Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Lời mở đầu Hiện nay, vốn là một trong những vấn đề bức xúc được đặt ra đối với các doanh nghiệp, rất nhiều doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn về vốn. Chính vì thế nhiều doanh nghiệp phải hoạt động nhờ vào nguồn vốn vay ngân hàng. Theo báo cáo của NHNN Việt nam có đến 80 đến 90% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được hình thành từ vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua đã có sự hỗ trợ kịp thời về vốn đối với các doan

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp giao dịch tại Sở. Đặc biệt là Sở giao dịch đã tạo được uy tín đáng kể đối với những khách hàng thuộc lĩnh vực ngoại thương, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, xung quanh nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập gây hạn chế cho Sở giao dịch cũng như cho các doanh nghiệp - khách hàng của Sở giao dịch. Chính vì lý do đó, trong luận văn tốt nghiệp, em xin trình bày về đề tài:’Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam”. Thời gian thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng ngoại thương không phải là dài nhưng cũng giúp cho em ít nhiều hiểu được sự vận dụng lý thuết vào thực tiễn, đồng thời em cũng tìm hiểu được thực trạng về vấn đề tín dụng ngắn hạn tại đây trong những năm qua. Qua đó em mong muốn đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, các kiến nghị đối với Sở giao dịch, góp phần làm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ngắn hạn tại đây. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản luận văn được thiết kế gồm ba chương Chương I: Lý luận chung về tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch - Ngân hàng ngoại thương VIệt nam. Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Nguyễn Hữu Tài đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này, xin cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã dạy dỗ em trong bốn năm qua, xin cám ơn các bác, cô chú, anh chị trong phòng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã giúp đỡ em rất nhiều. Sinh viên : Lê Đức Hoàng Chương I Cơ sở lí luận về chất lượng tín dụng ngắn hạn NHTM I/ Ngân hàng thương mại (NHTM)và đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM 1. Khái niệm NHTM ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Việc đưa ra khái niệm niệm về NHTM là hết sức cần thiết. Theo Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty Tài chính ban hành ngày 24/05/1990:” NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.”. Như vậy, NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Từ định nghĩa chung về NHTM trên, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động pháp lệnh còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm: NH Thương mại, NH Phát triển, NH Đầu tư, NH Chính sách, NH Hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. 2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính gồm nhiều tổ chức kinh doanh tiền tệ, chúng là những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyên tải những khoản tiền tiết kiệm- tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên nhân về lịch sử và chế độ kinh tế. Lịch sử của NHTM là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ làm nhiệm vụ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ bảo quản tiền cho người sở hữu để nhận những khoản thù lao, trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được. Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay sang người đi vay, các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán, trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc- một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng và quá trình đó đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng. Do đó, hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm hiện nay thì NHTM và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài chính mỗi nước. Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp theo hướng chuyên sâu. II.KháI niệm về tín dụng ngân hàng 1.Khái niệm về tín dụng Có thể nói: tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản phẩm của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, nhung chính nó lại là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Qua nhiều giai đoạn tồn tại và phát triển,ngày nay tín dụng được hiểu theo định nghĩa cơ bản sau: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế trong đó cá nhân (hay tổ chức ) nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho cá nhân (hay tổ chức ) khác với những ràng buộc nhất định như: thời hạn hoàn trả (cả gốc lẫn lãI) lãI suất, cách thức vay mượn và thu hồi . Nhưng chính nó lại là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, đã có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng được đưa ra. Song khái quát lại có thể hiểu tín dụng theo định nghĩa cơ bản sau: “ Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.” Trong mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau: - Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như: hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản. - Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. - Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay ban đầu hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay). 2. Đặc trưng của tín dụng Có thể nói trong hoạt động kinh doanh tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng, đặc trưng của tín dụng đều dựa trên 3 đặc tính chủ yếu là: lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả. 2.1.Yếu tố lòng tin: Bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh “credittum” có nghĩa là “sự giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay. Yếu tố lòng tin tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh. Lòng tin trong quan hệ tín dụng được biểu hiện từ nhiều phía, không chỉ có lòng tin từ một phía của người cho vay đối với người đi vay. Nếu người cho vay không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay thì quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay cảm nhận thấy người cho vay không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng tín dụng, về thời hạn vay, thì quan hệ tín dụng cũng có thể không phát sinh. Tuy nhiên, trong quan hệ tín dụng lòng tin của người cho vay đối với người đi vay quan trọng hơn nhiều bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc hoặc tài sản của họ cho người khác sử dụng. 2.2. Tính thời hạn và tính hoàn trả: Khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền người mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán đoạn”), quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam kết, người đi vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức hợp lý kèm theo như cam kết đã giao ước với người cho vay. Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ cũng đều là hàng hoá và vì thế nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người cho vay chỉ bán “giá trị (quyền) sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của khoản vay”, nên sau khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, khoản vay đó được hoàn trả về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời gian nhất định. Như vậy, khối lượng hàng hoá hay tiền tệ (phần gốc) cho vay ban đầu chỉ là vật chuyên trở giá trị sử dụng của chúng, nó được phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về chứ không được bán đứt. 3. Bản chất và chức năng của tín dụng Ta biết rằng, tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi. Tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng đều có 2 chức năng cơ bản là: Huy động vốn và cho vay vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả có lãi. Chức năng này gồm hai loại nghiệp vụ được tách hẳn ra là huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay vốn đối với các nhu cầu cần thiết của nền kinh tế. Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua các quan hệ tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân. 4. Các loại hình tín dụng trong lịch sử Trong quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và lưu thông hàng hoá, quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển qua các hình thức sau: Tín dụng nặng lãi Tín dụng nặng lãi hình thành khi xuất hiện sự phận chia giai cấp dẫn đến kẻ giàu, người nghèo. Đặc điểm nổi bật của tín dụng này là lãi suất cho vay rất cao. Chính vì vậy, tiền vay chỉ được sử dụng vào mục đích tiêu dùng cấp bách, hoàn toàn không mang mục đích sản xuất nên đã làm giảm sức sản xuất xã hội. Nhưng đánh giá một cách công bằng thì tín dụng nặng lãi lại góp phần quan trọng làm tan rã kinh tế tự nhiên, mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ, tạo tiền đề cho chủ nghĩa tư bản ra đời. Tín dụng thương mại Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau. Công cụ của hình thức tín dụng này là các thương phiếu thương mại (gồm có kỳ phiếu và hối phiếu thương mại). Tín dụng thương mại có đặc điểm là: đối tượng cho vay là hàng hoá vì hình thức tín dụng được dựa trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá giữa các nhà sản xuất với nhau và do đó các chủ thể tham gia vào quá trình vay mượn cũng là các nhà sản xuất kinh doanh. Qui mô tín dụng bị hạn chế bởi nguồn vốn cho vay là của từng chủ thể sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng (TDNH) là hình thức phản ánh quan hệ vay và trả nợ giữa một bên là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và một bên là các nhà sản xuất kinh doanh. Hình thức TDNH thể hiện rõ ưu thế của mình so với hai hình thức tín dụng trên ở chỗ: qui mô tín dụng lớn hơn vì nguồn vốn cho vay là nguồn vốn mà ngân hàng có thể tập trung và huy động được trong nền kinh tế. Đây là hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tượng cho vay mượn là tiền tệ. TDNH là hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế linh hoạt, kịp thời, khắc phục được nhược điểm của các hình thức tín dụng khác trong lịch sử. 5.Tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng ngân hàng 5.1. Khái niệm TDNH TDNH là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Giá (lãi suất) của khoản vay do ngân hàng ấn định cho khách hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoản thời gian tồn tại của khoản vay. Chủ thể tham gia trong quan hệ TDNH là ngân hàng, nhà nước, doanh nghiệp và hộ dân cư. Đối tượng được sử dụng để cho vay ở đây là tiền, nó không chịu sự giới hạn theo hàng hoá, vận động đa phương đa chiều. Đây là đặc điểm khác biệt giữa TDNH với các loại hình tín dụng khác. 5.2. Các hình thức TDNH ở Việt Nam hiện nay, theo Quyết định 324 của Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành ngày 30/09/1998, Ngân hàng có thể có các hình thức tín dụng sau: * Cho vay từng lần Hình thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc khách hàng mà ngân hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay chặt chẽ an toàn. Mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng phải làm các thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát tiền vay một hay nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế của khách hàng. Ngân hàng cho vay phải quản lý chặt chẽ doanh số cho vay đảm bảo tổng số tiền trên các giấy nhận nợ do khách hàng lập không vượt quá số tiền đã ký trong hợp đồng tín dụng. * Cho vay theo hạn mức tín dụng Theo hình thức này, ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Như vậy, khách hàng được rút vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng cho phép căn cứ vào nhu cầu vốn của phương án sản xuất kinh doanh và chỉ phải xuất trình những thủ tục đơn giản, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Hình thức tín dụng này thường được áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ kinh doanh với ngân hàng. * Cho vay theo dự án đầu tư Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đời sống. Hình thức này áp dụng cho các trường hợp vay vốn trung và dài hạn. * Cho vay hợp vốn Theo hình thức này, một nhóm các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Cho vay hợp vốn thường được áp dụng đối với các dự án có nhu cầu vốn lớn, vượt quá khả năng của một ngân hàng hoặc có phạm vi qui mô rộng mà một ngân hàng khó có thể kiểm soát nổi. Hình thức tín dụng này giúp cho các ngân hàng giảm thiểu rủi ro, đồng thời khác bổ sung kinh nghiệm, kiến thức cho nhau. * Cho vay trả góp Đây là hình thức tín dụng mà qua đó ngân hàng cho khách hàng vay để mua tài sản, hàng hoá khi khách hàng không có đủ tiền trả một lúc. Số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay sau khi họ trả đủ nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Với hình thức này, để được vay vốn khách hàng phải có phương án trả nợ vay và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập có cơ sở chắc chắn, ổn định. * Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng Theo hình thức này, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn hiệu lực của tín dụng dự phòng. Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức, khách hàng phải trả phí đã cam kết theo thoả thuận. Khi khách hàng vay chính thức, phần vốn vay được tính theo lãi suất tiền vay hiện hành. * Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ Với hình thức này, ngân hàng cho phép khách hàng trong phạm vi hạn mức để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở bán hàng có chấp nhận thanh toán thẻ hay rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động. Hình thức tín dụng này đem lại cho khách hàng tính tự chủ cao và tiết kiệm thời gian. Ngoài các hình thức tín dụng kể trên, trong tình hình kinh doanh hiện nay để tăng tính cạnh tranh trên thị trường, thu hút được nhiều khách hàng các ngân hàng còn có thể áp dụng nhiều hình thức cho vay khác phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng vay vốn của khách hàng. 5.3. Nguyên tắc tín dụng Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên 3 nguyên tắc sau: a) Tiền cho vay phải được hoàn trả sau một thời gian nhất định cả vốn lẫn lãi Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp không được hoàn trả đúng hạn nhất định sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, cam kết này được ghi trong khế ước vay nợ . b) Vốn vay phải có giá trị tương đương làm đảm bảo Trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp, vì thế mọi dự đoán về rủi ro của ngân hàng chỉ mang tính tương đối. Trong môi trường kinh doanh như vậy, bảo đảm tín dụng được coi là một tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhằm bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh. Các giá trị tương đương làm bảo đảm có thể là: vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố định của doanh nghiệp, số dư trên tài khoản tiền gửi, hoá đơn chuẩn bị nhận hàng hoặc có thể là cam kết bảo lãnh của một cơ quan khác thậm chí có thể là chính uy tín của doanh nghiệp trên thị trường và trong mối quan hệ quá khứ với ngân hàng. Giá trị đảm bảo là cơ sở cho khả năng trả nợ của khách hàng, là cơ sở để hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng, là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất trong các điều kiện khác nhau. c) Cho vay theo kế hoạch thoả thuận trước (vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích) Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là cơ sở để doanh nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích như đã cam kết trong hợp đồng, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, trường hợp khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. 5.4. Lãi suất tín dụng Trong quan hệ tín dụng lãi suất là biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng một khoản vốn của mình cho người khác trong một thời gian nhất định. Người đi vay coi lãi suất như một khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời vốn của người khác. Nói một cách khác lãi suất tín dụng là giá cả của quyền sử dụng vốn vay. Đối với hoạt động ngân hàng, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất, nó không chỉ là công cụ điều tiết vĩ mô mà còn là phương tiện giúp các ngân hàng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Thông thường lãi suất của ngân hàng được hình thành trên cơ sở lãi suất thị trường nên luôn biến động. Trong hoạt động tín dụng, lãi suất tín dụng thường có các giới hạn sau: Trần lãi suất < Lãi suất < Lãi suất < Trần lãi suất < Tỷ suất lợi huy động huy động cho vay cho vay nhuận bình quân Đối với mọi thành viên trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam, hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng được quy định như sau: Mức lãi suất cho vay do ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định của NHNN và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCT về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng cho vay công bố mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết. Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất do Tổng giám đốc NHCT thông báo theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN. Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo mức qui định của Thống đốc NHNN tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. 5.5. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là tập hợp các nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, trình tự các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một vòng quay của vốn tín dụng. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, để đảm bảo hiệu quả tín dụng quy trình tín dụng thường gồm có 10 bước:. Khai thác khách hàng, tìm kiếm dự án. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn. Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương thức vay vốn. Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Quyết định cho vay. Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Phát tiền vay. Kiểm tra sau khi cho vay, thu hồi nợ, gia hạn nợ. Xử lý rủi ro. Thanh lý hợp đồng và đánh giá kết quả cho vay. Nắm vững quy trình tín dụng, tuân thủ thực hiện chặt chẽ các bước của quy trình sẽ là điều kiện đầu tiên để nâng cao chất lượng tín dụng. III. Khái niệm và vai trò tín dụng ngắn hạn 1.Khái niệm Theo quyết định 324 của thống đốc NHNN Việt Nam tín dụng ngắn hạn là hình thức mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất,kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Thời hạn đối với tín dụng ngắn hạn được tổ chức tín dụng khách hàng thoả thuận tối đa là 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. 2.Vai trò tín dụng ngắn hạn 2.1.TDNH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc này không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp mà còn tăng giá vốn của doanh nghiệp đó. Hiện nay, để thực hiện các quyết định đầu tư, một doanh nghiệp có thể sử dụng hai nhóm nguồn vốn: vốn tự có (hay vốn cổ phần) hoặc vốn đi vay. Giá vốn của doanh ngiệp được tính: K0 = KeVe + KdVd Trong đó: Ke : giá vốn cổ phần thể hiện bằng mức lợi nhuận mà người sở hữu cổ phần được hưởng với tư cách là người góp vốn. Kd : giá vốn vay, chính là lãi suất của khoản tiền vay Ve,Vd : tương ứng là tỷ lệ sử dụng vốn cổ phần và vốn vay Ko : giá vốn bình quân của doanh nghiệp Vì lãi suất tiền vay không phụ thuộc thu nhập để tính thuế, ta có: Ko = KeVe + Kd(1-T)Vd với T: tỷ lệ thuế TNDN Rõ ràng càng sử dụng nhiều vốn vay, doanh nghiệp càng lợi dụng được nguồn vốn đang rẻ đi do ảnh hưởng của chính sách thuế. Mặc dù giá vốn cổ phần có thể tăng lên nhằm bù đắp sự tăng lên của rủi ro tài chính nhưng mức tăng của nó nhỏ hơn sự giảm đi của giá vốn vay, vì trong con mắt của các cổ đông mức rủi ro này đã được bù đắp bởi các lợi thế về thuế. Về mặt lý thuyết, mặc dù vốn vay có nhiều lợi thế nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp cũng vay được và muốn vay bao nhiêu tuỳ ý, vì khi vốn vay vượt quá mức nào đó giá vốn vay sẽ tăng lên và làm tăng chi phí vốn. Chính vì vậy, doanh nghệp phải xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu, đó là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích đạt tối đa hoá giá trị thị trường của các doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Để có thể tận dụng tối đa lợi thế của nguồn vốn vay và đảm bảo một mức chi phí vốn rẻ nhất tại mức rủi ro có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, trong điều kiện ở nước ta hiện nay, các doanh ngiệp có thể đạt mức giá vốn bình quân rẻ hơn vì theo Quyết định 324 của Thống đốc NHNN về quy chế cho vay đối với khách hàng thì tỷ trọng vốn vay trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp không còn được coi là căn cứ để giới hạn mức cho vay. Đặc biệt đối với DNNN có thể vay vốn ngân hàng với tỷ lệ lớn hơn vốn tự có nhiều lần, chỉ cần có phương án kinh doanh khả thi. Điều đó có nghĩa là vốn tín dụng ngân hàng giúp các DNNN giảm chi phí vốn, tạo cơ hội giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. 2.2. TDNH bổ sung vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện một trong những chức năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thơì nhàn rỗi sau đó cho ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho vay của mình ngân hàng đã đảm bảo cho các doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng không chỉ duy trì sản xuất kinh doanh mà còn tái sản xuất mở rộng. Đối với các doanh ngiệp hiên nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp là phổ biến và nghiêm trọng. TDNH là hình thức tốt nhất để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động hoặc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp bởi tính linh hoạt của nó. TDNH không chỉ còn là nguồn vốn bổ sung nữa mà đã dần trở thành một nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. TDNH giúp cho các doanh nghiệp không bỏ lỡ thời vụ làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, quá trình lưu thông được thông suốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội. Mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường,…đểthực hiện được các khoản đầu tư đó doanh nghiệp không chỉ cần có vốn lưu động tạm thời mà còn phải có một lượng vốn cố định và ổn định lâu dài. Qui mô vốn đầu tư cho các yêu cầu trên đôi khi vượt quá khả năng vốn của doanh nghiệp. TDNH có thể giúp cho các doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đó. 2.3. TDNH giúp các doanh nghiệp tăng cường quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả Bản chất của TDNH không phải là hình thức cấp thoát vốn mà là hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời hạn qui định. Do đó, các doanh nghiệp sau khi sử dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu hồi vốn là đủ mà còn phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có thể trả được nợ và thu lãi. Về phía ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Vì vậy, trước khi cho vay ngân hàng thường xem xét đánh giá rất kỹ lưỡng phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp có phương án khả thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả nợ ngân hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp muốn có được vốn vay ngân hàng thì phải hoàn thiện năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Thêm vào đó, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ thực hiện qui trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho vay, thông qua việc làm đó ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng những điều khoản như đã thoả thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao nhất. Một yếu tố khác là do quyền lợi của ngân hàng luôn gắn chặt với quyền lợi của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với doanh nghiệp để tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. 2.4. TDNH tác động tích cực đến nhịp độ phát triển, thúc đẩy cạnh tranh Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện, không những thoả mãn về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Hoạt động của các nhà doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo qui định chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán, mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng vật liệu mới, mở rộng qui mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối doanh nghiệp với thị trường, Nguồn vốn TDNH cấp cho các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, theo kịp với nhịp độ phát triển chung, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. 2.5. TDNH góp phần thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DN hiện nay Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tập trung vốn đã đưa đến sự hình thành các công ty cổ phần, đó là một l._.oại hình doanh nghiệp dựa trên cơ sở góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. ở điều kiện Việt Nam hiện nay, sự hình thành của các công ty cổ phần là một tất yếu. Hơn nữa, sự hình thành các công ty cổ phần còn là một đường hướng của nền kinh tế mở, qua đó có thể thu hút đầu tư từ tầng lớp dân cư và từ nước ngoài vào nước ta. Đây cũng là một biện pháp để kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Thực hiện theo xu hướng trên và để phù hợp với sự phát triển, tiếp tục khẳng định vài trò của kinh tế nhà nước trong những năm qua Đảng và Nhà nước qua đã và đang tiến hành cổ phần hoá các DN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này. Và qua thực tiễn của quá trình thực hiện đã cho thấy rõ vai trò của các NHTM và đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng của nó đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của các công ty cổ phần nói chung và công ty cổ phần hoá từ DN nói riêng. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hoá, vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu của kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải là trợ thủ đắc lực cho các công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần vay vốn tín dụng. Sau đó ngân hàng có thể giúp công ty quản lý vốn tại các tài khoản mở tại ngân hàng. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động sau này, khi các công ty cổ phần có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh công ty có thể huy động vốn bằng nhiều cách chẳng hạn như vay vốn TDNH hay tiến hành phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Trong quá trình đó công ty cổ phần có thể tìm được sự trợ giúp tích cực từ phía ngân hàng, từ khâu chuẩn bị tính toán số lượng phát hành, đấu thầu, cho đến khi thu hồi vốn về cho công ty. Như vậy, với sự tham gia của các NHTM và đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng của nó các DN có thể yên tâm phần nào trong quá trình cổ phần hoá và do đó sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DN hiện nay. IV-Chất lượng tín dụng ngắn hạn 1. Khái niệm chất lượng tín dụng 1.1.Khái niệm: Vận động trong cơ chế thị trường, để có thể tồn tại, phát triển và dành ưu thế trong cạnh tranh, thích ứng với thị trường và sự yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng các DNNN luôn phải tiến hành đa dạng hoá các sản phẩm, dich vụ của mình nhằm thu hút được khách hàng. Chính sách sản phẩm mà trong đó tập trung nhiều vào việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp thiết thực, hữu hiệu nhất cho hầu hết các doanh nghiệp hiện nay. Có thể nói, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho người cung cấp. Trong kinh doanh TDNH, chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Với cách định nghĩa như vậy, ta thấy chất lượng tín dụng ở đây được đánh giá trên 3 góc độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tín dụng. Đối với nền kinh tế: đối với sự phát triển kinh tế-xã hội chất lượng tín dụng được đánh giá qua mức phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác các khả năng trong nền kinh tế, thúc đẩy qua trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, hoà nhập với cộng đồng quốc tế. Có thể nói chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối,vừa là cụ thể vừa là một chỉ tiêu tổng hợp .Cụ thể thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được như khối lượng cung ứng tín dụng, kết quả kinh doanh, số vòng quay cuả vốn, hiệu suất sử dụng vốn, nợ quá hạn lãi treo,....Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của nhân tố chủ quan (khả năng quản lý trình độ cán bộ...) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài khuynh hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị truòng cũng như môi trường pháp lý đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng .Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân hang thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiêu tiêu thức: Thu hút đươc nhiều khách hàng tốt , thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về năng suất, chi phí nghiệp vụ... Như vậy chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn .Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. 1.2.Sự tồn tại khách quan của vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng Nâng cao chất lượng tín dụng các ngân hàng thương mại phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút dược nhiều khách hàng, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng cũng sẽ làm gia tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ ,chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay và yêu cầu kiểm tra tối thiểu . Cải thiên tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Từ những ưu thế trên, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài doanh nghiệp và của bản thân các ngân hàng thương mại. 2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất lượng tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín dụng của ngân hàng. *Chỉ tiêu sử dụng vốn Huy động Hệ số sử dụng vốn = ắắắắ x100% Sử dụng Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được. * Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung dài hạn) / Tổng dư nợ Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng càng lớn, mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín. * Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn / Tổng dư nợ Nợ quá hạn khó đòi / Tổng dư nợ Nợ quá hạn khó đòi / Tổng số nợ quá hạn Nợ quá hạn có khả năng thu hồi (nợ quá hạn) là những khoản nợ mà người vay vẫn có thể trả được cho ngân hàng. Lý do của những khoản chậm trả này kà do khách hàng vay vốn đang gập khó khăn tạm thời về tài chính, khả năng thanh toán. Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (nợ quá hạn khó đòi) là những khoản nợ mà người vay rất ít có khả năng trả nợ ngân hàng, ngân hàng bị mất hoàn toàn khoản vốn và lãi cho vay. Nguyên nhân có thể là do người vay cố tình lừa đảo ngân hàng hoặc do bị phá sản không trả được nợ. Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình và ngược lại. Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn <= 5% thì tốt. Tuy nhiên, chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các khâu trong qui trình tín dụng còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định . * Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng ( vòng quay vốn tín dụng ) Doanh số thu trong năm Vòng quay vốn tín dụng trong năm = ắắắắắắắắắắắ Dư nợ bình quân trong năm Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mất lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng đã luân chuyển nhanh tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. * Lãi treo: là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng chưa thu được và như vậy, chỉ số này càng thấp càng tốt. Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều ngân hàng cũng đã sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc tuân thủ các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng, lập hồ sơ cho vay, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. 3. Hiệu quả của việc nâng cao chất lượng tín dụng Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tín dụng luôn chiếm một tỷ trọng lớn, các khoản cho vay thường chiếm từ 60-80% trong tổng số các tài sản có và tạo ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng.Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng yếu tố rủi ro luôn thường trực và ở mức tỷ lệ khá cao, do đó mà tại các ngân hàng người ta luôn dành sự chú ý đặc biệt đến việc kiểm soát cũng như những biện pháp để chống đỡ, hạn chế rủi ri tín dụng. Một trong những biện pháp hữu hiệu là việc đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng. Đảm bảo chất lượng tín dụng đem đến lợi ích cho cả các NHTM, các doanh nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Xét riêng về phía ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng có thể đem lại một số kết quả tích cực sau: -Việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần bảo đảm và làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng, bởi tín dụng là nghiệp vụ mang lại doanh lợi chủ yếu cho ngân hàng. - Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả năng thu hội nợ đầy đủ và đúng hạn. Nhờ đó, ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác do tạo được thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng. - Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn bằng các hình thức và chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, qua đó tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. - Nâng cao chất lượng tín dụng cũng sẽ làm tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý và các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay. Các kết quả thu được từ việc nâng cao chất lượng tín dụng kể trên sẽ góp phần cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của bản thân các NHTM. 4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng là kết quả của cả một quá trình từ khi khoản tín dụng được ngân hàng xét duyệt, phát ra cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có rất nhiều những tác động gây rủi ro dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi được vốn và phải chịu thua thiệt. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ đòi hỏi phải hiểu rõ về các nhân tố gây ảnh hưởng tới nó. 4.1. Các yếu tố chủ quan (hay nhóm nhân tố từ phía ngân hàng) 4.1.1. Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù hợp với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, đồng thời kết hợp được lợi ích của người gửi tiền, của ngân hàng và người vay tiền. 4.1.2. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các nội dụng kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các bước từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, nếu nó được tổ chức khoa học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất lượng. 4.1.3. Kiểm soát nội bộ Đây là hoạt động mạng tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng thường xuyên, càng chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc, các yêu cầu thể lệ trong qui chế tín dụng cũng như qui trình tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa, hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tín dụng. 4.1.4. Tổ chức nhân sự Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong mọi hoạt động kinh doanh nói chung và tất nhiên nó cũng không loại trừ khỏi hoạt động của một ngân hàng. Muốn nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh, chất lượng trong hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trong bố trí sử dụng, người cán bộ tín dụng cần phải được sàng lọc kỹ càng và phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp với nhịp độ phát triển và biến đổi của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, họ còn phải có tiêu chuẩn về đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi phạm có thể sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng. 4.1.5. Thông tin tín dụng Hoạt động tín dụng muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết sức quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần xây dựng được hệ thống thông tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời, tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng . 4.2. Các yếu tố khách quan 4.2.1.Nhóm nhân tố từ phía khách hàng * Uy tín, đạo đức của người vay Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường chỉ đưa ra quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ của người vay nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro do chủ quan của người vay có thể gây nên. Đạo đức của người vay là một yếu tố quan trọng của qui trình thẩm định, tính cách của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải kiểm nghiệm qua những kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược phát triển trong tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể lừa đảo ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh.Việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro cho ngân hàng. Uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố đáng quan tâm, uy tín của khách hàng là tiêu chí để đáng giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng từ phía khách hàng. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và ngân hàng. Uy tín được khẳng định và kiểm nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường qua thời gian càng dài càng chính xác. Do đó, ngân hàng cần phân tích các số liệu và tình hình trong suốt quá trình phát triển của khách hàng với những thời gian khác nhau mới có kết luận chính xác. * Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của người vay. Đây chính là tiền đề tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu quả của khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả đúng hạn nợ ngân hàng cả gốc lẫn lãi. Nếu trình độ của người quản lý còn bị hạn chế về nhiều mặt như học vấn, kinh nghiệm thực tế, thì doanh nghiệp rất dễ bị thua lỗ, dẫn đến khả năng trả nợ kém, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 4.2.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường * Mối trường kinh tế Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia luôn có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Tính ổn định về kinh tế mà trước hết và chủ yếu là ổn định về tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát là những điều mà các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế ổn định sẽ là điều kiện, môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ đó góp phần tạo nên sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong trường hợp ngược lại, sự bất ổn tất nhiên cũng bao chùm đến các hoạt động của ngân hàng, làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, gây tổn thất cho ngân hàng. * Môi trường pháp lý Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng là hệ thống pháp luật. Với một môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các luật, văn bản dưới luật, đồng thời với nó là sự sắc nhiễu của các có quan hành chính có liên quan sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp phải những khó khăn, thiếu đi tính linh hoạt cần thiết, vốn đưa vào kinh doanh dễ bị rủi ro. Do đó, xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh sẽ tạo thuận lợi trong việc nâng coa hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong đó có các NHTM. * Môi trường chính trị Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tính ổn định về chính trị trong nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Nếu xẩy ra các diễn biến gây bất ổn chính trị như: chiến tranh, xung đột đảng phái, cấm vận, bạo động, biểu tình, bãi công, có thể dẫn đến những thiệt hại cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế nói chung (làm tê liệt sản xuất, lưu thông hàng hoá đình trệ ).Và như vậy, những món tiền doanh nghiệp vay ngân hàng sẽ khó được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng. * Môi trường cạnh tranh Có thể nói đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh chung của NHTM. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều hướng: thứ nhất, để chiếm ưu thế trong cạnh tranh ngân hàng luôn phải quan tâm tới đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ, củng cố và khuyếch trương uy tín và thế mạnh của ngân hàng. Hướng tác động này đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, ở hướng thứ hai, dưới áp lực của cạnh tranh gay gắt các ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện tín dụng cần thiết khiến cho độ rủi ro tăng lên, làm giảm chất lượng tín dụng. * Môi trường tự nhiên Các yếu tố rủi ro do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hoả hoạn, động đất, dịch bệnh, có thể gây ra những thiệt hại không lường trước được cho cả người vay và ngân hàng. Mặc dù những rủi ro này là khó dự đoán nhưng bù lại nó chiếm tỷ lệ không lớn, mặt khác ngân hàng thường được chia sẽ thiệt hại với các Công ty Bảo hiểm hoặc được Nhà nước hỗ trợ. Chương II Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch-NHNTVN I-Khái quát về NHNTTƯ 1. Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng ngoại thương Việt Nam được thành lập vào năm 1963, với chức năng là ngân hàng phục vụ kinh tế đối ngoại duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ tổ chức tiền thân là Cục quản lý Ngoại hối của Ngân hàng quốc gia. Ngân hàng ngoại thương ra đời đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hoạt động ngân hàng của Việt Nam. Trong gần 40 năm hoạt động, không ngừng phát triển và trưởng thành, Ngân hàng ngoại thương đã đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước đặc biệt là từ khi đất nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, hướng mạnh về xuất khẩu, có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi thành lập Ngân hàng ngoại thương chỉ có một cơ sở ở Hà Nội, ngày nay ngân hàng đã trở thành một hệ thống hoàn chỉnh gồm Ngân hàng ngoại thương Trung ương và 23 Sở giao dịch tại các tỉnh thành phố, duy trì mối quan hệ với hơn 1000 Ngân hàng khác tại 85 nước trên thế giới nhằm đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng quốc tế và các nghiệp vụ ngân hàng chính xác, an toàn và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng ngoại thương. 2. Hệ thống tổ chức của Ngân hàng ngoại thương hiện nay Trong thời gian qua, ngân hàng đã triển khai mô hình tổ chức mới theo loại hình doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ chặt chẽ với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng ngoại thương hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các hoạt động liên quan đến hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng. Cơ quan cao nhất của Ngân hàng ngoại thương là hội đồng quản trị mà đứng đầu là vị chủ tịch. Hội đồng quản trị là nơi đề ra các chiến lược kinh doanh chủ yếu cũng như các chế độ chính sách lớn của ngân hàng. Ban kiểm soát có nhiệm vụ giám sát các hoạt động của Hội đồng. Tổng giám đốc trực thuộc Hội đồng quản trị thay mặt Hội đồng quản trị để điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của ngân hàng. Ngoài ra theo cơ cấu tổ chức của Ngân hàng ngoại thương còn có một hội đồng tín dụng giám sát hoạt động tín dụng của Tổng giám đốc ngăn ngừa những vi phạm chế độ tín dụng có thể xảy ra. Tại VCB Trung ương có 23 phòng ban có nhiệm vụ phối hợp với nhau để giúp cho Tổng giám đốc điều hành công việc kinh doanh bao gồm: Phòng vốn Phòng quản lý tín dụng Phòng thẩm định và đầu tư chứng khoán Phòng công nợ Phòng khách hàng Phòng kế toán tài chính Phòng quản lý thẻ Trung tâm thanh toán Trung tâm tin học Phòng quản lý các đề án công nghệ Phòng tổng hợp thanh toán Phòng tổng hợp và phân tích kinh tế Phòng quan hệ quốc tế Phòng quản lý liên doanh và văn phòng đại diện Phòng tín dụng quốc tế Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo Văn phòng Phòng quản trị Phòng báo chí Phòng pháp chế Phòng kiểm tra nội bộ Phòng kế toán quốc tế Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ. Trực thuộc điều hành của Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị bao gồm mạng lưới trong và ngoài nước. Mạng lưới trong nước bao gồm Sở giao dịch (Số 3 Phan Chu Trinh – Hà Nội) và hệ thống các Sở giao dịch trong cảo nước, các công ty con. Mạng lưới nước ngoài bao gồm các văn phòng đại diện tại Paris, Moscow, Singapo và một công ty tài chính tại Hồng Kông 3. Các nghiệp vụ của Ngân hàng ngoại thương Trong khuôn khổ của pháp luật, Ngân hàng ngoại thương có quyền thực hiện các nghiệp vụ: 3.1. Huy động vốn Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức, dân cư trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác. Tiếp nhận tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức quốc tế, quốc gia, cá nhân khác cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Vay vốn ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tài chính tín dụng khác trong và ngoài nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Cho vay Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế. Chiết khấu các thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác trị giá bằng tiền. Thực hiện các nghiêp vụ cho thuê tài chính (kể cả nhập khẩu và tái xuất thiết bị cho thuê). Thực hiên nghiệp vụ thanh toán L/C, bảo lãnh, tái bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước. Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối ngoại Đầu tư dưới hình thức mua cổ phần, hùn vốn, liên doanh, mua tài sản và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp và tổ chức tài chính tín dụng khác. Thực hiện nghiệp vụ cầm cố bất động sản. Kinh doanh vàng bạc, kim khí quí, đá quí (kể cả xuất nhập khẩu). Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng. Kinh doanh chứng khoán và làm môi giới, đại lý phát hành chứng khoán cho khách hàng. Cất giữ bảo quản và quản lý các chứng khoán, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các tài sản quý cho khách hàng. Thực hiện các dịch vụ tư vấn về tiền tệ, đại lý ngân hàng quản lý tiền vốn và các dự án phát triển theo yêu cầu của khách hàng. Đầu tư, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp tài sản thế chấp, cầm cố đã được chuyển thành tài sản thuộc sở hữu Nhà nước do Ngân hàng ngoại thương quản lý để sử dụng hoặc kinh doanh; tự doanh hoặc liên doanh dầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ kinh doanh và được phép cho thuê phần năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật chưa sử dụng. Thực hiện dịch vụ bảo hiểm. Kinh doanh những ngành nghề khác theo qui định của pháp luật khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Thực hiện các nghiệp vụ uỷ nhiệm khác của Nhà nước và ngân hàng nhà nước. 3.2. Tình hình hoạt động Năm 2000,tổng thu nhập của NHNT đạt 3.363 tỷ VND,tăng 30,5% so với năm 1999.Thu lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng 60,4% tổng thu nhập và tăng mạnh so với cuối năm 1999.(37,7%)do lượng ngoại tệ gửi nước ngoài gia tăng (từ 1.313,8 triệu USD bình quân năm 1999 lên 2.133,1 triệu USD)và lãi suất trên thị trường quốc tế cung tăng lên đáng kể trong năm 2000. Tổng chi phí của NHNT năm 2000 là 3.150 tỷ VND, tăng 31,8% so với năm 1999.Nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí là chi dự phòng tăng mạnh (tăng 28,3%) đạt 385 tỷ.Bên cạnh đó, NHNT cũng được phép ghi vào chi phí để xoá nợ cho IMEXCO theo quyết định của Chính phủ với số tiênf 9,6 triệu USD (tăng 135 tỷ VND).Như vậy tổng số chi phí dự phòng và xoá nợ là 520 tỷ VND, tăng 220 tỷ so với năm 1999.Nguồn vốn huy động tăng mạnh cũng làm chi trả lãi tiền gửi tăng 29,5% lên tới 2.072,6 tỷ VND.Chi về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ cũng tăng do từ tháng 8 đến tháng 11/2000 tỷ giá tăng mạnh . Lợi nhuận trước thuế đạt 212,4 tỷ, tăng 13,3% so với năm 1999, vượt 45% so với kế hoạch Nhà nước giao (146 tỷ VND).NHNT cũng đã nộp NSNN khoảng 220 tỷ VND, tăng 85% so với kế hoạch (118,5 tỷ) Trong hệ thống có 22/23 các Sở giao dịch có lợi nhuận tăng so với năm ngoái.Trong số các Sở giao dịch có lợi nhuận tăng thì nguyên nhân do tăng thu nhập chiếm đa số (15/22 Sở giao dịch) còn lại 7/22 Sở giao dịch dù thu nhập có giảm nhưng do tiết kiệm chi phí nhiều hơn nên lợi nhuận vẫn tăng. Các Sở giao dịch đạt lợi nhuận cao là: Sở giao dịch:238 tỷ (tính cả phần chi xoá nợ và dự phòng cho toàn hệ thống), TP HCM:138,8 tỷ, Vũng Tàu:82,6 tỷ, Quảng Ngãi :35,7 tỷ, Hà Nội:34,6 tỷ. II-Hoạt động kinh doanh tại NHNT Tín dụng ngắn hạn tăng theo các năm.Năm 1998 là 7.324 tỷ VND (chiếm tỷ trọng 70% tín dụng thông thường), năm 1999 là 7.586 tỷ VND (chiếm tỷ trọng 75,1% tín dụng thông thường) đến năm 2000 đã là 11.351 tỷ (chiếm tỷ trọng 79,3% tín dụng thông thường).Dư nợ ngắn hạn của Sở giao dịch thường chiếm tỷ trong cao trong tổng dư nợ (80%) đây cũng là tình trạng chung của toàn nghành do các doanh nghiệp luôn coi ngân hàng là cứu cánh, vốn vay ngân hàng thường chiếm 80-90% tổng vốn lưu động. Hoạt động ngân hàng trong năm qua đã có những bước chuyển tích cực .Những chỉ tiêu hoạt động chính của ngành đạt mức tăng trưởng khá: huy động vốn tăng 29% (kế hoạch là 20-22%), dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 25% (kế hoạch là 18-20%).Thị trường mở đã bước vao hoạt động .tình trạng ứ đọng vốn tiền đồng trong các ngân hàng thương mại được khắc phục .Cơ chế điều hành lãi suất đã được cải tiến .Nhiều qui chế về nghiệp vụ,thông tư hớng dẫn ..được ban hành đã từng bước tháo gỡ những khó khăn,vướng mắc trong các hoạt động của các ngân hàng thương mại .Các NHTMQD đã xây dựng xong đề án tái cơ cấu cho mình nhằm nâng cao năng lực tài chính,khả năng cạnh tranh để bước vào hội nhập quốc tế.Viêc cung cố tổ chức lại các NHTMCP vẫn được chu trọng và duy trì. Trong năm 2000 NHNT đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh doanh ,đạt được những kết quả đáng khích lệ trên các măt công tác: 1.Nguồn vốn 1.1.Tổng quan về nguồn vốn Tính đến cuối tháng 12/2000 tổng nguồn vốn của NHNT tăng đáng kể, đạt 66.618 tỷ VND,tăng 45,3 % so với cuối năm 1999.Nếu loại trừ yếu tố tỷ giá tăng thì tổng nguồn vốn vẫn tăng ở mức 41,7%-vượt chỉ tiêu kế hoạch năm đã đề ra là 25%. Nguồn vốn ngoại tệ phát triển đáng kể,đạt 3.395 triệu USD(tương đương 49.229 tỷ VND), tăng 43,7 % ,chiếm tỷ trọng tới 74,9% trong tổng nguồn vốn.Nguồn vốn tiền đồng đạt 17.389 tỷ đồng ,chiếm 25,1%.Trong môi trường kinh doanh hiện nay ,nguồn vốn ngoại tệ lớn đang tạo lợi thế cho NHNT,tuy nhiên về lâu dài NHNT cần phải có sách lược nâng tỷ trọng nguồn vốn tiền đồng lên để đảm bảo sự phát triển bền vững của NHNT.Nguồn vốn huy động từ nền kinh tế (thị trường 1) của NHNT chiếm tỷ lệ cao so với toàn ngành và so với khối 4 ngân hàng TMQD,chiếm tương ứng khoảng 24,7%và 32,0%(năm 1999 khoảng 23,1% và 29,6%) 1.2.Cơ cấu nguồn vốn Bảng 1: Cơ cấu nguồn v._. mục tiêu phấn đáu và làm việc thường xuyên. Công tác đào tạo cần tập trung theo trọng điểm và đào tạo một cách toàn diện để thực sự có những cán bộ có đủ năng lực và hiểu biết phục vụ yêu cầu công tác kinh doanh, tránh đào tạo tràn lan, lãng phí. Ưu tiên đào tạo cán bộ chủ chốt trước, sau đó đào tạo những cán bộ kế cận, có năng lực và phẩm chất đạo đức . Hoạt động tín dụng sử dụng phần lớn nguồn vốn của Ngân hàng, giao tiền vào tay người khác, chính vì vậy cán bộ tín dụng phải cớ trình độ chuyên môn cao. Nhất là trong lĩnh vực trung dài hạn, phải thẩm định dự án, dự đoán trước cho một khoảng thời gian dài, vì vậy cán bộ tín dụng phải có cái nhìn tổng quát, có đầu óc phán đoán. Chính vì vậy Ngân hàng nên chọn những cán bộ có đầy đủ năng lực và nhiệt tình công tác vào hoạt động tín dụng trung dài hạn. Để nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng, Ngân hàng nên tổ chức những lớp tập huấn đào tạo lại hoặc bổ sung kiến thức nghiệp vụ trong cơ chế thị trường cho các cán bộ quá lâu trong thời kỳ bao cấp; cho các cán bộ có năng lực đi học tập ở nước ngoài; tuyển chọn những cán bộ trẻ tuổi có năng lực thực sự am hiểu về kinh tế thị trường chuẩn bị cho đội ngũ kế cận. Ngân hàng có thể tạo điều kiện thuận về giờ giấc, học phí ... để giúp cán bộ tham gia các lớp học để nâng cao trình độ. Trong công tác đào tạo này, Ngân hàng nên chú trọng chất lượng hơn là số lượng. Các lớp tập huấn kiến thức chung lại Ngân hàng không nên tổ chức tại hội trường lớn - nơi mà ai cũng có thể làm việc riêng của người ấy mà nên tổ chức thành các lớp nhỏ với số lượng khoảng trên dưới 10 học viên. Cán bộ sau khi được Ngân hàng cử đi học cũng phải chịu trách nhiệm cụ thể tránh căn bệnh hình thức, Ngân hàng bỏ tiền cho cán bộ đi học những sau khi kết thúc khóa học lại không mang lại hiệu quả trong công việc . 2.1.9 Phát triển hình thức bảo hiểm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Có hai cách thực hiện: một là, các DN trước khi tiên hành sản xuất kinh doanh thì phải mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm; hai là, Ngân hàng kiêm luôn chức năng này. ở đây em xin đề cập đến cách thứ hai, vì nó phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay hơn. Để vay vốn Ngân hàng trước tiên DN phải lập một dự án như bình thường. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định dự án đó. Nếu Ngân hàng thấy không cho vay được thì thôi, còn nếu cho vay được thì khi giao tiền cho khách hàng, Ngân hàng sẽ giữ lại một tỷ lệ nhất định của khoản vay và cấp cho khách hàng một thẻ bảo hiểm. Các khoản tiền bảo hiểm đó sẽ được sử dụng để bù đắp rủi ro cho Ngân hàng trong trường hợp khách hàng làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Cách làm này có lợi là Ngân hàng có thể chủ động phòng ngừa từ xa những rủi ro có thể xảy ra khi cho vay những dự án có tính rủi ro cao, đổng thời khách hàng không có lý do gì để trốn tránh trách nhiệm mua bảo hiểm, vì khoản đóng bảo hiểm đã được Ngân hàng giữ lại ngay khi cho vay. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng đây cũng chỉ là một trong Những biện pháp nhằm hạn chế bớt tác hại của rủi ro, không thể coi đó là chỗ dựa cho Ngân hàng, mà điều cốt yếu là phải thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa để không cho các rủi ro đó xảy ra. Đó mới là mục tiêu mà ngành Ngân hàng cần hướng tới. Các DN cần phải thấy rõ được điều này không chỉ có lợi cho Ngân hàng mà còn có lợi cho chính DN vì khi mua bảo hiểm nếu gặp rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ có khoản để bù đắp lại một phần hoặc toàn bộ tổn thất tùy thuộc vào mức đóng bảo hiểm . 2.1.10.Tăng cường công tác quản lý và giải quyết nợ quá hạn. Nợ quá hạn luôn là vấn đề nhức nhối của ngân hàng, đây là một trong những yếu tố phản ánh chất lượng tín dụng .Do vậy giảm nợ quá hạn luôn là một trong những mục tiêu chính của Sở giao dịch. Sở giao dịch có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với tỷ lệ toàn ngành,nhưng không phải vì thế mà Sở không quan tâm đến vấn đề này. Để món vay không páht sinh nợ quá hạn, Sở nên chủ động kiểm soát ssược toàn bộ chu trình khép kín của một khoản tín dụng và có những biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn những nguy cơ phát sinh nợ quá hạn như: - Sở cần tăng cường công tác quản lý nợ, giảm thiểu cơ hội phát sinh nợ quá hạn: + Không chỉ do yêu cầu của Sở mà mỗi cán bộ tín dụng tự bản thân phải có ý thức đúng và trung thực các điều khoản được quy địng. +Cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định, trưởng phòng tín dụng,giám đốc ngân hàng tuy có sự độc lập nhưng vẫn phải có sự phối hợp chặt chẽ, bổ trợ lẫn nhau. Kiến nghị ngay những vấn đề không phù hợp thuộc phạm vi nghiệp vụ của mình về thể lệ.qui định tín dụng với cấp có thẩm quyền để có sự bổ sung kịp thời với thực tế. +Sở luôn giám sát, kiểm tra chặt chẽ tất cả các khâu của quy trình tín dụng. Chú ý tới những dấu hiệu có thể dẫn đến rủi ro,dẫn tới nợi quá hạnnhư khách hàng chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính cho ngân hàng, số dư tiền gửi giảm sút, xuất hiện nhiều séc phát hành quá số dư,sự gia tăng bất thườngcủa số dư hàng tồn kho, có sự châm chễ trong việc thanh toán nợ khi đến hạn hay có những ý muốn xin gia hạn nợ, việc nhận tín dụng chậm chễ không đúng theo kế hoạch dự kiến mặc dù sử dụng vốn đúng mục đích... để phát hiện và ngă chặn kịp thời các hành vi lừa đảo, sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng làm ảnh hưởng tới sự an toàn của các khoản tiền đã cho vay. + Sở cũng cần xác định rõ xem khách hàng có gặp khó khăn gì trong quá trình sản xuất kinh doanh không .(đặc biệt là các khách hàng truyền thông).Nếu tìm thấy nguyên nhan, Sở có thể giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn trong phạm vi của mình. Cán bộ tín dụng cần tích cực giúp khách hàng trong việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu về các vấn đề : bán sản phẩm (tìm kiếm khách hàng và thị trường...) thu nợ ... + Đánh giá phân loại các khoản nợ thường xuyên theo quý, năm để đinh lượng rủi ro trong quá trình cho vay từ đó đi đến quyết định mở rông hay thu hẹp tín dụng và kịp thời có biện pháp theo dõi quản lý phù hợp với từng khoản nợ. Quá trình đánh giá phân loại như sau : + Đánh giá các khoản nợ khi quyết định cho vay, do bị chi phối bởi các quy định trong chế độ, thể lệ tín dụng nên khi quyết định cho vay các khoản nợ chỉ rơi vào một trong hai trường hợp, đó là “nợ đủ tiêu chuẩn” hay “nợ cần chú ý”. ”Nợ đủ tiêu chuẩn” thường được áp dụng đối với khách hàng có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành, thể hiện một khách hàng có tài chính tốt, có uy tín và khả năng chiếm lĩnh thị trường, có tài sản thế chấp hoặc có người bảo lãnh theo quy định của chế đô. “Nợ cần chú ý” là những khoản nợ còn lại, tuy có đủ tiêu chuẩn vay vốn nhưng ở mặt này hay mặt khác ngân hàng còn băn khoăn do chưa có cơ sở thông tin tin cậy để kết luận chính xác. +Đánh giá các khoản nợ trong quá trình theo dõi việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng : sau khi phát tiền vay, các ngân hàng phải thường xuyên bám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn và đon đốc khách hàng trả nợ đúng hạn. Căn cứ vào tình hình tài chính của khách hàng, các khoản nợ có biểu hiện khác thường nhưng chưa có dấu hiệu tổn thất thì vẫn được theo dõi như các khoản “nợ cần chú ý” để tìm ra nguyên nhân và có biện pháp tích cực sửa chữa những sai lệch đó có thể thu nợ đúng hạn.Đối với những khoản nợ có khả năng tổn thất cần được phân loại tuỳ theo mức độ tổn thất dự tính có thể xảy ra: Nợ mức độ tổn thất cấp 1; loại nợ có bảo đảm đã quá hạn trả nợ trên 180 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn đến 90 ngày. Nợ có mức tổn thất cấp 2 : là những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày đến 360 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 91 ngày đến 180 ngày. Nợ có mức tổn thất cấp 3: là những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên, những khoản cho vay không có bảo đảm đã quá hạn từ 181 ngày trở lên. Qua việc đánh gía và phân loại nợ Ngân hàng có thể dự tính được khả năng tổn thất của các khoản nợ, từ đó có biện pháp kịp thời. Sau khi Ngân hàng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng nợ quá hạn vẫn tồn tại thì ngân hàng cần hành động như sau: Trước hết ngân hàng cần tìm ra nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Đây là vấn đề cần phân tích kỹ lưỡng, chính xác nhằm xác định đúng nguyên nhân đã gây ra nợ quá hạn, để có những biện pháp xử lý cho thoả đáng. Để xác định rõ được nguyên nhân ngân hàng cần xác định rõ được nhiều mặt: Lật lại hồ sơ xin vay vốn và những giấy tờ mà Ngân hàng lập khi nhận đơn xin vay của khách hàng đến khi chuyển nợ quá hạn. Phải xem xét lại từng khâu trong quá trình thẩm định xem Ngân hàng đã mắc những sai sót gì trong khâu nào, trong công đoạn nào, trách nhiệm thuộc về ai... Xem xét lại các điều kiện kinh tế , pháp lý của người vay khi thực hiện sản xuất kinh doanh và quá trình thực hiện dự án đã đề ra khi vay vốn. Tiến hành điều tra, kiểm tra thực tế toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh gắn với quá trình sử dụng vốn vay cho đến khi nợ quá hạn phát sinh. Qua đó rút ra được những kết luận là do những sai sót, vi phạm của các cán bộ tind dụng khi thẩm định cho vay hay là do nguyên nhân sai lầm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do chủ quan hay khách quan gây ra . Sau khi đẫ xác định rõ nguyên nhân nợ quá hạn, phòng kế hoạch kinh doanh lên kế hoạch về số lượng nợ quá hạn và giao cụ thể cho từng cấn bộ tín dụng theo từng tháng, kịp thời khen thưởng đối với những cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, khuyến khích những sáng kiến giải quyết nợ quá hạn, xử lý nghiêm minh những cấn bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức chưa tốt. Cán bộ tín dụng sẽ là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, tìm mọi cách thu hồi nợ quá hạn, do vậy họ cần phải nắm vững khách hàng của mình, xách định và khai thác nguồn thu hồi nợ. Trong trường hợp khó khăn của khách hàng là do thiếu vốn trong kinh doanh thì Ngân hàng có thể xem xét tăng vốn cho doanh nghiệp bằng cách cho vay thêm vốn nếu thấy việc đầu tư có hiệu quả, nhằm tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giúp cho việc thu hồi hết nợ quá hạn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước phát sinh nợ quá hạn do có ứ đọng hàng tồn kho chưa bán được, Sở giao dịch I có thể giới thiệu đơn vị mua hàng, đề nghị người vay cắt bớt những khoản chi không cần thiết, nhanh chóng giải quyết hàng tồn đọng, đồng thời đề nghị doanh nghiệp thay đổi chiến lược kinh doanh hệ thống hoạt động sản xuất khi không có hiệu quả. Nếu nợ qúa hạn do nguyên nhân khách quan thì Ngân hàng có thể xem xét gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng cho tương ứng với kỳ hạn có thể thu được lợi nhuận của người vay. Đối với các khách hàng cố tình dây dưa nợ quá hạn kéo dài, ngân hàng cần sử dụng các biện pháp cứng rắn, kết hợp sự hỗ trợ của chình quyền địa phương, các cơ quan chức năng để thu hồi nợ. Phải làm cương quyết dứt điểm từng trường hợp. III. MộT Số KIếN NGHị 1 Đối với Nhà nước Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho Ngân hàng hoạt động Do tình hình kinh tế - xã hội phát triển nhanh, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường thực sự phải có pháp luật điều chỉnh, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh trong sự phát triền kinh tế. Chính vì vậy đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa pháp lý cho Ngân hàng, cho DN là rất cần thiết. Hơn nữa, luật lệ của nước ta chưa ổn định, thay đổi luôn luôn không tạo ra cơ sở vững chắc cho Ngân hàng. Việc luôn bị sửa đổi của các Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai nhà cửa ... khiến cho các giấy tờ liên quan như giấy phép kinh doanh, giấy sở hữu nhà đất không rõ ràng, rất khó khăn cho Ngân hàng xem xét dự án có thể cho vay . Riêng đối với lĩnh vực Ngân hàng, có hai bộ Luật Ngân hàng ( Luật NHNN và Luật các TCTD) là cơ sở pháp lý quan trọng để Ngân hàng cho vay đối với các loại hình DN khác nhau. Tuy nhiên việc ban hành các quy dình ngặt nghèo đối với khu vực KTNQD, khiến cho dư nợ của thành phần kinh tế này ngày càng giảm sút. NHNN cần ban hành quy chế có tính mềm dẻo hơn nhằm kích thích cán bộ tín dụng tìm nhiều khách hàng để cho vay . Làm rõ nội dung lợi nhuận chịu thuế, chi phí hợp lý vốn chủ sở hữu và cơ sở ấn định mức phải chịu thuế lợi tức bồ sung. Có hai kiến nghị của các TCTD đối với các Luật thuế mới là áp thuế đúng luật định và thuế suất hợp lý . - Trong Luật các TCTD quy định các hoạt động bảo lãnh mua bán tài sản xiết nợ, chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá. .. thì không phải chịu thuế. Thế nhưng trong Thông tư 178/ TT hướng dẫn Thuế GTGT lại xếp các hoạt động trên vào hoạt động chịu thuế . - Khoản thu sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước với mức 6% là bất hợp lý. Đơn củ một ví dụ, NHCT Việt Nam với số vốn là 1. 1 00 tỷ đồng thì sẽ phải nộp 66 tỷ đồng/ năm cộng với các quỹ tích lũy được thì số tiền phải nộp là khoảng 78 tỷ đồng/ năm, giả sử lợi nhuận của NHCT việt Nam là khoảng 120 tỷ đồng thì số còn lại là quá ít . Chính vì vậy việc hoàn thiện môi trường pháp lý là rất cần thiết. Các Luật không được chồng chéo lên nhau mà phải vừa đảm bảo tính dân chủ vừa phải kích thích cho tất cả các hoạt động đều phát triển và đi vào khuôn phép . Nhà nước cần đầu tư tái tạo vốn cho hệ thống Ngân hàng Theo các chuyên gia kinh tế, để tái lạo vốn cho hệ thống Ngân hàng đang suy yếu và gánh chịu những khoản nợ khó đòi xảy ra ở một số vụ án kinh tế lớn như Dệt Nam Định, Tamexco,... Chính phủ sẽ phải chi một khoản tiền không nhỏ. Nguồn tiền để cung cấp vốn tái tạo cho hệ thống Ngân hàng có thể lấy từ Ngân sách Quốc gia, từ việc phát hành công trái, trái phiếu Kho bạc, hoặc cũng có thể đi vay các tồ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB ... Giải pháp này đã được các quốc gia Châu á thực hiện có hiệu quả. Nhật Bản đã dành 1 6,7 tỷ JPY từ Ngân sách công cộng để kích thích trọn gói hệ thống Tài chính - Ngân hàng của nước này. Nguồn vốn vay các tổ chức Tài chính quốc tế cũng góp phần đáng kể vào công cuộc tái thiết hệ thống Tài chính - Ngân hàng trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1 997, điển hình ở các nước như Hàn Quốc, lnđônêsia, Thái Lan ... Nhà nước cần có các biện pháp đồng bộ để ổn định tiền tệ Trên tổng quan, chính sách tiền tệ giai đoạn 1998 - 2005 vẫn phải hướng vào mục tiêu kiềm chế lạm phát và ồn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển với tốc độ cao và bền vững. Chính sách tiền tệ phải được điều hành bởi các công cụ, chính sách cụ thể về tín dụng đối với nền kinh tế, về quản lýngoại hối và chính sách đối với Ngân sách thay cho cách điều hành thông qua các chỉ tiêu kế hoạch như trước đây. Quan điểm trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn này là phải điều hòa được các quan hệ vốn có mâu thuẫn, đó là: - Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế . - Giữa lợi ích chung kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế với lợi ích của các NHTM và các TCTD . - Giữa lợi ích người gửi tiền, nhà kinh doanh tiền tệ và người đi vay. Định hướng trong giai đoạn này là phải chuyển mạnh sang vận dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho việc sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp vì hiện nay Việt Nam đã bước đầu hình thành các khung định chế và môi trường cho các công cụ gián tiếp được sử dụng . Bên cạnh đó các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những nhược điểm như làm cho việc phân phối vốn không hiệu quả, kiềm chế tài chính cứng nhắc và thiếu linh hoạt trong khi đó các công cụ gián tiếp sẽ giúp cho NHNN điều hành tiền tệ một cách linh hoạt theo thị trường . Giai đoạn sau năm 2000 về cơ bản hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được củng cố về nhiều mặt, do đó cần tiến thêm một bước trong cải cách quản lý về tiền tệ để tiến tới một hệ thống tài chính tự do và hòa nhập vào hệ thống tài chính khu vực và quốc tế . Thị trường chứng khoán cần sớm được vận hành Nền kinh tế thị trường luôn lồn tại hai kênh huy động và phân bổ vốn, một kênh thông qua các tổ chức lài chính trung gian và một kênh khác thông qua thị trường chứng khoán (TTCK). TTCK cùng với hệ thống Ngân hàng tạo nên một hệ thống tài chính đủ mạnh, cung cấp những nguồn vốn ngắn, trung dài hạn cho nền kinh tế. Đối chiếu với yêu cầu của TTCK chuẩn mực quốc tế, thì các công ty cổ phần Việt Nam chưa hội đủ điều kiện. Do vậy, bước quá độ TTCK Việt Nam chỉ là thị trường trái phiếu do Chính phủ phát hành. Hiện nay, bên cạnh hai hình thức phát hành truyền thống là đấu thầu trái phiếu Kho bạc qua Ngân hàng và bán lẻ trái phiếu Kho bạc tại các Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố thì sẽ có thêm hai hình thức phát hành mới nữa là tồ chức đấu thầu trái phiếu Chính phủ và bảo lãnh phát hành. Theo kế hoạch trong năm 2000, Bộ Tài chính sẽ phát hành 16.000 tỷ đồng trái phiếu, một số năm tiếp theo sẽ tăng cao hơn nữa. Trong bước tiếp theo, Việt Nam phải xây dựng một số công ty cổ phần đại chúng làm hạt nhân và là người cung cấp hàng hóa cho TTCK. Cùng với quá trình cổ phần hóa các DNNN, số lượng các công ty cổ phần sẽ tăng lên, quy mô và phạm vi mở rộng đó sẽ là những người cung cấp hàng hóa cho TTCK Việt Nam ( trái phiếu DN, trái phiếu công trình ... ) tạo tiền đề cho việc ra đời của Sở giao dịch chứng khoán trong nay mai . Tăng cường trách nhiệm từ phía Nhà nước - Doanh nghiệp - Ngân hàng Từ năm 1 996 đến nay, việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đã gặp không ít khó khăn, thậm chí có lúc tưởng chừng như vốn Ngân hàng đang bị " đóng băng ", trong khi đó các DN lại thiếu vốn trầm trọng. Để quan hệ giữa hoại động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng ngày càng phát triển, cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành, và thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây : - Kiên quyết sắp xếp lại các DNNN, chỉ để tồn tại những DN công ích DN làm ăn có hiệu quả, những DN thực sự cần thiết cho phái triển dân sinh, tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng nâng cao được hiệu quả. Trong hội nghị tổng kết đổi mới và phát triển DNNN từ năm 1986 đến nay ( 3 - 4 /5/2000 ), đã thống nhất lộ trình đổi mới DNNN giai đoạn 2000 - 2003, số lượng DNNN sẽ chỉ còn lại 3000 DN, giảm đi 2280 DN, bao gồm 1498 DN được tiến hành CPH, hoặc giao bán, khoán, cho thuê ( 65,3% ); 380 DN sáp nhập vào các DN khác (16,7% ) và 368 DN phải giải thể, phá sản ( 16% ); 43 DN chuyển thành đơn vị sự nghiệp (2% ). Đến năm 2003, quy mô DNNN sẽ tăng vốn bình quân từ hơn 1 8 tỷ đồng /1 DN lên trên 27 tỷ đồng; giảm 18,5% tổng nợ, 15,3% nợ Ngân hàng và quan trọng nhất là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được nâng lên. Hiện chỉ có 20% DNNN đạt mức lợi nhuận trước thuế cả năm từ 12% trở lên ( tương đương với mức lãi suất Ngân hàng ). Theo phương án sắp xếp lại đến năm 2003, số DNNN đạt mức lợi nhuận nêu trên sẽ tăng lên 50%. Đến năm 2005, dự kiến chỉ còn 2000 DNNN, có thể nói, đây chính là sự " giảm lượng tăng chất, Các DNNN khẳng định được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế, làm ăn có hiệu quả, có định hướng hoạt động chắc chắn, tạo sự tin lượng cho nhà đầu tư và cũng là mảnh đất tốt để phát triển hoại động tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh đó, sau khi sắp xếp sẽ xử lý nợ được 21 .000 tỷ đổng, trong đó có 7.000 tỷ đổng nợ Ngân hàng . - Bộ Tài chính cần tiếp tục cấp bổ sung đủ mức vốn điều lệ đã được duyệt cho các DN để đảm bảo số tiền vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đối với các DN gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của chu kỳ sản xuất hoặc thực sự cần thiết phải tồn tại thì đề nghị Bộ Tài chính cho phép giãn nợ 3 - 5 năm để DN có thời gian sắp xếp lại sản xuất, tạo nguồn trả nợ cho Ngân hàng. - Tiếp tục hoàn thiện sửa đổi, ban hành các bộ Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, đến hoạt động của Ngân hàng nói riêng, tạo hành lang pháp lý cho hoại động của DN và NHTM đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng . - Rà soát lại năng lực trình độ cũng như phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác trực tiếp kinh doanh. Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ Ngân hàng . - Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ của Ngân hàng, tạo ra nhiều sản phẩm mới ( tư vấn, bảo hiểm, thuê mua ... ) . Nhà nước cồn thành lập trung tâm quản lý và bán đấu giá tài sản thê'châp Hình thức công ty mua bán nợ đã xuất hiện từ rất lâu trên ở nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc ... Các công ty này được hình thành khách quan trong nền kinh tế thị trường khi có nhiều khoản nợ xuất hiện ở các TCTD khác nhau. Bản chất của chúng là các công ly kinh doanh các khoản nợ của các DN vay các TCTD để thu lợi nhuận . Hiện nay, ở Việt Nam, Chính phủ đang xúc tiến thành lập công ty nợ trực thuộc Chính phủ thực hiện hai mục tiêu là đảm bảo an toàn, lợi ích của các TCTD và thực hiện mục tiện lợi nhuận. Ban lãnh đạo của công ty phải bao gồm các thành viên của NHNN, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính và cán bộ các ngành có liên quan đến việc quản lý và bán đâu giá . Hoạt động của công ty bao gồm từ khâu định giá; nhận tài sản thế chấp, cầm cố đến việc quản lý các tài sản này và cuối cùng là bán đấu giá để thu hồi khoản vay nếu khách hàng không trả được nợ . Thực hiện chê'độ kiểm toán chặt chẽ Để giúp các Ngân hàng xét duyệt hồ sơ xin vay vốn của các khách hàng được chính xác, báo cáo tài chính của khách hàng phải phản ánh đúng tình hình thực tế đồng thời việc thu thập thông tin của Ngân hàng cũng phải được tiến hành thuận lợi và chính xác. Muốn vậy, Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với khu vực KTNQD. Qua đó tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ Ngân hàng có những kết luận chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc chấn chỉnh công tác kiểm toán phải đi đôi với nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Hiện nay ở nước ta đã có hệ thống kiểm toán Nhà nước, 15 công ty kiểm toán độc lập bao gồm cả công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ty kiểm toán của Nhà nước và trách nhiệm hữu hạn, song hiệu quả hoạt động của các công ty này chưa cao, một phần là do quan niệm của các DN thường rất ngại thực hiện kiểm toán do nhiều lý do khác nhau: có thể sợ kiểm toán phát hiện ra những sai sót về kế toán hay kiểm toán sẽ phát hiện ra những điều mà DN cần giấu kín ... Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán và làm cơ sở cho việc thẩm định tín dụng, trước mắt cần có sự thống nhất giữa các cơ quan kiểm toán Việt Nam, cụ thể hóa chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với thông lệ của kiểm toán quốc tế. Ví dụ như: một DN có số vốn điều lệ bao nhiêu thì cần phải tiến hành kiểm toán, trách nhiệm cung cấp và giữ bí mật thông tin của các cơ quan kiểm toán, áp dụng công nghệ kiểm toán gì, giá trị pháp lý của số liệu và chữ ký của cơ quan kiểm toán... Tiến tới, Nhà nước cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình DN, qua đó để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thẩm định các dự án đầu tư . 2. Đối với NHNN - Về xử lý tài sản thế chấp: NHNN quy định nếu sau thời hạn trả nợ cuối cùng là 1 0 ngày, bên vay không trả được nợ thì Ngân hàng làm đơn đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Mặt khác, trong thủ tục cho vay ràng buộc bên vay bằng một hợp đồng thế chấp tài sản có ghi: " nếu không trả nợ gốc và lãi thì Ngân hàng phải phát mai tài sản thê/chấp, cầm cố để thu hồi nợ ... ". Như vậy, người vay tự nguyện mang tài sản thế chấp hợp pháp đến vay vốn đã cam kết với Ngân hàng bằng đảm bảo. Ngân hàng làm bản thông báo công khai, trước hết dành quyền ưu tiên cho người có tài sản thế chấp đó được mua lại tài sản đó theo đánh giá của Hội đồng định giá. Sau 10 ngày nhận dược thông báo, nếu chủ tài sản không mua thì Ngân hàng sẽ có quyền bán cho người khác . Như vậy, Ngân hàng có thể tự phát mại tài sản đó mà không phải xin ý kiến của các cơ quan Nhà nước khác . - Về nâng cao chất lượng thông tin: một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của các NHTM là sự thiếu thông tin cần thiết, chính xác từ phía khách hàng, từ thị trường và dự án. Vì vậy, muốn hoạt động của các NHTM đạt hiệu quả cao thì NHNN phải thiết lập một trung tâm lưu trữ thông tin có thể cung cấp những thông số chính xác nhất, mới nhất về các DN, các biến động trên thị trường, các thông tin có liên quan đến dự án ... - Về mức lãi suất: trong một thời gian dài ta duy trì lãi suất ngắn hạn cao hơn trung dài hạn dẫn đến lượng vốn trung dài hạn huy động nhỏ, chưa thể đáp ứng phù hợp với yêu cầu vốn trong thời kỳ đổi mới công nghệ, thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Thêm vào đó, lãi suất biến động thường xuyên gây ảnh hưởng lâm lý đến tính an toàn của tài sản tiết kiệm. NHNN nên khắc phục tồn tại này bằng cách điều chỉnh mức lãi suất theo nguyên tắc: thời gian càng dài lãi suâí càng cao. Ngoài ra, NHNN nên áp dụng hai mức lãi suất khác nhau cho nợ quá hạn phân theo nguyên nhân khách hàng và chủ quan. Sẽ là không công bằng nếu DN phải trả mức lãi suất cao gấp 1,5 lần nếu nguyên nhân gây nên nợ quá hạn là sự thay đổi của cơ chế chính sách của Nhà nước, hay do những ảnh hưởng của môi trường tự nhiên . 3. Đối với NHNT Việt Nam -Về thẩm quyền phán quyết: theo quy định hiện hành cho vay trung dài hạn trên 2 tỷ đổng thì phải trình Tổng Giám đốc NHNT Việt Nam duyệt. Thông thường một món vay trung dài hạn thường phải mất 20 - 30 ngày để thấm định trước khi quyết định cho vay hay từ chối. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh quyết liệt, nếu giải quyết như vậy sẽ làm mất cơ hội của khách hàng. Chính vì vậy, theo em trong quy chế cho vay của NHNT Việt Nam chỉ nên quy định khung pháp lý để cho các Ngân hàng cơ sở căn cứ vào đó để quy định cơ chế cho vay cụ thể, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm khách hàng, tạo thế chủ động cho các Ngân hàng cơ sở thì chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao hơn . - Về mức lãi suất: để cho dự án đảm bảo tính khả thi, giúp Ngân hàng vừa mở rộng hoạt động tín dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng, NHCT Việt Nam có thể quy đình mức lãi suất thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng hay mức lãi suất có thể điều chỉnh để giảm rủi ro cho cả khách hàng và Ngân hàng. Lãi suất cho vay các DN ngoài quốc doanh cũng phải điều chỉnh thường xuyên theo từng thời kỳ . 4 Đối với doanh nghiệp Doanh nghiệp càn cung cấp những thông tin chính xác cho Ngân hàng Đa số khách hàng đi vay vốn thường than phiền rằng Ngân hàng còn gây nhiều khó khăn cho họ với nhiều thủ tục nhiêu khê, phiền hà, làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của họ. Song họ không ý thức được một điều là họ cũng là một phần trong những khó khăn đó vì : - Khách hàng không muốn cung cấp đầy đủ thông tin vì họ sợ cung cấp nhiều sẽ vô tình phơi bày ra những yếu điểm của họ. - Khách hàng thường cung cấp những thông tin không hoàn toàn chính xác vì họ muốn giữ kín những số liệu kinh doanh, sợ Ngân hàng tiết lộ ra ngoài. Chỉ gò ép vào những số liệu tài chính, sản xuất kinh doanh mà không căn cứ vào thực tế thì Ngân hàng khó có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và chính xác được . - Mục đích xin vay cũng được trình bày chung chung, không rõ ràng ví dụ như " vay để phát triển sản xuất kinh doanh ". Với một lý do như vậy các cán bộ tín dụng yêu cầu là lại thủ tục là đúng đắn . Số tiền vay và thời gian xin vay không đúng với nhu cầu thực tế, vì vay vốn trung dài hạn thì phải trả lãi suất cao hơn ngắn hạn nên mặc dù muốn vay trung dài hạn nhưng DN lại vay ngắn hạn, đến thời hạn trả nợ ngắn hạn thì lại đệ đơn xin gia hạn nợ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng . Để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng trung dài hạn của toàn bộ nền kinh tế thì chỉ có sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ hệ thống NHTM là chưa đủ, mà phải có sự nỗ lực hợp tác, giúp đỡ từ phía đối tác còn lại đó là các DN. V vậy, các DN cần phải đổi mới tư duy, khắc phục những nhận thức sai lầm trên để có thể tự khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân đồng thời giúp đỡ hỗ trợ các Ngân hàng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn . ã Nâng cao năng lực hoạt động sản xuân kinh doanh của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, các DN luôn phải chủ động tìm kiếm thị trường và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó thực hiện nhiều biện pháp hợp lý như sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, nâng cao khả năng quản lý, có chính sách đào tạo nhân lực, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, đẩy mạnh hoạt động Marketing, phát huy nội lực và kết hợp với sự hỗ trợ giúp đỡ của hệ thống NHTM để có vốn tiến hành các dự án sản xuất kinh doanh có khả năng sinh lời cao ... để từ đó có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước sau đó tiến ra thị trường quốc tế . Kết luận Trong nền kinh tế thị trường vấn đề sử dụng vốn vay ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ với bản thân doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà còn đối với bản thân ngân hàng. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần chuyển đổi cơ chế nên các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng từng bước thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Cũng vì thế mà hoạt động tín dụng ngắn hạn cũng có những thay đổi cho phù hợp, tuy nhiên ngoài những mặt tích cực nó cũng còn những tồn tại cần giải quyêt. Mặc dù đã rất cố gắng trong việc hoàn thành bản luận văn này nhưng do trình độ cũng như các yếu tố khác về thời gian, tài liêu còn hạn chế nên phần lý luận chỉ được xây dựng một cách khái quát. Do vậy phần lý luận này chỉ có tính chất định hướng hỗ trợ cho hoạt động tín dụng ngắn hạn của Sở Giao Dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Trong phần đánh giá thực trạng ở chương hai do chưa có kinh nghiệm nên những đánh giá của thực tập viên là rất khó khăn và còn có tính chất chủ quan. Bên cạnh đó do những hạn chế về nhiều mặt nên giải pháp đưa ra chưa chắc chắn đầy đủ và sát thực. Tuy nhiên em mong muốn rằng bản luận văn này sẽ góp phần củng cố hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Sở Giao Dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Luận vaywn là kết quả tốt nhất đối với một sinh viên trong những năm học đại học. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường Đại học Kinh tế quốc dân, các bác, cô chú, anh chị tại phòng Tín dụng ngắn hạn của Sở Giao Dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docX0128.doc
Tài liệu liên quan