Nâng cao chất lượng tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank)

Tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank): ... Ebook Nâng cao chất lượng tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank)

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển ấn tượng trong hai thập niên gần đây. Sự chuyển dịch dần từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung truyền thống sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bắt đầu từ năm 1986 đã mang lại những cải thiện to lớn về hiệu quả kinh tế và mức sống dân cư.Ngày nay, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang giữ vị trí rất quan trọng trong sự phát triển đó.Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả nền kinh tế quốc dân đã đề ra, đồng thời để hội nhập với xu hướng hội nhập quốc tế, các thành phần kinh tế phải biết khai thác toàn diện và hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là phải tận dụng được sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng. Muốn vậy, ngành ngân hàng phải giải quyết hàng loạt khó khăn mà hiện nay doanh nghiệp đang gặp phải. Để làm được điều đó đòi hỏi có sự thống nhất chung giữa bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng, đặc biệt, các giải pháp của ngân hành thương mại nhằm nâng cao chất lượng tín dụng mang tính chất quyết định. Nhiều ngân hàng cho biết đã tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đối tượng này làm ăn hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển và phù hợp với khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn kêu khó tiếp cận với ngân hàng và thực tế cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Một phần là do khách hàng truyền thống và do mục tiêu của các NHTM chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, tuy nhiên lý do chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì những cản trở đó, việc đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề đặc biệt cần quan tâm của NHTM. Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam tên viết tắt là: (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993. Chiến lược của VPBank được Hội đồng quản trị xác định là “Phấn đấu đến năm 2010 trở thành ngân hàng hàng đầu khu vực phía Bắc, Ngân hàng trong top 5 của cả nước, một ngân hàng có tầm cỡ của khu vực Đông Nam Á về chất lượng, hiệu quả, độ tin cậy ”, trong đó thị trường mục tiêu của VPBank đó là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô vừa và nhỏ. VPBank lấy đối tượng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ làm trọng tâm đầu tư và khai thác, vì vậy, vấn đề được quan tâm hàng đầu là hiệu quả cho vay các doanh nghiệp này. Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Nâng cao chất lượng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank ”. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 chương chính: CHƯƠNG I : Lý luận hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ CHƯƠNG II : Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank CHƯƠNG III : Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế cộng với thời gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo và các anh, chị trong Chi nhánh ngân hàng VP bank để chuyên đề của em được hoàn thiện và đầy đủ hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN HIỆU QUẢ CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ thật rõ ràng, đòi hỏi các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách cần đứng trên những điều kiện cụ thể của mỗi một quốc gia cũng như thời điểm nghiên cứu khái niệm. Do mỗi một quốc gia có một điều kiện kinh tế khác nhau và có những đặc trưng riêng biệt, vì vậy sự phân loại các doanh nghiệp là không thống nhất ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ví dụ, một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước này được xem là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong môi trường kinh tế của quốc gia khác thì lại là doanh nghiệp lớn, hoặc doanh nghiệp rất lớn…Tương tự, tại một thời điểm trong quá khứ một doanh nghiệp được coi là lớn những đến nay lại chỉ được coi là có quy mô vừa và nhỏ. Cho nên, khi nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ thì ta phải hiểu rằng, các doanh nghiệp đó đang nằm tại quốc gia nào, trong một môi trường kinh tế như thế nào, tại thời điểm nào. Nói cách khác, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia, tại một thời điểm nhất định. Mặc dù vậy, việc đưa ra một khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ cho riêng mình lại đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thực tiễn đã chứng minh rằng quốc gia có một khái niệm kinh tế càng rõ ràng thì các chính sách hỗ trợ đưa ra càng hiệu quả. Thông thường, khái niệm hay định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên các nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng, trong đó, các chỉ tiêu định lượng đóng vai trò quyết định phân biệt nhóm doanh nghiệp này với các doanh nghiệp lớn. Có ba chỉ tiêu định lượng thường được dùng độc lập, hoặc kết hợp với nhau, để xác định mức độ vừa và nhỏ của doanh nghiệp: Lượng vốn đầu tư vào máy móc dây truyền sản xuất Số lượng lao động Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh. Xét về mặt định tính, các chỉ tiêu thường được đưa ra là cơ cấu của công ty, cơ cấu quản lý, ngành nghề kinh doanh, người ra quyết định chính và các rủi ro có thể xẩy ra. Đối với hầu hết các nước trên thế giới sự phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ không liên quan đến hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, tức là khái niệm sẽ được áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nhiệp. Sau đây là một số định nghĩa của một vài quốc gia tiêu biểu trên thế giới: Trong các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), doanh nghiệp vừa và nhỏ được xếp thành các nhóm cụ thể như sau: Doanh nghiệp có quy mô vừa nếu có ít hơn 250 nhân viên, doanh thu hàng năm không vượt quá 50 triệu EUR, hoặc giá trị tổng tài sản không vượt quá 43 triệu EUR. Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50 công nhân, doanh thu hàng năm không vượt quá 10 triệu EUR hoặc giá trị tổng tài sản không vượt quá 9 triệu EUR. Doanh nghiệp cực nhỏ nếu có ít hơn 10 nhân viên, doanh thu hàng năm nhỏ hơn 1 triệu EUR, hoặc tổng tài sản nhỏ hơn 1,4 triệu EUR. Tại Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,7% số doanh nghiệp tại Nhật Bản, 70% số nhân công Nhật làm việc cho những công ty này, giá trị sản xuất chiếm một nửa tổng giá trị ngành sản xuất. Hoạt động của họ tập trung vào sản xuất hàng điện tử, kỹ thuật và hóa học; cụ thể như sau: Bảng 1: Xác định quy mô doanh nghiệp Các doanh nghiệp vừa Khu vực Quy mô lao động / Vốn Sản xuất, khai thác và chế biến < 300 người / 100 triệu Yên Bán buôn < 100 người / 30 triệu Yên Bán lẻ và dịch vụ < 50 người / 10 triệu Yên Các doanh nghiệp nhỏ Khu vực Quy mô lao động / Vốn Sản xuất < 20 người/5 triệu Yên Thương mại và dịch vụ < 5 người/dưới 5 triệu Yên (Nguồn: Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương) Tại Indonesia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trong nước,thu hút từ 60% - 70% việc làm tại các doanh nghiệp. Inđônêxia cho rằng doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lượng công nhân từ 20-99 người, vốn tư bản trêm 600 triệu RP (tiền Inđônêxia) doanh nghiệp nhỏ có số lượng công nhân từ 5-19 người và vốn tư bản dưới 600 triệu RP còn doanh nghiệp cực nhỏ có số lượng lao động từ 1-4 người (Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương) Tại Việt Nam, căn cứ nghị định của chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm : Các hộ kinh doanh có thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã. Như vậy quan niệm của một số quốc gia về thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ yếu căn cứ vào qui mô về vốn và lao động của doanh nghiệp đó.Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn dành được sự quan tâm đặc biệt của các chính phủ, cho dù đó là nước công nghiệp phát triển hay nước đang phát triển. Quốc gia có nền kinh tế càng phát triển thì sự phân biệt về doanh nghiệp vừa và nhỏ càng rõ ràng và chi tiết.Mặc dù khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng ta có thể kết luận rằng thuật ngữ doanh nghiệp vừa và nhỏ là hàm ý nói tới một tập hợp các thực thể kinh tế có quy mô vừa và nhỏ xét trên phương diện vốn và lao động so với mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế ở một quốc gia nhất định. 1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ Đã được xếp vào loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì xét về quy mô vốn và nguồn nhân lực so với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp này luôn bị hạn chế khiến họ gặp khó khăn về rất nhiều mặt. Có thể kể đến những hạn chế đó là: Năng lực cạnh tranh yếu, trình độ tay nghề chưa cao, giá lao động đang tăng lên ảnh hưởng tới giá thành, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm; thiếu sự quan tâm kiểm soát chất lượng sản phẩm cùng với những phương pháp kiểm soát có hiệu quả Năng suất lao động thấp, mà điều này phần lớn do nhân tố trình độ công nghệ thấp quyết định. Ít vốn và thiếu sự hỗ trợ tài chính Phương pháp quản lý yếu kém, công tác nghiên cứu và phát triển hầu như không có hoặc nếu có thì cũng được tiến hành rất chậm. Khâu quảng bá thương hiệu cũng còn hạn chế do chi phí cao.Các doanh nghiệp này thường phải đối mặt với một thực tế là những nhân viên giỏi rất dễ ra đi trước những sự lôi kéo của các công ty hay tập đoàn lớn Về vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết định, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn không nhỏ, nhất là các khoản vay trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc đầu tư vào khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, do nhận thức chưa thông thoáng, cho nên bị hạn chế rất nhiều. Việc tiếp cận các nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế. Với tỷ trọng hơn 90% trong tổng số các doanh nghiệp ở hầu hết các nước trên thế giới, đáng lẽ khu vực này phải là “khách hàng ruột” của các ngân hàng thương mại, song thực tế là tỷ lệ các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng lại rất hạn chế. Trong khi đó nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn bao gồm cả vốn ngắn hạn và trung dài hạn. Nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện do tính chất thời vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương mại. Các khoản vay chủ yếu dựa trên những hợp đồng tiêu thụ có sẵn, hoặc các hợp đồng cung cấp đã ký. Quy mô của khoản vay thường không lớn nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường vay nhiều lần và với thời hạn ngắn vì vậy nếu tính theo doanh số cho vay thì con số này khá cao, có thể tương đương với một doanh ngiệp lớn. Vốn dài hạn dùng để tài trợ tài sản cố định và mở rộng sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp đều muốn mở rộng phạm vi hoạt động mở rộng quy mô để có thể trở thành các doanh nghiệp lớn hơn. Để thực hiện các chiến lược đặt ra, các kế hoạch Marketing, đổi mới công nghệ, doanh nghiệp vừa và nhỏ đều cần tới nguồn vốn dài hạn. Để đáp ứng các nhu cầu về vốn, doanh nghiệp vừa nhỏ thường huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: Vay từ các cá nhân, tín dụng thương mại Vay từ ngân hàng thương mại Vay từ các quỹ tín dụng Vay từ các nguồn khác Bảng 2 : Các nguồn tín dụng của DNVVN Việt Nam (%) Nguồn Khu vực nông thôn Khu vực thành thị Tổng Vay từ cá nhân, tín dụng thương mại 72.5 66 70.8 Ngân hàng thương mại 22.5 23.1 22.7 Quỹ tín dụng 3.5 1.2 2.6 Nguồn khác 1.5 9.7 3.9 Tổng 100 100 100 (Nguồn : Phòng thống kê, Bộ Kế hoạch đầu tư, tháng 9 năm 2007) Thực tế cho thấy, cơ hội cho các DNVVN tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng đang ngày càng được mở ra. Theo báo cáo của các ngân hàng, trong thời gian gần đây, phần lớn các ngân hàng thương mại đều xác định  DNVVN là khách hàng quan trọng, với các chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ cho vay từ 30 đến 40%. Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương  cũng có con số tương đồng là  44% số ngân hàng được hỏi cho DNVVN vay với tỷ trọng vốn khoảng 38% dư nợ. Doanh nghiệp thì cần vốn, ngân hàng thì cần cho vay, nhưng hai bên vẫn loay hoay tìm đường đến với nhau, nhiều vướng mắc trong quá trình tiếp cận tín dụng là do vốn thực của các doanh nghiệp luôn thấp hơn số vốn đăng ký. Ngân hàng luôn "ngán ngẩm" trước tình trạng  thiếu minh bạch trong hồ sơ sổ sách, quan hệ tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp, cũng như sự thiếu chuyên nghiệp trong xây dựng dự án cũng là trở ngại khi vay vốn. Theo kết quả điều tra của Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), hiện có đến 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là từ kênh ngân hàng.Tuy nhiên, chỉ có 32,38% những doanh nghiệp này có khả năng tiếp cận được nguồn vốn của các ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Ngoài ra, những vụ án về doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu chụp giật, lừa đảo..., cũng gây áp lực tâm lý cho ngân hàng.  Bản thân chỉ tiêu đặt ra, buộc cán bộ tín  dụng phải cho vay đủ doanh số, kế hoạch hằng tháng, nhưng những chỉ tiêu về cho vay  DNVVN nhiều khi là một áp lực thật sự, bởi những vướng mắc như việc phân loại doanh nghiệp, các chỉ số đánh giá chưa chính xác; hệ thống thông tin về khách hàng chưa đạt yêu cầu, vì vậy việc xem xét thực trạng hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, trách nhiệm đối với các khoản tín dụng nhiều khi chưa rõ ràng..., khiến cán bộ tín dụng ngập ngừng. Trong trường hợp này, cách làm của các ngân hàng cổ phần đang tỏ ra hiệu quả và năng động hơn khi xây dựng những gói sản phẩm, được trình bày khá chi tiết, cụ thể, giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện những yêu cầu đặt ra. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn bài bản, việc áp dụng những chuẩn mực đề ra cũng không quá khó khăn, thậm chí, ngân hàng phải đến tận nơi phục vụ. Tuy nhiên, cách hành xử của một số ngân hàng  khai thác khách hàng dựa trên mối quan hệ, tạo một thông lệ không tốt cho các doanh nghiệp, cũng như  sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng đã dẫn tới việc cho vay chỗ khó vẫn khó mà chỗ dễ thì lại quá dễ. Các doanh nghiệp này thường tranh thủ chiếm dụng vốn của nhau thông qua hình thức tín dụng thương mại, hoặc vay từ các cá nhân bạn bè. Chính những lý do trên cùng với sự cố gắng vươn lên để tồn tại và có được một chỗ đứng trên thị trường là những lý do khách quan tạo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ những đặc điểm riêng có của mình. Với sự đa dạng về ngành nghề và phương thức tiêp cận thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất linh hoạt và năng động. Lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp này rất phong phú,vì vậy đây là cơ hội tốt cho các chủ doanh nghiệp tìm kiếm các lĩnh vực mà ở đó sự cạnh tranh chưa cao song lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng. Hơn nữa, các doanh nghiệp này dể dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh với chi phí thấp bởi lượng vốn bỏ vào không lớn, vì vậy trước những sự biến động mạnh về cung cầu trên thị trường nhóm doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng ít hơn, dễ phục hồi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Về ngành nghề kinh doanh, phải nói rằng do vốn và nhân lực hạn chế, rất nhiều lĩnh vực mà doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tham gia như các ngành công nghiệp năng, luyện kim, khai thác mỏ, ngân hàng tài chính … Nhưng bên cạnh đó lại có những mặt mà doanh nghiệp lớn nếu làm sẽ không đạt hiệu quả cao như mong đợi. Vì thế, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là các ngành công nghiệp nhẹ như : may mặc, chế biến, gia công thô sơ, xử lý phần thô, sản xuất bao bì, đóng gói ,…Về dịch vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung vào các lĩnh vực như vận tải nội thành, vui chơi giải trí, ẩm thực, bảo hành chăm sóc khách hàng … Lĩnh vực thương mại cũng là một trong những thế mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ như thu mua nguyên vật liệu trong và ngoài nước, đại diện bán hàng, tham gia và các kênh phân phối sản phẩm. Có thể nói rằng các ngành được nêu ở trên thường có số vốn đầu tư ban đầu ít, sử dụng nhiều vốn chiếm dụng, công nghệ sử dụng ở mức trung bình, lao động sử dụng chủ yếu là lao động phổ thông có trình độ vừa phải. Có thể nhận thấy rõ là thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là phục vụ các doanh nghiệp lớn như làm nhà cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán hàng, kênh phân phối, hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có quy mô nhỏ và độ sâu hạn chế . Những thị trường này chứa đựng nhiều rủi ro và không ổn định khiến cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trở nên bấp bênh, sự cạnh tranh vì thế mà trở nên gay gắt. Các nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ ra rằng đối thủ cạnh tranh lớn nhất không phải là các doanh nghiệp lớn mà chính là các doanh nghiệp có cùng quy mô. Bởi vì, các doanh nghiệp lớn có thị trường ổn định, nhóm khách hàng mục tiêu thường được xác định trước. Khi có ý định mở rộng thị trường các doanh nghiệp lớn thường tìm kiếm những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu, những thị trường nhỏ thường được bỏ qua hoặc không có khả năng bao quát hết toàn bộ thị trường. Một lý do khác nữa là lý thuyết cá lớn nuốt cá bé không còn được áp dụng phổ biến bởi vì các doanh nghiệp lớn cũng nhận ra được sự cần thiết của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển của mình. Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số lượng đông đảo và đều có mục địch giống nhau là tìm kiếm những thị trường còn bỏ trống. Các thị trường này quá nhỏ bé để có thể chứa nhiều doanh nghiệp trong đó cho dù đó là những doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất nhạy cảm với các thị trường này. Khi một doanh nghiệp tìm thấy được một thị trường còn bỏ ngỏ và đầu tư vào thị trường đó thì gần như ngay lập tức có rất nhiều doanh nghiệp khác cũng tham gia vào, ví dụ như trong lĩnh vực ăn uống, dịch vụ sửa chữa, bảo hành. Về khả năng cạnh tranh, các DNVVN Việt Nam có nhiều lợi thế, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém: Thứ nhất, chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém. Đội ngũ chủ DN, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ DN và giám đốc DN tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các DN hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ DN mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại. Thứ hai, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các DNVVN. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,... thì các sản phẩm sản xuất của các DN Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực. Thứ ba, năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều DN còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng DN nhỏ và vô cùng nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao. Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang chiếm tới 97% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 26% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 44,1%, quy mô lao động dưới 10 người chiếm 46,6%. Nếu so sánh năm 2006 với năm 2000, số vốn và số lượng lao động bình quân trong mỗi DN đã giảm từ 26 tỷ đồng và 84 lao động xuống còn 24 tỷ đồng và 72 lao động (theo số liệu của Tổng cục Thống kê). Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số khá lớn DNVVN còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các DNVVN bị các cơ quan chức năng phàn nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của DN về luật pháp còn nhiều hạn chế. Tâm lý làm ăn chuôi vẫn còn khá phổ biến. Thứ năm, sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh. Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Nhiều DN ở Việt Nam, đặc biệt là các DNVVN chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI, chỉ có gần 10% số doanh nghiệp là thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu; Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị trường nước ngoài không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không có các hoạt động tìm hiểu thị trường nước ngoài. Hội nhập quốc tế đã buộc các DN phải nâng cao khả năng cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên thương trường. Năng lực của các nhà quản lý DN là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của DN. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp và ở mức độ cao hơn hẳn 5 năm trước; trong đó cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh tranh. Với những đặc điểm nêu trên, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung vào một số dạng sau: Các sản phẩm thủ công với chủ yếu là các đồ mỹ nghệ có tính cá biệt cao, do đó mà không thể áp dụng sản xuất hàng loạt. Sản phẩm thủ công thường phục vụ cho nhóm khách hàng đặc biệt hoặc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Giá cả của loại sản phẩm này thường cao do có chi phí sản xuất lớn. Các sản phẩm được dùng làm nguyên liệu đầu vào cho các công ty lớn với chức năng như nguyên vật liệu phụ của quá trình sản xuất, thường là : các bộ phận phụ của một chi tiết lớn như các ngành cơ khí, tự động hoá , công nghiệp ô tô, máy bay,… với giá cả thấp. Sản phẩm loại này có hàm lượng ký thuật thấp nhưng lại rất cần thiết cho việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Các sản phẩm tiêu dùng khác phục vụ cho nhóm khách hàng bình dân hoặc lấp chỗ trống trên thị trường Các sản phẩm kiểu này có chất lượng trung bình, giá cả phải chăng chủ yếu phục vụ những khách hàng dễ tính. Các sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp thường đa dạng và có sự khác biệt giữa những doanh nghiệp với nhau. Đối với từng khách hàng thì dịch vụ được cung ứng cũng khác nhau, giá cả của các dịch vụ cũng rất phong phú phụ thuộc vào đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ đó : như dịch vụ bảo hành, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ ăn uống giải trí, … 1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia, chúng chiếm tỷ trọng cao và có thể nói hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tất cả các nền kinh tế đạt tới sự phát triển như hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, giải quyết thất nghiệp và tiến bộ xã hội. Cho đến nay, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được khẳng định trên phạm vi toàn thế giới, được thể hiện cụ thể trên các khía cạnh sau: Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế sự gia tăng thu nhập ở các quốc gia. Tại Việt Nam, hiện tại doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 96% trong tổng số khoảng 250.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 25% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 77% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, và 26% lực lượng lao động trong cả nước. Nhìn ra một số nước trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Ngay như ở Mỹ, nơi sinh ra các tập đoàn hùng mạnh vào bậc nhất thế giới, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này thể hiện ở con số 40% GDP của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực này. Những doanh nghiệp lớn như Ford hay Microsoft cũng không thể hoạt động đơn lẻ mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ. Ở Bungary, theo thống kê năm 2006 các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra 30.72 % tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Năm 2003, doanh thu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan chiếm 36%, kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 51%. Nhật Bản cũng là một quốc gia mà sự đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ một phần quan trọng trong việc đảm bảo tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 64% doanh số bán buôn và 76% doanh số bán lẻ. Đây chỉ là những con số đóng góp trực tiếp, điều quan trọng là doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các doanh nghiệp này ở các vùng nông thôn tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân vì thế được thu hẹp dần. Mặt khác doanh nghiệp vừa và nhỏ thúc đẩy quá trình đô thị hoá, thu hút và tập trung dân cư vào các vùng trọng điểm. Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn là một kênh thu hút vốn nhàn rỗi mới trong dân cư bên cạnh những kênh huy động vốn truyền thống. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tham gia tích cực vào quá trình xoá đói giảm nghèo thể hiện ở việc tạo ra thu nhập cho người lao động và cung cấp những hàng hoá giá rẻ cho những người nghèo. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ tạo ra những sản phẩm giá rẻ, phù hợp với mức sống của người dân mà còn tạo ra một mạng lưới phân phối rộng khắp trải đều trên phạm vi đất nước. Chính vì vậy những người nghèo có điều kiện nâng cao mức sống của mình. Thứ ba, mặc dù trong mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng lao động không nhiều, nhưng bù vào đó, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn nên đã tạo ra một khối lượng việc làm lớn, tạo thu nhập cho người lao động nhất là những lao động phổ thông trong nền kinh tế. Tại Trung Quốc,theo thống kê năm 2007, lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 84,3% trong tổng số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp.Con số này ở Nhật Bản là 80%,ở Thái Lan là 73,8% và ở Việt Nam là 77%. Trong tình hình mà nền kinh tế đang có sự chuyển mình mạnh mẽ bằng việc tái cơ cấu nền kinh tế, kèm theo đó là những cuộc khủng hoảng kinh tế trong phạm vi khu vực diễn ra trong những năm gần đây trên thế giới, hầu hết các doanh nghiệp lớn đều có chính sách cắt giảm lao động với quy mô lớn. Nhưng ngược lại, tỷ trọng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng tăng lên đã làm hạn chế phần nào áp lực thất nghiệp đối với nền kinh tế. Các nước đều nhận thấy rằng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ là một giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề việc làm, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển, nơi mà lượng lao động tham gia vào thị trường tăng theo cấp số cộng hàng năm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, qua đó nâng cao trình độ, tay nghề và ý thức lao động. Việc trả lương phù hợp với năng lực của người lao động là yếu tố làm tăng năng suất lao động xã hội, chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia vì thế được cải thiện. Thứ tư khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ, làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Nói một cách khách doanh nghiệp vừa và nhỏ là người bán đồng thời là người mua quan trọng của các doan nghiệp lớn. Một doanh nghiệp lớn, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thường phải có được một mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm. Những đối tượng này, không ai khác chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này giúp cho các doanh nghiệp lớn làm giảm được sự ảnh hưởng do biến động thị trường gây ra cả về mặt cung và cầu, giảm chi phí sửa chữa bảo hành, chi phí quản lý vận chuyển và lưu trữ hàng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Thứ năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò như là trung tâm đào tạo các nhà doanh nghiệp, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển kỹ năng kinh doanh. Mọi người khi làm quen với môi trường kinh doanh thường bắt đầu với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ các nhà kinh doanh sẽ được làm quen với sự cạnh tranh, tiếp cận các ký năng quản lý cơ bản tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Họ sẽ là người lãnh đạo các doanh nghiệp này phát triển thành các doanh nghiệp lớn hoặc tự tìm kiếm các doanh nghiệp lớn để phát triển hơn nữa năng lực của mình. Nguồn nhân lực về quản lý vì thế được nâng cao cả về chất lượng cũng như số lượng. Các nhà nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tỷ lệ người dân làm kinh doanh với sự phát triển của nền kinh tế. Ở Bỉ, với số dân là 10 triệu ng._.ười thì có đến khoảng 700 nghìn người làm kinh doanh, ở Pháp có 60 triệu dân và số người làm kinh doanh là 2,4 triệu. Trong khi đó ở Việt Nam có 80 triệu dân, số người làm kinh doanh chỉ có khoảng 200 nghìn người. Thứ sáu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm hạn chế sự độc quyền của các tập đoàn lớn, duy trì tính cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cạnh tranh với nhau rất gay gắt nhằm tìm ra một chỗ đứng cho mình trên thị trường, để tồn tại và hơn nữa phát triển thành các doanh nghiệp lớn. Chính yếu tố này khiến cho nền kinh tế trở nên năng động hơn, dễ thích nghi hơn trước những biến động của thị trường trong nước cũng như quốc tế. Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy có nhiều mặt hạn chế nhưng vai trò của chúng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Cùng với các doanh nghiệp lớn chúng tạo ra sự cân đối trong nền kinh tế. Một nền kinh tế nếu chỉ toàn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ không thể tích tụ và tập trung vốn cho phát triển hạ tầng cơ sở, đổi mới công nghệ. Ngược lại các doanh nghiệp lớn sẽ không thể nào phát triển được nếu không có các doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và ổn định thì cần phải đặt vai trò của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ ngang tầm với nhau, do đó sự phân định và tăng cường sự hỗ trợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thị trường cạnh tranh trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi quốc gia. 1.2. CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM 1.2.1. Đặc điểm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, thông qua các hoạt động của mình điều tiết và định hướng các hoạt động đầu tư, trong đó hoạt động tín dụng là một công cụ dùng để hướng các nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau vào các hoạt động kinh tế hiệu quả. Khái niệm về hoạt động tín dụng có thể được hiểu như sau: Hoạt động tín dụng là hoạt động giao dịch về tài sản giữa bên cho vay - NHTM hoặc các định chế tài chính khác và bên đi vay - các thành phần kinh tế, dân cư, trong đó bên đi vay được quyền sử dụng tài sản của bên cho vay trong một thời gian nhất định theo các điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ.Với một số lượng ngày càng đông đảo như đã nói ở trên, các DNVVN đang là đối tượng khách hàng chủ đạo của hầu hết các ngân hàng (cả ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ). Các ngân hàng thường thành lập riêng một phòng chuyên trách về đối tượng khách hàng này để có thể nghiên cứu, phục vụ hiệu quả hơn, đồng thời triển khai một số giải pháp để mở rộng đối tượng khách hàng DNVVN, trong đó chú trọng hướng hoàn thiện các sản phẩm, đào tạo cán bộ chuyên trách nhóm khách hàng DNVVN Các ngân hàng thương mại cũng đang đưa ra nhiều giải pháp để tăng cường sự tiếp cận vốn cho các DNVVN như chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn Có thể nói tiềm năng của khối doanh nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của các ngân hàng thương mại. Đó là cam kết của sự phát triển, thể hiện ở sự chuyển động tích cực của tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như quy mô của các quỹ cho vay trong thời gian qua. 1.2.2. Các hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại đối với các DNVVN Căn cứ vào thời hạn tín dụng Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm các phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, hoặc đổi mới thiết bị công nghệ với thời gian thu hồi vốn nhanh Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm(Có thể có những quy định khác về thời gian trung và dài hạn) và trên 7 năm (đối với các nước trên thế giới). Loại tín dụng này nhằm phục vụ các công trình xây dựng lớn như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc có giá trị lớn. Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng: Cho vay thấu chi: Cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định ( hạn mức thấu chi ) và trong khoảng thời gian xác định. Cho vay trực tiếp từng lần: Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Cho vay luân chuyển: Dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa, ngân hàng cho khách hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay theo hạn mức: Trong kì khách hàng có thể vay – trả nhiều lần song dư nợ ko được vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng đã cấp. Cho vay trả góp: Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay gián tiếp: Ngân hàng thông qua các tổ, hội, nhóm sản xuất để cho vay. Căn cứ vào mục đích Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm xây dựng bất động sản Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại dịch vụ. Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các khoản chi phí trong sản xuất nông nghiệp như phân bón, giống cây trồng. Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm của cá nhân Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng Cho vay có đảm bảo là loại cho vay cần phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba 1.3. HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.3.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiệu quả cho vay trước hết phải được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng lựa chọn, đồng thời đem lại lợi nhuận cho ngân hàng không chỉ từ hoạt động cho vay mà còn từ các hoạt động dịch vụ khác, cùng lúc đó tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế và tạo công ăn việc làm. Trên giác độ ngân hàng, hiệu quả hoạt động tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phù hợp với khả năng, thực lực và theo hướng tích cực của ngân hàng đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Như vậy, hiệu quả tín dụng được coi là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối tương quan giữa khả năng sinh lợi và rủi ro, phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng trước sự thay đổi của môi trường, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong cuộc cạnh tranh trên thị trường. Hiệu quả cho vay phụ thuộc nhiều yếu tố như khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn, doanh thu chi phí và lợi nhuận. Để đo lường hiệu quả người ta căn cứ trên sự so sánh giữa yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của kỳ này so với kỳ trước, của đơn vị này so với đơn vị khác, so sánh với kỳ vọng đặt ra, hoặc so sánh với mặt bằng chung của ngành, lĩnh vực hoạt động. Trước đây, các ngân hàng có sự phân biệt giữa ngân hàng bán buôn và bán lẻ, tuy nhiên trong thời gian gần đây, các ngân hàng đã nhận thấy những tiềm năng tích cực từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự phân biệt cũng hầu như không còn nhờ đó chúng ta dễ dàng có sự so sánh về hiệu quả cho vay của mỗi ngân hàng đối với các doanh nghiệp này. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các DNVVN Để đánh giá về hiệu quả cho vay các DNVVN, chúng ta dùng một số chỉ tiêu như: Tỷ lệ vốn ngắn hạn đã sử dụng cho vay trung dài hạn Tỷ lệ khả năng chi trả ( TS có có thể thanh toán ngay/ TS nợ phải thanh toán ngay) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Vốn tự có/ TS có rủi ro) Tỷ lệ tài sản sinh lời ( Tài sản sinh lãi/ Tổng tài sản bình quân ) Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ Thu lãi doanh nghiệp/ Tổng thu lãi Đối với ngân hàng thương mại, để đánh giá hiệu quả cho vay người ta thường căn cứ trên các chỉ tiêu ROA ( đánh giá hiệu quả quản lý ) và ROE (đo lường mức thu nhập cho các cổ đông ). Tuy nhiên để đánh giá chính xác hơn về tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời, ngân hàng thường dựa vào tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên và tỷ lệ ngoài lãi cận biên. Nó chỉ ra khả năng duy trì sự tăng trưởng của các khoản thu ( chủ yếu thu từ lãi) so với mức tăng chi phí (chủ yếu chi trả lãi). Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm các nguồn vốn rẻ. Ngược lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi chủ yếu là thu từ các dịch vụ khác với các chi phí ngoài lãi (gồm tiền lương chi phí sửa chữa bảo hành, chi phí tổn thất tín dụng ).Để biết được hiểu quả cho vay, ngân hàng tiến hành tính toán rồi đem so sánh giữa tỷ lệ này ở đầu kì và cuối kì, giữa năm trước và năm nay, giữa các đơn vị cùng hệ thống cũng như với toàn ngành. Ngoài biện pháp đó, các nhà điều hành ngân hàng có thể dùng một chỉ tiêu mang tính truyền thống là chênh lệch lãi suất cơ bản: Chênh lệch LSCB = ( Thu lãi – Chi lãi)/ Tài sản sinh lãi bình quân. Chênh lệch lãi suất cơ bản không chỉ đo lường hiệu quả đối với hoạt động huy động và cho vay mà còn đo lường cường độ cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch này và lãnh đạo ngân hàng có trách nhiệm bù đắp mức chênh lệch này bằng cách tăng thu từ các hoạt động dịch vụ khác. Song song với các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, để đánh giá tình trạng rủi ro tín dụng người ta thường căn cứ vào tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tình hình tài chính và phương án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng người vay hay xem xét mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người vay. Phân tích những chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng nhằm mục tiêu trước hết là đảm bảo an toàn cho chính ngân hàng, sau đó là xem xét đến chất lượng tín dụng của các khoản cho vay. Quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra, đó cũng chính là biện pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay DNVVN 1.3.3.1. Các nhân tố khách quan Đây là sự tác động mang tính vĩ mô đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà trước hết là sự tác động của môi trường pháp lý. Một môi trường pháp lý chặt chẽ và ổn định sẽ là điều kiện tiên quyết thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo ra một điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp có điều kiện vay vốn tại ngân hàng. Một sự thay đổi nào đó trong một nghị định, một hợp tác thương mại được ký kết hay một sự thỏa thuận kinh tế giữa Chính phủ các nước đều có thể tác động tới hiệu quả cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Ngược lại, sự tác động của môi trường pháp lý không chặt chẽ hay mang tính kìm hãm có thể gây ra sự sụt giảm về dư nợ, gây tăng đột ngột các khoản nợ quá hạn, hạn chế khả năng sinh lời của doanh nghiệp, và vì thế hiệu quả cho vay của ngân hàng có thể bị suy giảm nhanh chóng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ do lợi thế về quy mô là những người khắc phục nhanh hơn những tác động của môi trường pháp lý tới hoạt động của mình so với doanh nghiệp lớn. Và vì vậy cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một biện pháp làm giảm sự biến động về hiệu quả và rủi ro cho ngân hàng Một nhân tố chủ quan nữa có tác động không nhỏ tới hiệu quả cho vay là môi trường kinh doanh. Tác động của nó tới hiệu quả cho vay của ngân hàng thông qua các biến số kinh tế như tỷ giá, lạm phát, lãi suất … Các chỉ tiêu này tác động lên khả năng cho vay, đồng thời tác động trực tiếp lên chi phí của ngân hàng. Sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lạm phát sẽ làm giảm khả năng cho vay và làm tăng chi phí trả lãi cho các nguồn huy động, lãi suất trên thị trường tăng cũng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của dự nợ đồng thời lại làm tăng nhanh chi phí trả lãi của các ngân hàng. Đối với doanh nghiệp, các biến số này có tác động hai mặt, nó thúc đẩy sự phát triển của nhóm doanh nghiệp này thì lại hạn chế hoạt động của nhóm doanh nghiệp khác. Ví dụ như nếu tỷ giá tăng thì nhóm doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phát triển tốt, trong khi các doanh nghiệp nhập khẩu lại gặp nhiều khó khăn hơn. Vì thế để đánh giá một yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tác động như thế nào tới hiệu quả cho vay của mình thì các ngân hàng phải phân loại được các khách hàng chủ yếu mà mình phục vụ, từ đó có chiến lược đối phó phù hợp. 1.3.3.2. Các nhân tố chủ quan Từ phía doanh nghiệp: đây là nhân tố tác động quan trọng nhất tới hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng, thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp như khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, hệ số nợ, hệ số khả năng chi trả…Để đạt được mục tiêu của mình, các doanh nghiệp luôn mong muốn vay được vốn và tìm mọi cách để có được nguồn vốn từ ngân hàng. Tuy nhiên, trái ngược với các doanh nghiệp vận dụng các hình thức tích cực như tăng hiệu quả hoạt động, trung thực và hợp tác với ngân hàng, thì cũng có nhiều doanh nghiệp sử dụng các biện pháp không tích cực như làm sai lệch các báo cáo tài chính theo hướng có lợi cho doanh nghiệp, không cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp sau khi vay được tiền thì sử dụng tiền vay sai mục đích, cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Cũng phải thừa nhận một điều là nhiều doanh nghiệp còn yếu kém trong việc lập dự án, nhiều dự án không nêu được tính khả thi nên rất khó tạo niềm tin để ngân hàng cho vay vốn. Các đối tượng này thường rơi vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó không chỉ tác động tới hiệu quả của bản thân món vay đó mà còn làm mất lòng tin từ phía ngân hàng, khiến cho các ngân hàng phải áp dụng nhiều biện pháp đảm bảo hơn, vì thế lại tác động trở lại làm bó hẹp khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp khác có đủ năng lực. Mặc dù vậy, cũng có doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của ngân hàng nhưng cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn kém không quản lý và khai thác nguồn vốn có hiệu quả khiến cho hiệu quả hoạt động cho vay vì thế mà giảm xuống. Những nhân tố tác động từ phía doanh nghiệp rất khó kiểm soát và đánh giá và phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và trình độ phân tích của cán bộ tín dụng cũng như tinh thần hợp tác của các doanh nghiệp. Nhân tố từ phía ngân hàng : Đây là các nhân tố chủ quan mà ngân hàng có thể điều chỉnh và khắc phục được. Nó bao gồm chiến lược phát triển của ngân hàng, công nghệ ngân hàng, uy tín và kinh nghiệm điều hành, trình độ nghiệp vụ và đạo đức của cán bộ tín dụng. Chiến lược phát triển của ngân hàng tạo ra một định hướng chung về khách hàng mục tiêu của ngân hàng, tạo lập các chính sách hỗ trợ ưu đãi cho nhóm khách hàng đó. Với xu hướng hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu được sự quan tâm lớn của các ngân hàng và nhiều ngân hàng đã thiết lập một chiến lược kinh doanh hướng vào nhóm doanh nghiệp này. Công nghệ và uy tín của ngân hàng tác động tới chi phí của khoản vay và khả năng mở rộng quy mô dư nợ, công nghệ càng cao ngân hàng càng có khả năng tiết kiệm chi phí và đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh cũng như các tiện ích mới phục vụ khách hàng. Nhận thức vào đạo đức của cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nhân tố tác động tới hiệu quả cho vay từ phía ngân hàng. Như đã nói ở trên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm mọi cách để có được nguồn vốn, họ có thể tiếp xúc, móc nối với các cán bộ tín dụng để đạt được mục đích. Chính vì vậy để giữ được sự trung thành của các nhân viên, ngân hàng phải có được một chính sách đãi ngộ hợp lý, thường xuyên giáo dục nhắc nhở các nhân viên về nhận thức, đạo đức nghề nghiệp cũng như ý thức trách nhiệm của mình. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VPBANK 2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của ngânn hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( Vpbank) Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993. Trụ sở chính tại số 8 Lê Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Hà nội Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đó nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. Vào tháng 7/2007, vốn điều lệ của VPBank đó tăng lên 1.500 tỷ đồng. Đến 31/12/2008, số vốn điều lệ của VPBank là 2117,4 tỷ đồng. Tổng tài sản của VPBank tính đến 30/6/2009 là 20.446 tỷ. Trong suốt quá trìnhnh hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho VPBank được mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gũn. Trong năm 2005, VPBank tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho mở thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ; Chi nhánh Quảng Ninh; Chi nhánh Vĩnh Phúc; Chi nhánh Thanh Xuân; Chi nhánh Thăng Long; Chi nhánh Tân Phú; Chi nhánh Cầu Giấy; Chi nhánh Bắc Giang. Cũng trong năm 2005, NHNN đó chấp thuận cho VPBank được nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh đó là Phòng Giao dịch Cát Linh, Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo, Phòng giao dịch Giảng Vừ, Phòng giao dịch Hai Bà Trưng, Phòng Giao dịch Chương Dương. Trong năm 2006, VPBank tiếp tục được NHNN cho mở thêm Phòng Giao dịch Hồ Gươm (đặt tại Hội sở chính của Ngân hàng) và Phòng Giao dịch Vĩ Dạ, phòng giao dịch Đông Ba (trực thuộc Chi nhánh Huế), Phòng giao dịch Bách Khoa, phòng Giao dịch Tràng An (trực thuộc Chi nhánh Hà Nội), Phòng giao dịch Tân Bình (trực thuộc Chi Nhánh Sài Gòn), Phòng Giao dịch Khánh Hội (trực thuộc Chi nhánh Hồ Chí Minh), phòng giao dịch Cẩm Phả (trực thuộc CN Quảng Ninh), phũng giao dịch Phạm văn Đồng (trực thuộc CN Thăng long), phòng giao dịch Hưng Lợi (trực thộc CN Cần Thơ). Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm 2006, VPBank cũng đó mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản AMC; Công ty Chứng Khoán VPBank.  Tính đến tháng 8 năm 2006, Hệ thống VPBank có tổng cộng 37 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 21 Chi nhánh và 16 phòng giao dịch tại cỏc Tỉnh, Thành phố lớn của đất nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chớ Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc; Bắc Giang và 2 Công ty trực thuộc. Năm 2006, VPBank mở thêm các Chi nhánh mới tại Vinh (Nghệ An); Thanh Hóa, Nam Định, Nha Trang, Bình Dương; Đồng Nai, Kiên Giang và các phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên toàn Hệ thống của VPBank lên 50 chi nhánh và phòng giao dịch. Hiện tại VPBank đó có 135 Chi nhánh và Phòng giao dịch hoạt động trên khắp cả nước.  Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến 31/12/2008 có trên 2.834 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm khoảng 80%). Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu được với cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn đầy thử thách khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vỡ vậy, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự. 2.1.2. Lĩnh vực hoạt động và cơ cấu tổ chức 2.1.2.1. Lĩnh vực hoạt động Là một ngân hàng Thương mại cổ phần, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; Dịch vụ Thanh toán quốc tế; Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong nước và Quốc tế; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam. Đại hội cổ đông năm 2007 được tổ chức vào cuối tháng 3/2008, một lần nữa, VPBank khẳng định kiên trì thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ. Phấn đấu trong một vài năm tới trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và nằm trong nhóm 5 Ngân hàng dẫn đầu các Ngân hàng TMCP trong cả nước.  2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức VPBank rất quan tâm đến vấn đề quản trị rủi ro. Bộ máy quản trị rủi ro của VPBank được tổ chức một cách chặt chẽ theo nhiều cấp quản lý, với cơ cấu như sau Ban kiểm soát: Do Đại hội cổ đông bầu ra gồm 3 thành viên trong đó có 2 thành viên chuyên trách Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: trực thuộc Ban điều hành với nhân sự được phân bổ cho mỗi CN cấp 1 có ít nhất từ 1 đến 2 nhân viên. Bộ phận kiểm tra kiểm toán có chức năng kiểm tra giám sát hoạt động thường ngày và toàn diện trong tất cả các giai đoạn trước, trong và sau trong quá trình thực hiện mỗi nghiệp vụ của Ngân hàng. Hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ các chi nhánh được thực hiện theo sự chỉ đạo trực tiếp theo ngành dọc. Hội đồng tín dụng và ban tín dụng: VPBank có hai Hội đồng tín dụng và mỗi CN cấp 1 có một ban tín dụng. Hai hội đồng tín dụng đặt tại Hà nội và thành phố Hồ chí Minh có nhiệm vụ giải quyết các khoản vay vượt hạn mức giao dịch cho các CN cấp 1 đóng tại khu vực phía bắc và phía nam. Để hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng, VPBank đã và đang áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng do Hội đồng quản trị ban hành Hội đồng ALCO: để hạn chế rủi ro thị trường và thanh khoản, đã từ lâu VPBank thành lập hội đồng ALCO. Hội đồng có nhiệm vụ quản lý thanh khoản, quyết định cơ cấu nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn hợp lý và hiệu quả, quyết định triển khai các sản phẩm mới. Đồng thời, Hội đồng ALCO cũng có nhiệm vụ theo sát diễn biến thị trường về lãi suất, tỷ giá và những khả năng có thể gấy rủi ro khác để có thể giải pháp phù hợp trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn. Nhờ có cơ chế kiểm soát rủi ro như trên mà nhiều năm qua VPBank đã hạn chế được rủi ro trong mọi hoạt động của mình và đạt được kết quả kinh doanh cao. Riêng trong hoạt động tín dụng, nợ quá hạn của VPBank từ mức cao nay đã giảm xuống và đang duy trì ở tỷ lệ 0.5%. 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của VPBank 2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Sáu tháng đầu năm 2007 là thời kỳ sôi động trong hoạt động của Hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Mức cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt hơn với nhiều giải pháp khuyến khích nhằm thu hút khách hàng. Không ít ngân hàng tăng lãi suất huy động và thực hiện các chương trình quay số có thưởng với nhiều giải thưởng hữu ích, đồng thời cũng đưa vào áp dụng nhiều sản phẩm mới, tiện ích hơn giành cho khách hàng. Điều đặc biệt đáng quan tâm là các ngân hàng quốc doanh dường như thức tỉnh sau nhiều năm trì trệ do được bao cấp quá nhiều, nay đã tham gia một cách tích cực hơn vào cạnh tranh. Do có ưu thế về vốn và mạng lưới nên nhiều chương trình khuyến mại của họ khá lớn, vượt trội so với các NH ngoài quốc doanh. Trong bối cảnh cạnh tranh đó, đòi hỏi VPBank phải năng động hơn nhiều giải pháp tích cực liên tục áp dụng các chương trình khuyến mại huy động có thưởng, đưa ra nhiều sản phẩm huy động mới phù hợp với nguyện vọng của dân cư (tiết kiệm VND đảm bảo bằng USD, tiết kiệm rút gốc linh hoạt…); Tăng cường quảng cáo, quảng bá hình ảnh của VPBank trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp cho khách hàng hiểu biết nhiều hơn về VPBank. 6 tháng đầu năm 2007 cũng là thời gian VPBank mở rộng mạng lưới nhanh chóng với việc được NHNN cấp phép thành lập 10 chi nhánh mới và nâng cấp 6 Phòng giao dịch thành chi nhánh cấp II. Đến nay, tất cả đã đi vào hoạt động. Tổng số tiền huy động được đến cuối tháng 6/2007 đạt 2.323 tỷ đồng, tăng 347 tỷ đồng so với cuối năm 2006, trong đó, riêng số dư tiền gửi tiết kiệm tăng 427 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán của cư dân và các tổ chức kinh tế tăng 71 tỷ đồng. Riêng trong năm 2008, tổng tiền huy động đạt hơn 9.065 tỷ đồng tăng 61% so với năm 2007. Bảng 3: Tình hình huy động vốn một số năm của VPBank ( Triệu đồng ) Chỉ tiêu 2008 2007 2006 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Nguồn vốn huy động 9.065.000 100% 5.638.001 100% 3.858.967 100% Phân theo kì hạn Ngắn hạn 7.252.155 80% 4.397.641 78% 3.202.943 83% Trung và dài hạn 1.813.039 20% 1.240.360 22% 656.000 17% Phân theo cơ cấu Huy động thị trường 1 5.678.458 63% 3.209.771 57% 1.847.711 48% Huy động thị trường 2 3.386.736 37% 2.398.230 43% 2.011.256 52% Nguồn : Annual Report VPBank 2008 Trong năm 2007, VPBank luôn có những điều chỉnh về mặt lãi suất cho phù hợp với diễn biến thị trường. Với sự linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất, VPBank luôn ở trong nhóm ngân hàng có lãi suất huy động cao nhất. Ngoài việc huy động tiết kiện bằng USD và VND thông thường, hiện nay VPBank vẫn tiếp tục huy động tiết kiệm dưới các hình thức đặc biệt “ Tiết kiệm VND được bù đắp trượt giá USD “ và “ Tiết kiệm VND được đảm bảo bằng USD”, thu hút hàng ngàn người gửi với doanh số gửi tiền mỗi tháng Đến hết ngày 31/3/2008, tổng nguồn vốn huy động của VPBank đạt 6.300 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, huy động tiết kiệm từ dân cư tăng 27%, huy động từ các tổ chức kinh tế tăng gần 40% so với đầu năm. Nợ quá hạn chỉ ở mức 0,64% tổng dư nợ. 3 tháng đầu năm, lợi nhuận sau khi trích dự phòng rủi ro (trước thuế) của VPBank đạt 27 tỷ đồng (đạt 8,73% so với vốn điều lệ). Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn điều lệ đạt 6,3%. 2.1.3.2. Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động chủ yếu đem lại nguồn thu cho Ngân hàng Về hoạt động này, trong thời gian từ 2006 - 2008,hoạt động tín dụng của VPBank được giữ vững theo phương châm “bảo thủ”,không cạnh tranh bằng cách lới lỏng điều kiện tín dụng.Tuy vậy, nhờ có sự nỗ lực tiếp thị khách hàng của các đơn vị, nên tiến độ phát triển tín dụng vẫn đạt mức tăng khá, cao gấp hai lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng. Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2008 đạt 6594 tỷ đồng, tăng 2681 tỷ đồng ( tương đương 68% ) so với năm 2007.Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến 31/12/2008 đạt 5031 tỷ đồng, tăng 2017 tỷ đồng ( ương đương 67% ) so với năm 2007. Chất lượng tín dụng của VPBank vẫn đảm bảo được yêu cầu của NHNN và qui chế của VPBank. Tỷ lệ nợ quá hạn của VPBank (gồm các nhóm 3,4,5 ) cuối năm 2008 ở mức 0,56% tổng dư nợ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn ngành Ngân hàng Việt nam ( khoảng 7% ). Để nâng cao chất lượng tín dụng, VPBank luôn không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên. Mặt khác VPBank cũng nghiên cứu triển khai các hình thức cho vay mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Gần đây nhất, VPBank vừa chính thức triển khai hình thức cho vay cầm cố bằng cổ phiếu do các NH TMCP tại Việt Nam phát hành. Khách hàng đến với VPBank có thể cầm cố cổ phiếu để vay vốn sử dụng vào mục đích bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cho cá nhân và gia đình, mua cổ phẩn của các công ty cổ phần hay các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật Việt nam. Tùy vào mục đích sử dụng vốn vay mà Ngân hàng sẽ xác định số tiền cho vay và thời hạn vay phù hợp. Với loại hình cho vay mới này, VPBank hy vọng sẽ đáp ứng được nhu cầu giao dịch bằng cổ phiếu đang và sẽ ngày càng tăng trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay VPBank nhận cầm cố cổ phiếu của 9 NHTM CP: ACB, Sacombank, EAB, Eximbank, Techcombank, MB, VIB, Habubank và Phương Đồng, trong trường hợp phát sinh các khoản cho vay ngoài danh mục, VPBank sẽ xem xét và quyết định từng trường hợp cụ thể. Đây là cách làm khá linh hoạt của VPBank nhằm thích ứng với mọi sự biến động trên thị trường rất sôi động này. 2.1.3.3. Hoạt động dịch vụ Các hoạt động dịch vụ của VPBank vẫn tiếp tục tiến triển rất tốt. Cùng với việc mở rộng mạng lưới hoạt động, dịch vụ chuyển tiền trong nước của VPBank ngày càng trở nên thuận tiện và nhanh chóng. Doanh số chuyển tiền trong nước năm 2008 đạt 7331 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2007. Phí dịch vụ chuyển tiền trong nước thu được trong năm 2008 là 2 tỷ đồng, tuy vẫn là con số khá khiêm tốn nhưng cũng đã đạt được những tăng trưởng nhất định. Các hoạt động dich vụ khác của VPBank cũng khá sôi động với những kết quả rất đáng phấn khởi Dịch vụ thẻ đã được đưa vào hoạt động với nhiều tiện ích cho khác hàng. Ngày 21/12/2007, tại Press Club, VPBank long trọng tổ chức lễ ra mắt dòng sản phẩm thẻ mới với tên gọi VPBank MC2 EMV MasterCard – Nhìn thì dễ, xâm nhập mới khó. Thẻ MC2 đã được MasterCard phát hành trên toàn thế giới, đây là lần đầu tiên MC2 được phát hành tại Việt Nam và là dòng sản phẩm thẻ quốc tế thứ hai được VPBank phát hành tiếp theo thành công của loại thẻ cao cấp VPBank Platinum MasterCard. Các hoạt động thanh toán quốc tế trong năm 2008 đã có xu hướng tăng: Doanh số mở L/C nhập khẩu đạt gần 61 triệu USD , tăng 60% so với năm 2007. Chuyển tiền thanh toán quốc tế ( TTR) đạt 80 triệu USD, tăng 79% so với năm 2007. Doanh số chuyển tiền trong nước năm 2008 là 7331 tỷ đồng, tăng 22% so với năm trước.Tính đến cuối năm 2008, tổng số điểm đại lý chi trả WU là 225 điểm. Tổng doanh số chi trả kiều hối các loại đạt 16.8 triệu USD và 13.4 tỷ đồng, trong đó chi trả qua WU là 6.4 triệu USD và 5.2 tỷ đồng. (Nguồn: Annual Report VPBank 2008) Mới đây nhất, Ngày 10/3/2008,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21336.doc
Tài liệu liên quan