Nâng cao chất lượng tín dụng hiệu quả Sản xuất kinh doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phù Cừ

LờI NóI đầu Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước chuyển từ một nền kinh tế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đã thu được những kết quả nhất định, đưa nền kinh tế của đất nước ta từng bước phát triển đi lên. Điều đáng nói ở đây là kinh tế HSXKD có một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta hiện hay. Do vậy phát triển kinh t

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng hiệu quả Sản xuất kinh doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phù Cừ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế HSXKD theo mô hình thích hợp là một yêu cầu cấp thiết ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Cùng hoà mình vào khí thế đổi mới chung đó, nhân dân huyện Phù Cừ đang tích cực tăng gia sản xuất, cải tạo vườn tạp, đẩy mạnh chăn nuôi trồng trọt chế biến nông sản và đã thu được những thành công đáng kể với sự đóng góp không nhỏ về vốn của NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ. Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy để đạt được mục tiêu trên còn là cả một quãng đường dài và trong thời gian tới Chi nhánh còn phải tích cực mở rộng hoạt động tín dụng hộ sản xuất hơn nữa để mọi hộ sản xuất trong huyện đều có điều kiện tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng phục vụ sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống. Với một huyện thuần nông, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên lại chịu ảnh hưởng bấp bênh của thị trường tiêu thụ nên lĩnh vực tín dụng hộ sản xuất sẽ gặp không ít rủi ro. Vì vậy, việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất đang là một đòi hỏi bức thiết tại Chi nhánh. Sau một thời gian được tiếp cận với thực tế, kết hợp với cơ sở lý luận đã được học ở trường, em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng HSXKD tại Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ” để nghiên cứu làm chuyên đề tốt nghiệp. Đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm 3 chương: Chương I : Những vấn đề cơ bản về tín dụng hộ sản xuất. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Phù Cừ. Chương III: những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ Tỉnh Hưng Yên. Em xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị Thanh Tú-Giảng viên khoa Ngân hàng Tài chính Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cô chú tại Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ đã nhiệt tình hướng dẫn giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này. Em xin trân trọng cảm ơn . Hưng Yên, tháng 05 năm 2004 Sinh viên thực hiện Vũ quốc dũng Mục lục Trang Lời nói đầu 1 chương 1: những vấn đề cơ bản về Tín dụng hộ sản xuất 1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng. 5 1.1.1. Khái niệm tín dụng. 5 1.1.2.Vai trò của tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 5 1.1.3. Một số hình thức tín dụng 6 1.2. Tín dụng đối với sự mở rộng và phát triển kinh tế hộ sản xuất. 8 1.2.1. Khái niệm hộ sản xuất. 8 1.2.2. Phân loại hộ sản xuất. 8 1.2.3. Đặc điểm của vốn cho vay hộ sản xuất. 9 1.2.4. Vai trò của tín dụng đối với kinh tế HSX. 10 1.2.5. Quy trình thủ tục cho vay đối với hộ sản xuất. 12 1.3. Chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. 1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng. 13 13 1.3.2. Quan điểm chất lượng tín dụng. 14 1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. 15 1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. 19 Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT huyện Phù Cừ. 2.1. Khái quát chung về NHNo&PTNT huyện Phù Cừ. 22 2.1.1. qúa trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ. 22 2.1.2. Hoạt động của Ngân hàng No&PTNT Huyện Phù Cừ tỉnh hưng yên. 23 2.1.2.1. Tình hình kinh tế xã hội tại địa phương ảnh hưởng đến hoạt động NH. 23 2.1.2.2. Hoạt động huy động vốn. 24 2.1.2.3. Hoạt động cho vay. 28 2.1.2.4. Các hoạt động khác. 30 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ. 31 2.2.1. Thể lệ tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ 31 2.2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. 32 2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng No&PTNT Huyện Phù Cừ Tỉnh Hưng Yên. 40 2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ tỉnh Hưng yên. 43 2.3.1. Kết quả đạt được. 43 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân. 46 Chương III: những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNO&PTNT Huyện Phù Cừ Tỉnh Hưng Yên. 3.1. Định hướng của NHNO&PTNT Huyện Phù Cừ Tỉnh Hưng yên. 50 3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng no&ptnt Huyện Phù Cừ tỉnh hưng yên. 50 3.2.1 Chấp hành nghiêm túc quy chế cho vay. 50 3.2.2. Hoàn thiện công tác phân tích và hướng dẫn KH lập dự án vay vốn. 52 3.2.3. Nâng cấp hệ thống thu thập và xử lý thông tin cho hoạt động TD. 53 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng. 53 3.2.5. Thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nợ quá hạn. 54 3.2.6. áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với HSX. 57 3.2.7. Nâng cao vai trò của tổ vay vốn trong cho vay hộ sản xuất. 59 3.3.Một số kiến nghị. 60 3.3.1 Kiến nghị đối với các cơ quan quan lý Nhà nước. 60 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước. 62 Tài liệu tham khảo 64 Kết luận 65 chương 1: những vấn đề cơ bản về Tín dụng hộ sản xuất 1.1 Những vấn đề cơ bản về hoạt động TíN DụNG 1.1.1.Khái niệm tín dụng. Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với ba nghiệp vụ chính là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động thường xuyên của Ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng với lãi suất thấp và sử dụng số tiền đó để đầu tư nhằm thu lợi nhuận thông qua chênh lệch lãi suất. Thông thường lượng vốn thuộc sở hữu Ngân hàng thường rất nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của khách hàng, do đó Ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được là cơ sở để Ngân hàng thương mại đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây chính là nguồn gốc của tín dụng. Tín dụng được hiểu là một quan hệ kinh tế giữa một bên là Ngân hàng và một bên là khách hàng của Ngân hàng trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ Ngân hàng sang cho khách hàng sử dụng để sau một thời gian thu hồi về lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận với nhau. Như vậy, Tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản như: có sự chuyển nhượng giá trị từ người cho vay sang người đi vay, sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu, việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở có sự tin tưởng của người chuyển nhượng đối với người sử dụng về việc sử dụng có hiệu quả và hoàn trả đúng kỳ hạn. Đồng thời tín dụng cũng có khả năng rủi ro cao do mất vốn và lãi, tính chất bảo đảm của tín dụng chịu sự chi phối của quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quản lý lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. 1.1.2.Vai trò của tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình) và hầu hết các chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố). Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người bán rau quả đến người kinh doanh hàng hoá, Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ để sản xuất hay mua hàng hoá trưng bày. Lịch sử của ngành Ngân hàng cũng đã chứng minh rằng hoạt động tín dụng là bản chất, là gốc rễ của hoạt động Ngân hàng. Khi ta nói đến tín dụng là nói đến Ngân hàng. Theo pháp luật Mỹ thì bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân hàng. Hoạt động tín dụng gắn liền với một chức năng cơ bản của Ngân hàng là điều hoà vốn trong nền kinh tế. Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay, Ngân hàng đóng vai trò là một kênh dẫn vốn từ người tạm thời thừa vốn sang những người có nhu cầu về vốn. Nếu không thông qua hoạt động tín dụng, chẳng những Ngân hàng không thực hiện được chức năng của mình mà hoạt động tài chính trên thị trường nếu chỉ thông qua tài chính gián tiếp cũng không thể đạt được hiệu quả tối ưu. Chính vì vậy việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình là một trong những hoạt động Ngân hàng tiêu biểu để phân biệt Ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Và luật Ngân hàng cũng đã quy định NHTM là một tổ chức tài chính duy nhất được thực hiện cả hai mặt hoạt động tín dụng là huy động vốn và cho vay. Hoạt động tín dụng dù ở bất kỳ thời kỳ nào cũng đều là nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng và luôn là mảng kinh doanh mang lại phần lớn doanh thu và lợi nhuận cho Ngân hàng. Từ việc đầu tiên chỉ là nhận giữ hộ tiền, nhận gửi rồi huy động và cho vay, cho đến nay các hoạt động của Ngân hàng đã được mở rộng ra rất nhiều bao gồm cả một số lĩnh vực như thanh toán hộ khách hàng, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu. Nhưng tín dụng chưa bao giờ đánh mất đi vai trò của nó là hoạt động chủ yếu và không thể thiếu cuả một Ngân hàng. 1.1.3. Một số hình thức tín dụng. 1.1.3.1.Căn cứ vào thời hạn tín dụng. Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn cho vay đến 12 tháng và thường được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với Ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Cho vay trung hạn: Loại cho vay này thường có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng và thường được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới công nghệ, sử dụng cho các dự án có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không vượt quá thời hạn hoạt động còn lại của đơn vị kinh doanh theo quyết định thành lập và không vượt quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng nhằm đáp ứng vốn cho các nhu cầu vốn dài hạn như xây dựng nhà ở, mua sắm các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các Ngân hàng có xu hướng chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ của Ngân hàng. 1.1.3..2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn Cho vay bất động sản : Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản như nhà ở ,đất đai , bất động sản trong lĩnh vưc công nghiệp ,thương mại , dịch vụ. Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại và dịch vụ . Cho vay nông nghiệp : Loại cho vay này nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vận dụng đắt tiền ,cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. 1.1.3.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Cho vay không có bảo đảm: Loại cho vay này không có tài sản thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Hình thức cho vay này chỉ áp dụng đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả. Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay được Ngân hàng cung ứng khi khách hàng vay phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba có năng lực hoàn trả. Sự bảo đảm này là cơ sở pháp lý để Ngân hàng có thể bảo đảm an toàn nguồn vốn cho vay của mình. Hình thức cho vay được Ngân hàng áp dụng đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng. 1.1.3.4. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này được áp dụng chủ yếu trong cho vay bất động sản nhà ở, cho vay tiêu dùng đối với những người kinh doanh nhỏ, cho vay trang thiết bị kỹ thuật trong công nghiệp. Cho vay phi trả góp: Là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận. Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp đến người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng. Cho vay gián tiếp: Khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nhận nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các Ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp thông qua chiết khấu thương mại, mua lại các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp, mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp. 1.2. Tín dụng đối với sự mở rộng và phát triển kinh tế hộ sản xuất. 1.2.1. Khái niệm hộ sản xuất. Theo Nghị quyết 10 Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, Hộ sản xuất được hiểu là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và là thành phần kinh tế cơ bản ở nông thôn, có quyền bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trước pháp luật. Hộ sản xuất được Nhà nước giao đất sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, thời hạn 20 năm đối với cây hàng năm và 50 năm đối với cây trồng lâu năm (cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và cây rừng). Các hộ sản xuất sử dụng đất được hưởng các quyền như: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp và tính giá trị sử dụng đất để góp vốn khi tham gia liên doanh. Cùng với việc giao đất, Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế như mở rộng các hoạt động tín dụng trong nông thôn, tăng cường khuyến nông - lâm- ngư nghiệp. Đã khuyến khích nông dân phát triển khả năng sẵn có về đất đai, sức lao động, tiền vốn, đẩy mạnh sản xuất tạo ra những thành quả hết sức to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. 1.2.2. Phân loại hộ sản xuất. Hộ có thu nhập khá. Là những hộ có vật tư tiền vốn, có sức lao động, có kỹ thuật trong sản xuất làm dịch vụ, biết tổ chức và thuê mướn người làm. Hay nói cách khác đó là những hộ có môi trường sản xuất và biết tổ chức sản xuất, biết thu hút lao động tạo công ăn việc làm cho người lao động. Vì thế hộ này có nhu cầu vay vốn lớn trong quá trình sản xuất và tạo ra nhiều lợi nhuận. Hộ có thu nhập trung bình. Loại hộ này trong quá trình sản xuất chăn nuôi trồng trọt có thu hoạch sản phẩm nhưng chỉ đủ mức sinh hoạt cho gia đình vì trong quá trình sản xuất hộ có vật tư tiền vốn, có sức lao động nhưng bước đầu chưa tổ chức được sản xuất, chưa áp dụng và cải thiện kỹ thuật vào sản xuất. Vì vậy, đời sống của hộ còn gặp nhiều khó khăn, chưa đủ sức chuyển biến làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Loại hộ nghèo. Ta thấy loại hộ này ở nông thôn chiếm nhiều nhất, họ có thể thiếu sức lao động, thiếu vật tư tiền vốn, chưa biết tổ chức sản xuất, nên hiệu quả sản xuất thu lại thấp, thậm chí trong sản xuất còn để thất thoát vốn. Hộ này thường không đủ ăn chưa nói đến có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. 1.2.3. Đặc điểm của vốn cho vay hộ sản xuất. 1.2.3.1. Vốn cho vay hộ sản xuất thường có chi phí cao. Đó là do món vay nhỏ, phân tán và đặc biệt là rủi ro lớn do các nguyên nhân như thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, giá cả các mặt hàng nông sản thường xuyên biến động. Trong khi đó Chính phủ chưa có chính sách trợ giá cụ thể, khuyến khích sản xuất cho người nông dân. Vì vậy, về nguyên tắc, lãi suất tín dụng nông thôn thường cao hơn ở đô thị, trong khi đó thu nhập của nông dân thường thấp và dễ bị tổn thương. Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần phải có chính sách lãi suất như thế nào để hỗ trợ cho nông dân và đảm bảo hoạt động Ngân hàng an toàn hiệu quả trong môi trường kinh doanh đặc thù như vậy. 1.2.3.2. Vốn đầu tư cho hộ sản xuất chủ yếu là vốn trung và dài hạn. Vì hộ sản xuất chủ yếu vay để đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và đa dạng hoá sản phẩm trong nông nghiệp cần có thời gian nên phải cần vốn đầu tư từ 3-5 năm. 1.2.3.3.Vốn cho vay hộ sản xuất thường quy định thời gian cho vay theo chu kỳ sản xuất cây trồng vật nuôi và thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư. Nguồn thu nhập chính của hộ là từ sản phẩm sau thu hoạch được đem bán trên thị trường. Hầu hết nông sản đều có thời gian sinh trưởng và phát triển nhất định nên nguồn vốn cho vay cũng phải tuân theo chu kỳ sản xuất đó mới đảm bảo thu đủ và thu đúng thời hạn khoản tiền vay Ngân hàng của hộ. 1.2.3.4. Để vốn cho vay hộ sản xuất đạt kết quả cao thì Ngân hàng không chỉ cung cấp vốn bằng tiền mà còn phải hỗ trợ vốn, kiến thức, việc làm, môi trường làm ăn và nhiều hỗ trợ khác. Vì vậy, đặc điểm của vốn cho vay hộ sản xuất có sự vận động ăn nhịp tổng thể của các mối quan hệ kinh tế xã hội khác. Trong những năm qua việc đầu tư tín dụng đến hộ sản xuất đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Ngân hàng với các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Thuỷ sản và Hội Nông dân cùng tìm kiếm và giới thiệu các chương trình dự án phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tạo ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, tiêu thụ nhanh trên thị trường. 1.2.4. Vai trò của tín dụng đối với kinh tế HSX. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, đất nước ta đã trải qua những giai đoạn khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến việc phát triển kinh tế Nông nghiệp nông thôn, nhằm phát huy tối đa nội lực của các hộ kinh tế, khai thác hết các tiềm năng về lao động và đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả nhất, khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo cùng với tình trạng cho vay nặng lãi. Để thực hiện vấn đề này HSX cần phải có đủ vốn cần thiết để tiến hành SXKD và không ngoài ai khác chỉ có tín dụng mới có đủ khả năng cung cấp vốn trực tiếp đến từng HSX. Qua quá trình hoạt động thực tế của mình hệ thống các NHTM, các quỹ tín dụng đã thể hiện vai trò to lớn của tín dụng đối với sự phát triển kinh tế HSX cụ thể là. Tín dụng cung cấp vốn đến từng HSX trên cơ sở nhu cầu vay vốn giúp Ngân hàng cung cấp vốn cho từng HSX giúp họ tận dụng khai thác mọi tiềm năng đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên từ đó đóng góp ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn hàng hoá để cung cấp cho sản xuất công nghiệp xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm cho toàn xã hội Tín dụng đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn trong Nông nghiệp nông thôn, tạo điều kiện duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, phát triển các nghề mới nhằm giải quyết công ăn việc làm cho từng hộ, giúp họ tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Tín dụng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông thông, tăng tính hàng hoá của sản phẩm Nông nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta như mô hình kinh tế (VAC) mô hình kinh tế trang trại ...đã thực sự đánh dấu một bước ngoặc trong việc phát triển kinh tế Nông nghiệp nông thôn, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người nông dân, tạo điều kiện nâng cao dân trí, hình thành những thói quen tốt trong hoạt động kinh tế cho phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. Tín dụng là công cụ tài trợ phát triển cơ sở hạ tầng ở Nông thôn, tạo điều kiện cho từng HSX tiếp thu công nghệ mới vào SXKD. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông thôn đã và đang được thực hiện. Tín dụng không những tham gia vào quá trình sản xuất bằng hình thức cho vay vốn lưu động mà còn đầu tư vốn trung và dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiến tiến phục vụ cho sản xuât và đời sống của người dân nông thông như: Xây dựng mạng lưới điện, trạm bơm, hệ thống thuỷ lợi, đường xá, cải tiến công cụ lao động và đầu tư dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Trong sản xuất hàng hoá, để đảm bảo cho sự tồn tại của mình thì bất cứ một đơn vị SXKD nào cũng phải tiến hành hạch toán kinh tế để sản phẩm của mình được thị trường chấp thuận và kinh doanh có lãi, các HSX nước ta chủ yếu là nông dân nên phần lớn có thói quen với suy nghĩ "Lấy công làm lãi" thường tiến hành sản xuất trong khi hiệu quả SXKD chưa được coi trọng đúng mức. Vài năm gần đây NH đã có sự quan tâm hơn tới các HSX, các hộ được vay vốn của Ngân hàng song phải thực hiện nguyên tắc hoàn trả cho Ngân hàng đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi .Do đó đòi hỏi các hộ phải tính toán hiệu quả sử dụng vốn vay có mục đích để sau khi trả nợ gốc, lãi cho Ngân hàng các hộ vẫn còn phần thu nhập của mình. Tín dụng hạn chế cho vay nặng lãi trong Nông thôn. Tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn đã tồn tại từ lâu và có tác động rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân với mức lãi suất quá cao nó là nguyên nhân gây ra những tiêu cực ở Nông thôn. Bởi vậy Tín dụng thâm nhập sâu vào đời sống Nông thôn đã hạn chế được đáng kể nạn cho vay nặng lãi, tạo điều kiện cho kinh tế HSX vươn lên và thực tế các NHTM đã và đang trở thành người bạn đồng hành trên con đường đi lên của các hộ nông dân. Tín dụng thúc đẩy quá trình huy động vốn trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn nhằm phát triển và mở rộng sản xuất hàng hoá. Tín dụng cung cấp vốn cho HSX, một phần sản phẩm của họ sẽ trở thành hàng hoá, đồng thời thông qua thị trường họ có thể định hướng cho sản xuất của mình sao cho sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người mua. Để đáp ứng ngày càng tốt những nhu cầu đa dạng đó buộc họ phải mở rộng Quy mô sản xuất, tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm để tiêu thụ nhanh, với lợi nhuận cao. Như vậy nhờ có tín dụng mà tính chất sản xuất hàng hoá ngày càng tăng lên trong cách làm, cách nghĩ của người nông dân. 1.2.5. Quy trình thủ tục cho vay đối với hộ sản xuất Có thể là hộ sản xuất đến trụ sở Ngân hàng xin vay trực tiếp; hoặc cho vay thông qua doanh nghiệp được áp dụng đối với các đối tượng nhận khoán của các doanh nghiệp đã thực hiện giao khoán, doanh nghiệp có thể vay trực tiếp Ngân hàng để chuyển tải vốn cho hộ nhận khoán hoặc Ngân hàng nơi cho vay ký hợp đồng với doanh nghiệp làm dịch vụ vay vốn cho hộ sản xuất và Ngân hàng cung ứng vốn trực tiếp đến hộ sản xuất; nhưng hình thức cho vay áp dụng phổ biến đối với hộ sản xuất hiện nay là thông qua tổ vay vốn. Khi thực hiện theo phương thức này đối với hộ sản xuất vay vốn không phải bảo đảm bằng tài sản thì hồ sơ vay vốn phải có giấy đề nghị vay vốn. Còn những trường hợp hộ sản xuất khác thì hồ sơ vay vốn gồm: giấy đề nghị vay vốn; dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ; hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định; ngoài ra còn có biên bản thành lập tổ vay vốn, hợp đồng làm dịch vụ. Quy trình thủ tục cho vay hộ sản xuất (thông qua tổ vay vốn) Tổ vay vốn Hộ sản xuất (1) (3) (2) Ngân hàng Nông nghiệp Huyện (1)Tổ viên gửi cho tổ trưởng giấy đề nghị vay vốn và các giấy tờ khác theo quy định. (2)Tổ trưởng nhận giấy đề nghị vay vốn của tổ viên, tổ chức họp bình xét điều kiện vay vốn, sau đó tổng hợp danh sách tổ viên có đủ điều kiện vay vốn, đề nghị Ngân hàng xét duyệt cho vay. (3)NHNo Huyện mà đại diện là cán bộ phụ trách địa bàn nhận hồ sơ vay vốn của hộ sản xuất từ tổ trưởng tại các thôn xã trong huyện và tập hợp về trụ sở Ngân hàng, xin ý kiến của trưởng phòng tín dụng và phó giám đốc phụ trách tín dụng. Cho vay hay không cho vay cán bộ tín dụng đều phải thay mặt Ngân hàng thông báo cho hộ vay biết cụ thể. Nếu cho vay CBTD sẽ làm thủ tục và mời hộ vay lên ký hợp đồng tín dụng trực tiếp với NHNo Huyện. 1.3. Chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. 1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng đều phải mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: “chất lượng là sự phù hợp với mục đích huặc sử dụng” hay “chất lượng là năng lực của một sản phẩm huặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”. Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng, do vậy có thể quan niệm chất lượng tín dụng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể( thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn..) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế..) Như vậy chất lượng tín dụng thể hiện qua các điểm sau. Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng đựơc xác định qua nhiều yếu tố: Thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. 1.3.2. Quan điểm chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng là vốn tín dụng đầu tư vào các thành phần kinh tế, phát huy hiệu quả an toàn vốn và tạo ra lợi nhuận cho NHTM và hạn chế rủi ro sảy ra. Tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của Ngân hàng được khách hàng sử dụng đưa vào quá trình SXKD dịch vụ để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả Ngân hàng gốc và lãi và trang trải chi phí khác và có lợi nhuận. Như vậy qua một quá trình chu chuyển vốn như trên Ngân hàng sẽ thu hồi vốn gốc và lãi còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả, đúng mục đích tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế xã hội góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hay nói một cách khác chất lượng tín dụng phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng về 2 mặt là khả năng sinh lời và giảm tối thiếu rủi ro về sử dụng vốn. Đồng thời hoạt động tín dụng tốt phải dựa trên nguyên tắc là thoả mãm nhu cầu về vốn của khách hàng ( người đi vay). Do đó các NHTM cần xác định được khách hàng mục tiêu, hiểu rõ hơn nhu cầu của khách hàng để có chính sách phục vụ tốt. 1.3.2.1. Đối với Ngân hàng. Chất lượng tín dụng là phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. 1.3.2.2. Đối với khách hàng. Chất lượng TD đứng trên góc độ khách hàng được quan niệm. Tín dụng phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo quá trình SXKD của khách hàng được trôi trẩy, không ách tắc mất thời cơ vì thiếu vốn. Lãi suất cho vay phải phù hợp, đảm bảo cho khách hàng SXKD có lãi. Bao giờ khách hàng cũng mong muốn được vay NH với lãi suất thấp hơn là vay ngoài. Chính vì vậy chính sách lãi suất của các NHTM cũng chính là một công cụ để các NHTM cạnh tranh với nhau trên thị thường Thời hạn nợ được xác định phù hợp với chu kì SXKD. Việc định kì hạn nợ của NH có một vị trí rất quan trọng đối với khách hàng. Nếu Ngân hàng định kì hạn nợ ngắn hơn chu kì SXKD sẽ là một khó khăn rất lớn cho khách hàng. Bởi chu kì SXKD của họ chưa hoàn thành, sản phẩm chưa hoàn thiện dẫn đến chưa có sản phẩm để tiêu thụ do đó họ không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Ngược lại nếu Ngân hàng xác định kì hạn nợ vượt quá chu kì sản xuất, sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng số tiền đáng ra là để trả nợ cho Ngân hàng vào mục đích khác. Do đó khi đến thời hạn trả nợ khách hàng không còn khả năng trả nợ, buộc các Ngân hàng phải chuyển nợ quá hạn cho khách hàng, mà khách hàng lại rất sợ phải chịu phạt lãi suất nợ quá hạn Thủ tục cho vay gọn nhẹ, không quá rờm rà và phải thuận lợi trong quá trình thực hiện tránh tình trạng vì thủ tục hồ sơ vay vốn quá phức tạp mất thời gian làm chậm mất cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh của khách hàng. Thái độ phục vụ của Ngân hàng: Khách hàng bao giờ cũng muốn lựa chọn những Ngân hàng có phong cách phục vụ tận tình chu đáo để vay vốn, chính vì vậy thái độ phục vụ của cán bộ Ngân hàng phải niềm nở, tận tình giúp đỡ khách hàng khi họ chưa biết, hướng dẫn họ làm thủ tục hồ sơ vay vốn sao cho nhanh chóng và đảm bảo tính pháp lý. Do đó việc đổi mới phong cách phục vụ cũng chính là một trong những chính sách thu hút khách hàng của Ngân hàng. 1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng, hộ sản xuất được coi là khách hàng chính của Ngân hàng. Trong quá trình cung ứng sản phẩm của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan trọng và cần thiết là đánh giá được chất lượng của sản phẩm cung ứng, cụ thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất, nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cụ thể. 1.3.3.1. Chỉ tiêu định tính. Bảo đảm nguyên tắc cho vay. Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đều được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng rất chặt chẽ, với mỗi Ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc rất quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay đầu tiên phải xem xét xem khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không. Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là. Thứ nhất: Cho vay có mục đích, kế hoạch. Thứ hai: Cho vay có đảm bảo. Thứ ba: Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi. Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo. Cho vay đảm bảo có điều kiện. Chỉ tiêu định tính thứ hai để đánh giá chất lượng tín dụng đó là cho vay đảm bảo có điều kiện. Các điều Kiện để một khách hàng được vay tại Ngân hàng. Một là: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiêm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh Ngân hàng đóng trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là: khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất xin vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng với Ngân hàng. Ba là: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: Không vi phạm pháp luật phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Bốn là: Hộ sản xuất có dự án đầu tư huặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi có hiệu quả. Năm là: Hộ sản xuất thực hiện các quy ._.định để đảm bảo tiền vay. - Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản. - Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất ( bao gồm cả công trình giá trị cây lâu năm, thuỷ hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất ). Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến năm điều kiện cho vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay. 1.3.3.2. Chỉ tiêu định lượng. Doanh số thu nợ hộ sản xuất. Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức. D.Số thu nợ hộ sản xuất = D.Số thu nợ HSX x 100(%) D.Số cho vay HSX Tỷ lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = Dư nợ quá hạn HSX x 100(%) Tổng dư nợ HSX Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay) là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường, trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn có nghĩa là tính an toàn thấp. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó nợ quá hạn của NHTM là tất yếu không thể tránh khỏi. Song nếu một NHTM có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn mà đây là điều tệ hại dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập. NHTM nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp. Đây là chỉ tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng tín dụng. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi. Tỷ lệ nợ khó đòi = Tổng nợ khó đòi x 100(%) Tổng nợ quá hạn Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ nợ khó đòi là tỷ lệ phần trăm giữa tổng nợ khó đòi và tổng nợ quá hạn tỷ lệ này ở mức càng cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn của các Ngân hàng là càng cao. Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay. Nếu xét về bản chất tín dụng thì nguồn trả nợ cho Ngân hàng của người vay về nguyên tắc là được trích ra từ phần thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, nó bao gồm các chi phí lao động vật chất (chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định) và phần giá trị mới sáng tạo ra. Tuy vậy, có nhiều trường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả, bị mất vốn (sản xuất kinh doanh thua lỗ, phá sản), nên người vay phải bán tài sản (có thể do tự nguyện huặc bắt buộc) để trả nợ Ngân hàng. Số tiền do bán tài sản có thể trả được hết nợ món vay, nhưng cũng có thể chỉ trả được một phần nợ vay, song trong trường hợp nào đi chăng nữa thì vẫn có thể đánh giá là chất lượng tín dụng thấp. Công thức tính tỷ lệ có thể được xác định như sau. Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay = Số tiền thu nợ do khách hàng bán tài sản x 100(%) Tổng doanh số thu nợ Tỷ lệ này đựơc các NHTM tính theo định kỳ( tháng, quý, năm). Số thu nợ do bán tài sản có thể thống kê theo báo cáo tín dụng. chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất. Đây là một chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa 3 lợi ích: Nhà nước, khách hàng và Ngân hàng. Công thức tính vòng quay vốn tín dụng được xác định như sau. Vòng quay vốn tín dụng HSX = D.Số thu nợ HSX Dư nợ bình quân HSX Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng (thường là một năm). Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính bằng cách lấy trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần xuất sử dụng vốn. Hệ số này càng tăng phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao, tiết kiệm chi phí, tạo ra lơị nhuận lớn cho Ngân hàng. Lợi nhuận của Ngân hàng. Lợi nhuận = Thu nhập từ lãi - Chi phí trả lãi + Thu nhập khác - Chi phí khác - Thuế thu nhập Trong phần thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với NH hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên thu nhập Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của NH cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất. Ngoài các chỉ tiêu trên NHNN còn có thể thông qua các văn bản nghiệp vụ để quy định chỉ tiêu có tính bắt buộc đối với các NHTM như. Thủ tục, hồ sơ cho vay, thời gian tối đa để ra quyết định đối với một khoản vay, biên độ tối đa, tối thiểu lãi suất cho vay so với mức lãi suất cơ bản.. Căn cứ vào các chỉ tiêu trên, hàng quý, năm. các NHTM tự phân tích đánh giá để xác định mức độ an toàn và chất lượng tín dụng của hệ thống. Qua đó NHNN có cơ sở chỉ đạo NHTM nâng cao chất lượng tín dụng trong từng khâu, từng mặt nghiệp vụ huặc có các biện pháp bắt buộc cụ thể đối với từng NHTM trong hoạt động tín dụng. 1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn đối với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn làm tốt điều này trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Yếu tố môi trường. Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất một cách trực tiếp huặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. Môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho hộ sản xuất làm ăn có hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên. Môi trường chính trị pháp lý. Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động tín dụng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy ra các tranh chấp tín dụng. Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Môi trường tự nhiên. Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất kinh doanh suôn sẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế, việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Diễn biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể đoán được khi thiên tai xảy ra, cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Yếu tố thuộc về khách hàng. Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Trình độ của khách hàng: Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý tốt khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khách hàng không có khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của khách hàng, yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ đầu khi vay huặc sau khi đã vay được, tuy nhiên việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Lừa đảo Ngân hàng: Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng cố ý lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có thể được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có được hoàn trả lại hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng. Yếu tố thuộc về Ngân hàng. Bên cạnh yếu tố thuộc về môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế. Chính sách tín dụng của Ngân hàng: Là một trong những chính sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra đựơc hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút đựơc khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Chấp hành quy định thể chế tín dụng: Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng là tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng Ngân hàng có thể được thực hiện hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ riêng của từng Ngân hàng. Cho vay huặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về bảo đảm tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng. Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết định thông qua các chỉ tiêu định tính. Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng giảm sút. Hệ thống thông tin Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các thông tin về khách hàng trước khi quyết định một khoản cho vay. Yếu tố này rất quan trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Phù Cừ. 2.1. khái quát chung về NHNo&ptnt huyện Phù Cừ. 2.1.1. qúa trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ. Từ năm 1959 đến tháng 7/1988: Đây là chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước Huyện Phù Cừ Tháng 7/1988: Chính Phủ quyết định thành lập hệ thống Ngân hàng thương mại (Ngân hàng chuyên doanh) gồm Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Ngoại Thương,Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển nhằm phục vụ nền kinh tế thị trường với nhu cầu vốn và các dịch vụ thanh toán ngày càng lớn. Hệ thống Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam bắt đầu hoạt đọng từ thời kỳ này. Từ tháng 7/1988 đến năm 1997: Đây là phòng giao dịch của chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Tiên. Từ năm 1997 đến nay: Đây là chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ. NHNo &PTNT Phù Cừ (gọi tắt là NHNo Phù Cừ) là một Ngân hàng cấp III, là đơn vị trực thuộc NHNo & PTNT Hưng Yên. NHNo Phù Cừ thực hiện hạch toán kinh tế theo cơ chế tài chính của NHNo và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Sau khi tái lập huyện, NHNo Phù Cừ đã đi vào ổn định, đến nay tổng số cán bộ CNV trong toàn chi nhánh là 30 người, trong đó Ban giám đốc có 3 người còn lại biên chế thành 2 phòng: - Phòng kế toán ngân quỹ - Phòng nghiệp vụ kinh doanh. Ngoài trụ sở chính và các phòng ban trên, NHNo & PTNT Phù Cừ còn có một chi nhánh Ngân hàng cấp IV đặt ở Tam Đa nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn của Ngân hàng cũng như của người dân được thuận lợi, tạo điều kiện mở rộng tín dụng. + Cơ cấu mô hình hoạt động của NHNo & PTNT Phù Cừ có 2 điểm giao dịch, đó là: NHNo Phù Cừ (đặt tại trung tâm huyện) tại đây vừa là trung tâm điều hành vừa quản lý 8 xã phía Bắc huyện và một thị trấn. NH liên xã Tam Đa: Chịu trách nhiệm quản lý 6 xã phía Nam huyện. + Cơ cấu tổ chức của NHNo Phù Cừ. Ban giám đốc gồm 3 người cụ thể là: Giám đốc: Trực tiếp chỉ đạo NHNo Phù Cừ. Một phó giám đốc: Phụ trách phần kinh doanh. Một phó giám đốc: Phụ trách phòng kế toán và là Giám đốc Ngân hàng người nghèo Phù Cừ. Các phòng ban gồm 2 phòng sau đây: Phòng kế toán: Gồm 8 người, 1 trưởng phòng, 1 phó phòng, 1 kiểm soát, 2 thủ quỹ và 3 kế toán. Làm nhiệm vụ giải ngân các món tiền cho vay, thu tiền mà khách hàng đem giả và đem gửi vào, kiểm soát các hoạt động, hạch toán vào tài khoản kế toán và thực hiện các giao dịch khác. Phòng nghiệp vụ kinh doanh: gồm 19 người: Gồm có 1 trưởng phòng và 1 phó phòng và 17 cán bộ tín dụng. Làm nhiệm vụ cho vay, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn, quảng bá các dịch vụ mới của Ngân hàng. 2.1.2. Hoạt động của NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ tỉnh hưng yên. 2.1.2.1. Tình hình kinh tế xã hội tại địa phương ảnh hưởng đến hoạt động Ngân hàng. Phù Cừ là một huyện đồng bằng nằm trong địa giới tỉnh Hưng Yên, cách trung tâm tỉnh khoảng 20 km về phía Đông Bắc. Đây là một huyện mới tái lập sau khi tách Huyện Phù Tiên cũ thành hai huyện là Phù Cừ và Tiên Lữ vào năm 1997. Diện tích huyện khoảng 9.127,19 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp khoảng 6.155,78 ha chiếm 67,45% diện tích toàn huyện với gần ba vạn hộ dân sinh sống. Đây là một huyện có mật độ dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp với truyền thống thâm canh cây lúa nước đạt năng suất cao và có nhiều ngành nghề khác như chăn nuôi trâu bò, nuôi trồng thuỷ sản, trồng nấm rơm, dâu tằm, dưa chuột xuất khẩu, đỗ tương, đay đạt hiệu quả khá cùng những giống cây đặc sản như nhãn nồng, vải thiều, cam ngọt. Những năm gần đây tình hình nông thôn trên địa bàn cơ bản ổn định, kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ 11,58%; một số lĩnh vực có mức tăng trưởng khá như nông nghiệp 8,72%, công nghiệp xây dựng 19,98%; thương nghiệp dịch vụ 14,49%. Tuy nhiên, nền kinh tế của huyện chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp với cơ cấu kinh tế nông nghiệp- công nghiệp xây dựng- thương mại dịch vụ là 65-15-20. Trên 80% dân số trong huyện sống bằng nông nghiệp, điều kiện canh tác còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi giá cả hàng hoá nông sản liên tục ở mức thấp so với các hàng hoá tiêu dùng khác làm cho thu nhập thực tế của người nông dân thấp, đời sống khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trong huyện còn cao, GDP bình quân đầu người trong huyện còn thấp dưới mức bình quân chung của cả nước; năm 2003 thu nhập bình quân đầu người là 3,7 triệu đồng, giá trị thu nhập trên một héc ta là 33,05 triệu đồng. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp số lượng ít, quy mô nhỏ, cơ cấu đầu tư dàn trải, phân tán, chất lượng và hiệu quả đầu tư ở một số ngành chưa cao, chưa có môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, hợp tác. Tỷ lệ lao động thiếu việc làm trong huyện còn nhiều, nhất là lao động nông nhàn. Thu ngân sách từ nội bộ nền kinh tế đạt thấp. Trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn của huyện tuy có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm, mô hình kinh tế hợp tác xã chưa phát huy tác dụng, mô hình kinh tế trang trại chủ yếu là quy mô nhỏ, chưa có nhiều điển hình có hiệu quả làm mẫu để nhân rộng nên chưa tạo được động lực để khai thác tiềm năng lao động, đất đai vào phát triển kinh tế. 2.1.2.2. Hoạt động huy động vốn. Dưới góc độ là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, vốn có vai trò rất lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng- nó là nguyên liệu đầu vào cần thiết của một quá trình sản xuất. Vốn là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Khối lượng vốn, cơ cấu vốn sẽ quyết định quy mô hoạt động tín dụng, cơ cấu hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của Ngân hàng. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi Ngân hàng. ý thức được tầm quan trọng đó của vốn, NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như huy động tiền gửi tại địa phương, nghiệp vụ ngoại bảng và các nghiệp vụ trung gian khác trong mấy năm gần đây đã huy động được một lượng vốn đáng kể, với các hình thức phong phú, đa dạng như: Huy động tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và tiền vay Ngân hàng Nhà nước, huy động tiền gửi và vay các tổ chức kinh tế. Huy động tiền gửi của khách hàng bằng cả nội tệ và ngoại tệ dưới các hình thức tiết kiệm không kỳ hạn; tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, tiết kiệm trả lãi trước, tiết kiệm trả lãi hàng tháng, tiết kiệm trả lãi khi đến hạn. Phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn và dài hạn như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu bằng nội tệ. Ngân hàng No & PTNT Huyện Phù Cừ cũng nhận vốn uỷ thác đầu tư của Chính phủ bằng các dự án 2561-VN, dự án 2855-VN, dự án CFD-TDNT, dự án AFD. Và thực hiện tạo vốn qua các nghiệp vụ trung gian như nhận chuyển trả tiền điện tử, thanh toán hộ khách hàng. Những năm đầu khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, các Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ nói riêng còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh còn nhiều mặt bị hạn chế, kể cả mảng huy động vốn. Nhưng cùng với sự nỗ lực của bản thân chi nhánh, sự ủng hộ từ nhiều phía đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Chi nhánh đã quen dần với cơ chế mới, đã đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Đến nay, chỉ xét riêng mảng huy động vốn của Chi nhánh, cả quy mô và chất lượng đều được phát triển. Về quy mô nguồn vốn: Năm 2001, tổng nguồn vốn là 49.018 triệu đồng; năm 2002 con số này là 67.030 triệu đồng tăng 18.012 triệu đồng so với năm 2001, tốc độ tăng là 36.75%. Đến năm 2003 tổng nguồn vốn đạt 81.032 triệu đồng tăng 14.002 triệu đồng so với năm 2002 tương ứng với tốc độ tăng là 20.89%. Đạt được kết quả trên là do trong ba năm gần đây Chi nhánh NHNo Huyện Phù Cừ đã thực hiện quán triệt nhiệm vụ ngay từ đầu các năm cho CBCNV trong toàn cơ quan. Đồng thời Chi nhánh cũng thực hiện cải thiện, đa dạng hoá các hình thức huy động như tiết kiệm trả lãi trước, phát hành kỳ phiếu trả lãi trước 13 tháng. Với mức lãi suất và thời gian huy động phù hợp được đông đảo khách hàng ủng hộ đã góp phần đẩy nhanh quá trình tập trung vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế địa phương. Do vậy, các nguồn tiền huy động đều tăng nhưng với mức độ khác nhau. Cơ cấu nguồn vốn những năm gần đây có sự chuyển biến tích cực. Nguồn vốn huy động tại địa phương chiếm tỷ lệ tăng dần trong tổng nguồn vốn trong ba năm từ 2001-2003. Năm 2001, tổng nguồn vốn huy động tại địa phương là 35.567 triệu đồng chiếm 72.56% tổng nguồn vốn. Năm 2002, con số này là 47.190 triệu đồng chiếm 89.64% trong tổng nguồn; so với năm 2001 tăng 11.623 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 32.68%. Đến năm 2003, nguồn vốn huy động tại địa phương đã đạt 54.593 triệu đồng, chiếm 67.37% tổng nguồn vốn, tăng so với năm 2002 là 7.403 triệu đồng, tốc độ tăng là 15.69%. Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn. Đơn vị: Triệu đồng. Chỉ tiêu 31/12/ 2001 31/12/ 2002 02/01 31/12/2003 03/02 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tuyệt đối % Số tiền Tỷ trọg (%) Tuyệt đối % 1.Nguồn vốn huy động tại địa phương 35.567 72,56 47.190 89,64 11.623 32,68 54.593 67.37 7.403 15.69 Tiền gửi của KBNN 15.082 30,77 16.674 24,88 1.592 10,56 17.848 22.03 1.174 7.04 Tiền gủi các TCKT 1.480 3,02 2.000 2,98 520 35,14 2.683 3.31 0.683 34.15 Tiền gửi của khách hàng 15.403 31,42 24.575 36,66 9.172 59,55 34.062 42.04 9.487 38.60 + Bằng VNĐ 15.403 31,42 20.832 31.08 5.429 35.25 29.815 36.79 8.983 43.12 + Bằng ngoại tệ 0 0 3.743 5.58 3.743 100 4.247 5.24 0.504 13.47 Phát hành giấy tờ có giá 3.602 7,35 3.941 5,88 339 9,41 4.321 5.33 0.38 9.64 2. Vốn nhận dịch vụ uỷ thác 9.720 19,83 10.130 15,11 410 4,22 10.635 13.12 505 4.99 3. Tiền vay NHNN 100 0,2 510 0,76 410 410 720 0.89 210 41.18 4. Vốn huy động khác 2.258 4,61 7.680 11,46 5.422 240 8.931 11.02 1.251 16.29 5. Vốn và quỹ của NHNo 1.373 2,8 1.520 2,27 147 10,7 1.832 2.26 0.312 20.53 Tổng cộng 49.018 100 67.030 100 18.012 36,75 81.032 100 14.002 20.89 (Nguồn: Phòng Kế toán- Ngân quỹ- NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ). Qua bảng trên ta thấy trong tổng nguồn vốn huy động tại địa phương, nguồn tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tăng trưởng đều đặn qua các năm và thường chiếm tỷ trọng từ 10%-30% trong tổng nguồn: năm 2001 là 15.082 triệu đồng (chiếm 30.77%); năm 2002 là 16.674 triệu đồng (chiếm 24.88%) đến năm 2003 là 17.848 triệu đồng (chiếm 22.03%). Nhưng tiền gửi của các tổ chức kinh tế vẫn rất thất thường, tăng giảm không theo chiều hướng tích cực. Ngân hàng cần củng cố và phát triển tốt mối quan hệ với các tổ chức này trong thời gian tới. Thông thường, nguồn tiền gửi của KBNN và các tổ chức kinh tế là nguồn tiền gửi không kỳ hạn, chịu lãi suất thấp. Huy động nguồn vốn này một mặt giúp Ngân hàng tiết kiệm được chi phí trả lãi và tăng thu nhập cho Ngân hàng trong việc cung cấp dịch vụ cho đối tượng khách hàng trên như thanh toán hộ bằng uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, chuyển khoản và các dịch vụ khác. Nhưng nguồn vốn này đa phần là tiền gửi không kỳ hạn nên tính ổn định không cao. Các tổ chức kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng chủ yếu nhằm mục đích thanh toán hoặc chỉ là những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến chứ không mang tính tiết kiệm như tiền gửi dân cư. Ngân hàng phải luôn trong tư thế sẵn sàng chi trả nên Ngân hàng không thể sử dụng nguồn này để cho vay trung và dài hạn. Do đó, vấn đề đặt ra là Ngân hàng phải xác định được một tỷ lệ hợp lý giữa hai nguồn: tiền gửi của tổ chức kinh tế, KBNN và tiền gửi dân cư để vừa đảm bảo thu được lợi nhuận vừa tránh rủi ro về kỳ hạn. Đáng chú ý trong nguồn vốn huy động tại địa phương là khoản mục tiền gửi dân cư. Vốn từ dân cư gửi vào Ngân hàng phần lớn dưới dạng tiết kiệm hoặc mua kỳ phiếu, trái phiếu. Người dân gửi tiền vào Ngân hàng với mục đích thu lãi suất. Đây là nguồn vốn mang tính ổn định cao, thường là dài hạn. Năm 2001, tiền gửi dân cư đạt 15.403 triệu đồng chiếm 31.42% tổng nguồn. Năm 2002 khoản mục này đạt 24.575 triệu đồng tăng 9.172 triệu đồng so với năm 2001, chiếm tỷ trọng 36.66% trong tổng nguồn vốn huy động tại địa phương với tốc độ tăng trưởng là 59.55%. Năm 2003, tiền gửi dân cư đã là 34.062 triệu đồng chiếm 42.04% tổng nguồn, so với năm 2002 tăng 9.487 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 38.6%. Tiền gửi dân cư tăng trưởng đều đặn và ổn định qua các năm - đây là dấu hiệu đáng mừng do khoản mục tiền gửi này rất ít biến động, tiền gửi dưới 12 tháng chỉ chiếm 20%-25% trong tổng tiền gửi dân cư. Điều này cho phép Ngân hàng lập kế hoạch sử dụng lâu dài đồng thời theo đuổi các dự án trung và dài hạn. Tuy nhiên, tiền gửi dân cư tăng nhanh một mặt phản ánh đời sống nhân dân ngày càng khấm khá hơn, mặt khác nó cũng phản ánh tâm lý tiết kiệm để dành của người dân vẫn còn lớn và cơ cấu kinh tế địa phương chưa chuyển đổi mạnh, thị trường nông thôn chưa phát triển, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, còn nhiều rủi ro nên người có vốn chưa dám mạnh dạn đầu tư. Hàng năm, NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ nhận một lượng vốn lớn do Chính phủ uỷ thác đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã làm tăng đáng kể nguồn vốn của Ngân hàng. Nguồn vốn này năm 2001 là 9.720 triệu đồng chiếm tỷ trọng 19.83% tổng nguồn vốn và năm 2002 là 10.130 triệu đồng chiếm tỷ trọng 15.11% tổng nguồn vốn của Ngân hàng. So với năm 2001 thì năm 2002 nguồn vốn nhận uỷ thác tăng về tỷ lệ tuyệt đối là 410 triệu và tăng về tỷ lệ tươg đối là 4.22%. Đến năm 2003 nguồn uỷ thác đầu tư tuy có tăng, đạt 10.635 triệu đồng nhưng chỉ chiếm 13.12% tổng nguồn vốn và tăng so với năm 2002 là 4.99% tương ứng với 505 triệu đồng. Phần lớn vốn của các dự án là nguồn vốn trung, dài hạn có thời hạn trên dưới 20 năm, do vậy đây là nguồn vốn ổn định góp phần tích cực đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn ở nông thôn. Đáng chú ý là dự án tài chính nông thôn ADB hay dự án TCNT II-WB. để trực tiếp cho vay trong hoạt động kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp tạo công ăn việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho các hộ nông dân. Ngoài ra, trong tổng nguồn vốn của Chi nhánh còn có thêm các khoản mục như: tiền vay NHNN, vốn và quỹ của NHNo hay vốn huy động khác. Những khoản này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn và thường không biến động mạnh qua các năm. Tóm lại, quy mô nguồn vốn đã có sự tăng trưởng rõ rệt qua các năm và cơ cấu nguồn vốn cũng có sự chuyển biến tích cực. Chi nhánh bằng nhiều biện pháp, phương thức linh hoạt, sáng tạo đã tích cực khai thác nguồn vốn rẻ để hạ lãi suất đầu vào, chủ động khai thác nguồn vốn tại chỗ tạo tính ổn định, bền vững. Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là khối lượng vốn vẫn còn hạn hẹp và hình thức huy động vốn vẫn còn đơn điệu. Ngân hàng nên khuyến khích việc huy động vốn thêm bằng các hình thức mới như: phát hành kỳ phiếu, trái phiếu bằng ngoại tệ; tiết kiệm quay số trúng thưởng, tiết kiệm trả góp. 2.1.2.3. Hoạt động cho vay. Song song với hoạt động huy động vốn là hoạt động sử dụng vốn. Vì là một Ngân hàng hoạt động tại địa bàn nông thôn, thị trường tài chính chưa phát triển nên ngoài phần đầu tư vào bất động sản, thiết bị và một số tài sản khác thì cho vay là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng. Hoạt động cho vay thường chiếm 80%-90% tổng tài sản của Ngân hàng. Kết quả hoạt động tín dụng đóng một vai trò quan trọng, nó không chỉ phản ánh sự phát triển của một Ngân hàng, uy tín của một Ngân hàng mà lợi nhuận thu được từ hoạt động này bao giờ cũng là nguồn thu chủ yếu và là cách để duy trì mọi hoạt động khác của Ngân hàng. Nhận thức sâu sắc điều này, Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ luôn chủ trương mở rộng hoạt động cho vay với mọi đối tượng khách hàng thuộc tất cả các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt. Mọi đối tượng khách hàng đến với Ngân hàng đều được thận trọng xem xét và được cung cấp những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất. Chính vì vậy, dư nợ đối với nền kinh tế của Chi nhánh không ngừng tăng trưởng trong những năm vừa qua. Bảng 2: Cơ cấu dư nợ phân theo nguồn. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/ 2001 31/12/ 2002 02/01 31/12/ 2003 03/02 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tuyệt đối % Số tiền Tỷ trọng(%) Tuyệt đối % 1. Dư nợ bằng nguồn nội địa 23.713 60.19 35.962 64.63 12.249 51.66 45.246 65.65 9.284 25.82 - Dư nợ ngắn hạn 10.922 27.72 13.462 24.19 2.540 23.26 16.496 23.93 3.034 22.54 - Dư nợ trung hạn 12.791 32.47 22.500 40.44 9.709 75.90 28.75 41.71 6.250 27.78 2. Dư nợ bằng nguồn uỷ thác đầu tư 15.682 39.81 19.680 35.37 3.998 25.49 23.678 34.35 3.998 20.32 - Dư nợ ngắn hạn 7.004 17.78 8.413 15.12 1.409 20.12 10.258 14.88 1.845 21.93 - Dư nợ trung dài hạn 8.678 22.03 11.267 20.25 2.589 29.83 13.42 19.47 2.153 19.11 Tổng dư nợ 39.395 100 55.642 100 16.247 41.24 68.924 100 13.282 23.87 Tổng tài sản 49.018 67.030 81.032 (Nguồn: Phòng Kế toán- Ngân quỹ- NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ). Nếu năm 2001, tổng dư nợ của Ngân hàng là 39.395 triệu đồng, năm 2002 đã là 55.642 triệu đồng với tốc độ tăng trưởng là 41.24% (tương ứng với 16.247triệu đồng) thì đến 31/12/2003 dư nợ đối với nền kinh tế đã tăng lên đến 52.642 triệu đồng, so với năm 2002 tăng 23.87% (tương ứng với 13.282 triệu đồng). Đối chiếu với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ta thấy chúng rất cân đối với nhau. Biểu đồ 1: So sánh giữa dư nợ và nguồn vốn (Nguồn: Phòng Kế toán- Ngân quỹ- NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ). Từ người nông dân, cán bộ hưu trí, CBCNVC hiện đang làm việc tại các cơ quan đóng trên địa bàn huyện đến các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tư nhân có nhu cầu vay vốn đều được Chi nhánh đáp ứng đầy đủ, kịp thời với các hình thức tín dụng ngắn - trung và dài hạn như: cho vay bổ sung vốn lưu động, cho vay tiêu dùng, cho vay theo các dự án đầu tư phát triển. Hiện nay, Chi nhánh đang áp dụng hai phương thức cho vay chủ yếu là cho vay theo món và cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay theo món là phương thức cung ứng tiền thích hợp đối với những khách hàng có vốn tự có dồi dào, nhu cầu vốn vay chỉ có tính chất tạm thời và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng mức luân chuyển vốn của người vay. Trong nền kinh tế thị trường thì tính chất thời vụ không phải là tiêu chí quyết định việc áp dụng cho vay từng lần mà khả năng tài chính và ý muốn của khách hàng mới là yếu tố quyết định. Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức ưu đãi về vốn và về thủ tục vay vốn đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh ổn định, tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn luân chuyển thấp nên họ có nhu cầu vay Ngân hàng thường xuyên liên tục. Tuy vậy phương thức này chi nhánh chỉ áp dụng đối với những khách hàng có tín nhiệm với Ngân hàng nên còn rất hạn chế. 2.1.2.4. Các hoạt động khác. Ngoài các hoạt động chính của một Ngân hàng là huy động vồn và sử dụng nguồn vốn đã huy động được một cách có hiệu quả nhất, thì song song với các hoạt động đó Ngân hàng No&PTNT Huyện Phù Cừ còn thực hiện các hoạt động khác như: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và vàng bạc, hoạt động chuyển tiền điện tử. Một mặt các hoạt động này vừa đáp ứng được nhu cầu của người dân mặt khác các hoạt động này cũng tạo ra một phần lợi nhuận đáng kể cho Ngân hàng và đa dạng hoá hơn các loại dịch vụ thanh toán cho Ngân hàng. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại chi nhánh nhno&ptnt Huyện Phù Cừ. 2.2.1. Thể lệ tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Phù Cừ . Từ năm 1993 đến năm 1998 NHNo Huyện Phù Cừ đã đầu tư cho HSX vay vốn theo Quy định 499 A của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT V._.p dự án vay vốn là công đoạn đầu tiên của một quá trình cho vay cho nên công đoạn này là rất quan trọng đối với một khoản vay. Bởi vì công đoạn lập dự án vay vốn nó quyết định đến khả năng vay được vốn của khách hàng. Nếu dự án vay vốn đó là khả thi thì người đi vay mới có thể vay được vốn của Ngân hàng. Nếu quá trình lập dự án mà không tốt thì khả năng người này vay được vốn của Ngân hàng là rất khó khăn. Song song trong quá trình hướng dẫn khách hàng lập dự án vay vốn đó thì người cán bộ tín dụng phải phân tích và thẩm định xem dự án nàycó thể đem lại được lợi nhuận cho người vay được hay không. Vì nguồn thu nhập mà dự án này đem lại sẽ là nguồn trả nợ chính cho Ngân hàng và phân tích nó có quan hệ nhân quả với chất lượng tín dụng. Đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng càng cao bởi vì thông qua đánh giá tổ chức tín dụng sẽ lượng định được mức độ rủi ro trong quá trình cho vay để có các biện pháp sử lý kịp thời nhằm hạn chế tới mức tối đa vốn bị thất thoát. yêu cầu của công tác phân tích là đánh giá tình hình khách hàng và chuẩn đoán được khả năng trả nợ của khách hàng theo những chỉ tiêu sau. 3.2.3.1. Phân tích vốn tự có của hộ tham gia vào dự án. Vốn tự có của hộ có thể là bằng tiền, bằng hiện vật . . Đối với những hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp thì vốn tự có chủ yếu là sức lao động, còn các hộ sản xuất ngành nghề và kinh doanh dịch vụ, thương mại thì vốn tự có chủ yếu là phương tiện sản xuất , tiền mặt, tỷ lệ vốn tự có của hộ tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh càng lớn thì mức độ an toàn vốn cho vay của Ngân hàng càng cao, vì khi có mọi dự định và cách thức cũng như quá trình tiến hành thực hiện dự án của hộ sẽ được tính toán một cách kỹ lưỡng, thận trọng hơn, nội dung này là một trong các chỉ tiêu quan trọng giúp cho cán bộ tín dụng xác định mức cho vay hợp lý, bởi trên thực tế cho thấy hầu hết các phương án, dự án thì hiệu quả sử dụng vốn đều không cao, khả năng trả nợ đúng hạn sẽ gặp nhiều khó khăn, cá biệt còn có những khoản rủi ro khó thu hồi. 3.2.3.2. Xác định tài sản hiện có của hộ. Tài sản hiện có của hộ cũng là nội dung cần thiết khi thẩm định cho vay, bởi vì thông qua thẩm định nhằm đánh giá thực lực kinh tế hiện có của hộ, thông qua đó cán bộ tín dụng có thể phân loại và xếp hộ theo tiêu thức hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình, hộ nghèo, từ đó xác định mức cho vay hợp lý và có thái độ xử lý đúng đắn. Ngoài ra các tài sản này sẽ là nguồn trả nợ bổ sung của hộ vay trong những trường hợp phương án, dự án sản xuất kinh doanh của hộ gặp rủi ro. 3.2.3. Nâng cấp hệ thống thu thập và xử lý thông tin cho hoạt động TD Trong kinh doanh nhất là kinh doanh tiền tệ cần phải có nhiều thông tin. Nếu thiếu thông tin thì chẳng khác nào đi trong bóng tối. Vì vậy việc tổ chức thu thập thông tin và xử lý thông tin là rất quan trọng. Khi cho bất cứ một đối tượng nào vay thì cần phải có thông tin về đối tượng đó. Cho nên NHNo Huyện Phù Cừ cần tăng cường trang thiết bị để hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin, nâng cao trình độ, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của đội ngũ cán bộ tín dụng , khuyến khích CBTD tự hoàn thiện và nâng cao kiến thức của mình về chuyên môn cũng như ngoài chuyên môn, để có thể nắm bắt và xử lý thông tin một cách nhạy bén phục vụ cho công tác của mình. Tổ chức tốt việc tiếp thị, phân tích khách hàng, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn thì cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác kinh doanh để nắm bắt đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng. Công tác kiểm soát nội bộ có vai trò quan trọng trong quản trị điều hành của các Ngân hàng , trong điều kiện kinh doanh đa dạng, cạnh tranh quyết liệt môi trường kinh doanh phức tạp, trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Vì vậy Ngân hàng cần phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng . Đặc biệt là kiểm tra chấn chỉnh việc chấp hành quy trình nghiệp vụ cho vay, hồ sơ cho vay có đầy đủ đảm bảo tính pháp lý hay không và kiểm tra đảm bảo tiền vay ... Kiểm soát cụ thể trên các mặt: Kiểm tra việc chấp hành kế hoạch dư nợ ngắn hạn, trung dài hạn Kiểm tra hồ sơ cho vay, cần đánh giá chính xác về tính hợp lệ, hợp pháp và có đầy đủ không? đặc biệt là tính pháp lý, tính thực tiễn của những tài liệu trong hồ sơ vay vốn. Kiểm tra về thời hạn cho vay, kì hạn trả nợ, mức dư nợ được cấp Kiểm tra việc bảo quản tài sản thế chấp, cầm cố xem xét mối tương quan về mặt giá trị tài sản đảm bảo so với vốn cho vay, việc quyết toán hợp đồng tín dụng , thanh lý tài sản đảm bảo. Kiểm soát việc đảm bảo an toàn vốn vay, cần kiểm tra các điều kiện về đảm bảo an toàn tiền vay như việc thực hiện quy chế an toàn vốn, các biện pháp bảo đảm tín dụng và hạn chế rủi ro. Kiểm soát việc thực hiện kế hoạch về nợ quá hạn, nợ có vấn đề .. Ngoài ra phải kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay và khả năng trả nợ trực tiếp ở một số khách hàng, thường xuyên đối chiếu nợ để phát hiện sai sót đề xuất với giám đốc và cán bộ tín dụng có liên quan, có hướng xử lý chỉnh xửa góp phần đảm bảo an toàn vốn cho vay ra. Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kiểm soát hoạt động tín dụng NHNo Huyện Phù Cừ cần bố trí những người làm công tác kiểm tra có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, có năng lực kinh nghiệm trong kiểm tra. Thường xuyên cho tập huấn học tập nâng cao trình độ, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm Quy trách nhiệm đối với những cá nhân thực hiện sai Quy trình dẫn đến thất thoát vốn Ngân hàng . 3.2.5. Thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nợ quá hạn. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM, nền kinh tế thị trường, là nơi chứa đựng nhiều rủi ro. Như vậy nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi đối với hoạt động kinh doanh của bất kì NHTM nào, khi nói đến chất lượng tín dụng thì phải chú ý quan tâm đến nợ quá hạn, xem nợ quá hạn chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng dư nợ từ đó phân tích nguyên nhân để đưa ra các biện pháp. Đối với NHNo Huyện Phù Cừ , tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ đến 31/12/2003 là 0.963%. 3.2.5.1 Biện pháp phòng ngừa và hạn chế nợ quá hạn mới. Để từng bước nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHNo Huyện Phù Cừ thì vấn đề đầu tiên là phải ngăn chặn nợ quá hạn mới phát sinh đây là một biện pháp tích cực nhất để hạn chế nợ quá hạn gia tăng. Ngăn chặn nợ quá hạn mới bằng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Có thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa thì mới giảm rủi ro trong kinh doanh hay hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xẩy ra. Từ đó Ngân hàng phân tích đánh giá được nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh để có biện pháp hạn chế. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngăn ngừa và hạn chế rủi ro cần giải quyết tốt một số vấn đề sau. Phân tích rủi ro bằng cách đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, cho vay phân tán khách hàng, phân loại khách hàng, rà soát lại hồ sơ, phân loại dư nợ theo nguyên nhân để có biện pháp xử lý. Để hạn chế rủi ro bản thân NH phải đánh giá chính xác về khách hàng trước khi thiết lập một quan hệ hay trước khi bỏ vốn ra, cụ thể phải nghiên cứu năng lực pháp lý của khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, năng lực phẩm chất của người điều hành, năng lực kinh doanh của khách hàng. Nghiên cứu và hình thành các đảm bảo tín dụng một cách chắc chắn. + Người bảo lãnh phải có đủ điều kiện pháp lý và khả năng tài chính + Tài sản đảm bảo phải nghiên cứu theo giá cả, số lượng và chất lượng trên thị trường. + Việc lựa chọn đảm bảo phải phù hợp với tính chất khoản vay. - Phải nghiên cứu kỹ tình hình kinh tế đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ để xây dựng chính sách tín dụng của Ngân hàng đúng luồng. - Thu thập đầy đủ các thông tin về rủi ro của khách hàng. - Tăng cường công tác kiểm tra của Ngân hàng . - Tích cực giúp khách hàng trong việc tìm kiếm giải pháp hữu hiệu cho quá trình kinh doanh. Từ việc bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thu hồi các khoản công nợ để trả nợ Ngân hàng . Nếu các khoản thu hồi có khả năng thu nhưng do nguyên nhân thu chậm là thích đáng thì có thể cho gia hạn nợ. 3.2.5.2. Biện pháp thu hồi nợ quá hạn. Để tiến hành thu hồi nợ quá hạn tốt NHNo Huyện Phù Cừ phải thường xuyên chỉ đạo cán bộ tín dụng tiến hành phân loại nợ quá hạn một cách chính xác theo nguyên nhân theo thời gian, theo khả năng thu hồi tổ chứ phân tích để đưa ra biện pháp thích hợp để thu hồi nợ quá hạn cụ thể cán bộ tín dụng bám sát khách hàng cùng UBND các xã phường để tự đôn đốc thu hồi nợ qúa hạn Tiếp tục duy chì ban chỉ đạo thu hồi nợ quá hạn nhưng cần phải có kế hoạch giao cho từng đoàn, từng cụm, giao cho từng cán bộ chịu trách nhiệm đôn đốc kiểm điểm nghiêm túc có thưởng phạt đối vào kết quả công tác của từng tháng, từng quý. Làm việc với UBND các xã phường và cơ quan nội chính để ký hợp đồng nhờ thu. Những khoản nợ khó đòi, mất khả năng thanh toán thì tiến hành xử lý theo 2 hướng: - Vận động khách hàng tự bán tài sản thế chấp để trả nợ hoặc kê biên xiết nợ để thu. - Những khách hàng chây ỳ cố tình không trả nợ lập hồ sơ khởi kiện ra toà án để thu. Biện pháp xử lý nợ quá hạn đặc biệt là xử lý nợ quá hạn có vần đề Về cơ bản khoản tín dụng (có vấn đề) là những khoản cho vay đã quá hạn ít nhất là 90 ngày mà Ngân hàng không thu hồi được, mặc dù các khoản tín dụng ( có vấn đề) tiền chất là kết quả của nhiều yếu tố nhưng về cơ bản, chúng là kết quả của sự không sẵn sàng chi trả khách hàng vay vốn hay không có khả năng thực hiện lời hứa để giảm bớt một phần hay toàn bộ nợ đã thoả thuận. Tiêu chuẩn để đánh giá sai phạm của các đơn vị, cá thể SXKD là luật pháp Nhà nước và các mục tiêu kinh tế tài chính. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này thường được sử dụng khi đơn vị cá thể đó thực sự vi phạm pháp luật hoặc đang bị khởi tố trước pháp luật. Về phía Ngân hàng , cần nắm bắt nhanh chóng những dấu hiệu khó khăn tài chính của các đơn vị các cá thể vay vốn để có các quyết định kịp thời đối với số vốn tín dụng của mình, khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có thể có vấn đề được nhận ra, biện pháp đầu tiên của cán bộ tín dụng phải thực hiện là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề bằng các quá trình thích hợp có sự cộng tác thêm của khách hàng, Ngân hàng phải sử dụng thêm một loạt các biện pháp để ngăn ngừa, đề phòng, giảm bớt thiệt hại nếu người đi vay gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh khó khăn về tài chính. Đối với NHNo Huyện Phù Cừ hàng tháng, quý phải chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ tiến hành phân tích nợ quá hạn, tìm ra nguyên nhân của khoản nợ quá hạn và khả năng thu hồi. Các cán bộ tín dụng là người đề xuất biện pháp xử lí trước, sau đó phòng kinh doanh và Ban Giám đốc nên thống nhất và đưa ra biện pháp xử lý sau đây. Đối với nợ quá hạn do nguyên nhân SXKD thua lỗ nhưng có khả năng phục hồi được sản xuất trong tương lai và còn tài sản, thái độ hoàn trả nợ của khách hàng không có ý chây ỳ thì NHNo Huyện Phù Cừ phải chỉ đạo phòng kinh doanh cùng cán bộ tín dụng áp dụng biện pháp kinh tế giúp khách hàng và tư vấn cho họ phục hồi SXKD, biện pháp này không những không đẩy khách hàng đến chỗ phá sản mà còn tạo khả năng thu hồi triệt để những khoản nợ khó đòi cho NH , đây là một biện pháp tích cực nhất và rất hợp đạo lý. Đối với nợ quá hạn do nguyên nhân thua lỗ nhưng không còn khả năng phục hồi, không còn vật tư và nợ quá hạn do chây ỳ, lừa đảo, sử dụng vốn sai mục đích kể cả còn tài sản thế chấp thì Ngân hàng cương quyết thu hồi vốn trường hợp đặc biệt khởi kiện trước pháp luật. Đối với nợ quá hạn do thiên tai, do cơ chế chính sách thì hoàn chỉnh đầy đủ hồ sơ xử lý theo thông tư 03 -LB và tập trung bán tài sản để tiếp tục xử lý nợ không thu được theo quyết định 238- HĐQT/ NHNo-VN. 3.2.6. áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với HSX Việc áp dụng phương thức cho vay từ lâu đối với các khách hàng kinh tế ngoài quốc doanh, HSX đây là những khách hàng có đặc điểm đa dạng về loaị hình, đa dạng về hình thức tổ chức sản xuất và mặt hàng kinh doanh chưa thật sự tạo thuận lợi cho những khách hàng có số vốn quay vòng thường xuyên và có tín nhiệm trong quan hệ vay trả vơí Ngân hàng . Vì vậy NHNo Huyện Phù Cừ nên mạnh dạn mở rộng việc áp dụng phương thức cho vay tối ưu nhất sao cho vừa giải quyết được vấn đề đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với HSX. vừa giải quyết được tình trạng quá tải khối lượng công việc của cán bộ tín dụng hoạt động trên địa bàn hiện nay: Có 2 Phương thức cho vay có thế áp dụng trong cho vay HSX là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức, 2 phương thức này có những đặc điểm khác nhau, khác biệt về đối tượng khách hàng. Cho vay từng lần là phương thức cung ứng tiền vay thích hợp với những khách hàng chỉ có nhu cầu vay vốn tạm thời, có vốn tự có dồi dào . Cho vay theo hạn mức là phương thức thích hợp với những khách hàng SXKD ổn định tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn luân chuyển thấp, có nhu câu vay vốn thường xuyên. Khác biệt về đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay theo phương thức từng lần là những vật tư, hàng hoá, chi phí có tính riêng biệt độc lập còn trong phương thức cho vay theo hạn mức đối tượng là toàn bộ nhu cầu vay vốn của người vay được coi là đối tượng tổng hợp không tách bạch từng loại vật tư, hàng hoá, chi phí. Khác biệt về mức giải ngân. Khách hàng vay theo phương thức cho vay từng lần thường phải nhận toàn bộ khoản vay một lần, mặc dù có thể chưa sử dụng hết ngày một lúc, số tiền đó vào SXKD của mình, trái lại trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng người vay được nhận dần tiền vay nhiều lần phù hợp với nhu cầu thực tế của mình. Khác biệt về định khoản: Trong cho vay từng lần, khoản vay được xác định theo số tiền mà NH sẽ đưa cho khách hàng vay, tức là được xác định dưới hình thức của doanh số cho vay, một lần vay được cho là kết thúc sau khi bên vay trả hết số tiền lãi, còn cho vay theo hạn mức tín dụng được định khoản bằng số dư cao nhất, không hạn chế số tiền mà khách hàng lĩnh tiền vay ra, nợ cũ chưa trả hết vẫn được vay tiếp nợ mới, nếu tổng mức dư nợ thực tế nhỏ hơn hạn mức tín dụng còn thời hạn hiệu lực Khác biệt về cách ổn định thời hạn trả nợ, thu nợ, chuyển nợ quá hạn, trong cho vay từng lần người vay phải cam kết trong hợp đồng tín dụng sẽ trả nợ vào những thời hạn cụ thể (ngày, tháng, năm) nào phải trả bao nhiêu nợ. Đến cuối ngày cụ thể đó nếu không trả đủ số nợ đã cam kết thì số nợ chưa trả được lập tức bị chuyển sang nợ quá hạn và phải chịu lãi suất phạt nợ quá hạn kể từ ngày đó đến khi trả hết nợ, thời hạn trả nợ cụ thể nói trên thường bị đặt theo chủ quan của Ngân hàng nên dễ phát sinh nợ quá hạn oan cho người vay. Ngược lại trong phương thức cho ay theo hạn mức tín dụng , bên vay không bị bắt buộc phải trả nợ vào một thời điểm cụ thể nào trong khoảng thời gian hạn mức tín dụng còn hiệu lực nhưng nếu họ tự nguyện trả thì không được từ chối. Khác biệt về thủ tục hồ sơ vay vốn: Trong cho vay từng lần thi mỗi lần vay người vay phải làm mọi thủ tục, giấy tờ theo Quy định và phải chờ qua bước thẩm định xét duyệt cho vay của Ngân hàng nên bị mất nhiều thơì gian chờ đợi và đi lại nhiều lần, còn trong cho vay theo hạn mức tín dụng thì công việc đó chỉ làm một lần đầu, những lần shận tiền tiếp theo không phải làm lại mà chỉ cần ký giấy nhận nợ với thời hạn trả nợ vào ngày còn hiệu lực cuối cùng của hạn mức tín dụng . Giữa 2 phương thức cho vay nói trên có sự khác biệt lớn về quyền và lợi ích của người vay trong cho vay từng lần, người vay ở thế bị áp đặt và chịu sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng , mặc dù trên danh nghĩa họ là đối tác bình đẳng trong hợp đồng tín dụng . Trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng có quan hệ thực sự bỉnh đẳng, người vay được thoả mãn đầy đủ, kịp thời vốn vay và được linh hoạt sử dụng tiền vay để chuyển hướng SXKD bắt kịp những cơ hội thị trường có lợi nhất, được nhận tiền vay hoặc trả nợ khi cần, nhờ đó mà tiết giảm được tiền lãi phải trả và có thể tránh được nợ quá hạn một cách máy móc của Ngân hàng . Do vậy từ những phân tích sự khác biệt trên của 2 phương thức cho vay, thì cho vay theo hạn mức tín dụng là phương pháp thích hợp nhất đối với HSX vay vốn không phải thực hiện thế chấp tài sản, phù hợp với đặc điểm và tính chất của HSX. Vì vậy NHNo Huyện Phù Cừ nên mạnh dạn mở rộng việc áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với HSX, các đơn vị, khách hàng có đặc điểm và tình hình SXKD hợp với phương thức này Thực hiện được vấn đề này chẳng những NHNo Huyện Phù Cừ tạo thêm nhiều thuận lợi cho khách hàng mà còn tạo điều kiện để vốn kinh doanh luân chuyển đều đặn qua qũy của Ngân hàng , qua đó tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát tín dụng trong quá trình sử dụng vốn vay. Điều đó cũng có nghĩa là giảm bớt khoảng cách giữa vòng quay vốn lưu động của khách hàng và vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng .Vấn đề ở đây chỉ là có những xửa đổi bổ sung trong Hợp đồng tín dụng nhằm tăng cường thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh và yêu cầu an toàn vốn tín dụng cho Ngân hàng khi áp dụng hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng . 3.2.7.Nâng cao vai trò của tổ vay vốn trong cho vay hộ sản xuất Điều kiện công nghệ hạn chế chưa cho phép ngân hàng có thể hoàn toàn quản lý và giám sát đến từng hộ sản xuất với các món vay nhỏ. Để tăng cường công tác quản lý và giám sát món vay thì vai trò của tổ vay vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hơn ai hết, tổ và ban quản lý tổ hiểu rõ được khả năng của từng thành viên trong tổ. Nếu trong tổ có một thành viên nào không trả được nợ thì các thành viên khác sẽ không được vay vốn tiếp. Điều này sẽ làm cho các thành viên trong tổ theo dõi nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến công việc của nhau hơn và truyền cho nhau những kinh nghiệm quý báu trong làm ăn sản xuất kinh doanh. Như vậy, tăng cường vai trò giám sát vốn vay của tổ sẽ làm giảm đáng kể hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích, tránh thất thoát vốn. Nhưng đồng thời ngân hàng cũng phải đảm bảo mối quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi để khuyến khích các thành viên trong tổ làm tốt hơn chẳng hạn ngân hàng dành một tỷ lệ hoa hồng thích đáng và kịp thời cho tổ. Chi nhánh cũng nên thực hiện công khai thủ tục, lãi suất, điều kiện vay vốn để người dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thành lập tổ trên cơ sở nâng cao chất lượng công tác điều tra cơ bản tình hình hộ, đẩy mạnh công tác cho vay qua tổ đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nông dân, quan tâm đúng mức, khai thác hết năng lực của Chi nhánh cũng như Hội Nông dân do đều có “chân rết” đến tận thôn, xã. Tổ chức theo dõi, chấn chỉnh việc sinh hoạt thường kỳ của các tổ vay vốn đã thành lập kết hợp với việc phổ biến các quy định thể lệ của ngân hàng, các kinh nghiệm sản xuất kinh doanh cho hội viên để việc sản xuất mang lại hiệu quả, nâng cao thu nhập, cải thiện và ổn định cuộc sống, bảo đảm an toàn vốn tín dụng và làm cơ sở để mở rộng đầu tư vốn. Hai bên thường xuyên gặp gỡ trao đổi nhằm giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền, thi đua, khen thưởng, tổng kết đánh giá quá trình thực hiện, từ đó đề ra các giải pháp thích hợp và rút ra các bài học kinh nghiệm để phổ biến chung. 3.3.Một số kiến nghị 3.3.1. Với các cơ quan quản lý nhà nước Thứ nhất, chính quyền địa phương cần có biện pháp chỉ đạo cụ thể cho các ngành, các cấp thực hiện đồng bộ giải pháp thúc đẩy sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững. Trong quá trình chỉ đạo phải có sự phân công trách nhiệm một cách rõ ràng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng ngành. Đồng thời phải có biện pháp kiểm tra đôn đốc việc thực hiện của các ngành chức năng nhằm bảo đảm tính đồng bộ, kịp thời trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung. Thứ hai, Nhà nước nên có chính sách, cơ chế chi tiết cụ thể xử lý rủi ro tín dụng nông nghiệp và nông thôn theo QĐ67/TTg Chính phủ cần ban hành thông tư hoặc Chính phủ cho phép liên bộ: tài chính- nông nghiệp và phát triển nông thôn-NHNN có thông tư liên ngành quy định cụ thể việc xử lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. phạm vi xử lý đối với tất cả các loại rủi ro như rủi ro bởi thiên tai, hoạn nạn, rủi ro về thị trường, về cơ chế chính sách thực hiện cả trên phạm vi rộng, cục bộ hay cá biệt. Trong cơ chế này cần cho phép NHNo&PTNT triển khai cho vay ngay tiếp theo một khoản vay mới trong khi người vay gặp rủi ro bất khả kháng vẫn còn nợ khoản vay cũ, miễn là có xác nhận thiệt hại tổn thất của chính quyền địa phương. Đồng thời có chính sách xử lý tiếp theo là xoá nợ, giảm nợ, khoanh nợ…cần được vận dụng như chính sách miễn giảm thuế nông nghiệp. Cơ chế bù đắp của ngân sách cho ngân hàng cũng được xử lý kịp thời trong quý, sáu tháng và năm tài chính. Thứ ba, Nhà nước cần sớm tạo lập thị trường tiêu thụ nông sản, thuỷ sản ổn định cả trong và ngoài nước. Trong những năm qua, sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng, có khi phải bán hạ giá hoặc không bán được nên không bù đắp đủ chi phí, do vậy không khuyến khích người sản xuất. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước cần có biện pháp xử lý đầu ra cho sản phẩm, làm cho hộ sản xuất có điều kiện yên tâm sản xuất và tăng thu nhập cho hộ. Thứ tư, Nhà nước cần quan tâm đến việc hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến kiến thức làm giàu, cách thức sử dụng đồng vốn có hiệu quả cho hộ sản xuất Trong thực tế có nhiều cách để phối hợp với để liên kết, nương tựa, học tập, đặc biệt trong nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành quản lý. Việc mỗi huyện thành lập một “Câu lạc bộ vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn” để tổ chức toạ đàm, hội thảo, báo cáo, trình diện, tuyên truyền, phổ biến kiến thức làm ăn, tăng mối quan hệ chặt chẽ với các ban ngành, doanh nghiệp, hộ sản xuất có liên quan đến sự phát triển kinh tế nông thôn là hình thức tổ chức cần nghiên cứu xem xét. Thành viên gia nhập câu lạc bộ là các ban ngành, các doanh nghiệp, hộ sản xuất giỏi, ngân hàng…có liên quan đến sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thứ năm, chính quyền địa phương nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ sản xuất nhằm mở rộng quyền được vay của hộ. Cơ quan địa chính tại các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ sản xuất, đặc biệt chú trọng đến các địa bàn có đối tượng, năng lực sản xuất lớn và có nhu cầu vay vốn ngân hàng, các hộ làm kinh tế trang trại, phối hợp với ngân hàng trong việc xác lập vùng có điều kiện tăng trưởng sản xuất kinh doanh và có nhu cầu vay vốn đầu tư để sử dụng chính sách ưu tiên trong việc đo đạc và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chứng nhận sở hữu nhà ở. Thứ sáu, UBND Tỉnh cần hỗ trợ ngân hàng trong quy hoạch các vùng đầu tư trên cơ sở quy hoạch của tỉnh hàng năm để Chi nhánh có địa chỉ đầu tư đúng theo chương trình phát triển kinh tế tại các địa phương. Cần lập quy hoạch từng vùng tập trung và kế hoạch hàng năm về việc đầu tư các loại cây con, vùng đầu tư, có kế hoạch về thị trường tiêu thụ các loại nông phẩm; chủ trương gắn đầu tư hộ sản xuất với việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến sản phẩm nông sản trong và ngoài địa bàn để ngân hàng có kế hoạch đầu tư khép kín từ sản xuất nông nghiệp đến chế biến sản phẩm nông sản. Từ đó, tạo điều kiện dễ dàng cho ngân hàng trong việc quản lý vốn tín dụng và tính toán hiệu quả mang tính khả thi trong thực tế. Thứ bảy, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và củng cố mạng lưới dịch vụ ở nông thôn, đồng thời Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế đối với khu vực kinh tế này. Chính phủ và chính quyền các cấp cần có các cơ chế chính sách tăng vốn đầu tư từ ngân sách cho việc phát triển kết cấu hạ tầng và các hoạt động dịch vụ ở khu vực nông thôn; đồng thời khẩn trương hoàn chỉnh việc xây dựng mạng lưới thu thập và cung cấp thông tin về công nghệ thị trường để khách hàng có điều kiện thực hiện tốt các dự án về vay vốn còn các tổ chức tín dụng sẽ có thêm cơ sở để quyết định cho vay. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách thuế ưu đãi phù hợp với hoạt động huy động vốn và cho vay khu vực nông thôn bởi hoạt động ở khu vực này thường có chi phí cao hơn các khu vực khác, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng thu hút thêm vốn về nông thôn. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước NHNN cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ cho vay của các NHTM và TCTD.Cần bắt buộc các NHTM và TCTD tham gia vào hoạt động của hệ thống thông tin TD “ CIC” coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình NHNN cần có biện pháp nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh tra, kiểm soát để đảm bảo cho hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả và môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Các tổ chức tài chính, Ngân hàng nước ngoài, tổ chức tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh của NHNN, không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh một cách không lành mạnh, giành giật khách hàng Đề nghị NHTW phối kết hợp với các Bộ - Ngành có liên quan để xửa đổi bổ sung một số nội dung tại thông tư số 03/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu nợ cho các TCTD cụ thể như sau: + Tài sản đảm bảo tiền vay tại TCTD hầu hết là bất động sản, và đây cũng là vướng mắc nhất khi xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, tài khoản 2mục III, phần B thông tư 03 quy định " Trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đát không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng, thì TCTD đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra Toà án " đây là vấn đề rất khó khăn, vướng mắc trong thực tế, do thủ tục, trình tự đấu giá, thủ tục tố tụng dân sự. Đề nghị xửa đổi theo hướng "TCTD có quyền chủ động áp dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo tức là trực tiếp bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản để thu hồi nợ " + Nên bỏ nội dung: TCTD phải xin phép việc bán đấu giá quyền sử dụng đất vì việc thế chấp quyền sử dụng đất đã được đăng ký tại Sở địa Chính hoặc UBND xã -phường thị trấn .Nên khi bán quyền sử dụng đất, TCTD có thể trực tiếp bán cho người mua theo quy định tại Nghị định 178. + Đề nghị cho miễn giảm thuế chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ. NHNN trên địa bàn tỉnh cần nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh nhà, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, những ngành kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các TCTD trên địa bàn để đầu tư cho các dự án định hướng phát huy được hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn. Thực hiện công tác Thanh tra, kiểm tra tại chỗ cũng như giám sát từ xa đối với hoạt động của các TCTD trên địa bàn nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh của các TCTD, mặt khác ngăn chặn cán bộ tín dụng thực hiện sai các văn bản chế độ cũng như quy trình nghiệp vụ cho vay .. góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành Ngân hàng trên toàn tỉnh. Tài liệu tham khảo 1.Quản trị ngân hàng thương mại. –Peter Rose- 2.Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. –Fredreic S.Miskin, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1994- 3.Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. –David Cox- 4.Ngân hàng và nền kinh tế hàng hoá. –Lê Văn Tư- 5.Tạp chí Ngân hàng. 6.Thời báo Ngân hàng. 7.Tạp chí Thông tin ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. 8.Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ. 9.Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng. 10.Tạp chí Tài chính. 11.Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 12.Các văn bản quy phạm pháp luật. 13.Cẩm nang tín dụng của NHNo&PTNTVN. Kết luận Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra đã tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình. Trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các NHTM đóng vai trò rất quan trọng với chức năng của mình NH đã thực sự góp phần lớn vào công cuộc đổi mới đất nước. Với phương châm "Đi vay để cho vay " vốn TD thực sự thúc đẩy được sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, đã và đang từng bước xoá đói giảm nghèo ở Nông thôn và phát triển kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều tham gia vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, các quan hệ kinh tế được mở rộng, cho vay đối với mọi thành phần kinh tế ngày càng nhiều, rủi ro về khả năng thu hồi vốn ngày một tăng lên. NH cũng không khác bất kì một ngành nào có thể gặp rủi ro, mất vốn. Hơn nữa NH là một ngành rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường, hoạt động NH với bản chất của nó là chịu rất nhiều loại rủi ro. Với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ TD, đồng thời là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích phát triển kinh tế – xã hội, các NHTM nói chung và NHNo Huyện Phù Cừ nói riêng đã từng bước chuyển dịch cơ cấu TD của mình hướng tới mở rộng quan hệ TD với mọi thành phần kinh tế để khai thác tiềm năng thế mạnh phát triển kinh tế của Tỉnh Hưng Yên và của đất nước. Đặc biệt là thành phần kinh tế HSX có tiềm năng thế mạnh to lớn, thu hút nguồn vốn lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, là nhân tố chủ yếu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặc dù trong quá trình hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng TD chưa cao nhưng với định hướng đúng đắn và với sự nỗ lực cố gắng của NHNo Huyện Phù Cừ đã ngày càng mở rộng TD và cũng như từng bước nâng cao chất lượng TD đối với các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế HSX nói riêng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển theo hương Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Em hy vọng rằng, trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng giải pháp mới sẽ được thực hiện trong thời gian tới, phần nào giúp NHNo Huyện Phù Cừ có những bước tiến mới trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của mình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0282.doc
Tài liệu liên quan