên tắc xác định dòng tiền: Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phi mà doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận và thực hiện hay không (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết kế dự án, …). Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó không được đưa vào phần chi đầu tư của dự án. Chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án: Có những dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có của doanh nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được sử dụng vào việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng vào dự án doanh nghiệp đã bỏ mất phần nguồn thu đó. Bởi vậy khoản chi phí này cần được đưa vào nhằm đánh giá chính xác chi phí thực của dự án. Ngoài hai khoản mục trên phần tài sản lưu động ròng đối với hầu hết các dự án cũng được đầu tư và được chi thực tại năm đầu đi vào hoạt động của dự án. Tài sản lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là không được khấu hao và thường được thu hồi vào giai đoạn kết thúc của dự án. Do vậy khi tiến hành dự án mới tài sản lưu động ròng cần được tài trợ ở năm đầu của dự án. Những tác động đối với dự án khác: có những dự án mới khi ra đời sẽ có tác động tăng (hoặc giảm) thu nhập của các dự án khác của doanh nghiệp. Thực chất khoản tăng giảm này chỉ là sự chuyển dịch thu nhập của doanh nghiệp nên dòng tiền thu được của doanh nghiệp từ những sự tăng thêm (hoặc giảm đi) đó cũng phải đưa vào dự án mới. Tác động của thuế: Thuế có những ảnh hưởng rất đáng ghi nhận đối với dòng tiền của dự án. Thông qua chi phí khấu hao của tài sản cố định thuế doanh nghiệp phải nộp từ dự án sẽ giảm làm cho dòng tiền tăng. Hay đối với chi phí lãi vay - một khoản chi phí phân bổ trước khi xác định thu nhập ròng, chi phí này cao cũng đồng nghĩa với thu nhập ròng giảm từ đây sẽ tiết kiệm một phần thuế thu nhập cho doanh nghiệp, làm dòng tiền từ dự án tăng lên. Từ đó căn cứ một phần vào khoản tiết kiệm thuế nhờ lãi vay so với chi phí lãi vay phải trả mà doanh nghiệp có cách tìm và sử dụng nguồn vốn sao cho hợp lý. t Cách xác định dòng tiền: Thông thường mỗi dự án các nhà thẩm định cũng như nhà phân tích hay thiết kế dự án đều phân định ra các dòng tiền cần xác định bao gồm: dòng tiền đầu tư (trong đó gồm tiền đầu tư vào tài sản cố định - chi phí lắp đặt, chi phí cơ hội, đầu tư vào tài sản lưu động ròng), dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (dòng tiền này được xác định thông qua báo cáo kết quả kinh doanh dự tính hàng năm của dự án). Và dòng tiền ròng hàng năm của dự án: NCFt = LNSTt + KHt - Trả gốc vay Trong đó : NCFt : Dòng tiền năm thứ t của dự án LNSTt : Lợi nhuận sau thuế năm thứ t của dự án KHt : Giá trị khấu hao năm t của dự án (Riêng năm cuối cùng của dự án còn có thêm phần vốn lưu động ròng được thu hồi và phần thu nhập sau thuế từ thanh lý tài sản cố định, nên NCFnc = LNSTnc + KHnc + VLĐR thu hồi + Thu nhập từ thanh lý TSCĐ Tổng hợp những dòng tiền này cho ta kết quả dòng tiền dòng của dự án. Nhưng do tiền có giá trị về thời gian nên nhà thẩm định, nhà phân tích không thể so sánh những dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà sẽ quy chúng về một mốc để so sánh. Bởi vậy vấn đề về lãi xuất chiết khấu đặc biệt được cán bộ thẩm định quan tâm khi xác định hiệu quả của dự án. Lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết của một dự án mà nhà đầu tư mong đợi. Nó chính là tỷ lệ mà nhờ đó các dòng tiền của dự án được quy về hiện tại để xác định giá trị hiện tại ròng của dự án – NPV. Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào kết quả phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và cơ cấu vốn. Rủi ro của dự án càng cao thì tỷ lệ lãi suất chiết khấu đòi hỏi càng cao. Cơ cấu vốn tài trợ cho dự án có chi phí vốn càng cao thì đòi hỏi lãi suất chiết khấu tối thiểu phải bằng với tỷ lệ chi phí đó. Từ trên cho thấy xác định dòng tiền là vô cùng quan trọng và việc thẩm định dòng tiền của dự án là yếu tố cốt yếu để đưa đến những kết luận cho công tác thẩm định tài chính dự án. 1.3.4 Thẩm định hiệu quả tài chính dự án. Việc nhà đầu tư ra quyết định có hay không thực hiện dự án chủ yếu dựa trên những kết quả từ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án. Mỗi chỉ tiêu này cho ta một phương pháp để đánh giá được hiệu quả tài chính dự án. t Chỉ tiêu giá trị hiện tài ròng – NPV của dự án: Giá trị hiện tại ròng của dự án được hiểu là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc thời gian 0. Công thức tính: Hay NPV: giá trị hiện tại dòng của dự án CFt : Dòng tiền xuất hiện ở năm thứ t của dự án ( t = 1àn) CF0 : Vốn đầu tư bỏ ra ở thời điểm ban đầu (giả định vốn bỏ ra một lần ở năm đầu tiên của dự án) n : số năm thực hiện dự án. Bt: dòng thu của dự án vào năm thứ t Ct: Dòng chi của dự án vào năm thứ t * Ý nghĩa: Chỉ tiêu NPV phản ánh giá trị tăng thêm của chủ đầu tư. Nếu NPV dương tức là dự án được thực hiện không những bù đắp được vốn đầu tư bỏ ra mà còn tạo ra phần tăng thêm cho chủ dự án (lợi nhuận) và ngược lại. Do đó với những dự án độc lập thì NPV >0 sẽ là dự án có hiệu quả về mặt tài chính. Còn NPV0 và lớn nhất tương ứng đó là dự án đem lại lợi ích dự tính lớn nhất cho nhà đầu tư hay dự án có hiệu quả nhất nên sẽ được lựa chọn. *Ưu nhược điểm: Việc sử dụng NPV các nhà phân tích có thể đo lường trực tiếp lợi nhuận tuyệt đối của dự án đầu tư từ đây có thể so sánh, lựa chọn các dự án khác nhau. Đặc biệt chỉ tiêu này có ưu điểm nổi bật là có xét đến giá trị thời gian của tiền và tính toán hiệu quả toàn bộ đời sống của dự án. Tuy nhiên bên cạnh đó thì chỉ tiêu NPV cũng có một số nhược điểm đó là: - Phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án khi muốn sử dụng chỉ tiêu này. Đây là công việc không phải lúc nào cán bộ phân tích- thẩm định cũng có thể dự tính được. - Kết quả của phép tính NPV phụ thuộc vào cách mà cán bộ phân tích - Thẩm định lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Trong khi tình hình thị trường vốn luôn luôn biến động nhưng tỷ lệ chiết khấu này lại được coi cố định cho toàn bộ thời hạn chiết khấu của dự án. Đây là điều không hợp lý. - Chỉ tiêu này chưa nói lên được hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra bởi nó mới chỉ cho biết được hiệu quả dưới dạng con số tuyệt đối, không biểu diễn dưói dạng số tương đối. - Trong trường hợp vốn có hạn nhưng có nhiều dự án có thời hạn khác nhau để lựa chọn đầu tư thì không thể dùng chỉ tiêu này. t Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ - IRR: Tỷ lệ hoàn vốn nội._. bộ là tỷ lệ mà tại đó tổng dòng thu bằng tổng dòng chi của dự án khi quy đổi về hiện tại hay đó chính là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0 (NPV = 0). IRR thường được tính bằng phương pháp nội suy. Hai giá trị của lãi suất chiết khấu k1,k2 (k2 >k1) ứng với NPV1>0 và NPV2< 0 sẽ được lựa chọn, dựa trên nguyên tắc tam giác đồng dạng ta có được IRR là giá trị nằm giữa 2 giá trị được chọn mà tại đó NPV =0. Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học công nghệ việc tính IRR có thể thực hiện bằng những phần mềm chuyên biệt cho kết quả rất chính xác. *Ý nghĩa: Chỉ tiêu IRR nói nên mức sinh lợi của dự án sau khi đã hoàn vốn đồng thời cũng phản ánh mức doanh lợi tối thiểu mà dự án đem lại. Thông thường dự án được đánh giá có hiệu quả khi nó có IRRChi phí vốn Đối với các dự án hay phương án loại trừ nhau thì lựa chọn phương án có IRRChi phí vốn và IRR max. * Ưu nhược điểm: Cũng giống như NPV chỉ tiêu IRR có khá nhiều ưu điểm, như: - Chỉ tiêu này có xét đến sự biến động của yếu tố thời gian, tính đến hiệu quả cả đời dự án và có tính đến giá trị thời gian của tiền. - Cho biết được khả năng sinh lời của dự án, dễ dàng so sánh với một mức hiệu quả cho phép (bằng cách so sánh với chỉ tiêu k). - IRR không phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu do nó được xác định từ nội bộ phương án. Đồng thời có thể sử dụng để so sánh các dự án - phương án khác nhau . Song song với những ưu điểm trên chỉ tiêu IRR còn có một số nhược điểm: - Chỉ tiêu này chỉ cho biết lợi nhuận tương đối, không cho biết được giá trị tuyệt đối dẫn đến có thể lựa chọn dự án có khả năng sinh lời cao nhưng lợi nhuận tạo ra thấp. - Không đề cập đến quy mô và độ lớn của dự án. Đặc biệt không xác định được một tỷ suất hoàn vốn nội bộ trong trường hợp dòng tiền có sự thay đổi nhiều lần từ (-) sang (+) và ngược lại, khi đó cán bộ thẩm định – phân tích cần dùng NPV để đánh giá. Trong những trường hợp kết quả đánh giá bằng NPV và IRR ngược nhau thì chỉ tiêu NPV là chỉ tiêu tốt hơn cho việc đánh giá dự án vì do chỉ tiêu IIR không đề cập đến quy mô vốn và chúng được giả định rằng dòng tiền được tái đầu tư bằng tỷ lệ sinh lời của dự án. t Chỉ tiêu tỷ số thu chi - B/C( hay BCR): Tỷ số thu - chi (B/C) là tỷ số giữa giá trị hiện tại của dòng thu trên giá trị hiện tại của dòng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả của đồng vốn bỏ ra khi quy về giá trị hiện tại. Công thức xác định BCR: * Ý nghĩa: Dự án được coi là có hiệu quả về mặt tài chính khi BCR>1. Đối với những phương án loại trừ nhau thì phương án tốt nhất về mặt tài chính là phương án có BCR lớn nhất. * Ưu nhược điểm: Chỉ tiêu BCR có ưu điểm nổi bật là: có tính đến giá trị thời gian của tiền, tính toán trên toàn bộ đời sống của dự án; Đồng thời đánh giá được hiệu quả tương đối của dự án và có thể dùng để so sánh các dự án – phương án khác nhau. Tuy vậy chỉ tiêu này cũng có khá nhiều nhược điểm. Đó là việc đòi hỏi phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án. Đây lại là một công việc không phải là dễ dàng đối với nhà phân tích và thẩm định. Chỉ tiêu này có sự phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu, trong khi tỷ lệ chiết khấu trên thị trường lại luôn có sự thay đổi. Đây chỉ là một chỉ tiêu tương đối nên dễ có thể dẫn đến sai lầm khi lựa chọn các phương án khác nhau. t Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn - PP: Thời gian hoàn vốn đầu tư là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu tư ban đầu vào dự án. Chỉ tiêu này cho biết sau khi thực hiện dự án bao lâu thì thu hồi đủ vốn đầu tư. Được xác định theo công thức: PP = n + Với n là số năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư. Dự án có PP càng nhỏ sẽ càng tốt. Bởi khi đó nhà đầu tư sẽ thu hồi được vốn sớm. Do đó nếu có nhiều dự án để lựa chọn thì dự án có PP nhỏ nhất sẽ được chọn. *Ưu nhược điểm: Chỉ tiêu này có ưu điểm là cho biết rõ được thời gian vốn sẽ được thu hồi và có thể dùng để so sánh các dự án – các phương án khác nhau. Nhưng bên cạnh đó chỉ tiêu này cũng có một số nhược điểm: Nhiều khi sử dụng chỉ tiêu này dễ dẫn đến việc quá chú trọng chọn phương án có thời gian thu hồi vốn nhỏ nhất mà bỏ qua mất phương án có lợi nhuận cao nhất (mục đích của nhà đầu tư). Không tính tới giá trị thời gian của tiền, bỏ qua phần thu nhập sau thời gian hoàn vốn mà đôi khi có những dự án những năm sau mới có lợi nhuận cao. Mỗi chỉ tiêu trên chỉ tiêu nào cũng có những ưu nhược điểm riêng không chỉ tiêu nào là hoàn hảo nên khi thẩm định các cán bộ thẩm định thường sử dụng kết hợp một số chỉ tiêu có thể để có được kết quả chính xác nhất. 1.3.5 Đánh giá rủi ro của dự án. Bất kỳ một dự án nào ngay từ khâu lập cho đến kết thúc hoạt động luôn luôn chứa đựng trong nó những rủi ro tiềm ẩn. Một cách chung nhất rủi ro của dự án vẫn được hiểu là khả năng xảy ra một sự kiện không có lợi nào đó làm giảm thu nhập của dự án so với dự kiến. Thực tế môi trường kinh tế, đầu tư luôn chứa đựng rất nhiều loại rủi ro khác nhau. Để thuận tiện cho việc phân tích chúng người ta đã phân ra làm ba loại: Rủi ro loại 1: là những rủi ro riêng thuộc về chính bản thân dự án hay chính là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của dự án. Rủi ro loại 2: Đây là loại rủi ro cho thấy sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh nghiệp. Nó thể hiện thông qua sự biến thiên thu nhập của doanh nghiệp khi thực hiện dự án. Rủi ro loại 3: hay rủi ro thị trường: là rủi ro có ảnh hưởng trực tiếp đối với giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Đây là loại rủi ro mà doanh nghiệp không thể loại trừ được, chẳng hạn như rủi ro về tỷ giá, lạm phát… Trong 3 loại rủi ro trên rủi ro loại một là loại mà cán bộ thẩm định rất quan tâm và rủi ro này cũng rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính thực sự của dự án. Rủi ro này được đánh giá bằng các phương pháp: tPhương pháp phân tích độ nhạy: Đây là phương pháp mà cán bộ phân tích - thẩm định chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài chính thay đổi như thế nào khi có biến đầu vào thay đổi. Qui trình phân tích được bắt đầu bằng việc dự báo những khoản doanh thu và chi phí dự kiến để thông qua chúng tìm được những khoản lợi nhuận ròng của dự án. Kết quả dự báo được đặt trong hai tình huống là lạc quan và bi quan, và đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với NPV của dự án. Phân tích về độ nhạy là một quy trình hữu ích để nhận diện các biến số mà sự thay đổi của chúng sẽ gây tác động lớn đến NPV của dự án. Qua phương pháp này người ra quyết định có thể tính toán được những hậu quả của sự ước tính sai lầm và ảnh hưởng của chúng đến NPV. Mặc dù vậy thì việc sử dụng phương pháp này cũng có một số hạn chế nhất định. Đó là: - Các biến số đưa ra dựa trên những phán đoán chủ quan rất cao. Có những biến đầu vào như giá bán, mức bán...trên thực tế có thể được cố định bằng hợp đồng với nhà cung cấp. Nhưng khi phân tích những yếu tố này lại cho thấy ảnh hưởng rất lớn đến NPV và IRR, như vậy việc đánh giá rủi ro trở nên kém chính xác. - Bỏ qua sự tác động lẫn nhau của các biến số đầu vào, mà chỉ xét đến tác động của những biến số đầu vào này đối với biến số đầu ra. - Thêm nữa là kết quả về phân tích độ nhạy không đem lại cho người ra quyết định một giải pháp rõ ràng đối với việc lựa chọn dự án. Ý nghĩa của phương pháp này là đưa lại cho người phân tích ý tưởng về một số điều không chắc chắn và độ nhạy. Nhưng cho dù thế nào thì thực tế phương pháp này vẫn là một công cụ rất hữu ích khi sử dụng kết hợp với một số hình thức phân tích rủi ro khác. tPhương pháp phân tích giả định tình huống: Phương pháp này thường được áp dụng khi đánh giá rủi ro của những dự án lớn, bởi đây là một qui trình đánh giá lợi nhuận và rủi ro của những dự án phức tạp. Bước đầu của phương pháp này là tạo ra một mẫu dòng tiền bằng cách xác định những yếu tố ảnh hưởng đến nó và các mối quan hệ cụ thể giữa các yếu tố thành phần của dòng tiền với nhau, và cả những ảnh hưởng của những yếu tố này đến dòng tiền. Dòng tiền = (doanh thu – chi phí)x(1 - thuế suất) + (thuế suất x khấu hao) Mỗi thành phần chủ yếu của dòng tiền có thể chỉ ra những yếu tố quyết định của nó. Khi các mối quan hệ của dòng tiền đã được nhận diện, các nhà phân tích có thể dễ dàng đánh giá được phân phối xác suất của mỗi thành phần của nó. Và khi tất cả những phân phối xác suất cũng như các mỗi quan hệ giữa các thành phần đã được chỉ rõ thì đã hình thành được mô hình của “tình huống giả định”. Lúc này kết hợp với việc sử dụng các phần mềm máy tính chuyên biệt cán bộ phân tích - thẩm định lựa chọn ngẫu nhiên dòng tiền cho mỗi năm và cho cả đời sống của dự án. NPV của dự án sẽ được chiết khấu ở tỷ lệ rủi ro sinh lời của mức rủi ro thuần tuý để tránh tình trạng tính hai lần rủi ro. NPV ở đây đại diện cho một trong nhiều NPV tiềm tàng có thể xuất hiện. Máy tính sẽ thực hiện nhiều lần và dừng lại ở một phân phối xác suất ước tính về NPV của dự án. Đồng thời cũng cho kết quả về phân phối xác suất ước tính của IRR. Phương pháp này có ưu điểm và nhược điểm nhất định: Trong đó ưu điểm là bắt buộc người ra quyết định phải xem xét cẩn thận các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền. Nó đem lại một sự mô tả chi tiết về phân bố của NPV, và cung cấp thông tin về những ảnh hưởng cùng một lúc của tất cả các biến số thích hợp đối với NPV. Còn nhược điểm của phương pháp này là: Việc nhận biết các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền là rất khó khăn. Nó đòi hỏi nhiều kỹ năng chuyên môn, thời gian và chi phí mà kết quả thu được cũng chỉ là những phân bố dự tính; Ở phương pháp này rủi ro của dự án không tính đến sự đa dạng hoá của nhà đầu tư; Nó tạo ra một sự phân bố NPV mà nhà quản trị vẫn không có được câu trả lời hoàn toàn rõ ràng trong việc chấp nhận hay từ chối đầu tư - thực hiện dự án. 1.4 Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM 1.4.1 Quan niệm về chất lượng thẩm định tài chính dự án. Từ trước đến nay một khái niệm thống nhất về chất lượng của thẩm định tài chính dự án vẫn chưa được đưa ra một cách cụ thể chính xác. Đối với mỗi chủ thể nghiên cứu khác nhau lại có quan niệm riêng về chất lượng thẩm định tài chính dự án. Riêng hoạt động thẩm định tài chính dự án của ngân hàng được coi là có chất lượng tốt chỉ khi: Trong giai đoạn trước khi cho vay thì đó là căn cứ khoa học để giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay. Trong những giai đoạn tiếp theo của quy trình cho vay thì chất lượng thẩm định tài chính tốt tức là thu nhập dòng hàng năm của dự án tăng đều và không lệch nhiều so với dự kiến, ngân hàng thu được nợ gốc và lãi đầy đủ đúng hạn, chủ đầu tư có được lợi nhuận, những rủi ro xảy ra không nằm ngoài dự tính của nhà lập - nhà thẩm định dự án; Còn chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ là thấp nếu dựa vào đó để ngân hàng ra quyết định cho vay nhưng sau này không thu hồi được nợ (gốc và lãi vay), hay ngân hàng không cho vay nhưng tổ chức tín dụng khác cho vay thì dự án hoạt động tốt và thu hồi được nợ. Điều đó gây ra thiệt hại cho ngân hàng và làm giảm thu nhập của ngân hàng. Thực tế cho thấy chất lượng thẩm định tài chính dự án là một khái niệm mang nhiều yếu tố định tính, chính bản thân các nhà thẩm định – các nhà phân tích hiệu quả tài chính dự án cũng khó có thể biết ngay được chất lượng công tác của mình, nó đòi hỏi phải có khoảng thời gian dài để khẳng định. Như vậy một cách tổng quát nhất thì chất lượng thẩm định tài chính dự án được coi là tốt khi từ kết quả thẩm định ngân hàng quyết định cấp tín dụng và khoản tín dụng đó đem lại thu nhập cho ngân hàng, hay khi ngân hàng từ chối cấp thì cũng không làm giảm thu nhập của ngân hàng. 1.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án. Mặc dù khó đưa ra một khái niệm chính xác nhưng không phải là các ngân hàng không có cách để xác định được chất lượng thẩm định tài chính dự án. Dưới đây là một số chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án. Một là mức độ khách quan, khoa học, toàn diện của kết quả quá trình thẩm định tài chính của dự án và tầm quan trọng của những kết quả này trong quyết định cho vay của ngân hàng. Hai là độ chính xác giữa kết quả thẩm định với thực tế thực hiện dự án. Bao gồm sự chính xác về số vốn bỏ ra dự tính cho từng giai đoạn của dự án với lượng vốn chi ra ở từng giai đoạn, doanh thu dự tính thu được với doanh thu thực tế thu được hàng năm, chính xác trong đánh giá hiệu quả và phân tích rủi ro so với thực tế phát sinh…. Ba là thời gian và chi phí bỏ ra để tiến hành thẩm định tài chính của dự án. Thời gian thẩm định nhanh, chi phí thấp nhưng kết quả thẩm định được sử dụng triệt để và là căn cứ chính cho quyết định cho vay thì quá trình thẩm định đó được coi có chất lượng tốt. Ngược lại chi phí thẩm định lớn, thời gian thẩm định dài nhưng kết quả thẩm định lại sử dụng không nhiều, trong quyết định cho vay thì quá trinh thẩm định đó chỉ có thể tạm coi là có chất lượng trung bình. So với hai chỉ tiêu trên chỉ tiêu thứ ba này có tính định lượng hơn cả. Cả thời gian và chi phí để thẩm định dự án ngân hàng đều có thể tính được cụ thể. Bởi ở mỗi ngân hàng quá trình thẩm định đều được giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định (có thể là 20, 30 hay 40 ngày). Còn chi phí thì tuỳ vào quy mô và tính chất phức tạp của từng dự án mà ngân hàng có thể xác định sau khi quá trình thẩm định hoàn thành. Mặc dù vậy chỉ tiêu này chỉ nói rõ được chất lượng thẩm định khi nó được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác. Thứ tư là căn cứ vào chỉ tiêu dư nợ cho vay T&DH, chỉ tiêu lãi thu từ cho vay T&DH, tỷ lệ nợ quá hạn. Những con số này phần nào phản ánh trực tiếp chất lượng thẩm định nói chung và chất lượng thẩm định tài chính dự án nói riêng. Dư nợ cho vay trung và dài hạn là một con số thời điểm, nó cho biết số tiền trung dài hạn mà NHTM đã cấp cho khách hàng (đã giải ngân) nhưng chưa thu hồi do khoản vay đó chưa đến hạn hay khoản vay đang là nợ quá hạn. Thông qua việc so sánh con số này giữa các thời kỳ khác nhau ngân hàng đánh giá được tốc độ phát triển của hoạt động cho vay T&DH. Nếu như dư nợ cho vay T&DH của một ngân hàng tăng đều đặn và ổn định qua các thời kì chứng tỏ hoạt động cho vay T&DH của ngân hàng đang phát triển tốt. Qua đó phần nào nói nên chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay T&DH cũng đang có chất lượng tốt, công tác thẩm định đã và đang tạo niềm tin cho lãnh đạo ngân hàng trong việc xem xét phê duyệt khoản vay. Còn khi chỉ tiêu dư nợ cho vay giảm nhanh và có tính hệ thống qua các thời kì cho thấy hoạt động cho vay T&DH của ngân hàng đang có vấn đề và tất yếu chất lượng công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng cũng cần phải xem xét lại. Số lãi thu từ cho vay T&DH: chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ dư nợ của ngân hàng tăng trưởng tốt khách hàng trả lãi, gốc, và phí đúng hạn. Điều này thể hiện công tác thẩm định các khoản vay (nhất là thẩm định tài chính dự án) đã được làm rất tốt và có chất lượng cao, dự án thực tế đi vào hoạt động có hiệu quả đem lại nguồn thu nhập để doanh nghiệp chi trả lãi và gốc cho ngân hàng. Như vậy chỉ tiêu này thể hiện sự tỷ lệ thuận với chất lượng của thẩm định cho vay T&DH nói chung. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ T&DH của ngân hàng: Ngoài những nguyên nhân như biến động môi trường pháp chính trị, môi trường kinh tế, ngân hàng không kiểm soát được thì việc xem xét không kĩ trước khi cho vay cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao trong NHTM. Trong cho vay T&DH theo dự án đây chính là do việc thẩm định tài chính dự án chất lượng chưa tốt. Công tác thẩm định được tiến hành cẩn thận đối với từng vấn đề cụ thể một cách khoa học, theo đúng qui trình thì việc phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân thẩm định là không thể có, nhưng nếu chỉ thực hiện qua loa thì khả năng phát sinh khách hàng không trả được gốc, lãi là rất cao, và dẫn đến nợ quá hạn là điều khó tránh khỏi. Như vậy chỉ tiêu nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay T&D hạn có sự tỷ lệ nghịch với chất lượng thẩm định tài chính dự án. Do đó mà NHTM cũng có thể sử dụng chỉ tiêu này để phần nào đánh giá chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng và chất lượng thẩm định nói chung. Việc sử dụng kết hợp những chỉ tiêu trên phần nào giúp ngân hàng có cái nhìn khái quát về chất lượng thẩm định tài chính dự án, để từ đó đưa ra những phương hướng và biện pháp cụ thể nhằm không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định của ngân hàng mình. Và để làm được thì việc nắm bắt đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án là rất cần thiết. 1.5 Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại. 1.5.1. Những nhân tố khách quan. t Điều kiện kinh tế xã hội: Nhân tố này có ảnh hưởng khá rõ ràng tới chất lượng thẩm định. Nền kinh tế xã hội phát triển lành mạnh, và ổn định thông tin thị trường được phản ánh một cách trung thực đầy đủ sẽ giúp cho cán bộ thẩm định nhanh chóng, kịp thời có được những thông tin cần thiết về thị trường nguyên - nhiên vật liệu của dự án, cũng như những thông tin về tình hình cung cầu sản phẩm của dự án trên thị trường…. từ đó làm tăng độ chính xác trong những dự báo về dự án và tính chính xác khách quan trong kết quả thẩm định. Đồng thời thông tin đầy đủ chính xác thì thời gian thẩm định cũng sẽ được rút ngắn tăng lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng, tiết kiệm thời gian cho chủ dự án. Thực tế cho thấy trong những năm 90 của thế kỉ trước kinh tế xã hội nước ta mới bước vào thời kì đổi, còn nhiều bất cập, hệ thống cơ sở hạ tầng thấp kém, khoa học công nghệ vẫn lạc hậu rất nhiều so với khu vực… kéo theo hệ thống thông tin thị trường và doanh nghiệp cũng thiếu, độ chính xác không cao và không phản ánh hết được thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc thẩm định các dự án gần như chỉ mang tính hình thức (nhất là ở các ngân hàng thương mại quốc doanh), các ngân hàng cho vay nhưng dựa trên điều kiện tài sản đảm bảo là chính. Việc thẩm định sơ sài, mang nặng tính hình thức đã dẫn đến rất nhiều dự án bị bỏ dở hay hoàn thành nhưng đem lại hiệu quả thấp. Từ năm 2000 trở lại đây sự mở cửa rộng hơn nền kinh tế làm cho yếu tố cạnh tranh trở nên gay gắt hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước ta nhiều hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới để tồn tại. Đã dần hình thành nên một môi trường kinh tế thị trường rõ nét hơn. Thông tin đưa ra có tính cập nhật và đầy đủ hơn, điều kiện vật chất cũng hiện đại hơn … và việc cho vay cũng quan tâm đến tính khả thi của dự án hơn (việc thẩm định cũng trở nên quan trọng hơn và cụ thể chi tiết hơn), điều kiện về tài sản đảm bảo không còn là yếu tố chính nữa trong quyết định cho vay của NHTM. t Môi trường pháp lý. Không chỉ đối với hoạt động của ngân hàng nói chung, của công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng mà đối với tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, môi trường pháp lý có tác động vô cùng lớn. Những căn cứ pháp lý chính là bảng chỉ dẫn cho các hoạt động kinh tế đi đúng hướng và đúng mục tiêu phát triển của cả cộng động. Do vậy có một môi trường pháp lý ổn định, lành mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện cho công tác thẩm định thực hiện một cách bài bản, đúng quy định, trong khuôn khổ cho phép, thuận tiện cho cả khách hàng lẫn ngân hàng. Còn nếu môi trường pháp lý còn thiếu và chưa đồng bộ thì đây chính là một khó khăn lớn cho các nhà thẩm định. Các nhà thẩm định sẽ phải gặp những mâu thuẫn có thể phát sinh giữa các văn bản hướng dẫn, giữa những qui định…và điều này thực tế đã diễn ra rất nhiều (chẳng hạn như các quy định về hạch toán kế toán, về khấu hao,… ) các nhà thẩm định sẽ phải mất nhiều thời gian công sức hơn khi thực hiện công việc của mình. Đặc biệt sự chồng chéo hoặc khiếm khuyết trong quy định có thể là cơ hội cho những khách hàng (bản chất kinh doanh không tốt) dựa vào đó luồn lách để có được khoản tín vay mong muốn nhưng lại không có khả năng hoàn vốn hay lãi dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng lẫn nền kinh tế. t Chủ dự án (khách hàng): Có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định. Chủ dự án chính là những người làm việc trực tiếp với ngân hàng khi muốn vay vốn của ngân hàng và cũng là người nắm rõ về dự án nhất. Mà để thẩm định dự án thì vấn đề đầu tiên là ngân hàng phải thu thập thông tin về dự án. Những thông tin này không đâu khác chính chủ dự án sẽ là người cung cấp trước tiên cho ngân hàng thông qua hồ sơ vay vốn. Do vậy chủ dự án cung cấp thông tin trung thực, chính xác, khoa học và đầy đủ sẽ giúp ích cho việc thẩm định tài chính của dự án rất nhiều. Bên cạnh đó sự hiểu biết sâu rộng của chủ dự án, khả năng tổ chức, quản lý, sự nỗ lực của chủ dự án trong việc kết hợp với cán bộ tín dụng khi thẩm định cũng góp phần thúc đẩy quá trình thẩm định dự án nói chung, thẩm định tài chính dự án nói riêng diễn ra nhanh chóng, chính xác, làm tăng tính khả thi của dự án. Ngược lại chủ dự án thiếu năng lực tổ chức quản lý, trình độ và sự am hiểu hạn hẹp, thiếu sự trung thực, không sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết cho việc thẩm định… thì rất dễ làm cho kết quả thẩm định thiếu chính xác, dẫn đến vốn vay sử dụng không đúng mục đích hay làm thất thoát lãng phí vốn đầu tư của dự án. Điều này tất yếu sẽ cho thấy chất lượng thẩm định thấp ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. t Môi trường tự nhiên: Việc thẩm định không phải không chịu tác động của môi trường tự nhiên. Để thu thập được thông tin cần thiết đôi khi cán bộ thẩm định phải đi thực tế tại nơi dự án dự định sẽ được thực hiện. Điều kiện khí hậu, thời tiết và sự biến động theo chu kì của môi trường tự nhiên tại đó cũng sẽ ảnh hưởng tới kết quả của việc thu thập thông tin đó, và việc dự tính các chỉ tiêu của dự án (đặc biệt là đối với những dự án trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp), làm cho những nhận định của cán bộ thẩm định không được chuẩn xác. 1.5.2 Những nhân tố chủ quan Nếu như những nhân tố khách quan ảnh hưởng một phần thì những nhân tố chủ quan có tầm ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Trong đó bao gồm các nhân tố: Cán bộ thẩm định, trang thiết bị công nghệ và thông tin, qui trình - nội dung phương pháp thẩm định tài chính dự án, công tác tổ chức điều hành hoạt động thẩm định tàì chính dự án. t Cán bộ thẩm định: Con người luôn là yếu tố trung tâm quyết định trực tiếp tới sự thành công hay thất bại của công việc. Bởi vậy chất lượng thẩm định tài chính dự án cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào những tố chất thuộc về cán bộ thẩm định. Trước tiên cũng như bất kỳ công việc nào, người thực hiện thẩm định có được trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, kỹ năng tốt, am hiểu về thị trường một cách sâu rộng, hiểu biết về khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho công việc được tiến hành nhanh chóng, chính xác, đạt kết quả cao. Ngược lại cán bộ thẩm định yếu về kỹ năng, trình độ nghiệp vụ thấp kém, hiểu biết xã hội - thị trường hạn chế thì khó có thể đảm bảo đạt được một chất lượng thẩm định cao. Bên cạnh đó, các dự án trung dài hạn thường có vốn lớn nên phẩm chất đạo đức, tính kỷ luật và sự cẩn thận của cán bộ thẩm định cũng có ảnh hưởng lớn tới chất lượng thẩm định, đặc biệt là trong thẩm định tài chính dự án. Cán bộ thẩm định có được những yếu tố này sẽ giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro đạo đức giữa cán bộ thẩm định với khách hàng, góp phần làm cho chất lượng thẩm định được cao hơn. t Trang thiết bị công nghệ và thông tin: Yếu tố này ảnh hưởng tới việc thu thập, phân tích và xử lý thông tin của cán bộ thẩm định, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định. Vì hiện nay việc trang bị thiết bị hiện đại công nghệ tiên tiến: máy tính nối mạng toàn cầu, các phần mềm xử lý chuyên dụng, hệ thống cáp truyền nhanh, chính xác…. giúp ích rất nhiều cho các hoạt động của cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định không nhất thiết phải tính toán tỉ mỉ hay phải đến tận nơi để thu thập tài liệu nữa mà sẽ được máy tính xử lý và phân tích chính xác cụ thể từng chi tiết. Từ đó giảm thời gian, tăng độ khoa học khách quan toàn diện trong quá trình xác minh tính khả thi của dự án. Thông tin là yếu tố không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án mà ảnh hưởng tới mọi khâu của hoạt động cho vay cũng như những hoạt động khác của ngân hàng. Kết luận đưa ra từ quá trình thẩm định là kết quả của việc sử lý thông tin về dự án mà cán bộ thẩm định thu thập được. Vì vậy thông tin càng đầy đủ, càng chính xác cán bộ thẩm định phân tích dự án sẽ càng dễ dàng đánh giá hiệu quả dự án. Nhưng nếu thông tin thiếu, đôi khi lại không chính xác thì việc đánh giá chính xác được hiệu quả tài chính dự án là vô cùng khó khăn. t Qui trình nội dung phương pháp thẩm định tài chính dự án: Qui trình và phương pháp thẩm định tài chính dự án chính là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hành công việc của mình. Trong qui trình thẩm định dự án gồm nhiều nội dung khác nhau, mỗi nội dung lại chứa đựng một phần về tài chính của dự án. Tính khoa học và logic trong qui trình và phương pháp thẩm định sẽ hạn chế khắc phục được những sai sót nhầm lẫn, đảm bảo cho công tác thẩm định tài chính dự án có được kết quả chính xác, tăng thêm ý nghĩa của của việc thẩm định. Vì vậy mà có thể nói qui trình và nội dung phương pháp thẩm định có ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng của thẩm định tài chính dự án. t Công tác tổ chức điều hành các hoạt động thẩm định tài chính dự án: Như hầu hết các công việc khác, vấn đề tổ chức điều hành trong các hoạt động thẩm định tài chính dự án là vô cùng quan trọng. Đối với một dự án trong lĩnh vực mới thì không thể giao việc thẩm định cho những cán bộ có ít kinh nghiệm hay cán bộ không biết về lĩnh vực đó, điều này không những dẫn đến tốn thời gian và công sức tìm hiểu của cán bộ thẩm định mà còn làm tăng chi phí cho ngân hàng. Thậm chí còn có thể dẫn đến kết quả thẩm định thiếu độ tin cậy. Nhưng nếu sắp xếp đúng người đúng việc sẽ có thể phát huy được thế mạnh của mỗi người, hạn chế bớt yếu điểm, tạo điều kiện phối hợp giữa các cá nhân - các bộ phận, công việc được thực hiện trôi chảy tiết kiệm thời gian, chi phí về con người và tài sản cho ngân hàng. Trên đây là những vẫn đề cơ bản nhất về công tác thẩm định tài chính dự án và chất lượng của thẩm định tài chính dự án. Tuy nhiên đây chỉ là những vấn đề về mặt lý thuyết, thực tế tại các ngân hàng chất lượng thẩm định thường luôn được các ngân hàng quan tâm và có nhiều biện pháp để đảm bảo một chất lượng thẩm định ngày càng một tốt hơn trong mỗi dự án tài trợ. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHTMCP HÀNG HẢI – CHI NHÁNH HÀ NỘI. 2.1. Tổng quan hoạt động của NHTMCP Hàng Hải – chi nhánh Hà Nội. 2.1.1. Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức hoạt dộng củaNHTMCP Hàng Hải – chi nhánh Hà Nội. Là trung tâm kinh tế lớn của cả nước – Hà Nội một thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt về phát triển khách hàng, sản phẩm, dịch vụ mới…. Với những điều kiện rất tốt này ngay sau khi MSB Việt Nam được thành lập (08/06/1991) thì Hội đồng quản trị HĐQT của MSB đã ra quyết định số 52 ngày 17/08/1991 thành lập chi nhánh MSB Hà Nội. Đến ngày 01/09/1991 theo giấy phép hoạt động số 001/NH-GP ngày 08/06/1991 MSB Hà Nội chính thức đi vào hoạt động tại địa điểm số 44 Nguyễn Du–Hà Nội Cùng với sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của toàn hệ thống của toàn hệ thống MSB Việt Nam sau 15 năm hoạt động chi nhánh Hà Nội cũng đang dần khẳng định vị thế của mình trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam trên địa bàn. Từ khi thành lập cho tới nay MSB Hà Nội luôn luôn là một trong ba chi nhánh dẫn đầu trong mọi hoạt động của hệ thống Ngân hàng Hàng Hải Việt nam. Sau nhiều năm hoạt động với những cố gắng lớn. Năm 2004 đã thành lập chi nhánh cấp II Đống Đa và đang chuẩn bị đưa 2 chi nhánh khác đi vào hoạt động; Các sản phẩm dịch vụ ban đầu mới chỉ huy động vốn, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư, cho vay, chiết khấu, thì nay đã có thêm rất nhiều sản phẩm như, cho vay hợp vốn, các hình thức bảo lãnh, mở L/C, dịch vụ thẻ (sẽ có vào cuối năm 2006)…Cơ sở vật chất ngày càng được hoàn thiện với hệ thống trang thiết bị hiện đại, hệ thống máy tính nối mạng 24/24, trụ sở khang trang; Khách hàng của MSB: như mục tiêu hướng đến chung của toàn hệ thống MSB đối tượng khách hàng chủ yếu của chi nhánh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các ngành kinh tế trọng điểm của cả nước. Trong đó đặc biệt quan tâm tới khách hàng thuộc ngành hàng hải, bưu chính viễn thông, hàng không, bảo hiểm. Đồng thời đẩy mạnh việc phát triển khách hàng là cá nhân. Cơ cấu tổ chức: Tính đến ngày 31/12/2005 toàn bộ chi nhánh MSB Hà Nội có 83 cán bộ nhân viên. Trong đó trên 90% có trình độ đại học và trên đại học. Số cán bộ nhân viên nữ chiếm hơn 50%. Sơ đồ tổ chức của chi nhánh MSB Hà Nội: Giám đốc Phó giám đốc Phòng kiểm soát nội bộ Phòng hành chính tổng hợp Phòng xử lý rủi ro Phòng tín dụng Phòng kế toán tài chính Phòng giao dịch khách hàng Phó giám đốc Tổ kế toán Tổ tin học Tổ TD quốc tế & KH cá nhân Tổ tín dụng KHDN 2.1.2. Những kết quả đạt được của Ngân hàng Hàng Hải – chi nhánh Hà Nội trong năm vừa qua. Trong thời gian vừa qua hoạt động của hệ thống ngân hàng ở nước ta phát triển nhanh chóng. Cùng những biến động lãi suất ngân hàng trên thế giới, lãi suất của các ngân hàng ở Việt Nam không ngừng tăng tạo ra sự cạnh mạnh mẽ về khách hàng, lãi suất, sản phẩm dịch vụ…giữa các ngân hàng với nhau. Đây là một trở ngại lớn đối với một ngân hàng qui mô khiêm tốn như MSB, đặc biệt là MSB Hà Nội. Tuy nhiên vượt qua những khó khăn đó, những thế mạnh về khách hàng, nhân lực và tăng trưởng hoạt động kinh doanh của MSB vẫn tiếp tục được phát huy và đã gặt hái được nhiều kết quả đáng khích lệ. Thu hồi được các khoản nợ đọng lớn, huy động vốn đạt cao nhất trong các năm qua, tổ chức sửa chữa, cải tạo di chuyển trụ sở làm việc của chi nhánh sang địa điểm mới thành công, bảo đảm phục vụ khách hàng kịp thời chính xác. Một số chỉ tiêu kinh doanh của năm qua: Đơn vị : triệu đồng TT Chỉ tiêu kế hoạch 2005 Thực hiện 2005 So sánh(%) Cuối kỳ Kế hoạch 2005 1 Vốn huy động 710.000 1.350.811 189 190 2 Dư nợ cho vay 450.000 392.224 124 87 3 Số dư nợ xấu(*) 14.219 54 4 Chi phí quản lý và công vụ 1.790 2.342 158 131 ._.cán bộ thẩm định dự án tính toán được các chỉ tiêu tài chính dự án, đánh giá dự án. Nên đòi hỏi các thông tin này phải có được tính chuẩn xác và nguồn gốc rõ ràng đáng tin cậy. Bên cạnh những nguồn thông tin vốn có như: Nguồn thông tin từ chính doanh nghiệp cung cấp, nguồn thông tin về doanh nghiệp từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà Nước, nguồn thông tin từ các văn bản pháp lý, các quy định các tiêu chuẩn…do nhà nước và các ban ngành liên quan ban hành. Ngân hàng có thể: Tăng cường hợp tác trao đổi, chia sẻ thông tin với các NHTM Việt Nam và các ngân hàng liên kết ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin cho nhau giúp giảm thiểu rủi ro. Tăng cường những ứng dụng của công nghệ thông tin, những phần mềm quản lý khách hàng, các phần mềm thống kê - nghiên cứu - lưu trữ thông tin từ đó tăng khả năng phân tích đánh giá khách hàng một cách chính xác. Ngoài ra ngân hàng có thể tiến hành khai thác thông tin từ kênh thông tin của các công ty được nhà nước cho phép chuyên doanh về thông tin (công ty mua bán thông tin) 3.2.3 Hoàn thiện nội dung qui trình công tác thẩm định dự án Việc hoàn thiện nội dung qui trình cụ thể của thẩm định dự án cần được tiến hành cả về mặt qui chế của MSB cũng như thực tế khi tiến hành công việc của cán bộ thẩm định. Về phần thực tế khi tiến hành thẩm định: Một dự án vay vốn luôn đòi hỏi phải được xem xét đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo đánh giá một cách toàn diện, giúp ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Mỗi một nội dung của dự án đều có quan hệ mật thiết với nhau: Cơ sở để đánh giá trong việc đưa ra những lựa chọn về kỹ thuật, về quy mô, về công suất của dự án là kết quả thẩm định thị trường. Còn kết quả thẩm định kỹ thuật là cơ sở để tính toán các dòng tiền ra, dòng tiền vào, xác định hiệu quả tài chính của dự án. Mà hiệu quả tài chính của dự án lại là cơ sở để thẩm định lợi ích kinh tế xã hội và quyết định phương án cho vay, thu nợ của ngân hàng. Bởi vậy: Trong quá trình thẩm định phương diện thị trường, cán bộ thẩm định nên thu thập thông tin về: số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả các doanh nghiệp chuẩn bị thành lập). Mức cầu, mức cung về sản phẩm cùng loại, sản phẩm bổ sung, sản phẩm thay thế ít nhất là 5 năm vừa qua, để từ đó thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian đã qua, đồng thời làm cơ sở cho những dự báo về tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới. Trong quá trình thẩm định phương diện kỹ thuật, có những dự án lớn kỹ thuật phức tạp cán bộ thẩm định không thể nắm bắt được hết bởi vậy đối với những dự án này việc thuê các chuyên gia kỹ thuật là cần thiết, để tránh tình trạng chấp nhận kỹ thuật mà khách hàng đưa tới. Trong quá trình thẩm định tài chính dự án: t Khi thẩm định nguồn vốn và cơ cấu tài trợ: cần xem xét đến cả phần vốn để đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Mặc dù thông thường phần vốn này sẽ được thu hồi vào năm cuối đời dư án, nhưng nếu năm đầu không có thì hoạt động sản xuất của dự án không thể được thực hiện. Một phần vốn nữa cũng cần được quan tâm đưa vào dự toán vốn là phần vốn dự phòng. Khi kiểm tra tính hợp lý về chi phí đầu tư thì nên dựa trên sự tham khảo những dự án điển hình, không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ dự án đưa ra nhằm tránh tình trạng tính thừa hoặc thiếu vốn. Đối với các dự án xây dựng có nhiều hạng mục công trình kéo dài trong nhiều năm hay các dự án mua sắm thiết bị phụ tùng (nhất là máy móc nhập khẩu) phải tính tới các yếu tố lạm phát, tỷ giá. t Khi thẩm định dòng tiền của dự án ngân hàng nên đứng trên quan điểm tổng mức đầu tư bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay để tính dòng tiền của dự án. Trên quan điểm này dòng tiền ròng của dự án bao gồm: Dòng tiền dòng của dự án = Dòng tiền đầu tư + Dòng tiền hoạt động Trong đó : Dòng tiền hoạt động = Lợi nhuận sau thuế + khấu hao + lãi vay dài hạn. Nếu vòng đời của dự án được tính vượt quá thời gian khả dụng của máy móc thì cần phải tính thêm chi phí về nâng cấp máy móc, thiết bị và khi đó thời gian khấu hao sẽ tăng lên tương ứng. t Đối với tỷ lệ chiết khấu: bản chất nó chính là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án hay nói cách khác nó là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn vào dự án. Nên tỷ lệ chiết khấu ngân hàng sử dụng phải phản ánh được mức lợi nhuận trung bình tối thiểu mà ngân hàng và khách hàng kỳ vọng khi thực hiện dự án. Tỷ lệ lợi nhuận trung bình tối thiểu này chính là chi phí vốn trung bình của dự án – WACC (công thức tính chương ở chương 1). Do đó việc sử dụng WACC làm lãi suất chiết khấu của dự án sẽ là phù hợp nhất. Cả khi thẩm định dòng tiền và lãi suất chiết khẩu đều cần quan tâm đặc biệt tới tác động của yếu tố lạm phát. Bởi lạm phát mà dự tính quá cao thì có thể làm cho kết luận về NPV hoàn toàn đảo ngược từ dương sang âm. Nhưng lạm phát dự tính mà quá thấp cho kết luận dự án có hiệu quả nhưng khi đầu tư thì dự án không thể có kết quả như mong đợi dẫn đến ngân hàng khó có thể thu hồi được vốn từ dự án. t Đối với các phương pháp thẩm định tài chính dự án và đánh giá rủi ro của dự án: Các phương pháp được sử dụng chủ yếu như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ số doanh lợi… về cơ bản đã phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và khả năng của các ngân hàng. Tuy nhiên trong đánh giá rủi ro bằng phân tích độ nhạy ngoài việc đánh giá độ nhạy của dự án theo từng biến đầu vào (đánh giá độ nhạy một chiều), cán bộ thẩm định nên sử dụng kết hợp với việc đánh giá độ nhạy theo sự biến động của nhiều yếu tố đầu vào (đánh giá độ nhạy nhiều chiều) hay kết hợp phân tích tình huống để đánh giá một cách toàn diện những rủi ro của dự án. Nhiều dự án phức tạp hiệu quả tài chính chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố có khả năng biến động lớn nhưng chỉ đánh giá độ nhạy với mức độ thấp hơn nhiều so với khả năng có thể xảy ra. Vì vậy những dự án có quy mô lớn cần tiến hành phân tích độ nhạy nhiều chiều. Đối với những dự án chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố có khả năng biến động nên tiến hành cả phân tich tình huống và mô phỏng. 3.2.4 Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định. Khi thẩm định tài chính dự án đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nắm vững chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của ngành và của điạ phương. Xác định và kiểm tra toàn diện tất cả các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án, đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan chuyên môn để có được ý kiến đánh giá xác đáng. Nhưng hiện nay ở hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần chứ không chỉ riêng ở MSB cán bộ tín dụng thường kiêm luôn cả công tác theo dõi và quản lý khoản vay. Tức chưa có sự chuyên môn hoá trong việc tổ chức công việc. Cán bộ thẩm định phải kiêm nhiệm quá nhiều công việc cùng lúc. Điều này phần nào ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án, nhiều trường hợp dẫn đến quyết định sai lầm trong cho vay hoặc bỏ qua dự án hiệu quả. Do đó việc chuyên môn hoá trong tổ chức hoạt động cho vay và thẩm định là cần thiết. Ngân hàng có thể tách một phần quân số hiện nay để thành lập tổ hoặc phòng chuyên trách về thẩm định. Đối với những dự án nhỏ có thể giao cho một cán bộ của phòng, còn với những dự án lớn thì giao cho nhiều người trong phòng/tổ cùng thực hiện thẩm định trên cơ sở mỗi người thẩm định một mảng khác nhau của dự án. 3.2.5 Cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho nhân viên tiến tới xây dựng văn hóa ngân hàng TMCP Hàng Hải. Như đã phần trên đã nói, công việc thẩm định dự án trung và dài hạn rất phức tạp, đặc biệt là các dự án lớn. Môi trường làm sôi động, chan hoà, cơ sở vật chất khang trang, phương tiện đầy đủ là một trong những yếu tố góp phần cho cán bộ ngân hàng làm việc năng suất và hiệu quả hơn. Vì vậy ngân hàng cần quan tâm cung cấp đầy đủ những trang thiết bị, điều kiện làm việc cho các bộ tín dụng như: mạng internet với tốc độ cao, các tạp chí, chuyên đề chuyên ngành và thị trường, quyền khai thác thông tin trong mạng CIC….. Kết hợp với việc xây dựng môi trường văn hóa ngân hàng như các qui định về trang phục, giờ giấc đi làm; tác phong làm việc linh hoạt nhanh nhẹn, phong cách giao tiếp văn minh lịch sự lấy khách hàng là trung tâm. Nhanh chóng xóa bỏ những thói quen làm việc ì ạch, không phù hợp với môi trường kinh doanh hiện nay. Phát huy các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao thi đua giữa các phòng ban trong chi nhánh và giữa các chi nhánh với nhau, và với các ngân hàng khác trong khu vực, tổ chức các buổi dã ngoại - du lịch….tạo cơ sở nâng cao tinh thần tập thể và sự đoàn kết cho ngân hàng. Làm cho nhân viên cảm thấy gắn bó với ngân hàng hơn, yêu quý công việc của mình hơn. Về lâu dài hình thành nên phong cách văn hóa riêng của MSB, mà chỉ cần nhắc tới tên ngân hàng khách hàng đã có ngay được nhưng ấn tượng tốt đẹp về MSB về một nét văn hóa ngân hàng đặc trưng ở Việt Nam. Xây dựng chế độ lương thưởng linh hoạt. Có thể thực hiện chi trả mức lương thưởng tăng luỹ tiến với mức kết quả đạt được tương ứng trong công việc, tránh tình trạng cào bằng, bình quân khi tính lương thưởng. Để nhân viên có động lực phấn đấu hoàn thành tốt công việc hơn. 3.2. Một số kiến nghị. 3.3.1 Kiến nghị với ngân hàng Hàng Hải Việt Nam. Điều rất có ý nghĩa hiện nay là MSB Việt Nam nên sớm ban hành một cuốn sổ tay tín dụng với những quy trình nghiệp vụ chuẩn xác, cụ thể - chi tiết, hiện đại nhưng vẫn sát với thực tế công việc, để tránh sự lúng túng, khó hiểu trong những quy định có thể xảy ra đối với các bộ tín dụng khi tra cứu, áp dụng những văn bản hướng dẫn vẫn còn chung chung như hiện nay. Xây dựng chính sách đầu tư theo dự án của ngân hàng phù hợp với định hướng đầu tư của Nhà nước và địa phương thì những ngành nghề, lĩnh vực được khuyến khích phát triển sẽ có điều kiện, tiềm năng để phát triển. Từ đó ngân hàng tăng được lợi nhuận giảm bớt rủi ro. Đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và xã hội. Thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tất cả các công việc trong quy trình nghiệp vụ ngay từ giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay tới khi kết thúc đối với mỗi dự án được MSB tài trợ. Để kịp thời cung cấp thông tin cảnh báo cho chi nhánh nhằm tránh những rủi ro xảy ra dẫn đến không thu hồi được nợ. Phòng đánh giá rủi ro và phòng tái thẩm định của MSB cần hoạt động tích cực hơn nữa. Do hiện nay ở hầu hết các chi nhánh của MSB cán bộ tín dụng cũng đồng thời là cán bộ thẩm định nên công việc khá nặng nề và không phải các bộ tín dụng nào cũng có kĩ năng trình độ chuyên môn tốt về thẩm định. Do đó Ngân hàng nên thành lập tổ/ban thẩm định riêng ở các chi nhánh lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, giúp cho hiệu quả công việc được tốt hơn. Ngoài ra hoạt động marketing của MSB hiện nay còn yếu, số doanh nghiệp, khách hàng cá nhân biết đến MSB chưa tương xứng với tiềm năng thị trường hiện có mà một ngân hàng như MSB có thể thu hút. Do đó MSB cần đẩy mạnh đầu tư hơn nữa cho công tác marketing nhằm giới thiệu hình ảnh cũng như những thế mạnh của mình tới đông đảo người dân không chỉ trên địa bàn có chi nhánh MSB mà còn cả ở các tỉnh thành khác nữa; Mặc dù đã hoạt động 15 năm nay nhưng hiện tại MSB vẫn chưa có một tài liệu nào giới thiệu về quá trình hình thành và phát triển, những thành tích và những khó khăn thăng trầm của ngân hàng. Do đó MSB nên nghiên cứu đưa ra một cuốn tài liệu riêng giới thiệu về MSB quá khứ, hiện tại cũng như định hướng phát triển lâu dài trong tương lai. Đây cũng chính là một cách trong công tác marketing của ngân hàng. 3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước với vai trò ngân hàng của các ngân hàng cần thực hiện tốt hơn nữa chức năng tham mưu quản lý, điều hành thông qua việc xây dựng và ban hàng chính sách, qui định rõ ràng, cập nhật về hoạt động ngân hàng phù hợp với nhu cầu thực tế. Thời gian qua công tác thanh tra của NHNN đã và đang từng bước đổi mới theo hướng chuyển từ phương thức thanh tra tuân thủ trước đây sang phương thức thanh tra dựa trên rủi ro. Đây là một điểm mới được rất nhiều NHTM quan tâm và ủng hộ. Do đó cần nhanh chóng hoàn thiện để phương pháp này sớm đem lại hiệu quả, kịp thời đưa ra những cảnh báo rủi ro có nguy cơ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM cũng như hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Riêng đối với trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) với ưu điểm là cung cấp thông tin chính xác, nhưng cũng mới chỉ được khai thác mạnh trong hai – ba năm trở lại đây, chưa thực cung cấp thông tin đa dạng cho các ngân hàng, chưa kết nối trực tuyến được với các ngân hàng. Nên cần hoạt động tích cực hơn nữa, tăng cường việc chia sẻ thông tin giữa các bộ ngành. Ngoài việc cung cấp thông tin về doanh nghiệp, về các dự án trước đã thực hiện thì CIC nên cung câp các thông tin khác về thị trường: như giá cả, về chỉ tiêu ngành ….Đồng thời NHNN cần đẩy nhanh việc thực hiện hiện đại hoá công nghệ thông tin để các NHTM có thể kết nối trực tuyến với CIC mà không cần phải qua các chi nhánh NHNN để giảm bớt thời gian và chi phí cho các NHTM. Còn trong trường hợp chưa thể thiết lập hệ thống kết nối trực tuyến CIC cần xử lý nhanh chóng việc cung cấp thông tin cho các NHTM. 3.3.3 Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan quản lý có liên quan. Thực tế cho thấy hành lang pháp lý nước ta còn rất nhiều bất cập. Vì vậy Chính phù cần tích cực nhanh chóng hơn nữa hoàn thiện khuôn khổ pháp luật theo hướng phù hợp với khu vực và thế giới. Trong đó cần lưu ý tới tính đồng bộ của các văn bản hướng dẫn luật, nhất là luật liên quan đến hoạt động ngân hàng, hoạt động đầu tư (như các quyết định, nghị định liên quan đến luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật đất đai, luật thương mại, luật phá sản…). Đồng thời quan tâm hơn nữa tới việc thực hiện của các cơ quan thực thi pháp luật các cấp. Cần chỉ đạo các Bộ, ngành và các địa phương nâng cao chất lượng quy hoạch, ổn định quy hoạch và quy hoạch phải chi tiết đồng bộ tạo động lực phát triển cho vùng, miền, tránh tình trạng quy hoạch tràn lan tỉnh nào cũng có dẫn đến thu hút vốn đầu tư không hiệu quả. Trong qua trình quản lý Nhà nước nên sử dụng các công cụ kinh tế, hạn chế dùng các biện pháp tài chính để tác động xấu đến nền kinh tế. Chẳng hạn như việc hạn chế đăng kí xe máy vừa qua đã gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất xe máy. Hay việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện ô tô củng ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất ngành lắp ráp ô tô. Về phía Bộ tài chính nên đưa ra những qui định chặt chẽ hơn nữa về việc thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán của các loại hình doanh nghiệp. Và sớm ban hành những qui định rõ ràng cụ thể để đảm bảo tính minh bạch, chính xác trong việc công bố các số liệu tài chính, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhằm tạo cơ sở tin cậy để ngân hàng có thể đánh giá tài chính doanh nghiệp cũng như thẩm định dự án một cách chính xác và hiệu quả. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Đưa ra những hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp cố tình vi phạm chế độ hạch toán kế toán. Có thể qui định những báo cáo tài chính của các doanh nghiệp có qui mô vốn nhất định (chẳng hạn như từ 5 hay 8 tỷ trở lên) bắt buộc phải được kiểm toán để đảm bảo chính xác nguồn thông tin từ các loại báo cáo này đối với cả cơ quan thuế và các NHTM. Đối với các ban ngành liên quan cần thiết lập bộ phận chuyên trách với những chuyên gia đầu ngành để thực hiện thống kê, nghiên cứu, đánh giá kết quả của ngành không những nhằm đưa ra được những chỉ tiêu ngành một cách chính xác và thống nhất, để vừa cung cấp số liệu cho ngành và đánh giá cho nhu cầu thông tin vĩ mô trong nước vừa sử dụng để so sánh đối chiếu với các nước khác. Bên cạnh đó các bộ ngành cần tăng cường hơn nữa việc chia sẻ thông tin, đặc biệt là các thông tin nhạy cảm về tín dụng để giúp cho các NHTM sớm có được những thông tin cần thiết, chính xác để có thế nhanh chóng ra các quyết định cho vay. KẾT LUẬN Hiện nay nước ta đang nỗ lực đàm phán để sớm tham gia vào tổ chức thương mại thế giới – WTO nhằm giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm cơ hội bước ra thị trường thế giới. Đồng thời đưa nền kinh tế nước nhà hoà chung với nhịp độ sôi động của nền kinh tế thế giới. Nhưng việc tham gia vào WTO tức là cũng đồng nghĩa với việc chúng ta mở cửa hoàn toàn nền kinh tế trong nước. Các doanh nghiệp, các công ty, các ngân hàng nước ngoài nhanh chóng thâm nhập vào thị trường Việt Nam tạo nên sự cạnh tranh gay gắt. Đây lại là một khó khăn lớn đối với hầu hết doanh nghiệp Việt Nam, mà trước tiên là đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để có thể cạnh tranh - tồn tại được thì vấn đề tất yếu mà các NHTM Việt Nam cần thực hiện là đổi mới, nâng cao chất lượng về mọi mặt hoạt động của ngân hàng, trong đó không thể xem nhẹ việc nâng cao chất lượng thẩm định nói chung và chất lượng thẩm định tài chính dự án nói riêng. Như những phần trình bày trên cho thấy nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển hiệu quả cho nền kinh tế. Hoạt động thẩm định và chất lượng thẩm định không chỉ giới hạn bên trong ngân hàng mà nó gắn liền với các vấn đề pháp lý, môi trường hoạt động kinh doanh của ngành, môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đòi hỏi phải có sự cố gắng của bản thân ngân hàng cùng với sự phối hợp hỗ trợ của các cơ quan ban ngành liên quan. PHỤ LỤC CHƯƠNG 2 Nguồn số liệu điều chỉnh của phòng tín dụng MSB Hà Nội. BẢNG 1 : Các hạng mục đầu tư và cơ cấu nguồn vốn đầu tư. BẢNG 2 : Giá vốn hàng bán BẢNG 3 : Tính toán khấu hao TSCĐ dự án theo phương pháp đường thẳng BẢNG 4 : Tính toán hiệu quả và khả năng trả nợ, khấu hao theo năm BẢNG 5 : Tính nguồn trả nợ gốc và lãi vay BẢNG 6 : Công suất hoạt động dự kiến của dự án. BẢNG 7A : Thời gian hoàn vốn đầu tư (theo số liệu tính toán của chủ dự án) BẢNG 7B : Thời gian hoàn vốn đầu tư (theo số liệu điều chỉnh của phòng tín dụng MSB Hà Nội) BẢNG 8 : Độ nhạy của NPV Bảng 1: CÁC HẠNG MỤC ĐẦU TƯ VÀ CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ (SỐ LIỆU ĐIỀU CHỈNH CÚA PHÒNG TÍN DỤNG) A Các hạng mục đầu tư xuất sứ số lượng đơn giá thành tiền tỷ trọng I Chi phí xây lắp 17,500.00 28,05% 1 San lấp mặt bằng xây dựng dự án 45000m2 7,000.00 2 Nhà xưởng sản xuất chính 15000m2 7,000.00 3 Nhà cân 500 4 Nhà văn phòng, nhà ở CBCNV, đường đi hệ thống cấp thoát nước, các công trình trợ 3,000.00 II Máy móc thiết bị 39,127.00 62,71% 1 Dây chuyền sản xuất băng cán nguội Trung quốc 1bộ 20,500.00 Máy cán nguội 5.800.000CNY 11,600.00 Dây truyền rửa axit 1.150.000CNY 2,300.00 Hệ thống lò ủ 1.800.000CNY 3,600.00 Máy mài bề mặt 500.000CNY 1,000.00 Thiết bị phụ 1.000.000CNY 2,000.00 2 Dây truyền sản xuất ống thép hàn Trung quốc 3bộ 6,627.00 Dây truyền sản xuất ống thép CD20 Trung quốc 1 55.500$ 871.00 Dây truyền sản xuất ống thép CD50 Trung quốc 1 111.850$ 1,756.00 Dây truyền sản xuất ống thép CD76 Trung quốc 1 154.800$ 2,430.00 Galê khuôn hình Đài loan 1 100.000$ 1,570.00 3 Dây truyền cắt tôn tự động 2bộ 5,000.00 Máy cắt (0,4 - 4)mm x1600 Trung quốc 1 1250.000CNY 2,500.00 Máy cắt (1 - 6) mmx 2000 Trung quốc 1 1250.000CNY 2,500.00 4 Cần trục 5 - 25 tấn Đức 15chiếc 5,000.00 5 Trạm biến áp 4000KVA Việt Nam 2trạm 1000trđ 2,000.00 III Chi phí thiết bị văn phòng 43.00 0,07% 1 Máy Scaner Nhật 1chiếc 13trđ 13.00 2 Máy photocopy Nhật 1chiếc 15trđ 15.00 3 Tổng đài điện thoại Nhật 1chiếc 15trđ 15.00 3,21% IV Chi phí giai đoạn kết thúc đầu tư 2,000.00 Chi phí lắp đặt vận hành và chạy thử 2,000.00 V Chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng dự án 2,719.00 4,36% Chi phí trả lãi vay trung hạn trong thời gian xây dựng dự án 2,719.00 VI Chi phí dự phòng 1,000.00 1,6% Tổng vốn đầu tư 62,389.00 100% B Cơ cấu nguồn vốn đầu tư dự án dự kiến sô tiền tỷ trọng Vốn đầu tư cố định 62,389.00 100.00% Vốn của doanh nghiệp tham gia: 30.589.00 49.03% San lấp, giải phóng mặt bằng xây tường rào 7,000.00 Xây dựng nhà xưởng chính 7,000.00 Xây dựng nhà cân, trạm biến thế 2,500.00 Xây dựng nhà văn phòng và các hạng mục phhụ trợ 3,000.00 Mua thiết bị văn phòng 43.00 chi phí lắp đặt vận hành chạy thử 2,000.00 Chi trả lãi vay và dự phòng 3,719.00 Tham một phần vào mua máy móc thiết bị 5,327.00 Vốn vay ( để thanh toán tiền nhập máy móc) 31,800.00 50.97% Trong đó vay MSB 16,800.00 26.93% (Nguồn báo cáo thẩm định phòng tín dụng MSB Hà Nội) Bảng 3 TÍNH TOÁN KHẤU HAO TSCĐ THEO PHƯƠNG PHÁP ĐƯỜNG THẲNG Đơn vị trđ đv: Tr.đồng Hạng mục Năm thứ 1 Năm thứ 2 Năm thứ 3 Năm thứ 4 Năm thứ 5 Năm thứ 6 Năm thứ 7 Năm thứ 8 Phần xây lắp, nhà xưởng 2,188 2,188 2,188 2,188 2,188 2,188 2,188 2,188 Phần MMTB 5,596 5,596 5,596 5,596 5,596 5,596 5,596 0 Lãi vốn hoá + Chi phí khác 674 674 674 674 674 674 674 Tổng cộng khấu hao theo năm 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 2,188 Phần nhà xưởng, công trình xây dựng khấu hao trong 08 năm Phần máy móc thiết bị và vốn hoá khấu hao trong 07 năm (Nguồn báo cáo thẩm định phòng tín dụng MSB Hà Nội) BẢNG 4: TÍNH TOÁN HIỆU QUẢ VÀ KHẢ NĂNG TRẢ NỢ, KHẤU HAO (THEO SỐ LIỆU ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÒNG TÍN DỤNG)_ Hạng mục Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6 Năm 7 Năm 8 Công suất thiết kế 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% Bảng cán nguội 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 Thép hình và SP pha cắt 24,000 24,000 24,000 24,000 24,000 24,000 21,000 21,000 Ống thép hàn 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 30,000 Công suất thực hiện 40% 50% 60% 65% 70% 70% 70% 70% Bảng cán nguội 6,000 7,500 9,000 9,750 10,500 10,500 10,500 10,500 Thép hình và SP pha cắt 6,720 8,400 10,080 10,920 11,760 11,760 11,760 11,760 Ống thép hàn 7,200 8,640 10,368 12,442 14,930 17,916 21,000 21,000 Doanh số bán dự tính 199,680 245,640 294,768 332,638 375,069 407,915 441,840 441,840 Bảng cán nguội 60,000 75,000 90,000 97,500 105,000 105,000 105,000 105,000 Thép hình và SP pha cắt 60,480 75,600 90,720 98,280 105,840 105,840 105,840 105,840 Ống thép hàn 79,200 95,040 114,048 136,858 164,229 197,075 231,000 231,000 Giá vốn hàng bán 179,468 220,811 264,974 298,896 336,877 366,107 396,298 396,298 Lợi nhuận gộp 20,212 24,829 29,794 33,745 38,192 41,808 45,542 45,542 Chi phí quản lý và bán hàng 7,987 9,826 11,791 13,306 15,003 16,317 17,674 17,674 Chi phí thuê đất 0 0 0 0 110 110 110 110 Lợi nhuận trước khấu hao và lãi vay 12,224 15,003 18,004 20,436 23,079 25,381 27,759 27,759 Lãi vay cố định 3,625 3,399 2,492 1,586 680 Khấu hao 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 2,188 Lợi nhuận trước thuế 142 3,147 7,054 10,393 13,942 16,924 19,302 25,571 Thuế lợi tức (28%) - 988 1,455 1,952 4,739 5,404 7,160 Lợi nhuận sau thuế 142 3,147 6,066 8,938 11,990 12,185 13,897 18,411 Khả năng trả nợ 1. Nguồn trả nợ -62,389 8,599 11,604 14,524 17,395 20,447 20,642 22,354 20,599 Lợi nhuận sau thuế 142 3147 6,066 8,938 11,990 12,185 13,897 18,411 Khấu hao 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 8,457 2,188 2. Nợ gốc phải trả 31,800 7950 7950 7950 7950 3. Cân đối sau trả nợ (1 - 2) 8,599 3,654 6,574 9,445 12,497 20,642 22,354 20,599 NPV (11%, 8 năm) 17,776 IRR (8 năm) 18,1% - Thời gian hoàn vốn GĐ 54tháng Thời gian hoàn vốn có CK 11% 71tháng BẢNG 5: TÍNH NGUỒN TRẢ NỢ GỐC, LÃI VAY (THEO SỐ LIỆU ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÒNG TÍN DỤNG) Năm Kỳ trả nợ 6tháng/1k Gốc vay Trả nợ Dư nợ Lãi vay Cộng Nguồn trả nợ gốc Chênh lệch Khấu hao LN ròng Cộng 1 2 3 4 5 6 7=4+6 8 9 10=8+9 1 31800 0 31800 1813 4229 60 4289 2476 0 31800 1813 4229 60 4289 2476 Cộng 0 3625 3625 8457 121 8578 8578 2 31800 1 3975 27825 1813 5788 4229 1337 5566 1,591 2 3975 23850 1586 5561 4229 1337 5566 1,591 Cộng 7950 3399 11349 8457 2675 11132 3,182 3 1 3975 19875 1359 5334 4229 2578 6807 2832 2 3975 15900 1133 5108 4229 2578 6807 2832 Cộng 7950 2492 10442 8457 5156 13614 5664 4 1 3975 11925 906 4881 4,229 3,799 8,027 4,052 2 3975 7950 680 4655 4,229 3,799 8,027 4,052 Cộng 7950 1586 9536 8,457 7,597 16,055 8,105 5 1 3975 3975 453 4428 4229 5096 9324 5349 2 3975 227 4202 4229 5096 9324 5349 Cộng 7950 680 8630 8457 10192 18649 10,699 Với vốn khấu hao hàng năm là: 8,457 Dùng 100% để trả nợ: 8,457 Dùng 85% lợi nhuận ròng hàng năm để trả nợ: Năm 1 121 Năm 2 2,675 Năm 3 5,156 Năm 4 7,597 Năm 5 10,192 (Nguồn báo cáo thẩm định phòng tín dụng MSB Hà Nội) Bảng 6: CÔNG SUẤT HOẠT ĐỘNG DỰ KIẾN CỦA DỰ ÁN. C«ng suÊt ho¹t ®éng dù kiÕn 30% 40% 50% 67% 73% 80% 87% 93% 100% 100% S¶n l­îng, trong ®ã: 4,500 12,000 15,000 20,000 22,000 24,000 26,000 28,000 30,000 30,000 - XuÊt khÈu: 1,350 4,800 7,500 12,000 15,400 16,800 18,200 19,600 21,000 21,000 - Néi ®Þa: 3,150 7,200 7,500 8,000 6,600 7,200 7,800 8,400 9,000 9,000 (Nguồn báo cáo thẩm định phòng tín dụng MSB Hà Nội) B¶ng 7A: Thêi gian hoµn vèn ®Çu t¦ (Theo sè liÖu tÝnh to¸n cña dù ¸n) Cuèi n¨m TrÞ gi¸ Thêi gian hoµn vèn G§ Thêi gian hoµn vèn cã chiÕt khÊu víi i=11% Dßng thu Dßng Chi CFAT Sè d gi¸ trÞ ®Çu t Sè th¸ng Dßng thu Dßng chi CFAT1 Sè d gi¸ trÞ ®Çu t Sè th¸ng B C 11% 11% 11% 0 - -68,083 (68,083) - (68,083) (68,083) 1 252,480 241,115 11,365 (56,718) 12 227,459 217,221 10,239 (57,844) 12 2 315,600 299,969 15,631 (41,087) 12 256,148 243,461 12,687 (45,157) 12 3 378,720 361,206 17,514 (23,573) 12 276,917 264,111 12,806 (32,351) 12 4 410,280 390,512 19,768 (3,805) 12 270,264 257,242 13,022 (19,330) 12 5 441,840 419,897 21,943 - 2 262,211 249,189 13,022 (6,308) 12 6 441,840 419,282 22,558 236,226 224,165 12,061 - 6 7 441,840 419,282 22,558 212,816 201,950 10,865 8 441,840 421,075 20,765 191,726 182,715 9,011 Céng: 50 66 B¶ng 7B: Thêi gian hoµn vèn ®Çu t­ (Theo sè liÖu ®iÒu chØnh cña phßng tÝn dông) Cuèi n¨m TrÞ gi¸ Thêi gian hoµn vèn G§ Thêi gian hoµn vèn cã chiÕt khÊu víi i=11% Dßng thu Dßng Chi CFAT Sè du gi¸ trÞ ®Çu tu Sè th¸ng Dßng thu Dßng chi CFAT1 Sè d gi¸ trÞ ®Çu t Sè th¸ng B C 11% 11% 11% 0 - (68,083) (68,083) - (68,083) (68,083) 1 199,680 191,733 7,947 (60,136) 12 179,892 172,733 7,159 (60,924) 12 2 245,640 234,701 10,939 (49,197) 12 199,367 190,489 8,878 (52,046) 12 3 294,768 279,973 14,795 (34,402) 12 215,532 204,714 10,818 (41,228) 12 4 332,638 315,708 16,930 (17,472) 12 219,119 207,966 11,152 (30,075) 12 5 375,069 354,763 20,306 - 10 222,585 210,535 12,051 (18,025) 12 6 407,915 387,068 20,846 218,088 206,943 11,145 (6,879) 12 7 441,840 419,282 22,558 212,816 201,950 10,865 - 7 8 441,840 421,075 20,765 191,726 182,715 9,011 - - Céng: 58 79 B¶ng 8: ®é nh¹y cña NPV (Theo sè liÖu ®iÒu chØnh cña phßng tÝn dông) Cuèi n¨m Gi¸ trÞ cã biÕn ®éng Max Gi¸ trÞ cã biÕn ®éng Min HiÖn gi¸ i= 11% Dßng thu Dßng chi CFAT Dßng thu Dßng chi CFAT CFAT CFAT 10% -10% Max -10% 10% Min Max Min (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (9) (10) 0 -68,083.00 -68,083.00 -68,083.00 1 219,648.00 172,560.00 47,088.00 179,712.00 210,907.00 (31,195.00) 2 270,204.00 211,231.00 58,973.00 221,076.00 258,171.00 (37,095.00) 3 324,245.00 251,976.00 72,269.00 265,291.00 307,970.00 (42,679.00) 4 365,901.00 284,137.00 81,764.00 299,374.00 347,278.00 (47,904.00) 5 412,576.00 319,287.00 93,289.00 337,562.00 390,239.00 (52,677.00) 6 448,706.00 348,362.00 100,344.00 367,123.00 425,775.00 (58,652.00) 7 486,024.00 377,353.00 108,671.00 397,656.00 461,210.00 (63,554.00) 8 486,024.00 378,967.00 107,057.00 397,656.00 463,182.00 (65,526.00) 9 10 Céng: 303,345.07 -279,927.82 Víi suÊt thu lîi tèi thiÓu (MARR) i = 11% Víi biÕn ®éng cña dßng thu lµ: 10% Víi bbiÕn ®éng cña dßng chi lµ: 10% §é nh¹y cña NPV: Cã gi¸ trÞ cao nhÊt: PVi = 303,345.07 Cã gi¸ trÞ nhá nhÊt: PVi= -279,927.82 X¸c xuÊt ®Ó NPV cã gi¸ trÞ >= 0 theo ph©n phèi chuÈn N(X,m,d)= 54.79% TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình thẩm định tài chính dự án PGS.TS Lưu Thị Hương – NXB tài chính 2004. 2. Giáo trình tài chính doanh nghiệp PGS.TS Lưu Thị Hương - NXBThống kê 2005. 3. Quản trị tài chính doanh nghiệp PGS. TS Vũ Duy Hào – NXB Thống kê 2004 4. Dự án đầu tư - Lập - thẩm định hiệu quả tài chính Ths. Đinh Thế Hiển – NXB Thống kê 5. Phân tích tài chính thẩm định dự án đầu tư Nguyễn Tấn Bình – NXB Tp Hồ Chí Minh 2005. 6. Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng – NXB Thống kê 1999. 7. Ngân hàng thương mại TS. Phan Thị Thu Hà – NXB Thống kê 2002. 8. Chuyên đề thẩm định tín dụng - Trung tâm bồi dưỡng và tư vấn về tài chính vi mô - Đại học Kinh tế quốc dân 2003. 9. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2005, 2006. 10. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ các số 7,8,12/2005; Số1,2,3,4/2006 11. Trang báo điện tử: Tin tức, vnexpress, dân trí,vneconomy…. 12. Trang Web của bộ tài chính: mof.gov.vn, 13. Trang Web của ngân hàng Nhà nước: sbv.gov.vn 14. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh MSB Hà Nội năm 2005. 15. Các văn bản hướng dẫn cho vay của MSB Hà Nội. 16. Luận văn các khoá 42, 43 trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0146.doc
Tài liệu liên quan