Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

MỞ ĐẦU Bắt đầu từ Đại hội Đảng năm 1986, Việt Nam đã tiến hành quá trình đổi mới nền kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo ra nhiều thành phần kinh tế mới, trong đó có các DNNQD. Hiện nay, các DNNQD đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đa

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kể vào GDP của đất nước. Xét về mặt quản lý thì DNNQD chính là lực lượng quan trọng góp phần nâng cao hiệu suất và tính linh hoạt của nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các DNNQD Việt Nam chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có của nó vì gặp phải nhiều lý do. Đồng thời, trong những năm qua thì ngành ngân hàng Việt Nam cũng đã tiến hành đổi mới trong tổ chức cũng như trong hoạt động kinh doanh của mình. Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phong phú hơn, đáp ứng được ngày càng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của các NHTM vẫn là tín dụng. Các ngân hàng luôn chú trọng đa dạng hoá hình thức cho vay, cũng như đa dạng hoá các hình thức khách hàng. Trong đó đối tượng khách hàng là các DNNQD ngày càng được ngân hàng quan tâm hơn vì đây là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng đối với ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay, do nhiều lý do mà hoạt động tín dụng đối với các DNNQD tại các NHTM vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lý do chủ yếu là do chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này của các ngân hàng vẫn còn chưa cao. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại các ngân hàng có vai trò đặc biết quan trọng đến sự phát triển của các ngân hàng và các DNNQD. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề này, qua quá trình thực tập, tìm hiểu thực trạng cũng như những khó khăn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại SGD – NHĐT&PTVN, tôi đã chon đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Qua chuyên đề này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Th.S Lê Hương Lan và các cán bộ nhân viên tại SGDI – NHĐT&PTVN, những người đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành chuyên đề này. Nội dung chuyên đề ngoài lời mở đầu và phần kết luận còn bao gồm ba chương: Chương I - Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chương II - Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Chương III - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 1.1. Tín dụng Ngân hàng Thương mại. 1.1.1. Khái niệm. Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về tín dụng ngân hàng: Theo định nghĩa hiện nay thì Tín dụng Ngân hàng Thương mại (NHTM) là mối quan hệ giữa một bên là NHTM và một bên là khách hàng của ngân hàng dựa trên nguyên tắc tin tưởng và hoàn trả. Trong đó Ngân hàng chuyển giao tiền hoặc tài sản cho khách hàng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận tiền hay tài sản phải cam kết phải hoàn trả đầy đủ theo thời hạn và kèm theo phần lãi do hai bên thoả thuận. Theo cách khác thì tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiên vật từ NHTM sang người sử dụng sau đó người sử dụng hoàn trả tại một thời điểm trong tương lai với lượng giá trị lớn hơn. Như vậy, theo định nghĩa trên thì tín dụng NHTM được thể hiện qua các nội dung sau: - Ngân hàng sẽ chuyển giao cho khách hàng (người vay) một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản. - Khách hàng (người đi vay) chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả lại cho ngân hàng (người cho vay). - Giá trị mà khách hàng hoàn trả lại cho ngân hàng thường lớn hơn giá trị lúc vay, tức là khách hàng phải trả thêm lãi. 1.1.2. Phân loại tín dụng NHTM. Theo các tiêu thức khác nhau thì có các cách phân loại tín dụng ngân hàng khác nhau. Sau đây là các cách phân loại tín dụng ngân hàng phổ biến hiện nay: * Căn cứ theo thời gian cho vay: - Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn. Nó bao gồm các loại chính: bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp; chiết khấu chứng từ có giá... - Tín dụng trung hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này thường được sử dụng để đầu tư mua sắp tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật... - Tín dụng dài hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như: xây dựng nhà xưởng, máy móc, thiết bị, những dự án có thời gian thu hồi vốn dài... * Căn cứ vào hình thức bảo đảm: - Tín dụng không có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. - Tín dụng có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó khách hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản để cấm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng đồng ý. * Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng: - Chiết khấu thương phiếu: Là hình thức tín dụng mà khách hàng sẽ mang thương phiếu còn hạn đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. - Cho vay: + Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng giấy đề nghị vay vốn và trình phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành phân tích khách hàng, xác định quy mô cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn giải ngân, lãi suất, tài sản đảm bảo nếu cần... và sau đó ký hợp đồng cho vay. + Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm giấy đề nghị vay luân chuyển, sau đó Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức cho vay... Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ phải thực hiện một lần nên rất thuận tiện cho khách hàng. + Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính. + Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng được chi trội vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. + Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình thức này thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho vay đối với tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. + Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng... - Cho thuê tài sản (Cho thuê tài chính): Là hình thức tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và cá động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mmua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã được hai bên thoả thuận - Bảo lãnh: Bão lãnh của Ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. 1.1.3. Vai trò của tín dụng NHTM trong nền Kinh tế thị trường. Tuỳ từng trình độ phát triển của mỗi nước mà vai trò của tín dụng NHTM có khác nhau. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì vai trò của tín dụng NHTM được thể hiện rõ nét, thể hiện qua các mặt sau: * Tín dụng NHTM thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh,góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa được sử dụng, tín dụng ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để có thể mang nguồn vốn đó cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. * Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tín dụng ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt, phù hợp với tỉ lệ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát để đầu tư vào các lĩnh vực, các công trình cần thiết cho đất nước nhưng đang gặp khó khăn do thiếu vốn; Bên cạnh đó ngân hàng còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất nước. * Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ. Sự phát triển của tín dụng NHTM làm tăng mạnh các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm phát. * Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế. Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung thống nhất công tác tín dụng đã tạo điều kiện cho nó phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong cả công tác quản lý, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội và củng cố chế độ hạch toán kinh tế. * Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay thì muốn kinh tế đất nước phát triển nhanh, vững mạnh thì kinh tế đối ngoai đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các thành phần kinh tế của đất nước đã có vốn, từ đó nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị, tiến hành xuất khẩu hàng hoá ra thế giới. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã trở thành cầu nối quan trọng giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế giới. 1.1.4. Quy trình tín dụng của NHTM. Quy trình tín dụng là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín dụng phải làm khi thực hiện xem xét một yêu cầu tín dụng của khách hàng. Quy trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng tại các NHTM bao gồm các bước sau: - Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng cho khách hàng về thể lệ vay, tránh gây phiền hà cho khách hàng. - Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn. Những thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo có được thông tin chính xác nhất, như là từ các bạn hàng, từ sự đánh giá của cán bộ tín dụng, từ các tổ chức liên quan, thông tin từ thị trường, điều tra quốc tế... - Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Thẩm định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển, thẩm định tình hình tài chính của Doanh nghiệp. - Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư. + Thẩm định sự cần thiết của dự án. + Thẩm định phương tiện kỹ thuật, tổ chức quản lý tài chính. Tuỳ theo từng món vay cụ thể mà cán bộ tín dụng cần xác định cụ thể nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp để vừa đảm bảo chất lượng và thời gian thẩm định, tránh việc thẩm định quá rườm rà, phức tạp làm mất cơ hội kinh doanh của khách hàng. - Bước 5: Quyết định cho vay. - Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ gốc, lãi, tiền thuê. 1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới đất nước, đó là sự nghiệp đổi mới toàn diện, trên nhiều lĩnh vực... Trong đó đổi mới cơ cấu kinh tế là một trong những ưu tiên quan trọng của Nhà nước. Phương hướng chủ yếu nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đây là bước phát triển mang tính quy luật trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) là doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm: Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. 1.2.2. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Có nhiều tiêu thức để phân loại các DNNQD, nhưng có các tiêu thức chủ yếu sau: * Phân loại theo loại hình doanh nghiệp, bao gồm các loại hình sau: - Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. - Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Nhưng việc chuyển nhượng vốn góp cho người không phải thành viên công ty phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của công ty. Có công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên. - Công ty cổ phần: Là công ty mà trong đó số thành viên được gọi là cổ đông của công ty phải ít nhất là 3 người trong suốt quá trình hoạt động của công ty. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. - Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển đời sống của hộ gia đình cũng như phát triển kinh tế của địa phương, đất nước. * Phân loại theo ngành kinh doanh thì DNNQD bao gồm: - DNNQD hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. - DNNQD hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. - DNNQD hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. - DNNQD hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng. - DNNQD hoạt động trong lĩnh vực vận tải, bưu chính, viễn thông. - DNNQD hoạt động trong các ngành dịch vụ khác. * Phân loại theo quy mô doanh nghiệp thì DNNQD bao gồm: - DNNQD có quy mô vừa và nhỏ: Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. - DNNQD có quy mô lớn: Là những doanh nghiệp có tính chất tư hữu, có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300 người. 1.2.3. Đặc điểm của DNNQD ở nước ta hiện nay. 1.2.3.1. DNNQD có số lượng lớn. Trong những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNQD Việt Nam nói riêng đã tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động và vốn. Năm 1991, một năm sau khi ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, tổng số DNNQD chỉ có 414 doanh nghiệp. Đến năm 1999, số lượng DNNQD đã tăng lên con số 30.500 doanh nghiệp. Tính bình quân giai đoạn này, mỗi năm tăng khoảng 3.252 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng 32%/ năm. Đến năm 2003, số lượng DNNQD đã tăng lên 55.236 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 88 % trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta. 1.2.3.2. DNNQD ở nước ta có quy mô lao động và quy mô vốn nhỏ bé. Mặc dù có số lượng rất lớn nhưng độ tập trung vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa cao, còn rời rạc, quy mô nhỏ bé. Số lượng DNNQD có quy mô vốn lớn rất ít, hầu như không có. Theo số liệu thống kê thì năm 2005, số vốn của các DNNQD chỉ chiếm 19% tổng số vốn của toàn bộ các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. * Xét về vốn sản xuất: Năm 2005, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu đồng chiếm khoảng 62,4% trong tổng số doanh nghiệp; số doanh nghiệp có số vốn trên 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng chiếm khoảng 24,3%, còn lại là các doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng. Tuy những năm gần đây, số vốn bình quân của một DNNQD đã tăng lên, đạt được gần 5 tỷ đồng/doanh nghiệp, nhưng so với số vốn bình quân của một doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khoảng 170 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khoảng 145 tỷ đồng thì số vốn bình quân của DNNQD quá nhỏ bé. * Xét về số lượng lao động: Số lao động trong các DNNQD vào khoảng 1,9 triệu người, chiếm 37% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp nhưng so với tỷ lệ số DNNQD trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam thì có thể thấy số lao động bình quân của một DNNQD là thấp. Như vây, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ mới thực sự tồn tại và phát triển trong khoảng thời gian chưa dài, do đó chưa có điều kiện tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất và quy mô. 1.2.3.3. Trình độ quản lý và công nghệ sản xuất lac hậu, thấp kém. Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi người quản lý không những phải có trình độ mà còn phải có kinh nghiệm dày dạn. Bởi vì nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên những kiến thức về kinh tế, về quy luật kinh doanh không phải ai cũng nắm bắt được; mặt khác cũng bởi vì các trường đào tạo quản lý kinh doanh và quản lý pháp luật còn quá thiên về phương pháp lý thuyết mà ít chú ý tới phương pháp giải quyết các vấn đề thực tế, mặt khác chi phí đào tạo quản lý nói chung còn rất cao. Từ những lý do trên làm cho trình độ quản lý của DNNQD còn thấp, gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Những người quản lý ở các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, cơ hội đầu tư. Việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý tài chính trong các doanh nghiệp này còn chưa được nghiêm túc, chính vì thế mà họ gặp nhiều khó khăn khi muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Công nghệ sản xuất của các DNNQD đã trở nên lạc hậu. Theo điều tra thì ở các DNNQD hiện nay chỉ có 20% thiết bị hiện đại, 55% thiết bị ở mức trung bình, còn lại là thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo thì có đến 60% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 60. Nguyên nhân của tình trạng này là do vốn đầu tư ban đầu của các DNNQD thường thấp, họ lại gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Ngoài ra các DNNQD không được tiếp cận đầy đủ với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ trong việc xác định công nghệ tương xứng và thích hợp với khả năng tài chính nhằm hoàn thiện trình độ sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Chính vì những lý do trên mà hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNQD thường rất thấp và năng lực cạnh tranh trong thị trường trong nước cũng như ngoài nước cũng bị suy giảm. 1.2.3.4. Các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu quả. Các DNNQD hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ dàng chuyển đổi, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD hiện nay làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật mà không tính đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các lợi ích trước mắt mà không có tính toán chiến lược lâu dài. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó khăn, nhất là các khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều DNNQD không thực hiện đúng chế độ kế toán, thống kê, một số khác lại có biểu hiện của làm ăn phi pháp như: trốn thuế, lừa đảo, gian lận thương mại... Điều đó làm cho xã hội thiếu tin tưởng vào các DNNQD, gây ra hiệu quả kém của các doanh nghiệp này. Trên đây là một số đặc điểm chính của các DNNQD ở nước ta hiện nay. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng các DNNQD ở nước ta đã và đang phát triển với tốc độ cao, đóng góp vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất nước. 1.2.4. Vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường. Trong tình hình hiện nay, khi mà nền kinh tế đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thì các DNNQD ngày càng thể hiện được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế. Vai trò quan trọng đó được thể hiện ở các mặt sau: 1.2.4.1. Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước. Các DNNQD hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế của đất nước như: nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp... Các DNNQD hoạt động linh hoạt, năng động, thích ứng nhanh, đáp ứng tốt những nhu cầu của thị trường. Theo số liệu thống kê thì hiện nay các DNNQD đóng góp đến khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), những năm gần đây, tỷ lệ đóng góp vào GDP của các DNNQD ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều này góp phần quan trọng thúc đấy nền kinh tế đất nước ta phát triển. 1.2.4.2. Làm nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế, tận dụng tối đa mọi nguồn lực của đất nước.. Các DNNQD phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh tế đã làm cho thị trưòng hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng và sôi động hơn. Người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Mặt khác các DNNQD có ưu thế về sự nhạy bén với thị trường đã thực sự trở thành đối thủ cạnh tranh trên thị trường của rất nhiều doanh nghiệp khác. Vì vậy, sự phát triển của DNNQD sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh không những giúp các doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng trên thị trường mà còn thông qua đó sàng lọc ra các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và không hiệu quả. Các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả sẽ bị loại ra khỏi thị trường. Với những ưu thế của mình, các DNNQD đã thực sự trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế mà trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia luôn giữ vị trí độc tôn. Đây thực sự là một động lực giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó thúc đẩy tính cạnh tranh, năng động của mọi thành phần kinh tế trong xã hội, làm cho mọi nguồn lực của đất nước được tận dụng tối đa. 1.2.4.3. Góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp. Việt Nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo. Khu vực kinh tế Nhà nước không thể tạo đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả. Sự ra đời của DNNQD thực sự là cứu cánh cho số lao động còn lại. Mặt khác, DNNQD cần một lượng lớn lao động giản đơn, lao động không cần đầu tư phức tạp nên rất phù hợp với trình độ của người lao động Việt Nam. Chính vì vậy mà DNNQD đã góp phần quan trọng vào tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp của đất nước. 1.2.4.4. Góp phần vào quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá của đất nước. DNNQD hoạt động trong mọi ngành nghề nhưng chủ yếu phổ biến ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, thủ công nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu. DNNQD có thể thích nghi đón đầu công nghệ mới, chuyển đổi hướng sản xuất nhanh chóng cho phù hợp với thị trường, đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế có cơ cấu tiên tiến, theo hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. 1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với DNNQD. Trong quá trình phát triển của mình, ngoài nguồn vốn tự có thì các DNNQD có thể dựa vào các nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, nguồn vốn thông qua thị trường tài chính. Trong đó thì vốn tín dụng Ngân hàng đóng vai trò chủ yếu và an toàn nhất. Vì vậy vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với hoạt động của DNNQD là rất lớn. 1.3.1. Tín dụng NHTM là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNNQD, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của các DNNQD. Tại thị trường tín dụng chính thức, hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu là để hỗ trợ, giải quyết nhu cầu sinh hoạt và vốn phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thì trường chứng khoán của nước ta mới trong giai đoạn sơ khai. Điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các DNNQD không phải dễ dàng. Chính vì vậy mà kênh cung cấp vốn chủ yếu và hết sức quan trọng để giúp cho các DNNQD phát triển chính là vốn tín dụng Ngân hàng. Có thể nói điểm yếu lớn nhất của các DNNQD là vốn. Nguồn vốn tự có hạn hẹp của các doanh nghiệp phần lớn được tập trung cho việc đầu tư ban đầu vào các máy móc, thiết bị, nhà xưởng và giá trị quyền sử dụng đất. Mặt khác, nếu sử dụng vốn tự có của mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng chi phí vốn. Vì thế nên phần vốn để dành cho vốn lưu động để luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tái sản xuất là rất hạn chế, mà tái sản xuất mở rộng chính là tiền đề cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nói chung và DNNQD nói riêng, một doanh nghiệp chỉ có thể phát triển, khẳng định vị thế của mình thông qua hoạt động tái sản xuất mở rộng. Tuy nhiên, với nguồn vốn nhỏ bé, cơ sở vật chất yếu kém thì việc tái sản xuất mở rộng của các DNNQD nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có là rất khó. Tháo gỡ được cho doanh nghiệp các khó khăn trên, tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ cho các DNNQD trong việc hỗ trợ vốn lưu động và tiến hành tái đầu tư mở rộng sản xuất. Với nhiều hình thức cho vay khác nhau mà các DNNQD đã được cấp thêm vốn lưu động, có thể kịp thời chớp lấy các cơ hội kinh doanh, tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục. Ngoài ra, với các hình thức cho vay trung và dài hạn còn giúp các doanh nghiệp có vốn để đầu tư dây chuyền sản xuấtvà máy móc thiết bị. Sự tài trợ này của ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, lợi nhuận và hiện đại hoá công nghệ của chính mình. Như vậy, tín dụng ngân hàng chính là nguồn vốn hỗ trợ tốt nhất, quan trọng nhất, đa dạng nhất để các DNNQD có thể tiến hành sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi, phát triển. 1.3.2. Giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của NHTM với tư cách là nguời cho vay đối với các DNNQD. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín dụng, hướng dẫn các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, đồng thời đôn đốc chủ doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. Trong quá trình giám sát, kiểm tra, Ngân hàng phát hiện ra những nhược điểm cần khắc phục, giúp các doanh nghiệp xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh kinh doanh, nhằm hạn chế khả năng rủi ro có thể xảy ra. Mặt khác, một trong những điểm cơ bản nhất của tín dụng NHTM là buộc người vay phải hoàn trả gốc (vốn vay ban đầu) và lãi sau một khoảng thời gian nhất định. Điều này đã buộc các DNNQD khi sử dụng nguồn vốn tín dụng NHTM thì phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn để thu hồi được đồng tiền đầu tư ban đầu, từ đó có thể trả gốc, lãi cho ngân hàng và có được một khoản lợi nhuận. Các DNNQD phải tính toán các chỉ tiêu thật chính xác để có thể đạt được kết quả tối ưu. 1.3.3. Kích thích tính năng động, sáng tạo của các DNNQD. Muốn đạt được lợi nhuận trong kinh doanh thì các DNNQD phải là người chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiêp khác trên thị trường.. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh thì các DNNQD phải phát huy được tính năng động, sáng tạo của bản thân mình. Các DNNQD phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp khác trên thị trường, đặc biệt là các DNNN với tiềm lực về vốn lớn mạnh. Chính vì thế mà để có thể sử dụng vốn tín dụng NHTM một cách có hiệu quả, đem lại lơi nhuận cho bản thân doanh nghiệp thì các DNNQD phải phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của ùinh vào cuộc cạnh tranh trên thương trường với các doanh nghiệp khác. 1.4. Chất lượng tín dụng NHTM. 1.4.1. Khái niệm. Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao, trong đó hoạt động tín dụng lại là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỷ trọng gần 90% doanh thu hiện nay, chính vì thế mà đảm bảo chất lượng tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của NHTM, quyết định trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng Ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro về vốn của ngân hàng, tăng lợi nhuận cho ngân hàng và góp phần phục vụ cho sự phát triển ._.của nền kinh tế - xã hội. Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động thường xuyên của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Do vậy, chất lượng tín dụng luôn là một vấn đề quan tâm hàng đầu của các NHTM. Chất lượng tín dụng được tạo nên bởi các khoản tín dụng nhưng nếu chỉ bó hẹp khái niệm tín dụng đồng nghĩa với một khoản tín dụng thì rõ ràng là không đầy đủ và không phản ánh hết tính đa dạng và phức tạp của hoạt động tín dụng. Do đó cần hiểu chất lượng tín dụng Ngân hàng là bao hàm toàn bộ cả lợi ích của khách hàng, ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Các món tín dụng của ngân hàng được xem là có chất lượng tốt khi khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay đúng mục đích vay vốn và trong quá trình hoạt động đạt được hiệu quả cao, từ đó giúp Ngân hàng thu được gốc và lãi. 1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng. Hiện nay, với sự thông thoáng về cơ chế thì ngoài NHTM Nhà nước thì đã xuất hiện thêm các loại hình NHTM khác, đó là Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chính điều này đã làm cho sự cạnh tranh giữa các ngân hàng càng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng buộc phải tìm ra các giải pháp trong hoạt động để giành được chiến thắng trong cạnh tranh, đạt được hiệu quả trong kinh doanh, nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Một trong những biện pháp hiệu quả nhất, quan trọng nhất là nâng cao chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được thể hiện qua các chỉ tiêu có thể định lượng được như dư nợ tín dụng, nợ quá hạn... đồng thời nó cũng thể hiện qua việc thu hút được khách hàng, đóng góp vào nền kinh tế... Để nâng cao được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả, quan hệ tín dụng phải được xây dựng dựa trên quan hệ tin tưởng, uy tín. Hiểu đúng bản chất của chất lượng tín dụng hiện tại cũng như những nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại sẽ giúp ngân hàng có những biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng, đạt được hiệu quả trong kinh doanh. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, lưu thông hàng hoá thì tín dụng ngân hàng cũng phải không ngừng phát triển, cung cấp các phương tiện để đáp ứng được các nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội, đòi hỏi chất lượng tín dụng cũng phải được nâng cao. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ làm tăng số vòng quay của vốn tín dụng, làm tăng số lượng giao dịch, giảm số lượng tiền mặt trong lưu thông, kiềm chế tỷ lệ lạm phát, mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó giảm chi phí lưu thông tiền mặt của xã hội. Như vậy, chất lượng tín dụng có quan hệ chặt chẽ với việc điều hoà và ổn định tiền tệ của nền kinh tế. Mặt khác, với một chính sách tín dụng đúng đắn, chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ giúp cho các ngành kém phát triển của nền kinh tế có cơ hội vươn lên, đồng thời thúc đẩy các ngành mũi nhọn tiếp tục phát triển, giảm sự mất cân đối giữa các vùng kinh tế, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội, góp phần giúp nước ta tiến nhanh trên con đường Công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thông qua phân tích khả năng của khách hàng để đánh giá chất lượng của từng khoản tín dụng sẽ giúp đưa ra được các quyết định đầu tư đúng đắn, khai thác tốt các tiềm năng về lao động, tài nguyên... từ đó tăng sản lượng, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Lý do quan trọng nhất của việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với bản thân ngân hàng chính là chất lượng tín dụng sẽ quyết định đến việc tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng có tốt thì khả năng cung ứng dịch vụ của ngân hàng mới cao, đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng, tạo thêm đuợc nhiều vốn từ việc quay vòng vốn tín dụng tốt, tạo thêm nhiều sản phẩm để phục vụ được thêm nhiều đối tượng khác nhau. Chất lượng tín dụng Ngân hàng tốt sẽ giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí thiệt hại, tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Từ đó tạo ra uy tín, thế mạnh và vị thế cho ngân hàng trong thị trường. Chính vì những lý do trên mà các NHTM luôn luôn phải quan tâm để làm sao nâng cao được chất lượng tín dụng của mình. 1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại. 1.4.3.1. Các chỉ tiêu định tính. Qua sự phân tích ở trên thì ta có thể thấy chất lượng tín dụng của NHTM được thể hiện qua khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vay vốn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước. Về mặt định tính, để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thì có một số nội dung sau: * Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng của ngân hàng phụ thuộc vào nguồn vốn của ngân hàng, nếu Ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thì mới có khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các khách hàng. * Uy tín của Ngân hàng. Nếu một Ngân hàng có uy tín thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Nếu một Ngân hàng có các khách hàng là các doanh nghiệp làm ăn hiệu qủa, luôn trả được nợ đúng hạn thì chất lượng tín dụng của Ngân hàng đó là tốt. Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở chỗ khả năng đáp ứng các nhu cầu của các khách hàng, nó biểu hiện ở chỗ nhanh gọn, thuận tiện trong thủ tục nhưng vẫn bảo đảm khả năng cung cấp vốn đầy đủ, bảo đảm được an toàn. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được thời gian, tiết kiệm được chi phí và không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Bên cạnh đó, để đạt được chất lượng tín dụng cao thì Ngân hàng phải trở thành người bạn thực sự của các doanh nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với họ. Chẳng hạn, nếu thấy dự án của doanh nghiệp có những điểm chưa hợp lý thì Ngân hàng sẽ góp ý, tư vấn cho doanh nghiệp để doanh nghiệp điều chỉnh lại cho hợp lý. Ngoài ra, Ngân hàng cũng có thể là người cung cấp những thông tin về thị trường một cách bổ ích cho các doanh nghiệp. * Sự đóng góp cho nền kinh tế địa phương cũng như toàn quốc. Nó được biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính, tiền tệ, giúp nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao mức sống cho dân cư. 1.4.3.2. Các chỉ tiêu định lượng. 1.4.3.2.1. Tổng vốn huy động: Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà ngân hàng huy động được trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy ngân hàng có hoạt động uy tín, có được người gửi tin tưởng không, mức giá mà ngân hàng đưa ra có phù hợp không, có khuyến khích được nhân dân gửi tiền vào không? Đồng thời cho thấy ngân hàng đã tham gia vào các hình thức huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng như thế nào? 1.4.3.2.2. Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động: Thông thường nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm các loại tiền gửi như: Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát hành séc...), tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi khác nhau có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động, để phát hiện ra mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong kinh doanh từ đó để đưa ra các biện pháp để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng một cách phù hợp. Trong trường hợp ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra lợi nhuận bởi lãi suất của loại hình tiền gửi này tương đối thấp. Ngược lại nếu tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn. Song đây mới chỉ xét về một khía cạnh là lãi suất, còn việc đem lại lợi nhuận cao hay thấp và độ rủi ro ra sao thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. 1.4.3.2.3. Tổng dư nợ, doanh số cho vay: Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cao cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú thu hút được khách hàng. 1.4.3.2.4. Hiệu suất sử dụng vốn vay: Tổng dư nợ Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng vốn huy động Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn. 1.4.3.2.5. Doanh số thu nợ : Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng đã thu được về bao nhiêu tiền khi đến hạn trả nợ của khách hàng, từ đó có thể xác định được các doanh nghiệp trả nợ đúng hạn, cũng như xác định được tỷ lệ thu nợ cũng như số nợ quá hạn của khách hàng. 1.4.3.2.6. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ : Chỉ tiêu này được tính như sau: Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt quá một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng( Mức giới hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 5%). - Theo thời gian, nợ quá hạn có thể phân thành các trường hợp: + Nợ quá hạn dưới 180 ngày. + Nợ quá hạn trên 180 ngày và dưới 360 ngày. + Nợ quá hạn trên 360 ngày. - Theo đối tượng khách hàng thì nợ quá hạn có thể phân thành các trường hợp: - Theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh thì nợ quá hạn có thể phân thành các trường hợp : Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp khó khăn hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý rủi ro tới mức thấp nhất. 1.4.3.2.6. Chỉ tiêu lợi nhuận : Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng Chỉ tiêu lợi nhuận = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra. 1.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM. 1.4.4.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường. Các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp, đều tồn tại, hoạt động và phát triển trong một môi trường kinh tế - xã hội nhất định, chính vì vậy mà quan hệ tín dụng, chất lượng tín dụng của NHTM cũng phải chịu sự tác động của các thành phần trong môi trường này. * Môi trường kinh tế: Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay không có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dễ dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không quản lý tốt mà lại để lạm phát ở con số cao thì các ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi nhất do đồng tiền mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng. Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả. Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn. Trong một vài trường hợp do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp làm cho khả năng trả các khoản nợ sẽ gặp nhiều khó khăn. * Môi trường pháp lý : Đây là cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp pháp của thành phần kinh tế. Nó chính là hệ thống pháp luật chi phối các hoạt động của các thành phần kinh tế để không bị “vượt rào”. Một yêu cầu được đặt ra là phải có sự đồng bộ thống nhất và phù hợp giữa các bộ luật, các văn bản pháp quy nhằm tạo được sự chặt chẽ, hiệu lực của pháp luật. Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ sẽ tạo lên các kẽ hở để kẻ xấu có thể lợi dụng khai thác hay tạo nên các mâu thuẫn làm mất đi tính hiệu lực của pháp luật hoặc gây khó khăn, phiền hà trong quá trình xử lý các vi phạm pháp luật phát sinh. Đối với nước ta hiện nay thì vấn đề pháp lý đang được tranh cãi nhiều nhất là về việc cấp chứng nhận sở hữu tài sản và xử lý TSTC tại ngân hàng. Tuy rằng chính phủ đưa ra nhiều NĐ( 60, 61, 64, 83), quyết định (217..) nhưng xem ra tình hình vẫn chưa được giải quyết một cách khả quan lắm. Chính bất cập này là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khó khăn khi xử lý tài sản thế chấp, cầm cố tại ngân hàng và giải toả “nợ đóng băng” của ngân hàng.. 1.4.4.2. Nhóm nhân tố thuộc về phía ngân hàng. - Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay thất bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy khi xây dựng chính sách tín dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học nhất định. Đối với các ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội. - Quy mô và cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn của ngân hàng: Để hoạt động cho vay được tiến hành thì điều trước tiên nhất là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn không thôi thì chưa đủ, do phải đảm bảo khả năng thanh toán nên tuỳ vào kỳ hạn vào khoản cho vay mà cần phải được tài trợ bởi các nguồn vốn có kỳ hạn thích hợp. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chỉ là nguồn vốn ngắn hạn, hoặc chỉ là trung và dài hạn thì rất khó nâng cao chất lượng tín dụng. - Công tác tổ chức của ngân hàng: Tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý được cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng là loại hình kinh doanh tiền tệ có rủi ro rất lớn nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng ngân hàng, trong toàn hệ thống ngân hàng, giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý... Việc thiết lập các mối quan hệ tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề có liên quan đến tín dụng khi cần thiết. - Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Hiện nay khi nghiệp vụ hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ không ngừng. Do vậy việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt, phải có chuyên môn giỏi thì mới có thể ngăn ngừa những sai phạm khi thực hiện chu kỳ khép kín cuả một khoản tín dụng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa dạng của một xã hội ngày càng phát triển. - Quy trình tín dụng: Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng cho đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính khoa học và việc thực hiện các giai đoạn trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như thế nào. Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính: + Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Đây là giai đoạn rất quan trọng trong quy trình tín dụng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng của khoản tín dụng sẽ được thực hiện và là cơ sở định lượng rủi ro trong khi cho vay. Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng. + Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro: Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp sẽ giúp cho ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin về các khoản tín dụng đã cung cấp để có thể đưa ra kịp thời những quyết định can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. + Thu nợ và thanh lý: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng bởi nếu không thu được nợ đến hạn, ngân hàng sẽ mất vốn kinh doanh, chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng, khủng hoảng có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng, và khi tình trạng đó xảy ra thì sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy mà ngân hàng cần phải tích cực trong công tác thu nợ. Sự linh hoạt của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, kịp thời sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro, hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng. - Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, giúp cho các cán bộ tín dụng có câu trả lời đúng: Cho vay hay không cho vay? Xét trên tầm vĩ mô thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng và đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Thông tin tín dụng có thể thu được từ nhiều nguồn: Hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh... thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao. - Kiểm soát nội bộ: Thông qua công tác này các nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những khó khăn, thuận lợi trong việc chấp hành các quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh, thủ tục tín dụng từ đó giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng đưa ra những chủ trương chính sách phù hợp nhằm giải quyết những khó khăn và phát huy những nhân tố thuận lợi nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành các quy định, thể lệ... và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn dến sai sót trong qúa trình thực hiện một khoản tín dụng. - Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý ngân hàng, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng cập nhật được thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. 1.4.4.3. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng . - Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp: Bất kỳ loại hàng hoá nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng không thể tiến hành cho vay nếu không có người vay. Xét trong phạm vi toàn nền kinh tế thì vốn có vai trò rất quan trọng nhưng tuỳ từng thời điểm mà từng doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn hay không. Chính vì vậy chất lượng tín dụng của ngân hàng Thương mại cũng phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu đầu tư của các doanh nghiêp. - Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi khi cho vay, các ngân hàng phải đặt ra các yêu cầu, tiêu chuẩn để có thể chọn ra những khách hàng đủ khả năng làm việc hiệu quả, trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Như vậy, khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng những yêu cầu, điều kiện mà ngân hàng đưa ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tín dụng ngân hàng, bởi vì nếu đa số các doanh nghiệp không thể đáp ứng nổi các điều kiện mà ngân hàng đưa ra thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay khi vẫn phải đảm bảo chất lượng tín dụng, an toàn tín dụng. - Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả: Khi cho khách hàng vay một khoản tín dụng thì ngân hàng mong muốn sẽ thu hồi được nợ từ chính hiệu quả, lợi nhuận của hoạt động của dự án chứ không phải từ cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này phụ thuộc vào hiệu quả và quản lý sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không của doanh nghiệp. Cón nhiều yếu tố để đảm bảo cho việc doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và nâng cao chất lượng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Ý thức của khách hàng: Đây là vấn đề có tính chất đạo đức, nếu một khách hàng có đạo đức tốt, sử dụng vốn đúng mục đích, đạt được hiệu quả trong kinh doanh và hoàn trả vốn và lãi đúng thời hạn cho ngân hàng thì sẽ nâng cao chất lượng tín dụng ; ngược lại, nếu doanh nghiệp có đạo đức không tốt, có ý đồ lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn vay sai mục đích... thì sẽ làm cho chất lượng tín dụng thấp, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. - Tình hình kinh doanh của khách hàng: Tuỳ vào tình hình kinh doanh của khách hàng thì sẽ ảnh hưởng đến việc khách hàng có trả nợ đúng hạn cho ngân hàng hay không. Nếu tình hình kinh doanh tốt thì khách hàng sẽ trả nợ đúng hạn, làm cho chất lượng của khoản tín dụng đó tốt. Ngược lại, nếu vì một lý do nào đó mà khách hàng làm ăn không hiệu quả, dẫn đến không trả được nợ đúng hạn thì sẽ làm cho chất lượng của khoản tín dụng đó thấp. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SỞ GIAO DỊCH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Khái quát về Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. 2.1.1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch. Căn cứ vào quyết định số 76/QĐ - TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, về việc thành lập Sở giao dịch (SGD) Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN). Căn cứ vào Điều lệ tổ chức, hoạt động của NHĐT&PTVN ban hành và quyết định 349/QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam đã được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, trực tiếp kinh doanh và chịu sự quản lý trực tiếp của NHĐT&PTVN, có trụ sở chính tại 53 Quang Trung, Hà Nội (Trụ sở chính của SGD đã chuyển về Trung tâm Thương mại VINCOM – 191 Bà Triệu từ năm 2005). Quá trình 15 năm hình thành và phát triển của SGD có thể chia làm làm 2 giai đoạn: * Giai đoạn 1991 – 1994: Đây là giai đoạn NHĐT&PTVN và SGD thực hiện chức năng của một ngân hàng đầu tư phát triển, chủ yếu cấp phát và cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước. Trong giai đoạn này, SGD là một đơn vị trực thuộc NHĐT&PTVN, có nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp với các khách hàng thuộc kinh tế Trung ương, có trụ sở tại Hà Nội, hoạt động kinh doanh trong toàn quốc. Khách hàng của SGD trong giai đoạn này chủ yếu là các Tổng công ty, Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Trong giai đoạn này, SGD hoạt động đối nội như một phòng ban của NHĐT&PTVN, đối ngoại như một chi nhánh. * Giai đoạn từ 1995 đến nay: Năm 1995 đánh dấu sự thay đổi cơ bản của NHĐT&PTVN cả về chức năng và mô hình tổ chức với việc chuyển giao nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách sang Tổng cục đầu tư (tách ra từ NHĐT&PTVN). SGD bắt đầu hoạt động hoàn toàn như một ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng về lĩnh vực tài chính ngân hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ và tiếp tục thực hiện chức năng của ngân hàng phát triển: Đầu tư vào cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Trong giai đoạn này hoạt động của SGD trải qua các thời kỳ sau: - Từ năm 1995 – 1998: Đây là thời kỳ mới bước vào thị trường, bắt đầu thực hiện và đẩy mạnh các hoạt động nghiệp vụ của một NHTM, nhất là huy động vốn của dân cư bằng các hình thức tiết kiệm, thử nghiệm các hình thức huy động vốn mới, mở rộng cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn thương mại song song với cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước, mở rộng cho vay kinh tế tư nhân. - Từ năm 1998 đến nay: Cho đến nay, theo quy định về hoạt động cũng như việc được hạch toán độc lập của mình, SGD hoạt động như là một chi nhánh của NHĐT&PTVN với đầy đủ các chức năng của một đơn vị thanh viên lớn trong hệ thống, thực hiên đầy đủ các nhiệm vụ đặc biệt của mình, thử nghiệm các sản phẩm, công nghệ mới. Hoạt động của SGD được đa dạng hoá với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng, luôn được đổi mới, nâng cao chất lượng, đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao trong thời kỳ này. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGD: Hiện nay, cơ cấu tổ chức của SGD như sau: Giám đốc Các Phó Giám đốc Phóng điện toán Phòng tài chính - kế toán Phòng thanh toán quốc tế Phòng dịch vụ khách hàng DN Phòng dịch vụ KH cá nhân Phòng tín dụng I,II,III Phòng kiểm tra nội bộ Phòng thẩm định - quản lý TD Phòng giao dịch II (Bạch Mai) Phòng giao dich I (Bà Triệu) Phòng tiền tệ - kho quỹ Phòng kế hoạch nguồn vốn Phòng tổ chức hành chính Nhiệm vụ cơ bản của các phòng trong SGD hiện nay như sau: - Phòng tín dụng I, II, III: Phòng tín dụng có nhiệm vụ quan hệ trực tiếp với các khách hàng có nhu cầu tín dụng, nắm giữ các dự liệu và các khoản tín dụng, đảm bảo cơ sở về khách hàng cũng như các khoản tín dụng. - Phòng thanh toán quốc tế: Phòng thanh toán quốc tế có nhiệm vụ thực hiện các tác nghiệp trong tài trợ thương mại phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho khách hàng; Mở các L /C có ký quỹ 100% vốn của khách hàng, thực hiện đối ngoại với khách hàng nước ngoài và là đầu mối cung cấp các thông tín đối ngoại. - Phòng Tiền tệ - kho quỹ: Phòng Tiền tệ – Kho quỹ có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ tiền tệ, kho quỹ: Quản lý nghiệp vụ của chi nhánh; thu – chi tiền mặt; Quản lý vàng bạc, kim loại quý, đá quý; Quản lý chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp; thực hiện xuất nhập tiền mặt để đảm bảo thanh khoản tiền mặt cho chi nhánh, thực hiện các dịch vụ tiền tệ, kho quỹ cho khách hàng. - Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp có chức năng xử lý các giao dịch đối với khách hàng là các doanh nghiệp và các tổ chức khác. - Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân: Phòng dịch vu khách hàng các nhân có trách nhiệm xử lý các giao dịch đối với khách hàng là các nhân : mua bán ngoại tệ ngay với khách hàng, mở tài khoản tiền gửi cá nhân... - Phòng kế hoạch nguồn vốn: Phòng kế hoạch nguồn vốn chịu trách nhiệm tổ chức thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, phân tích môi trường kinh doanh; xây dựng chiến lược kinh doanh, các chính sách kinh doanh, chính sách marketing, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, chính sách huy động vốn… ;Lập, theo dõi, kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh, xây dựng chương trình hành động để thực hiện kế hoạch kinh doanh của Sở giao dịch; Tổ chức quản lý hoạt động huy động vốn, cân đối vốn và các quan hệ vốn của SGD, nghiên cứu phát triển, lựa chọn, ứng dụng sản phẩm mới về huy động vốn. - Phòng Thẩm định - quản lý tín dụng: Có nhiệm vụ thẩm định các dự án cho vay, bảo lãnh (trung, dài hạn) và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết của Trưởng phòng Tín dụng; tham gia ý kiến về quyết định cấp tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết của Trưởng phòng Tín dụng. - Phòng Tài chính - Kế toán: Phòng tài chính – Kế toán có nhiệm vụ: Tổ chức, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra công tác hoạch toán kế toán và chế độ báo cáo kế toán của các phòng và các đơn vị trực thuộc; Hậu kiểm các chứng từ thanh toán của các phòng tại SGD; Lập và phân tích các báo cáo tài chính, kế toán của SGD; Cung cấp thông tin về tình hình tài chính và các chỉ tiêu thanh khoản của Sở giao dịch; Phân tích và đánh giá tài chính, hiệu quả kinh doanh của các phòng, các đơn vị trực thuộc và toàn SGD; Thực hiện nộp thuế, trích lập và quản lý sử dụng các quỹ; Thực hiện kế hoạch chi tiêu nội bộ;Tham mưu cho Giám đốc về thực hiện chế độ tài chính, kế toán. - Phòng điện toán: Quản lý mạng, quản lý hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát theo quyết định của Giám đốc, quản lý hệ thống máy móc thiết bị tin học tại Sở giao dịch, đảm bảo an toàn thông suốt mọi hoạt động của Sở giao dịch; Hướng dẫn, đào tạo, hỗ trợ các đơn vị trực thuộc Sở giao dịch vận hành hệ thống tin học phục vụ kinh doanh, quản trị điều hành của Sở giao dịch. - Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ: Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại trụ sở Sở giao dịch và tất cả các đơn vị trực thuộc Sở giao dịch theo quy chế hoạt động Kiểm tra – Kiểm toán nội bộ; Kiểm tra việc thực hiện các quy chế, chế độ tại Sở giao dịch; Kiểm tra và đôn đốc việc tuân thủ Pháp luật và đề xuất các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm Pháp luật trong Sở giao dịch. - Phòng Giao dịch I, II : Hiên nay phòng giao dịch I tại 191 Bà Triệu và Phòng Giao dịch II tại Bạch Mại, Hà nội. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Giao dịch: Chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch đối với khách hàng là cá nhân và các TCKT khác; Mở tài khoản tiền gửi, tiền vay cho khách hàng, chịu trách nhiệm xử lý các yêu cầu của khách hàng về tài khoản hiện tại và tài khoản mới; Thực hiện giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội, ngoại tệ, thực hiện cho vay phát hành bảo lãnh trong phạm vi uỷ quyền của Giám đốc; thực hiện thu theo quy định; xử lý gia hạn nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn, chuyển nợ quá hạn, thực hiện các biện pháp thu nợ; các giao dịch thu đổi và mua bán ngoại tệ giao ngay đối với các khách hàng theo thẩm quyền được Giám đốc giao; các giao dịch thanh toán, chuyển tiền, bán thẻ ATM, thẻ tín dụng,… cho khách hàng; Tiếp nhận các thông tin phản hồi từ khách hàng; duy trì và kiểm soát các giao dịch đối với khách hàng; tiếp thị sản phẩm dịch vụ đối với khách hàng. - Phòng tổ chức –._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5577.doc