Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Cầu Giấy

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm gần đây đã và đang có những bước khởi sắc rất đáng ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng đạt 7,5%; kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều những chuyển biến tích cực. Đó là kết quả của chính sách đổi mới, phát huy chung của nền kinh tế, của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, của hội nhập, của những chính sách huy động vốn và sử dụng vốn rất hiệu quả. Là một nước còn nghèo, điểm xuất phát thấp, để không bị tụt hậu, chúng

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta không còn con đường nào khác là phải tăng cường đầu tư để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội Đây là quá trình đòi hỏi có nhu cầu vốn rất lớn bao gồm cả nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn. Trong khi vốn ngân sách Nhà nước cấp hạn hẹp, việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng, phát triển đất nước, với tốc độ đô thị hoá cao, cơ sở hạ tầng đang được củng cố và phát triển, nhiều khu đô thị mới, khu công nghiệp đang dần dần được hình thành,... thì toàn bộ nguồn vốn sản xuất, vốn lưu động, vốn cố định đều cần những nguồn tài trợ khác từ việc đi vay. Trước những tín hiệu về sự sôi động của một nền kinh tế đang phát triển, nhiều Ngân hàng thương mại đã thực sự vào cuộc và thực hiện nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau. Và việc đầu tư cho việc phát triển thi công các công trình xây dựng đang giành được rất nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý. Đối với hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng thì việc triển khai cho vay hỗ trợ vốn đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đang được xem là một hoạt động đặc thù từ khi còn là Ngân hàng cấp phát vốn xây dựng cơ bản. Trong nhiều năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy đã triển khai cho vay, hỗ trợ vốn rất lớn đối với các đơn vị hoạt động thi công xây lắp, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tiến độ thi công và đầu tư các dự án. Tín dụng ngắn hạn với vai trò không thể phủ nhận được của nó đã đang phát huy được vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bức thiết về số vốn lưu động, đổi mới trang thiết bị…nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy đã hướng sự quan tâm đặc biệt của tôi về vấn đề này, về tầm quan trọng, về những thuận lợi, khó khăn và thách thức đang đặt ra đối với Ngân hàng và các doanh nghiệp trước cửa ngõ của quá trình hội nhập và phát triển. Chính vì vậy mà tôi đã tự lựa chọn cho mình đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy” Chuyên đề được kết cấu theo 3 chương lớn: Chương I: Tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy. CHƯƠNG I: TÍN DỤNG NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP Tín dụng ngắn hạn là một nghiệp vụ kinh doanh của Ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong thi công xây lắp được xác đinh là một chiến lược kinh doanh quan trọng đối với hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và đối với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng. 1.1. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp: Các doanh nghiệp hình thành và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, với những chức năng, nhiệm vụ và vai trò đối với nền kinh tế cũng rất khác nhau. Các Ngân hàng đã tự phân loại đối tượng khách hàng theo các lĩnh vực: thi công xây lắp, kinh doanh thương mại và hoạt động sản xuất để theo dõi việc vay vốn và sử dụng vốn của từng thành phần doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, được thành lập theo quy định của pháp luật, được hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp khi có đăng ký kinh doanh về xây dựng. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp phải đăng ký hoạt động xây dựng theo đúng quy định,chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã ký kết trong các hợp đồng. Đồng thời phải thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái trong khi công trình đang thi công. Các doanh nghiệp xây lắp phải công khai rộng rãi những thông tin về năng lực hoạt động của doanh nghiệp cho các chủ đầu tư biết trước khi đưa ra quyết định lựa chọn. Các doanh nghiệp xây lắp đảm nhiệm một nhiệm vụ quan trọng là xây mới, mở rộng, khôi phục và sửa chữa tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân đặc biệt khi đất nước đang trong quá trình xây dựng. 1.1.2 Vai trò của ngành xây lắp Một cơ sở hạ tầng vững chắc, hiện đại là điều kiện tiên quyết quyết định cho sự phát triển kinh tế, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân của mối nước. Kinh nghiệm cho thấy những quốc gia có nền kinh tế phát triển đều đi lên từ một nền móng hạ tầng rất tốt. Ngành công nghiệp xây dựng đã góp phần quan trọng trong việc biến đổi cơ sở hạ tầng và vai trò của nó ngày càng được khẳng định qua từng thời kỳ phát triển của đất nước giúp đạt được mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tăng trưởng kinh tế. 1.1.2.1 Ngành công nghiệp xây lắp phát triển là điều kiện khai thác và sử dụng tối đa nguồn lực của đất nước Là ngành sản xuất vật chất nên các yếu tố về cơ sở vật chất cần phải vững mạnh, đặc biệt yếu tố về sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động để đáp ứng trước nhiệm vụ được đặt ra đối với ngành xây dựng. Quá trình đổi mới của nước ta đã trải qua một thời gian khá dài, đó là một quá trình mà ngành công nghiệp xây lắp phát huy hết khả năng của nó và mang lại những kết quả rất đáng ghi nhận trong việc khai thác, sử dụng nguồn lực đất nước cùng với việc mở ra một sự hứa hẹn cho một tiềm năng phát triển kinh tế lớn bởi sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng là một cơ hội để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, một cơ hội để con người phát huy trình độ, tay nghề và tính sáng tạo vì lợi ích của chính cá nhân họ và vì lợi ích cộng đồng. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển theo kịp với tốc độ tăng trưởng của khu vực và thế giới. 1.1.2.2 Khuyến khích sự phát triển của ngành xây lắp là cơ hội thu hút lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội Một lợi thế lớn của Việt Nam là một lực lượng lao động đông đảo với sức khỏe, sức trẻ, nhiều đối tượng được qua những lớp đào tạo chính quy, có trình độ tri thức và tay nghề cao. Bước sang nền kinh tế thị trường, tính đa dạng của loại hình xây lắp được phát huy trên tất cả các ngành nghề, có mặt tại tất cả các khu vực từ nông thôn đến thành thị với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau từ doanh nghiệp Nhà nước đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động ngày càng hiệu quả. Ngành xây lắp là ngành nghề tạo việc làm nhanh và dễ dàng hơn so với các ngành nghề khác qua việc tiếp nhận và điều chuyển lực lượng công nhân tới rất nhiều vị trí lao động khác nhau tại tất cả các công trình xây dựng được trải dài trên khắp đất nước. 1.1.2.3 Ngành xây lắp được thành lập theo quy định của pháp luật, giữ một vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hơn các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước. Sự hoạt động có hiệu quả của ngành xây lắp nhanh chóng làm tăng chỉ tiêu GDP, tăng thu cho ngân sách Nhà nước và thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh doanh số và chất lượng sản phẩm xây dựng trên thị trường. Điều này giúp cho các ngành nghề khác cũng như bị cuốn theo vào quá trình phát triển không ngừng của ngành xây lắp và cùng kéo nền kinh tế của đất nước đi lên. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đã thực sự làm sống lại nhịp độ phát triển của đất nước và nó đã tự khẳng định lại vai trò quan trọng không thể phủ nhận trong việc nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng - tiền đề cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước. 1.1.2.4 Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước cần có sự đóng góp không nhỏ của ngành xây dựng cơ bản. Bên cạnh việc cung cấp một lượng sản phẩm lớn cho thị trường, tích tụ vốn cho xã hội, các doanh nghiệp còn thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh để tự tích tụ nguồn vốn giúp các doanh nghiệp này chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh bằng nhiều hình thức khác nhau như các quỹ phát triển sản xuất, quỹ khấu hao cơ bản…Công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị đang được hiện đại hoá, trình độ công nhân đang được nâng cao để phù hợp với nhu cầu phát triển của ngành nghề xây lắp. Đồng thời ngành xây lắp cũng cần tiến hành những cuộc cách mạng hoá trong kỹ thuật và công nghệ để theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của thị trường. 1.1.3 Đặc điểm của ngành nghề xây lắp Đầu tư xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có những điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất khác như việc sản xuất thi công thường phải được thực hiện tương đối lâu, quy mô công trình (quy mô của sản phẩm được sản xuất ra) rất lớn, sản phẩm hình thành không thuộc tài sản lưu động mà gắn liền ngay với địa điểm thực hiện thi công và sản phẩm có thể đựơc sử dụng trong một thời gian rất dài. 1.1.3.1 Đặc điểm về các loại hình tổ chức sản xuất Xây dựng cơ bản là một trong những ngành nghề sản xuất vật chất lớn nhất của cả nước, có khả năng tái sản xuất các tài sản cố định. Lĩnh vực của hoạt động xây lắp rất rộng có thể được phân loại theo các công trình xây dựng: * Công trình dân dụng: Bao gồm các công trình công cộng (văn hoá, giáo dục, y tế, thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn, nhà phục vụ giao thông, thông tin liên lạc), các công trình về nhà ở chung cư, nhà riêng….. * Công trình công nghiệp: bao gồm các công trình khai thác (khai thác than, quặng, dầu khí, công trình kho xăng dầu, công trình luyện kim…); các công trình cơ khí, chế tạo; công trình công nghiệp vật liệu xây dựng; công trình công nghiệp nhẹ….. * Các công trình giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, hầm, sân bay… * Các công trình thuỷ lợi như giếng, đường ống dẫn nước, kênh, hồ chứa đập,… * Các công trình hạ tầng kỹ thuật như cấp thoát nước, xử lý chất thải, công trình chiếu sáng đô thị,…. 1.2.2.2 Đặc điểm về sản phẩm của ngành xây lắp - Sản phẩm xây lắp thường không đồng bộ, luôn biến đổi theo địa điểm và giai đoạn xây dựng; quy mô lớn, kết cấu phức tạp, giá trị lớn, thời gian sản xuất và sử dụng lâu dài. - Chất lượng của sản phẩm xây lắp nhiều khi quyết định đến chất lượng của các ngành sản xuất khác có liên quan. - Vì sản phẩm xây lắp rất đa dạng, giá trị mỗi dự án là khác nhau nên để hoàn thành sản phẩm trong lĩnh vực thi công xây lắp yêu cầu phải có nhiều chủng loại nguyên vật liệu, máy móc và những công nhân theo các ngành nghề khác nhau. Các sản phẩm này cũng có thể là những mạch máu nối liền các ngành, vùng địa phương như các đường giao thông, cảng biển…nên cần cân nhắc tập trung vốn và nhân lực hợp lý khi triển khai dự án. Sản phẩm của ngành xây lắp được thiết kế riêng về kỹ thuật. Mỗi công trình đều có những yêu cầu, những tiêu chuẩn riêng cần được thực hiện về thiết kế, kỹ thuật, công nghệ, mỹ quan và sự an toàn…và đảm bảo những giá trị riêng vào thời điểm nghiệm thu sản phẩm. Việc thực hiện một qui trình xây dựng lâu dài, nhiều công đoạn, nhiều kẽ hở sẽ làm cho quá trình quản lý điều hành hoạt động đầu tư phức tạp hơn trong việc đảm bảo thi công công trình diễn ra được lành mạnh, mức độ phát sinh các tiêu cực là tối thiểu. Đó là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý về việc xây dựng cơ chế chính sách trong điều hành hoạt động đầu tư xây dựng đảm bảo những sản phẩm của quá trình sản xuất là những công trình có đủ điều kiện đưa vào sử dụng. 1.1.2.3 Đặc điểm về tổ chức thi công công trình Các sản phẩm xây lắp thường được hình thành khắp nơi và gắn liền với địa điểm sản xuất nên việc tổ chức xây dựng một công trình như thế nào cần có những kế hoạch riêng đối với từng địa phương, và từng dự án cụ thể. Để hạn chế việc ứ đọng vốn trong thi công xây lắp, các nhà đầu tư cần lựa chọn những phương án có thời gian hợp lý cho việc tổ chức thi công xây dựng các công trình ở từng thời điểm khác nhau. Yêu cầu trong công tác tổ chức xây dựng là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng, giữa thầu chính hay thầu phụ. Các công trình xây dựng là những công trình được thực hiện và hình thành chịu ảnh hưởng rất lớn của thời tiết, khí hậu là một bất lợi lớn cho việc dự trữ vật liệu và thi công công trình. Vì vậy việc lập kế hoạch xây dựng, đảm bảo tiến độ thi công luôn cần được tính toán kỹ trong công tác tổ chức thực hiện. 1.1.2.4 Vốn và vấn đề chu chuyển vốn tại doanh nghiệp xây lắp Quá trình thực hiện một dự án xây dựng bắt đầu từ việc các dự án được đem ra đấu thầu và được các chủ đầu tư lựa chọn. Các chủ đầu tư luôn biết tự tìm cho mình những dự án tốt nhất, ký kết hợp đồng với các đơn vị xây lắp có đủ tư cách pháp nhân, năng lực hành nghề xây. Chủ đầu tư (bên A) sẽ chịu trách nhiệm trong việc huy động, tìm nguồn vốn cho công trình được thi công đúng tiến độ, các đơn vị xây lắp bao thầu (bên B) sẽ chịu trách nhiệm trong vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của chủ đầu tư. Các doanh nghiệp xây lắp có uy tín, có năng lực trong kỹ thuật thi công cùng với năng lực tài chính sẽ ngày càng được đánh giá cao. Doanh nghiệp xây lắp thực hiện việc hoàn thành công trình cũng cần có những giá trị đầu vào cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất ra thành phẩm. Những đối tượng lao động của doanh nghiệp được chia thành: - Vật tư dự trữ chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục (nguyên, nhiên vật liệu….) - Vật tư đang trong quá trình chế biến (bán thành phẩm) Hai bộ phận này hình thành nên tài sản lưu động của doanh nghiệp trong quá trình xản xuất, tài sản lưu động này sẽ vận động không ngừng cùng tài sản lưu động trong lưu thông (tức là các tài sản này sẽ thay thế nhau trong quá trình chọn lọc, xuất giao sản phẩm và thanh toán) và đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra thuận lợi và liên tục. Về phía các doanh nghiệp xây lắp, vốn lưu động được chia thành: - Vốn nằm trong quá trình dự trữ - Vốn đang trong quá trình sản xuất - Vốn đang trong quá trình lưu thông Đặc điểm của sản phẩm xây lắp là được thi công và hình thành ngay tại chỗ, không phải nhập kho và vận chuyển đi tiêu thụ, công trình được thực hiện theo những hợp đồng đặt hàng nên sản phẩm xây lắp có thể được bán ngay sau khi hoàn thành và không bị gây khó khăn trong vấn đề tiêu thụ. Ngay khi kết thúc việc thi công một công trình xây dựng thì công trình đó sẽ được bàn giao cho người giao thầu và được lập biên bản kiểm nghiệm theo yêu cầu chi trả sau khi việc nghiệm thu công trình hoàn tất, doanh nghiệp xây lắp khi tham gia vào việc bao thầu cũng cần có một số vốn ban đầu, tức là cũng cần có một năng lực tài chính cần thiết cho việc đầu tư vào các tài sản lưu động ấy, nhu cầu về vốn xuất phát từ sản lượng xây lắp phải bàn giao kết toán trong kỳ kế hoạch và thời gian cần thiết để làm thủ tục và các giấy tờ thanh toán. 1.2 Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp 1.2.1 Chất lượng tín dụng ngắn hạn trong các Ngân hàng thương mại: * Vai trò của tín dụng ngắn hạn trong các Ngân hàng thương mại - Tín dụng ngắn hạn có tác động tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu bức thiết về số vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các Ngân hàng đóng một vai trò đáng kể trong việc tạo ra tiền, không phải vì việc in những tờ tín phiếu có mênh giá lớn nhỏ, những tờ tiền giấy hay tiền xu mà do việc cho vay, khơi những nguồn vốn trong dân cư, các tổ chức kinh tế để sinh lợi. Hoạt động Tín dụng ngắn hạn tại các Ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế thông qua việc thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi thúc đẩy nền kinh tế năng động và hiệu quả. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống và có thể được chia nhỏ thành các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng) thường cao hơn tỷ trọng của tín dụng trung và dài hạn trong các Ngân hàng thương mại vì các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, luôn có sự chênh nhau về lượng tiền và thời gian cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho chu trình hoạt động tiếp theo với thời gian và lượng tiền thu được từ việc tiêu thụ và sản xuất kinh doanh của chu trình hoạt động trước đó, từ đó có thể làm cho các báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp lúc âm, lúc dương, nguồn vốn lúc dư thừa, lúc thiếu hụt, không được sử dụng có hiệu quả. Tín dụng ngắn hạn xuất hiện như một phương tiện giúp các doanh nghiệp sửa chữa được khiếm khuyết tất yếu này, thời vụ làm ăn không bị bỏ lỡ và sản xuất kinh doanh tiếp tục được vận hành, lưu thông thông suốt, liên tục, nguồn vỗn xã hội được sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó tín dụng ngắn hạn còn giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. - Tín dụng ngắn hạn giúp các doanh nghiệp thực hiện quản lý vốn và sử dụng vốn có hiệu quả: Ngân hàng trước khi giải ngân sẽ tự đánh giá khả năng thu hồi khoản vay qua các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sẽ đảm bảo cho những doanh nghiệp có năng lực với những dự án khả thi, cân đối được nguồn vốn trả nợ đúng hạn cho ngân hàng mới được cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng ngắn hạn yêu cầu doanh nghiệp phải hoàn trả nợ (gốc và lãi) sau một thời gian ngắn (dưới 12 tháng). Chính động lực này đã đôn đốc các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh và đảm bảo có tỷ suất lợi nhuận lớn. Doanh nghiệp muốn nhận được tài trợ từ nguồn tín dụng ngắn hạn đòi hỏi phải thuyết trình năng lực tài chính của mình trước các cán bộ thẩm định và tín dụng của Ngân hàng. Khi hợp đồng đã được ký, ngân hàng sẽ thực hiện quá trình kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp, đảm bảo nguồn vốn đựơc sử dụng đúng mục đích và đúng thoả thuận trong hợp đồng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn có thể giúp đỡ cho doanh nghiệp các hoạt động về tư vấn, hợp tác với doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Tín dụng ngắn hạn giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường: Cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh thì phải đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo những tiêu chuẩn, những yêu cầu khắt khe của thị trường. Những yêu cầu này đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng lao động, cơ chế quản lý, chế độ hạch toán kế toán, không ngừng cải tiến, mua mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng vật liệu mới, mở rộng sản xuất một cách thích hợp. Vốn tự có của doanh nghiệp nhiều khi không đủ sức để trang trải cho nhu cầu khối lượng vốn lớn như vậy. Khách hàng có thể tìm đến các dịch vụ của ngân hàng để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối từ doanh nghiệp đến thị trường, nhịp độ phát triển lại tăng trưởng nhịp nhàng, đều đặn, theo kịp nhịp độ phát triển chung của ngành, của nền kinh tế. Nguồn vốn tín dụng giúp doanh nghiệp giải quyết các khó khăn trước mắt, những nhu cầu vốn tạm thời, nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo số lượng đáp ứng yêu cầu thị trường và doanh nghiệp tìm được một vị trí vững chắc trong môi trường cạnh tranh ngày càng sôi động. 1.2.2 Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp: * Các khái niệm: Về quan điểm chung: Tín dụng phục vụ thi công xây lắp được hiểu là những khoản tài trợ trực tiếp liên quan và phục vụ cho Doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng, thi công các công trình xây lắp. Chỉ số dư nợ này bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn (Vốn lưu động), dư nợ cho vay trung, dài hạn. Có thể hiểu: - Dư nợ cho vay trung và dài hạn giúp Doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện thực hiện thi công xây lắp. - Dư nợ cho vay ngắn hạn để Doanh nghiệp thanh toán chi trả tiền nguyên vật liệu, vật tư, nhân công, thuê máy móc thiết bị phương tiện thi công và các chi phí hợp lý khác cấu thành trong giá trị công trình nhận thầu. Để hiểu chất lượng của Tín dụng, chúng ta đi từ khái niệm cơ bản từ chất lượng của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Chất lượng của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ là khả năng của một sản phẩm trong việc hoàn thành các chức năng của mình. Hoặc đơn giản hơn có thể hiểu là giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó dựa trên cơ sở mức độ thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Để đạt tới chất lượng tín dụng, theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế thì con đường đó là liên tục, năng động, không ngừng được cải thiện và đổi mới, điểm mốc là vô cùng mà không có điểm tận cùng. Chất lượng tín dụng ngắn hạn theo nghĩa rộng được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc gia. Sản phẩm tín dụng luôn là những đối tượng giành được sự quan tâm nhiều nhất của các Ngân hàng thương mại vì những khoản thu nhập đáng kể mà chúng mang lại nếu không nói là lớn nhất được thể hiện trong bảng quyết toán tài sản ở mỗi Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng tại Việt Nam khi mà các sản phẩm dịch vụ khác còn chưa nhiều. Chính vì vậy mà khái niệm về chất lượng tín dụng cần phải được hiểu một cách thấu đáo giúp cho việc phát triển các sản phẩm tín dụng ngày càng gần gũi hơn với khách hàng mà vẫn đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận Ngân hàng, nó phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. 1.2.2.1 Sự cần thiết khách quan phải nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp Quá trình đổi mới và xây dựng Đất nước đang bước vào giai đoạn rất mau lẹ và sôi động, các công trình xây dựng cơ bản đang được xúc tiến với tiến độ khẩn trương và gấp rút. Tín dụng ngắn hạn đang là chiếc chìa khoá cho các nhà đầu tư huy động được lượng vốn lớn cần thiết trong khoảng thời gian ngắn đáp ứng cho nguồn vốn lưu động. Chất lượng sản phẩm luôn là mục tiêu của khách hàng, là mối quan tâm của doanh nghiệp hoạt động sản xuất chân chính. Với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh những sản phẩm đặc thù, các Ngân hàng đang ngày càng chạy đua nhau thu hút khách hàng bằng việc tung ra các sản phẩm hấp dẫn nhất, chính vì vậy mà chất lượng của hàng hoá, trực tiếp ở đây là chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng ngắn hạn nói riêng phải luôn được chú ý nâng cao. - Đối với các Ngân hàng thương mại Việc lựa chọn dự án để đầu tư các khoản tín dụng ngắn hạn vào một vị trí an toàn và hiệu quả nhất sẽ giúp Ngân hàng có được rất nhiều lợi thế: Đầu tiên là uy tín trong kinh doanh, các Ngân hàng sẽ tìm kiếm được những nguồn vốn lớn đa dạng, người gửi tiền sẽ thực sự yên tâm, hài lòng về giá cả và chất lượng khi tiền của mình đang được đầu tư vào những công trình được đảm bảo về tính hiệu quả trong tương lai. Đồng thời Ngân hàng sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp với những hợp đồng tín dụng hấp dẫn. Thứ hai: Chất lượng tín dụng còn là điều kiện giúp Ngân hàng bảo toàn vốn, thu hồi được cả gốc và lãi, Ngân hàng sẽ không phải dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho việc mất vốn, mất lãi hoặc cả hai, điều đó giúp lợi nhuận Ngân hàng tăng lên, duy trì được khả năng thanh toán, sự ổn định tài chính và bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Ngân hàng sẽ tìm kiếm được những khoản lợi tức cao nhất có thể có từ những khoản tín dụng ngắn hạn này Chất lượng tín dụng được nâng cao giúp Ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro và tạo ra được những khoản vay có đủ tiêu chuẩn, có mối quan hệ tốt hơn với những khách hàng cũ, tìm kiếm được những khách hàng mới trong công tác huy động và sử dụng vốn. Thứ 3: Việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong xây lắp sẽ giúp Ngân hàng tạo được những mối quan hệ lâu dài với khách hàng, đặc biệt là những khách hàng lớn trong ngành xây dựng giúp cho quá trình sàng lọc và giám sát của Ngân hàng thêm phần hiệu quả và ít tốn kém mà vẫn bảo đảm các nguyên tắc tín dụng. - Đối với các doanh nghiệp xây lắp Nâng cao chất luợng tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp là một cơ hội giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả hơn rất nhiều. Trước hết, với áp lực của nguồn vốn đi vay phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian ngắn (dưới 1 năm) buộc các nhà đầu tư phải gấp rút tiến hành thi công các dự án một cách hiệu quả nhất nhằm đưa công trình vào hoạt động trong thời gian nhanh nhất. Việc đi vay yêu cầu khách hàng phải có những cam kết ràng buộc với phía Ngân hàng những điều khoản thoả thuận trong hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng sẽ được Ngân hàng giám sát một cách chặt chẽ bảo đảm cho công trình được thực hiện đúng tiến độ và đúng chất lượng. Việc này cũng là điều kiện để doanh nghiệp củng cố chế độ hạch toán và kế toán theo đúng các quy định hiện hành, những chuẩn mực kế toán khắt khe. Những mối quan hệ thường xuyên với Ngân hàng có thể tạo điều kiện cho khách hàng tiết kiệm được các chi phí như giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, dễ dàng hơn trong việc ký kết các hợp đồng tín dụng ngắn hạn với lãi suất kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản đáp ứng nhu cầu vay vốn cấp thiết để duy trì, mở rộng và nâng cao hiệu qủa hoạt động thi công xây lắp, hoặc nhận được các dịch vụ tiện ích quan trọng khác từ phía Ngân hàng như tư vấn miễn phí, nâng cao hạn mức tín dụng, dễ dàng được Ngân hàng xem xét bảo lãnh… - Đối với toàn bộ nền kinh tế Khi các Ngân hàng hay các doanh nghiệp xây lắp làm ăn có hiệu quả, tức là một bộ phận kinh doanh của Đất nước đang đẩy nền kinh tế đi lên. Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp sẽ giúp cho quá trình xây dựng Đất nước, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá được tiến hành nhanh chóng với cơ sở hạ tầng được đảm bảo về số lượng và chất lượng. Ngân hàng sẽ giúp cho nhu cầu vốn lưu động của tất cả các doanh nghiệp xây lắp được đáp ứng, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các Ngân hàng thương mại làm ăn có hiệu quả sẽ giúp nền tài chính được lành mạnh hoá, góp phần ổn định tiền tệ và giảm lạm phát. Tín dụng ngắn hạn trong cho vay xây lắp cũng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn sản xuất, giải quyết tốt giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường luôn luôn thoả mãn nhu cầu về vốn. 1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp Không thể tiến hành kiểm soát hoạt động tín dụng khi không đưa ra được những chỉ tiêu định lượng. Chất lượng tín dụng biểu hiện chất lượng hoạt động của Ngân hàng là tốt hay xấu nên việc đánh giá chất lượng tín dụng trở thành một công việc thường xuyên và hết sức quan trọng tại các Ngân hàng. Kiểm soát các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng giúp các Ngân hàng nhận biết được tình hình hoạt động tại đây và kịp thời đưa ra các biện pháp, chính sách phù hợp với mục tiêu của thời kỳ mới, nhiệm vụ mới để có thể quản lý tín dụng tốt, kiểm soát được rủi ro và đảm bảo an toàn trong kinh doanh. * Chỉ tiêu về quy mô tín dụng ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh tổng lượng vốn lưu động Ngân hàng cung cấp cho khách hàng với thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Để bao quát hết về quy mô tín dụng ngắn hạn được thể hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, chúng ta thông qua các chỉ tiêu cụ thể như doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ tín dụng… - Doanh số cho vay ngắn hạn trong kỳ được hiểu là tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Doanh số cho vay ngắn hạn càng lớn cũng đồng nghĩa với việc quy mô hoạt động của Ngân hàng đang tăng trưởng. Đây là một tín hiệu tốt lành đối với bản thân Ngân hàng, và đối với chính khách hàng khi nhận thấy mìn đang thực hiện giao dịch với một Ngân hàng ngày một lớn mạnh. Đó là kết quả của cả một quá trình cố gắng, nỗ lực hết mình trong việc phát huy những tiềm lực nội bộ và khai thác những điều kiện bên ngoài cho sự phát triển. - Doanh số thu nợ ngắn hạn: Quan hệ tín dụng kết thúc khi Ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi, các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Có các khoản tín dụng không được hoàn trả hoặc được hoàn trả không đủ, không đúng hạn, việc thanh toán nợ không đúng hạn cho Ngân hàng cho thấy các trục trặc trong hoạt động của khách hàng, tìm ra nguyên nhân và kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng là việc rất quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng thống kê số tiền thu nợ của các doanh nghiệp trong một thời kỳ hình thành nên chỉ tiêu doanh số thu nợ ngắn hạn. Nếu doanh số thu nợ ngắn hạn cao chứng tỏ Ngân hàng đang có các khoản tín dụng ngắn hạn chất lượng tốt. Để tìm được các khoản tín dụng này một mặt phụ thuộc vào chính sách khách hàng, một mặt đòi hỏi Ngân hàng phải có một đội ngũ các cán bộ tín dụng có kỹ năng, kinh nghiệm, linh động trong việc thẩm định và đánh giá phương án kinh doanh, tài sản đảm bảo, đánh giá năng lực tài chính của khách hàng cũng như có những dự đoán và phản ứng nhanh nhạy trước những biến động của thị trường, của nền kinh tế. - Dư nợ tín dụng ngắn hạn phản ánh số tiền mà Ngân hàng hiện đang còn cho khách hàng vay vào thời điểm tính hay vào thời điểm cuối kỳ. Nếu chỉ tiêu này tăng ổn định qua các năm chứng tỏ Ngân hàng đang có chiến lược mở rộng thị phần hợp lý. * Các chỉ tiêu về cơ cấu tín dụng Đây là các chỉ tiêu mà các Ngân hàng đang sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp thông qua việc xác định xem Ngân hàng đã đáp ứng được bao nhiêu phần trăm so với nhu cầu vốn của doanh nghiệp, kèm theo là việc so sánh với cơ cấu tín dụng mà Ngân hàng đang thực hiện đối với các loại doanh nghiệp khác với mức chênh lệch là bao nhiêu. Các chỉ tiêu cụ thể: + Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp/Tổng doanh số cho vay + Doanh số thu nợ đối với doanh nghiệp xây lắp/Tổng doanh số thu nợ + Dư nợ cho vay ngắn hạn/Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn * Các chỉ tiêu về phản ánh nợ quá hạn Rủi ro tín dụng là không thể loại bỏ, vì vậy Ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Ngân hàng đã thực hiện ._.cụ thể hoá thành các chỉ tiêu: - Nợ quá hạn: Là khoản nợ (gốc hoặc lãi) khách hàng không trả được khi đã đến hạn thanh toán thoả thuận trên hợp đồng tín dụng mà không được Ngân hàng đồng ý gia hạn. Đây là khoản làm cho các Ngân hàng phải đau đầu trong việc quản lý và thu nợ, liên quan đến tính an toàn các khoản tín dụng nên việc đánh giá chính xác chỉ tiêu này là việc cần thiết và rất quan trọng. Tuy rằng nợ quá hạn được xem là một chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc xem xét tình hình chất lượng tín dụng nhưng các cán bộ tín dụng vẫn phải xem xét nó trong mối quan hệ với các số liệu thống kê khác, tức là xem xét đến các chỉ tiêu tỷ lệ có liên quan vì khi một khoản vay được đánh giá là một khoản nợ quá hạn thực sự thì đều gây bất lợi cho khách hàng cũng như Ngân hàng. Khách hàng sẽ phải chịu một mức lãi phạt cao hơn mức lãi suất thông thường, gây khó khăn nhiều hơn trong kinh doanh, Ngân hàng đứng trước nguy cơ của một khoản nợ khó đòi, nguy cơ mất vốn cao, tính an toàn thấp và làm giảm thu nhập. + Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = Tổng dư nự quá hạn ngắn hạn/Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn cũng như tốc độ tăng giảm của chúng qua mỗi thời kỳ cần được theo dõi thường xuyên giúp tìm ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao và việc xem xét biến động của tỷ lệ này qua các thời kỳ có thể thấy được hiệu quả của công tác quản lý tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng đó. * Các chỉ tiêu khác Chất lượng tín dụng còn được thể hiện thông qua các khoản cho vay có vấn đề, qua việc xếp loại và cho điểm khách hàng - những dấu hiệu đánh giá sự lành mạnh của từng khoản tín dụng mà Ngân hàng đã, đang và sẽ giải ngân. Các chỉ tiêu khác nhau cần được phối hợp khéo léo trong việc đánh giá một khoản nợ vì các quan điểm khác nhau, các cách tính toán khác nhau có thể làm một số chỉ tiêu bị biến dạng. 1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp * Nhân tố chủ quan - Từ phía Ngân hàng: Chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng bởi chính sách tín dụng, việc phân tích tín dụng, quy trình tín dụng, thông tin tín dụng, việc huy động vốn và chất lượng cán bộ tín dụng tại Ngân hàng. + Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên Ngân hàng, tăng cường tính chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời, có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín dụng đã được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Chính sách tín dụng càng hoàn thiện tức là chất lượng tín dụng càng được bảo đảm, cơ hội thu hút nhiều khách hàng mới càng tăng lên, mối quan hệ với các khách hàng cũ càng được thắt chặt, đó là điều mà tất cả các Ngân hàng đều đang phấn đấu. + Quy trình tín dụng ngắn hạn: Mỗi nghiệp vụ tại các Ngân hàng đều phải tiến hành lần lượt theo từng bước quy định. Sự tôn trọng và sự kết hợp nhịp nhàng trình tự của quy trình tín dụng ngắn hạn sẽ giúp các Ngân hàng có cái nhìn xuyên suốt, chi tiết diễn biến của các khoản tín dụng, nhận biết được các khiếm khuyết của quá trình thực hiện để sớm hạn chế rủi ro có thể xảy ra và hoàn thiện công tác tín dụng cho những khoản tín dụng khác. Đây là tập hợp tất cả các bước cho một quá trình cấp tín dụng trọn vẹn bắt đầu từ khi phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi được hết cả gốc và lãi. Tuy vậy khi thực hiện các công đoạn này cán bộ tín dụng không thể cứng nhắc một cách máy móc mà phải có những phản ứng linh hoạt trong từng trường hợp để chắc chắn rằng lợi ích cho các bên tham gia đều được đảm bảo. + Tình hình huy động vốn: Các Ngân hàng thương mại huy động vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh và hoạt động kinh doanh lớn nhất luôn là những khoản tín dụng. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì huy động vốn cho việc đầu tư vào các khoản tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp đang rất được coi trọng khi mà những khoản tín dụng này ngày càng lớn và trở thành thế mạnh của cả hệ thống. Nguồn vốn ổn định và chính sách lãi suất được cân đối một cách hợp lý với nhu cầu vốn và lãi của các khoản tín dụng ngắn hạn đảm bảo cho hoạt động này có chất lượng ngày càng cao, số lượng ngày càng lớn. + Thông tin tín dụng: Một hợp đồng tín dụng luôn được đánh giá và phân tích cẩn thận. Việc thu thập các thông tin liên quan có nhanh, kịp thời và chính xác hay không là một căn cứ quan trọng để xác định chất lượng của khoản tín dụng là tốt hay tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công tác thu thập thông tin hiệu quả sẽ tạo cơ hội giúp các Ngân hàng thực hiện được mục tiêu đẩy mạnh việc mở rộng tín dụng ngắn hạn. + Chất lượng cán bộ tín dụng: Nhân tố con người phải thường xuyên được quan tâm và coi trọng hàng đầu, là nhân tố quyết định tới thắng lợi tới bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Trình độ về nghiệp vụ, giao tiếp, marketing, ngoại ngữ, vi tính, sự tận tình chu đáo cẩn thận và trung thực được coi là những nhân tố hàng đầu cần có của một cán bộ tín dụng. Nhờ trình độ của các cán bộ tín dụng mà các khoản tín dụng sẽ được phân tích với những chỉ tiêu đáng tin cậy giúp Ngân hàng đưa ra được quyết định chính xác và khách hàng sẽ nhận được một số vốn hợp lý nhất. Chất lượng các khoản vay đương nhiên được bảo đảm bởi những nhân viên tín dụng chuyên nghiệp, khách hàng sẽ thực sự yên tâm khi được giao dịch tại Ngân hàng và các mối quan hệ được mở rộng, các hợp đồng tín dụng luôn sẵn sàng được ký kết. - Từ phía doanh nghiệp xây lắp: Chất lượng của khoản tín dụng còn phụ thuộc vào chính doanh nghiệp đang tiếp nhận việc sử dụng nguồn vốn từ phía Ngân hàng. Cơ chế quản lý và các biện pháp quản lý thi công, việc nghiệm thu và đạo đức trong kinh doanh sẽ quyết định mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. + Cơ chế quản lý và các biện pháp quản lý thi công công trình của doanh nghiệp: Trong hoạt động kinh doanh hiện đại, cụ thể trong lĩnh vực xây lắp - một lĩnh vực đòi hỏi một đội ngũ quản lý có trình độ, trách nhiệm cao với công việc, một hệ thống quản lý có trật tự nhằm thuận tiện cho việc điều động những vị trí khác nhau trong khi tiến hành thi công một công trình xây dựng cơ bản nhiều hạn ngạch, nhiều công đoạn. Tính hiệu quả của dự án là cơ sở cho đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn. Những sự thay đổi của thị trường đầu vào, đầu ra, của công nghệ, thị hiếu…trong từng giai đoạn cụ thể không được tính toán trước có thể gây ra những sự cố bất ngờ cho kế hoạch thi công và là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng sử dụng vốn vay. Chất lượng tín dụng ngắn hạn đã bị giảm sút do việc không đưa ra được những dự đoán đúng và những tính toán trên cơ sở khoa học. Tìm kiếm một cơ chế quản lý phù hợp, một biện pháp quản lý linh hoạt, có khoa học trong việc thi công xây lắp các công trình sẽ đảm bảo khá chính xác hiệu quả của dự án khi thẩm định, khi quyết định đầu tư và ngược lại. + Quá trình nghiệm thu và thanh toán khi khối lượng xây lắp hoàn thành Theo trình tự đầu tư và chi phí xây dựng, quá trình đầu tư được chia thành ba giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc việc xây dựng dự án đầu tư. Nghiệm thu là một công đoạn trong quá trình thi công một công trình xây dựng để sau đó công trình được khai thác và đưa vào sử dụng. Ở mỗi giai đoạn đều cần những giải pháp quản lý tốt nhằm đảm bảo hiệu quả tối đa của một đồng vốn được đưa ra để thực hiện đầu tư. Nghiệm thu nghiêm túc một công trình xây dựng là yêu cầu quan trọng vì đó là những đánh gía cuối cùng đảm bảo rằng các công đoạn trước đạt hiệu quả tốt nhất. Những nhân tố gây lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong hoạt động đầu tư có thể bị phát hiện trong giai đoạn này, vì vậy công tác nghiệm thu được kiểm soát chặt chẽ về việc đảm bảo lãi trong thi công, việc sử dụng nguồn lực, chất lượng thi công, độ an toàn khi sử dụng…là căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành công trình từng công đoạn, từng hạng mục. Công tác nghiệm thu có những ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của nguồn tín dụng ngắn hạn mà doanh nghiệp đang sử dụng. + Đạo đức của doanh nghiệp trong kinh doanh: thể hiện trong việc doanh nghiệp có trung thực trong các báo cáo tài chính, trong các phương án đầu tư hay không, có sử dụng vốn đúng mục đích, có thiện chí trả nợ cho Ngân hàng hay không. Nếu khách hàng không thiện chí trong việc hợp tác với Ngân hàng, thì Ngân hàng đang gặp phải trường hợp rủi ro về đạo đức và chất lượng các khoản tín dụng của Ngân hàng có thể không được đảm bảo. Chính vì vậy mà đứng trước một hợp đồng tín dụng đòi hỏi các cán bộ tín dụng Ngân hàng phải thật tỉnh táo và có những đánh giá, phân tích thật chính xác. * Nhân tố khách quan: Liên quan đến các môi trường về kinh tế, pháp lý và chính trị xã hội + Môi trường kinh tế gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại. Quá trình diễn biến và những biến động trong hoạt động thi công đòi hỏi Ngân hàng phải theo dõi sát sao và nắm bắt nhanh để đưa ra được những dự đoán kịp thời vì một sự thay đổi trong môi trường này như: Lạm phát, sự giảm giá tiền tệ, sự suy giảm về sức mạnh tài chính của người vay do tác động của môi trường kinh tế có thể gây ra những rủi ro, gây ra sự hao mòn vô hình của những khoản tiền mà Ngân hàng cho vay, làm giảm chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Môi trường kinh tế thay đổi làm ảnh hưởng đến tất cả các thành phần kinh tế, đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và Ngân hàng cũng không được xem là ngoại lệ vì Ngân hàng cũng đóng vai trò là một doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế. + Môi trường pháp lý: Mỗi chủ thể trong nền kinh tế khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải đáp ứng những yêu cầu tối thiểu theo quy định của pháp luật hiện hành vì pháp luật xây dựng một hành lang pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời môi trường pháp luật còn là cơ sở giải quyết các mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng vẫn chưa đồng bộ và đầy đủ, an toàn tín dụng đôi khi chưa thực sự được bảo đảm, hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được nhu cầu về giải quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự…..đó là kẽ hở có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của các khoản tín dụng mà Ngân hàng đang sở hữu. + Môi trường xã hôi chính trị: Môi trường chính trị xã hội luôn được giới kinh doanh quan tâm và đánh giá rất tỷ mỷ vì một môi trường ổn định sẽ tạo lòng tin cho các khách hàng, các doanh nghiệp và tạo cảm giác yên tâm cho các quyết định kinh doanh của họ, đặc biệt là các khoản đầu tư dài hạn. Môi trường không ổn định sẽ hạn chế các khoản đầu tư mới, hạn chế những hợp đồng tín dụng hấp dẫn và tác động xấu đến các hợp đồng tín dụng cũ của những khách hàng đang có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, trực tiếp tác động đến hoạt động của chính các doanh nghiệp và làm giảm chất lượng của các khoản tín dụng. Khi môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ thu hút sự chú ý của những nhà đầu tư tiềm năng, Ngân hàng có thể mở rộng quy mô tín dụng và tăng doanh thu của Ngân hàng. Môi trường chính trị rất đáng được quan tâm vì những biến động quá lớn ảnh hưởng đến toàn bộ các khoản tín dụng mà các doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng không thể phản ứng kịp và có thể đẩy họ tới bờ vực của sự phá sản. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TRONG LĨNH VỰC XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY 2.1 Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy Ngày 16 tháng 09 năm 2004 Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy được nâng cấp lên chi nhánh cấp I thông qua quyết định số 0254/QĐ-HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy hình thành trên cơ sở chi nhánh cấp II - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển khu vực Từ Liêm trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội sau 43 năm hoạt động. Và ngay sau khi được nâng cấp, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương đã đặt sự quan tâm và giúp đỡ toàn diện tới những hoạt động tại đây và Chi nhánh được giao những nhiệm vụ, mục tiêu, định hướng phát triển cụ thể cho thời kỳ mới, giúp quá trình phát triển của Chi nhánh được xúc tiến nhanh chóng hơn. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy được thành lập và phát triển trên cơ sở đáp ứng nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, trực tiếp kinh doanh và chịu sự quản lý của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy thực hiện chức năng và nhiệm vụ sau: - Chi nhánh thực hiện nhiệm vụ Trung ương giao, thực hiện nghĩa vụ sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn cùng các nguồn lực khác của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cụ thể là thực hiện cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ, ngoại tệ, bảo lãnh cho các khách hàng theo các chế độ tín dụng hiện hành, đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của đồng vốn. - Thực hiện các dịch vụ tư vấn trong hoạt động tín dụng và uỷ thác đầu tư theo quy định, hoàn trả đầy đủ đúng hạn tiền vốn cho khách hàng gửi tiền theo thoả thuận. - Huy động vốn (VNĐ hoặc USD) từ mọi nguồn hợp pháp của các khách hàng. - Tổ chức việc lập kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý, năm của từng phòng tại Chi nhánh và tham gia xây dựng kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - Thực hiện các báo cáo thống kê cho trụ sở về chiến lược kinh doanh, chính sách khách hàng, tín dụng, lãi suất của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy theo chuyên đề định kỳ hoặc đột xuất, đặc biệt là các hoạt động về tín dụng và bảo lãnh theo quy định của toàn hệ thống BIDV. - Tổ chức lập, lưu trữ, bảo quản hồ sơ, tài liệu, thu chi kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản tiền mặt, ngân phiếu thanh toán, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, in ấn giấy tờ có giá tại quỹ nghiệp vụ theo đúng quy định. - Công tác khách hàng phải được thực hiện chu đáo và kiểm soát thường xuyên, nâng cao tính hiệu quả, thực hiện việc khai thác các khách hàng truyền thống và mở rộng, phát triển số lượng cũng như chất lượng các khách hàng tiềm năng. 2.1.3 Các sản phẩm tín dụng đang được triển khai tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy * Cho vay từng lần * Cho vay theo hạn mức tín dụng * Cho vay theo dự án đầu tư * Cho vay hợp vốn * Cho vay trả góp * Cho vay ngoại tệ * Cho vay uỷ thác * Cho vay theo hạn mức thấu chi * Các hình thức cấp tín dụng khác như : - cho thuê tài chính - Bảo lãnh Ngân hàng 2.1.4 Cơ cấu tổ chức Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy được tổ chức theo sơ đồ dưới đây: 3 PHÓ GIÁM ĐỐC P. giao dịch P. Tín dụng P. Tổ chức Hành chính P. Khách hàng cá nhân P. Tiền tệ kho quỹ P. Tài chính Kế toán P. Thẩm Định P. Kế hoạch NV P. Kiểm tra nội bộ P. Khách hàng DN GIÁM ĐỐC 2.1.5 Tình hình hoạt động tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy Ngay sau khi được nâng cấp, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy đã thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu, định hướng phát triển cụ thể được giao bởi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương, thực hiện tái cơ cấu hoạt động, phát triển mạng lưới nhất là đối với các vùng kinh tế động lực cùng với sự phát triển của hệ thống các Ngân hàng thương mại trên địa bàn quận Cầu Giấy. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy đã lấy định hướng phát triển trở thành một Ngân hàng thương mại hiện đại, năng động, có sức cạnh tranh cao trên địa bàn cửa ngõ phía Tây của Thành phố làm mục tiêu. Thế mạnh của Ngân hàng là các sản phẩm dịch vụ đa dạng, chất lượng cao trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, phục vụ khách hàng thuộc về các thành phần kinh tế, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, đầu tư phát triển đô thị. Mục tiêu tái cơ cấu hoạt động của chi nhánh được giao từ khi nâng cấp lên chi nhánh cấp I là: + Có đầy đủ chức năng hoạt động của một Ngân hàng thương mại hiện đại theo định hướng phát triển của Trung ương. + Cơ cấu lại khách hàng, dư nợ tín dụng, phân định, xác định và đánh giá đúng thực trạng dư nợ, tình hình khách hàng của Chi nhánh, từ đó lựa chọn khách hàng tốt, có uy tín để tiếp tục duy trì quan hệ, củng cố nền khách hàng….. Ngoài ra còn rất nhiều việc cần làm của một Chi nhánh ngay sau khi được nâng cấp nhằm khẳng định được vị thế và năng lực vững mạnh của Chi nhánh mình. * Chi nhánh được nâng cấp với khối lượng công việc lớn phải tập trung xử lý, phải ổn định trên nhiều mặt hoạt động, triển khai thực hiện ngay kế hoạch kinh doanh đã được giao và sau một năm hoạt động, đến cuối năm 2005 Chi nhánh đã đạt được một số chỉ tiêu chính đáng chú ý: + Về tổng tài sản Tổng tài sản tăng 550 tỷ so với cùng kỳ năm trước và đạt 1500tỷ/1450tỷ, bằng 103% kế hoạch đặt ra. ROA đạt 0,8% xấp xỉ với mức bình quân của toàn ngành + Về công tác kế hoạch nguồn vốn Xác định rõ nguồn vốn tự huy động đạt 1320 tỷ đồng, tăng 388 tỷ (41,6%) vượt 5,6% kế hoạch. Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thị, thu hút tiền gửi nhưng Chi nhánh đã nâng tỷ trọng tiền gửi các tổ chức kinh tế trong tổng tài sản lên 224 tỷ đồng tăng 112 tỷ và chiểm 17% tổng nguồn vốn, nguồn vốn huy động từ dân cư tăng trưởng khá, đạt số dư 1096 tỷ đồng, tăng 276 tỷ. Hoạt động huy động vốn được duy trì và tăng trưởng. từ 13% lên 16,4%. Tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn đạt 43,4% trong tổng nguồn vốn huy động, đáp ứng các nhu cầu vốn trung và dài hạn đang khan hiếm trong nền kinh tế. Cơ cấu nguồn vốn VNĐ và ngoại tệ (7/3) đã đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu hoạt động và đóng góp đáng kể cho hệ thống, phù hợp với tình hình nguồn vốn trong nền kinh tế và mục tiêu đề ra. Nguồn vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy đáp ứng đủ cho việc phục vụ nhu cầu thanh toán hàng ngày, giải ngân tín dụng và đầu tư tiền gửi tại Hội sở chính của Ngân hàng Đầu tư. + Công tác tín dụng tại Chi nhánh Chi nhánh đã thực hiện nghiêm túc tinh thần chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, kiểm soát tăng trưởng tín dụng, tăng cường kiểm tra, rà soát, chấn chỉnh lại hoạt động tín dụng, cơ cấu lại dư nợ theo hướng tích cực, tỷ trọng cho vay có đảm bảo được nâng lên, tăng trưởng tín dụng và phát triển dịch vụ luôn đôi với nhau. Chi nhánh còn sắp xếp và hoàn thiện hồ sơ khách hàng, hồ sơ thủ tục vay vốn và quản lý khoản vay nhất là đối với khách hàng dư nợ trước đây chưa được quản lý tốt. Phòng tín dụng được sắp xếp tổ chức theo mô hình của sổ tay tín dụng. Các quy trình nghiệp vụ được triển khai áp dụng theo tiêu chuẩn ISO 9001 – 2000. Chi nhánh cũng thực hiện nghiêm túc cơ chế cho vay, quy trình cho vay và quản lý tiền vay theo chế độ hiện hành của Nhà nước cũng như của ngành, thực hiện việc chuyển nợ quá hạn kịp thời và đúng chế độ. Năm 2005, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy tiếp tục thực hiện đánh giá toàn diện về môi trường kinh doanh từng ngành, tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh, quan hệ tín dụng…của từng khách hàng, góp phần tích cực vào việc định dạng khách hàng vay, triển khai phương thức quản lý tín dụng mới phù hợp ngay trước, trong và sau khi giải ngân. Chi nhánh cũng đã mở rộng được thêm 3 khách hàng là doanh nghiệp thực hiện giao dịch tại đây. Theo quyết định 5645/QĐ-NHĐT của Tông giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, các kết quả xếp loại khách hàng đã được sử dụng như một tiêu chí giúp thực hiện chính sách khách hàng phù hợp và hiệu quả nhất. Những khách hàng tốt được được lựa chọn để duy trì và phát triển, những khách hàng có năng lực tài chính kém, không có khả năng phục hồi dần bị loại bỏ. Những quan hệ tín dụng mới được mở rộng tại Chi nhánh đều là mối quan hệ vói các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thương mại sử dụng tổng hợp các dịch vụ của Ngân hàng, các doanh nghiệp xây lắp quốc doanh có tình hình tài chính kém có dư nợ giảm đáng kể. Chi nhánh đã hạn chế sự mất cân đối về cơ cấu loại tiền giữa tài sản nợ và tài sản có, tức là hiệu quả sử dụng vốn được tăng lên. Tài sản thế chấp cầm cố được rà soát đánh giá lại và bổ sung, nợ tồn đọng được tập trung xử lý đảm bảo tính thanh khoản cao trên thị trường. Tất cả dư nợ, nợ quá hạn khó đòi tích cực được rà soát lại theo quyết định 488 mở rộng và quyết định 495 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh cũng được chuyển dịch mạnh theo hướng tích cực song song với tăng trưởng tín dụng: Dư nợ tín dụng đạt 747 tỷ tăng 440 tỷ đồng và bằng 87,7% kế hoạch Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh tăng 23% (4% lên 27%) Dư nợ có tài sản đảm bảo đạt 332 tỷ, tăng 230 tỷ, bằng 43%/ tổng dư nợ Phục hồi về cơ bản các hồ sơ tín dụng của các khoản nợ xấu có nguy cơ mất vốn là 11,6 tỷ đồng; thu hồi được 747 triệu nợ khó đòi, tỷ lệ nợ quá hạn đạt 2,25% (thấp hơn so với kế hoạch) và 8,9 tỷ được xử lý bằng dự phòng rủi ro, và hiện tại những đơn vị này vẫn đang được Chi nhánh tích cực tìm biện pháp thu hồi nợ. Nợ tồn đọng được tập trung xử lý, 700 triệu nợ tồn đọng của công ty chuyển giao Công nghệ và 47 triệu nợ hạch toán ngoại bảng của Nhà máy Quy chế được thu hồi, thực hiện chuyển ngoại bảng 7,7 tỷ của Nhà máy quy chế và 1,3 tỷ nợ tồn đọng của công ty chuyển giao Công nghệ. Trong năm 2005 số nợ tồn đọng 7,4tỷ đồng của Nhà máy quy chế và Công ty xây lắp và Điện tử công nghiệp đã được lập hồ sơ chuyển ngoại bảng, góp phần làm lành mạnh hoá tài sản Có. + Về công tác dịch vụ và phát triển mạng lưới mở rộng hoạt động Nhận thức được vị trí, vai trò của công tác dịch vụ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại và để có được sự tăng trưởng vượt trội, ngay từ khi được nâng cấp Chi nhánh đã rất quan tâm, chú trọng đến các hoạt động dịch vụ, gắn mọi hoạt động với dịch vụ, thực hiện nâng cao chất lượng, hiệu quả của các sản phẩm dịch vụ truyền thống như bảo lãnh, thanh toán trong nước, thanh toán lương, cụ thể: Công tác bảo lãnh trong năm 2005 về cơ bản đảm bảo an toàn, không phát sinh rủi ro và các khoản phải thanh toán thay người được bảo lãnh, thu phí dịch vụ bảo lãnh đạt 1705 triệu (tăng hơn 1 tỷ), dịch vụ thanh toán trong nước đạt 1283 triệu (tăng 20 triệu), phát triển thêm 7 khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán lương tự động. Bên cạnh đó Chi nhánh còn mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ mới như thanh toán Quốc tế, dịch vụ bảo hiểm, chuyển tiền kiều hối, các dịch vụ tiền tệ kho quỹ và các dịch vụ dựa trên nền công nghệ hiện đại hoá. Dịch vụ ngân quỹ và các dịch vụ khác đạt 334 triệu (tăng 300 triệu đồng). Hoạt động thanh toán quốc tế và mua bán ngoại tệ đáp ứng được yêu cầu kinh doanh ngày càng đa dạng và mở rộng của khách hàng trong nền kinh tế thị trường, Chi nhánh đang ngày càng chuyên nghiệp trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp hoàn thiện thủ tục thanh toán xuất nhập khẩu, tránh được các rủi ro, uy tín và thu nhập của Ngân hàng được nâng cao: thu dịch vụ thanh toán quốc tế 2005 đạt 1135 triệu (tăng 1135 triệu đồng). Đặc biệt là Chi nhánh đã trở thành một trong những đơn vị phát hành thẻ ATM lớn nhất trong hệ thống: 03 máy ATM đã được lắp đặt bổ sung tại những địa điểm mới nhằm phát triển công tác phát hành thẻ. Đến nay bình quân đã có 600 giao dịch/máy/tháng. Phát hành được 19000 thẻ ATM (tăng 19000 thẻ); công tác thanh toán được tập trung đảm bảo chính xác, kịp thời và an toàn tài sản của Ngân hàng và khách hàng và mặc dù phí thu được chưa nhiều song đã tạo cơ sở để mở ra những dịch vụ mới tạo nguồn thu sau này. Khi triển khai việc mở rộng mạng lưới hoạt động, 02 phòng giao dịch đã được Chi nhánh chuyển đến địa điểm mới thuận lợi hơn, có điều kiện phát triển với chi phí hợp lý. Cán bộ có kinh nghiệm quản lý và trong nghiệp vụ tín dụng được cử về để nâng cao hiệu quả hoạt động, phát triển dịch vụ cho các phòng giao dịch. Đồng thời Chi nhánh đã lựa chọn mở thêm 03 điểm giao dịch mới và các điểm giao dịch đã khẳng định được vị thế sau hơn 03 tháng đi vào hoạt động trước sự tâm huyết và nhiệt tình công tác của các cán bộ tín dụng. Các công tác khác tại Chi nhánh như: Công tác tổ chức, quản trị điều hành, quản lý rủi ro, công tác hậu cần và xây dựng nội bộ cũng được chú trọng nâng cấp và cải thiện đáng kể. + Về kết quả hoạt động kinh doanh: Từ những tích cực trong từng mặt hoạt động cụ thể, Chi nhánh đã thu được hiệu quả kinh doanh đáng khích lệ: Chênh lệch thu chi đạt 16500 triệu (tăng gấp 20,6 lần so với cùng kỳ năm trước); Chênh lệch thu chi bình quân đầu người là 187 triệu đồng/người (tăng gấp 15 lần cuối năm 2004); Dự phòng rủi ro trích được 25 tỷ đồng, đạt 80,5% mức dự phòng phải trích theo QĐ 493/QĐ-NHNN. * Những vần đề còn hạn chế trong cơ cấu hoạt động của Chi nhánh: Tỷ trọng nguồn thu dịch vụ còn thấp (chiếm 5,5 tổng nguồn thu), các dịch vụ dựa trên nền tảng hệ thống hiện đại hoá đã được triển khai nhưng chưa phát huy được hiệu quả rõ rệt và tín dụng vẫn là nguồn thu chủ yếu của Chi nhánh. Mặc dù Chi nhánh đã nỗ lực tìm biện pháp thu hồi và xử lý hạch toán ngoại bảng nhưng việc thu hồi các khoản nợ tồn đọng vẫn còn nhiều khó khăn, trong khi QĐ 493/QĐ-NHNN yêu cầu dự phòng rủi ro phải được trích cao để đảm bảo an toàn thì hiệu quả sinh lời của Chi nhánh sẽ giảm đi đáng kể. So với 30% vốn huy động bằng ngoại tệ thì tỷ trọng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 22% còn chưa thực sự hợp lý và là nguyên nhân hạn chế khả năng sinh lời. Tỷ trọng nguồn vốn thanh toán và vốn của các tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn huy động còn thấp gây ảnh hưởng lớn đến giá đầu vào và làm hạn chế hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh. 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy Thực tế việc thi công và thanh quyết toán trong hoạt động đấu thầu thời gian gần đây cho thấy các đơn vị nhận thầu nhiều công trình với giá dưới giá thành, khó có khả năng đảm bảo cân đối tài chính và chất lượng thi công; nhiều công trình vẫn được triển khai thi công trong khi chưa xác định được nguồn vốn và kế hoạch bố trí vốn từng năm đã làm thời gian thanh quyết toán bị kéo dài, các khoản phải thu của các đơn vị tăng nhanh, trong đó nhiều khoản tồn đọng, không có khả năng thu hồi. Trong tình hình mới, để đảm bảo an toàn tín dụng cho vay thi công xây lắp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã chuyển những công văn yêu cầu các Chi nhánh quán triệt, thực hiện nghiêm túc về việc hỗ trợ, chấn chỉnh công tác tín dụng trong lĩnh vực xây lắp. 2.2.1 Những yêu cầu chung, thống nhất về tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Mặc dù Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã ban hành công văn số 925/CV-TDDV1 ngày 03/4/2003 với nội dung chỉ đạo “cho vay hỗ trợ ngắn hạn phục vụ thi công xây lắp”mục đích nâng cao chất lượng dư nợ vay, đảm bảo an toàn tín dụng cho vay xây lắp trong thời kì mới, nhưng cho đến nay một số Chi nhánh vẫn chưa được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Vì vậy Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tiếp tục ban hành công văn số 6676/CV-TD1 để tiếp tục chấn chỉnh, tháo gỡ những vướng mắc và thống nhất hoạt động tín dụng trong lĩnh vực xây lắp. * Yêu cầu trong cho vay trung dài hạn: - Những khách hàng có uy tín, có đủ điều kiện tín dụng (kết quả kinh doanh có lãi, có đủ vốn tự có tham gia dự án, có tài sản đảm bảo theo quy định hiện hành,…) mới được Chi nhánh xem xét cho vay. - Việc phân tích khả năng phát huy hiệu quả tài sản đầu tư (năng lực quản lý vận hành tài sản, sự hợp lý của chủng loại và chất lượng của tài sản đầu tư, khối lượng công việc…) là các chỉ tiêu quan trọng mà các Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm khi thẩm định dự án cho vay. * Yêu cầu trong cho vay ngắn hạn Hoạt động cho vay vốn phục vụ thi công xây lắp phải được chuyển hẳn từ cho vay theo hạn mức tín dụng sang cho vay theo phương thức hỗ trợ vốn ngắn hạn tạm thời, trên cơ sở xem xét từng công trình, từng hợp đồng thi công để ký Hợp đồng tín dụng cụ thể. Trường hợp nhiều công trình đang được thi công tại một đơn vị, Chi nhánh phải mở sổ theo dõi vốn vay từng công trình, đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng hợp đồng thi công được thoả thuận. Các Ngân hàng chỉ cho vay đối với hợp đồng thi công đã xác định, đã chứng minh được nguồn vốn thanh toán và đảm bảo nguồn vốn này sẽ được chuyển về tài khoản của khách hàng tại Chi nhánh. Phần khối lượng đã được phê duyệt thiết kế, dự toán được xác định rõ trong hợp đồng giao nhận thầu và phần công việc có tiến độ thanh toán rõ ràng cũng mới được Chi nhánh thực hiện giải ngân cho vay. Căn cứ vào năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, nhu cầu phát sinh khoản vay thường xuyên, tính ổn định và hiệu quả trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng để Chi nhánh xác định và ký hợp đồng tín dụng hạn mức có hiệu lực theo năm kế hoạch. Khách hàng không đủ các điều kiện để Ngân hàng thực hiện cho vay theo hạn mức, Chi nhánh sẽ xem xét cho vay theo món theo quy định. Vốn cho vay đối với từng công trình phải bảo đảm được thu nợ trong vòng 12 tháng và mức cho vay không qúa giá trị vốn bố trí cho công trình theo kế hoạch hàng năm. Để đạt được mức độ an toàn trong cho vay thực hiện thi công xây lắp, Chi nhánh cần chủ động tiếp cận từng công trình, dự án.. Việc cung cấp dịch vụ, phát hành bảo lãnh và xác định căn cứ để quyết định cho vay đối với các hợp đồng xây lắp được thực hiện xem xét ngay từ khi triển khai duyệt dự án, trong quá trình đấu thầu để bảo đảm hiệu quả cân đối được tình hình tài chính cho đơn vị thi công. Chi nhánh thực hiện chỉ đạo cho vay đối với các đơn vị đã xác định đủ điều kiện và năng lực thi công. Việc kiểm tra các tài sản bảo đảm, mục đích sử dụng tiền vay và việc đánh giá khả năng tài chính của từng đơn vị thi công xây lắp như các khoản phải thu, công nợ và hiệu quả sử dụng vốn luôn phải được tổ chức kiểm tra, rà soát thường xuyên, làm cơ sở điều chỉnh linh hoạt giới hạn cho vay và ch._.uất phải thực sự linh hoạt và mềm dẻo, kết hợp với những tiện ích đem lại cho khách hàng. Đây là điều rất quan trọng trong cạnh tranh. Có thể ưu tiên cho những khách hàng lớn, quan hệ thường xuyên với Ngân hàng mình một mức lãi suất ưu đãi hơn so với các khách hàng khác, là điều kiện giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Khách hàng có thể lựa chọn những kỳ hạn đa dạng với những mức lãi suất phong phú giúp khách hàng có những lựa chọn thoả đáng nhất cho mỗi khoản vay của mình. Đó cũng là một hình thức thu hút mối quan tâm đặc biệt của khách hàng từ phía Ngân hàng. * Về hình thức bảo đảm tiền vay: Tài sản đảm bảo là một điều kiện quan trọng để Ngân hàng xét duyệt việc cho vay đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp nói riêng. Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ, hiệu quả của dự án phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai, chỉ những tài sản đảm bảo mới là căn cứ hữu hình, trực tiếp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Chính vì vậy mà công tác tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp cần tập trung vào các tài sản đảm bảo, các hình thức bảo đảm tiền vay. Nghị định 178/1999/NĐ-CP và thông tư số 07/2003/TT-NHNN hướng dẫn cụ thể việc thi hành cụ thể này giúp cho các tổ chức tín dụng có thể chủ động hơn trong các quyết định cho vay có tài sản đảm bảo hoặc không có tài sản đảm bảo. Nhưng để đạt hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động cho vay xây lắp thì cho vay có tài sản đảm bảo là vấn đề quan trọng, cho vay không có tài sản đảm bảo chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đây cũng là điều kiện cần thiết khi tổ chức tín dụng chọn loại doanh nghiệp cho vay có bảo đảm ngăn chặn hiện tượng không trung thực của khách hàng và lựa chọn những doanh nghiệp có uy tín. Thông thường, trong lĩnh vực cho vay đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy vẫn yêu cầu các khách hàng phải có tài sản đảm bảo cho các khoản vay của mình. Tuy nhiên giúp cho công tác cấp tín dụng ngày càng gần gũi hơn với các doanh nghiệp xây lắp thì việc đa dạng hoá các hình thức tín dụng, kết hợp linh hoạt giữa hình thức bảo đảm bằng tài sản với bảo đảm bằng tín chấp, giữa thế chấp tài sản và hoạt động bảo lãnh, và cho vay thấu chi giúp cho hoạt động vay vốn thi công xây dựng tại các doanh nghiệp trở nên thuận lợi. Việc cho vay tín chấp cũng cần được thực hiện theo những quy trình nghiệp vụ, những thủ tục cần thiết nhất định. Cho vay tín chấp được thực hiện chỉ khi Ngân hàng đã có một quá trình phân tích và đánh giá rất kỹ các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp, những hiệu quả hoạt động kinh doanh trong quá khứ, hiện tại và cả những ước tính khả thi trong tương lai. Khách hàng cần cung cấp những số liệu đáng tin cậy cho chứng minh tình hình tài chính lành mạnh đang được diễn ra tại doanh nghiệp, đối tượng được Ngân hàng cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định trên thị trường kèm theo những mối quan hệ lâu dài của khách hàng tại Chi nhánh cũng là một căn cứ để Ngân hàng cân nhắc việc cho vay tín chấp một cách thuận lợi. Bên cạnh đó hình thức thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay cũng đang được Ngân hàng triển khai nhưng phương án này chủ yếu áp dụng cho tín dụng trung và dài hạn vì tín dụng ngắn hạn chủ yếu để bù đắp nhu cầu lưu động tức thời, tài sản hình thành từ nguồn tín dụng ngắn hạn có thể bị thay đổi về kích thước, hình dáng và giá trị trong quá trình sản xuất hình thành sản phẩm, và do đó không thể giữ nguyên giá trị như các tài sản cố định khác dẫn đến khó có thể trở thành căn cứ bảo đảm tại Ngân hàng. * Về phương thức tín dụng: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng đã có những tích cực đáng kể trong việc áp dụng các phương thức tín dụng đa dạng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Mặc dù việc đưa các phương thức khác nhau vào hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng song việc triển khai thực hiện vẫn còn đơn điệu, vẫn chủ yếu là cho vay theo món, cho vay theo hạn mức, tức là hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng bị giảm sút trong khi các học thuyết kinh tế luôn khẳng định được tính cấp thiết của việc đa dạng hoá các sản phẩm sẽ tăng thu nhập cho Ngân hàng đồng thời giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó việc hạn chế trong việc áp dụng các loại hình tín dụng làm kém tính cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường, kém hấp dẫn đối với nhiều khách hàng khó tính trong việc lựa chọn Ngân hàng cho việc đầu tư dự án. Phương thức vay theo món đang được áp dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy được coi là biện pháp an toàn và tạo được sự chủ động nhất cho Ngân hàng, nhưng về phía khách hàng, đây là biện pháp có thủ tục rườm rà bởi số lượng các chứng từ, hoá đơn, khế ước cho mỗi lần thực hiện vay vốn, mất thời gian và công sức của doanh nghiệp. Trong khi đó nhu cầu vốn lưu động từ nguồn tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng cho quá trình thi công xây lắp cần được bổ sung thường xuyên thì việc vay vốn theo phương pháp này làm hạn chế tính hiệu quả của dự án. Chính vì vậy mà việc lựa chọn phương thức tín dụng nào cho doanh nghiệp nào đòi hỏi Ngân hàng phải linh hoạt, đảm bảo phù hợp với đặc điểm chu chuyển vốn của khách hàng. Tăng cường vận dụng triệt để tính ưu việt của các phương thức tín dụng đang được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam khuyến khích áp dụng đối với toàn hệ thống. Đặc biệt đối với doanh nghiệp xây lắp có vòng quay trong năm lớn, ngân hàng cần lựa chọn công trình và lựa chọn phương thức cho vay phù hợp đảm bảo vốn tín dụng luân chuyển đều đặn qua Quỹ tại Ngân hàng, qua đó giúp việc kiểm soát quá trình sử dụng vốn tín dụng được hiệu quả. 3.2.2 Tăng cường đánh giá năng lực các doanh nghiệp xây lắp Tính hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp phản ánh tính hiệu quả kinh doanh trong hoạt động của Ngân hàng vì khách hàng là người chịu trách nhiệm cho việc các khoản vay được hoàn trả đúng hạn đủ gốc và lãi. Vì vậy công tác đánh giá tình hình khách hàng trước khi quyết định cho vay giúp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh. Việc ra quyết định cho khách hàng thời hạn vay nào, lãi suất bao nhiêu, kỳ tính lãi ra sao đòi hỏi Ngân hàng phải phân tích kỹ tình hình tài chính, uy tín, tính khả thi của dự án trong tương lai. Ngân hàng phải căn cứ vào hồ sơ khách hàng cung cấp (bao gồm hồ sơ pháp lý, hồ sơ khoản vay, hồ sơ bảo đảm tiền vay). Căn cứ vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp qua việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính tham chiếu trong mối quan hệ với mức trung bình của ngành, mối quan hệ giữa các năm, và dự kiến mức thu nhập đạt được trong kỳ tương lai, nhằm kiểm soát chặt chẽ từng bước thay đổi của doanh nghiệp trong thời gian qua và đặc biệt có những nhận định đúng đắn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong năm thi công dự án. Ngân hàng thực hiện phân tích đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, tài chính của khách hàng qua các số liệu trong bảng cân đối tài sản và so sánh sự tăng giảm vế số tuyệt đối, tương đối giữa các năm, qua đó thấy được tình hình hoạt động của khách hàng và tìm ra nguyên nhân cụ thể, tập trung chủ yếu vào: cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn, luân chuyển tài sản (dự trữ tiền mặt; các khoản phải thu, phải thu khó đòi, dự phòng và vòng quay của chúng; tình trạng hàng tồn kho, hàng tồn kho kém phẩm chất, dự phòng giảm giá và vòng quay của các khoản này), tình trạng nguồn vốn, khả năng thanh toán, khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng còn tập hợp số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (doanh thu các loại sản phẩm của các năm, biến động chi phí, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận) đồng thời đánh giá những nguyên nhân làm tăng giảm doanh thu, chi phí, lợi nhuận; khả năng vay trả và dự đoán xu hướng trong tương lai của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp xây lắp, Ngân hàng cần tập trung đánh giá năng lực thi công của khách hàng. Ngân hàng phải xem xét, đánh giá các điều kiện cần và đủ để một dự án thực hiện mang tính khả thi như các điều kiện đầu vào: nguyên vật liệu, lao động và các điều kiện đầu ra của sản phẩm: thị trường tiêu thụ, thị hiếu, giá cả … Đồng thời chú ý đến các thông số kỹ thuật đảm bảo cho yêu cầu kỹ thuật trong suốt quá trình thi công, quá trình giám sát và ngay cả thời kỳ đầu khi dự án đi vào sử dụng, từ đó đánh giá được khả năng thanh toán cũng như nguồn trả nợ cho Ngân hàng khi kết thúc hợp đồng và đề nghị nguồn vốn thanh toán công trình sau khi dự án kết thúc được thực hiện thông qua tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại Chi nhánh. 3.2.3 Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc thẩm định trong cho vay Vẫn biết rằng việc mở rộng tín dụng là cần thiết để tăng cường hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng song Chi nhánh đôi khi chỉ quan tâm đến việc mở rộng quy mô mà sao nhãng vần đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, đến uy tín của Ngân hàng đó là chất lượng của tín dụng. Một khoản tín dụng chỉ được coi là đạt chất lượng khi thu hồi được cả gốc và lãi vào thời điểm khoản vay kết thúc. Việc cho vay hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của Chi nhánh, trong khi việc thu nợ sẽ thực sự khó khăn vì nó phụ thuộc phần nhiều vào tính trung thưc, vào cam kết và thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay. Chính vì vậy, để hạn chế rủi ro trong cho vay xây lắp, đảm bảo tính chủ động trong toàn bộ quá trình thi công công trình, việc thẩm định trước khi giải ngân có tính chất quyết định. Khách hàng vay vốn phải có đầy đủ năng lực pháp lý theo quy định của Pháp luật. Bên cạnh đó cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng còn căn cứ vào: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính, các báo cáo chi tiết bổ sung khác để đánh giá một cách chính xác nhất nguồn vốn hợp pháp, tình hình hoạt động kinh doanh (lỗ, lãi), các khoản phải trả, năng lực tài chính hiện tại của khách hàng. Các dự án, phương án sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn tín dụng, Chi nhánh cần nghiên cứu kỹ thị trường nguyên vật liệu, các yếu tố đầu vào, thị trường cho các sản phẩm đầu ra cùng các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thi công xây lắp và nhu cầu vốn thực tế cũng như khả năng cho vay của Ngân hàng. Bên cạnh đó Chi nhánh cũng cần xem xét, tìm hiểu chu đáo về uy tín, các mối quan hệ của khách hàng trong quan hệ tài chính với các đơn vị khác, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và khả năng thích ứng của doanh nghiệp với thị trường, đặc biệt với thị trường thi công xây dựng đang biến động mạnh như hiện nay. Tất cả quá trình thẩm định của Chi nhánh thực hiện để đưa ra một quyết định thuyết phục nhất, đảm bảo chất lượng và hiệu quả của những khoản vốn được huy động vất vả, tốn kém từ thị truờng. Vì quá trình tiếp cận với khách hàng, phương án được diễn ra trực tiếp tại các Chi nhánh nên những khoản vay Chi nhánh trình Trung ương yêu cầu phải có nội dung báo cáo thẩm định chi tiết, đầy đủ những thông tin liên quan, làm cơ sở xem xét tại Ngân hàng Đầu tư Trung ương. 3.2.4 Tăng cường các biện pháp xử lý nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp Việc đánh giá phương án kinh doanh, thẩm định dự án chỉ nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng tại Ngân hàng trở nên lành mạnh, Ngân hàng thu được vốn, doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa, vốn liên tục được quay vòng nhiều lần trong năm, các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi bị loại bỏ dần khỏi bảng cân đối của Ngân hàng. Bên cạnh đó, dịch vụ Ngân hàng phát triển, các doanh nghiệp được Chi nhánh tư vấn trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới, hoặc những ưu đãi trong việc ân hạn, gia hạn nợ, gia tăng khối lượng các khoản cho vay đối với doanh nghiệp có phương án phục hồi sản xuất có tính khả thi cao, Chi nhánh đã thực hiện ngăn ngừa các khoản vay dẫn tới nợ quá hạn giúp giảm thiểu những khó khăn trong quá trình thực thi dự án. Doanh nghiệp và Ngân hàng đang trở thành những người bạn đồng hành quan trọng trong việc giải quyết những khó khăn để cùng phục hồi, cùng đi lên. Việc xử lý nợ quá hạn cũng được quan tâm đúng mức nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại cho Ngân hàng: - Đối với các khoản vay có khả năng thu hồi nợ cao, Ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng thực hiện theo những hướng tích cực, có cơ hội thu được lợi nhuận và trả nợ. Hoặc Ngân hàng gia hạn nợ, điều chỉnh hợp đồng tín dụng với cơ cấu trả nợ mới phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thậm chí Ngân hàng có thể mạnh dạn cho vay tiếp vốn giúp khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nhưng quyết định này đòi hỏi Ngân hàng phải xem xét rất thận trọng. - Đặc biệt hiện nay, Những dự án được đưa vào thi công xây dựng đều phải mua bảo hiểm công trình, đối với các tài sản thế chấp, cầm cố hoặc tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm nhằm tránh thất thoát, hư hỏng và những tình huống xấu xảy ra đối với tài sản đảm bảo - nguồn thu chính cho những khoản nợ quá hạn tại Ngân hàng. Trường hợp phải thực hiện thanh lý tài sản thế chấp Ngân hàng cùng các chuyên gia bán đấu giá tài sản theo đúng quy định và đúng giá thị trường để khoản nợ đươc thu hồi một cách tối đa. Ngân hàng có thể bán những tài sản của khách hàng (mà trước đó không được dùng để thế chấp, cầm cố) sau khi có sự đồng ý từ phía toà án kinh tế. Việc thu nợ cũng tuỳ thuộc vào đặc thù sản xuất kinh doanh, mức độ quan hệ, sự tín nhiệm của khách hàng với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy với những cách thức và thứ tự khác nhau nhằm hạn chế các khoản nợ quá hạn: - Doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, Chi nhánh sẽ thu nợ theo ngày đến hạn quy định tại hợp đồng tín dụng nếu muốn duy trì mức dư nợ ở mức tối đa. Nếu doanh nghiệp chưa phát sinh gia hạn lần nào thì tiền về của công trình nào thu nợ ngay các khế ước phát vay cho công trình đó. - Doanh nghiệp có tình hình tài chính không ổn định, đã gia hạn tại Chi nhánh thì Chi nhánh thu nợ các khế ước đã gia hạn đến hạn hoặc chưa đến hạn, tiếp đến sẽ thu nợ các khế ước đến hạn trong vòng một tháng, phần còn lại sẽ thu cho các công trình có tiền về căn cứ vào sổ theo dõi cho vay. 3.2.5 Kiểm tra và giám sát chặt chẽ quá trình vay và sử dụng vốn vay cũng như quá trinh trả nợ vay của các doanh nghiệp xây lắp Thi công xây lắp cũng như sản xuất kinh doanh các sản phẩm khác đều là một quá trình. Chất lượng của từng bước thực hiện liên quan đến toàn bộ chất lượng của quá trình thi công, vì vậy Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy cần xây dựng chính sách kiểm tra giám sát chặt chẽ toàn bộ quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp, đảm bảo nguồn tín dụng ngắn hạn được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nhất, tránh thất thu vốn và có biện pháp xử lý kịp thời nếu xảy ra sai phạm, phù hợp với thực tế hoạt động của Chi nhánh và sự thay đổi của thị trường. Có rất nhiều nhân tố tác động đến quá trình luân chuyển vốn và làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng kể cả các nhân tố khách quan và chủ quan. Song một cách tổng quát, Chi nhánh cần theo dõi hồ sơ vay vốn và kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp, những thông tin về khách hàng, mức độ chiếm lĩnh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Việc theo căn cứ vào sổ theo dõi cho vay các công trình, căn cứ vào mỗi đợt tiền thanh toán của các công trình qua tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp là biện pháp quan trọng cho cán bộ tín dụng nắm các thông tin về đối tác liên quan, thời gian phát vay, thời hạn cho vay, khả năng thu hồi vốn … từ đó phát hiện và xử lý những khoản lãng phí vốn của khách hàng. 3.2.6 Tăng cường trao đổi, đúc rút kinh nghiệm đối với từng khoản vay, từng doanh nghiệp Việc thực hiện trao đổi, đúc rút kinh nghiệm đối với toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là rất thực tiễn khi đội ngũ cán bộ trẻ đang ngày càng đông. Qua đó, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng được nâng lên một bước, kết hợp với sức trẻ trung, nhanh nhẹn và nhiệt tình, những ý kiến đóng góp hiệu quả của nhân viên giúp hệ thống quản lý ngày càng hiệu quả. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy cần thực hiện đúc rút kinh nghiệm ngay từ trong tổ chức nội bộ, nhân rộng kinh nghiệm thông qua nhiều hoạt động khác nhau như: Các cuộc họp báo cáo, trao đổi định kỳ, từ đó tìm hiểu nguyên nhân những hạn chế để khắc phục; ghi nhận những thành tích của cán bộ tín dụng trong quá trình công tác, thưởng đúng công, phạt đúng tội, tránh tình trạng tái diễn về sau. Bên cạnh đó tổ chức các cuộc hội nghị khách hàng, giao lưu, gặp gỡ, mở rộng mối quan hệ với các khách hàng lớn, có quan hệ lâu năm, đặc biệt là quan hệ vay - gửi thường xuyên đối với Chi nhánh. Từ đó thu nhận những đóng góp ý kiến từ phía khách hàng, thúc đẩy sự bền vững của Chi nhánh trong quá trình hoạt động. 3.2.7 Nâng cao năng lực và chất lượng cán bộ tín dụng Nhận thức rõ trình độ của các cán bộ tín dụng tại Chi nhánh, Phòng phải có những kế hoạch đào tạo cụ thể đáp ứng nhu cầu chuyên nghiệp hoá cao của công việc hiện tại. Cán bộ tín dụng cần được đào tạo sâu về kiến thức chuyên môn, những kiến thức, thông tin liên quan đến thị trường đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư vốn, vốn ngắn hạn, những hiểu biết tỷ mỷ về các thông số kỹ thuật của hoạt động đầu tư xây lắp nhằm đánh giá đúng năng lực tài chính, tính khả thi của các dự án xây dựng, phương án kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện công tác tín dụng đạt hiệu quả cao về quy mô cũng như chất lượng đối với Ngân hàng cũng như doanh nghiệp xây lắp đang là bạn hàng tại Chi nhánh. Các phương pháp đánh giá về tài sản đảm bảo tiền vay (thế chấp, cầm cố) cũng cần được hướng dẫn cụ thể nhằm tăng cường thêm năng lực cho cán bộ tín dụng trong việc xử lý các khoản vay một cách hiệu quả và linh hoạt nhất trong thời kỳ cạnh tranh sôi nổi như hiện nay giữa các Ngân hàng. Các cán bộ tín dụng tại Chi nhánh cần được liên tục mở những lớp học nhằm tăng cường kiến thức và hiểu biết rộng hơn cho các nghiệp vụ tín dụng tại Chi nhánh. Nhiều lớp học về Bảo hiểm cũng cần được triển khai nhằm giúp cho cán bộ tín dụng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hiểm trong công tác tín dụng, đặc biệt đối với những khoản vay yêu cầu tài sản đảm bảo thì việc khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm một cách tự giác là việc cần thiết, điều đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức chuyên môn về công tác bảo hiểm ngân hàng. Việc nâng cao chất lượng máy móc thiết bị tại Chi nhánh cũng cần được quan tâm, đặt yêu cầu đối với Trung ương trong việc nâng cấp các máy móc thiết bị như hiện đại hoá công nghệ, đầu tư thêm số lượng máy tính, phần mềm ứng dụng cũng như các máy móc chuyên dụng khác nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các khoản vay diễn ra hiệu quả, nhanh chóng, tránh được sự chờ đợi từ phía khách hàng. Hiện nay hệ thống máy móc thiết bị của Chi nhánh đang ở trong tình trạng bị lạc hậu về kỹ thuật, vì vậy việc nhanh chóng nâng cấp chất lượng cần được đặt sự quan tâm lớn của công tác quản lý. 3.3 Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp 3.3.1 Với cơ quan Nhà nước Về mặt vĩ mô, yêu cầu các cơ quan Nhà nước tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo tính an toàn cho nghiệp vụ tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Để tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại kinh doanh hiệu quả cần tạo lập một cơ chế riêng để áp dụng bên cạnh cơ chế chung áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp vì Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng thực hiện kinh doanh những hàng hoá, sản phẩm đặc thù. Cho phép hoạt động tín dụng được tự do thực hiện theo quy định của từng hệ thống Ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh theo cơ chế thị trường nhằm tăng cường tính tự chủ, tính độc lập của các Ngân hàng và tính hiệu quả của từng khoản vay. Các bộ luật doanh nghiệp, luật cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh và các hình thức bảo đảm hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự cần được ban hành đồng bộ giúp hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thuận lợi trong từng quy trình nghiệp vụ. Các thủ tục về công chứng cũng cần được giải quyết nhanh chóng, thủ tục gọn nhẹ, tạo điều kiện cho công tác tín dụng tại Ngân hàng. Chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể các Ngân hàng trong việc phát mại tài sản thế chấp và cầm cố đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực xây lắp. Nhanh chóng cổ phần hoá trong đó Nhà nước vẫn giữ một số lượng lớn cổ phần (khoảng 51%) để vẫn trở thành cơ quan quản lý chính của doanh nghiệp. Quản lý chặt chẽ và chấp hành pháp luật thống kê đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp xây lắp dễ dàng hơn trong việc thi công những dự án được đánh giá có tính khả thi. Đối với các Ngân hàng sẽ được tự do trong việc lựa chọn dự án, được triển khai nhiều phương thức cho vay và bảo lãnh. Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, do có truyền thống về tình hình hoạt động, về nguồn vốn và sự lớn mạnh trong những thời gian tiếp theo, việc các cơ quan Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động tín dụng là một công việc rất nên được khuyến khích. Đối với những dự án do Chính phủ chỉ định phải đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả và có khả năng thu hồi vốn cao để trả nợ Ngân hàng. 3.3.2 Với Ngân hàng Nhà nước Trong khi vốn tự có là cơ sở cho hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi nhiệm vụ chính là đầu tư và phát triển trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang có tốc độ tăng trưởng cao, việc tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và cho nghiệp vụ tín dụng nói riêng cho toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là một yêu cầu được đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp có nhu cầu vốn rất lớn trong khi theo luật các tổ chức tín dụng (Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng…- QĐ457/2005-NHNN) sẽ làm hạn chế khả năng cho vay của Ngân hàng, vì vậy việc nâng cao nguồn vốn tự có , từ đó nâng cao khả năng huy động vốn, mở rộng quy mô tín dụng là vấn đề mang tính cấp thiết đối với Ngân hàng Đầu tư. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đề ra những điều luật cụ thể cho hoạt động của toàn ngành Ngân hàng. Vì vậy việc rà soát lại các văn bản cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng, tham chiếu với các văn bản của bộ, ban ngành khác có liên quan đảm bảo cho hệ thống pháp luật được thông suốt là đảm bảo cho công tác tín dụng tại các Ngân hàng được triển khai hiệu quả, doanh nghiệp yên tâm giao dịch tại các Chi nhánh và trụ sở. Ngân hàng Nhà nước thực hiện nâng cao tính tự chủ, tự chịu của các Ngân hàng qua các cơ chế chính sách cho vay và bảo lãnh, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần nghiêm túc thực hiện và triển khai tới các Chi nhánh. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện phối hợp các bộ ngành liên quan thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật, các định mức, các chế độ và biểu mẫu trong công tác nghiệm thu và thanh quyết toán các công trình, đây là công việc quan trọng giúp cho quá trình thực hiện phân tích, đánh giá, giải ngân cho các dự án xây lắp tại doanh nghiệp của các Ngân hàng trở nên hiệu quả. 3.3.3 Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần triển khai nhanh và nghiêm túc các thay đổi trong cơ chế, chính sách của Ngân hàng Nhà nước cũng như những yêu cầu được đặt ra đối với toàn hệ thống, đảm bảo cho Chi nhánh thực hiện tốt và kịp thời theo chỉ đạo của cấp trên. Cơ chế tín dụng hoặc những điều kiện trong công tác tín dụng cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể đảm bảo các Chi nhánh thuận lợi hơn trong việc thực hiện. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương cần xây dựng cho mình chính sách tín dụng cụ thể đối với mỗi loại hình khách hàng, và việc áp dụng được thực hiện thống nhất đối với từng Chi nhánh. Sổ tay tín dụng là phương tiện phổ biến kiến thức cụ thể cho từng cán bộ tín dụng yêu cầu phải chi tiết, cụ thể, hướng dẫn việc đưa ra các sản phẩm tín dụng mới hấp dẫn trên thị trường. Hoàn thiện những quy định về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ các phòng ban của Chi nhánh đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tín dụng tại đây. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương cần thường xuyên tổ chức những lớp học nâng cao, bồi bổ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên tín dụng tại Chi nhánh giúp cho công tác tín dụng ngày càng phát huy tính hiệu quả theo chiều sâu. Công nghệ Ngân hàng cũng cần được đặc biệt quan tâm, giúp rút ngắn thời gian giao dịch, nâng cao hiệu suất lao động cũng như vị thế của Chi nhánh đối với bạn hàng. Trực tiếp có những biện pháp kiểm soát, thanh tra trực tiếp tình hình thực hiện và quản lý tín dụng tại Chi nhánh một cách khách quan nhằm có cách quản lý vĩ mô hiệu quả để thực hiện giảm thiểu rủi ro và chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao một cách tốt nhất. Chính sách lãi suất được đặt ra từ Trụ sở chính phải đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường đối với từng loại khách hàng. Mức lãi đảm bảo linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý trên cơ sở lãi suất đầu vào tại từng thời điểm và đảm bảo ngang bằng với lãi suất của một số Ngân hàng lớn để phát triển và giữ vững khách hàng. 3.3.4 Với các doanh nghiệp xây lắp Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng được triển khai thực hiện ngay từ chính sách khách hàng, chính sách tín dụng với những yêu cầu cụ thể được đặt ra đối với từng cán bộ nhân viên tại Chi nhánh. Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực thi công xây lắp cũng đặt ra những yêu cầu trực tiếp từ phía các doanh nghiệp xây lắp. Các công trình thi công xây lắp đang diễn ra rộng khắp trên cả nước. Việc quản lý rất khó khăn vì sản xuất ra thành phẩm là một quá trình diễn ra trong thời gian dài với nhiều công đoạn, hạng mục, và rất nhiều những đối tượng lao động tham gia. Hoạt động của một doanh nghiệp chưa có một cơ quan chức năng nào kiểm tra toàn diện và chính xác toàn bộ quá trình thi công, vì vậy việc kiểm tra, giám sát thực hiện là một nhiệm vụ khó khăn đối với Ngân hàng đặc biệt khi mà riêng cán bộ tín dụng không thể theo dõi thường xuyên và sát sao trong suốt quá trình thi công. Các công trình xây dựng ngày nay đang là mối quan tâm lớn của dư luận của công chúng, của các nhà báo, phóng viên vì ngày càng có những vụ bê bối, gian lận trong thi công ngay từ phía ban quản lý dự án. Chính vì vậy mà các Ngân hàng càng rất thận trọng trong việc thanh tra và giám sát, đảm bảo cho khoản tín dụng được lành mạnh hoá, tránh rủi ro cho ngân hàng cũng như cho xã hội khi các công trình được đưa vào sử dụng. Đồng thời tính trung thực và tự giác, tinh thần trách nhiệm là yêu cầu quan trọng khi Ngân hàng thực hiện đánh giá khách hàng vay vốn. Bản thân các khách hàng phải tự thuyết minh về khả năng cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, những dự án lựa chọn, những tín hiệu tích cực của thị trường đối với kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phải được đảm bảo tính hiệu quả. Việc đánh giá về đạo đức doanh nghiệp của Ngân hàng thể hiện qua tính trung thực trong các báo cáo tài chính, hoặc trong những mối quan hệ thường xuyên đối với Ngân hàng, giúp Ngân hàng và khách hàng thực sự hiểu nhau trong quan hệ tín dụng, để Ngân hàng và doanh nghiệp thực sự là những đối tác làm ăn có hiệu quả, cùng nhau tồn tại, cùng nhau phát triển. Ngân hàng sẽ xem xét tính chuyên nghiệp và hiệu quả của doanh nghiệp vì vậy yêu cầu doanh nghiệp phải đạt được các yêu cầu về tính ổn định, có đội ngũ cán bộ giỏi, trung thực, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, có uy tín và sản phẩm có triển vọng chiếm lĩnh thị trường. Do đó việc tự hoàn thiện, tự nâng cao trình độ, đảm bảo các điều kiện, thông tin liên quan đến hoạt động vay vốn là một yêu cầu cần được thực thi tại các doanh nghiệp thi công xây lắp. KẾT LUẬN Ngân hàng và doanh nghiệp, mối quan hệ này từ lâu đã trở thành mối quan hệ quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của cả hai bên. Doanh nghiệp càng phát triển, làm ăn có hiệu quả cũng kéo theo sự đi lên của các Ngân hàng và ngược lại, sự suy yếu của các doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc hoạt động của Ngân hàng đang có dấu hiệu tiêu cực. Ngân hàng thiết lập mối quan hệ lâu dài với doanh nghiệp không bên cạnh việc giúp doanh nghiệp thuận lợi trong kinh doanh còn mong muốn cho đối tác của mình ngày càng vững mạnh vì chính lợi ích của Ngân hàng. Cùng với tiến trình đổi mới đất nứơc, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đang dành được sự quan tâm rất lớn của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng, đặc biệt trong công tác đáp ứng nguồn vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng vốn lưu động tạm thời từ phía các doanh nghiệp. Đây là hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu lớn cho Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy, vì vậy mà việc tăng cường chất lượng của các khoản tín dụng ngắn hạn này đang ngày càng có được sự quan tâm của cán bộ quản lý nhằm thoả mãn: an toàn, hiệu quả và tính cạnh tranh trong kinh doanh. Chất luợng của các khoản tín dụng ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và rất nhiều các vấn đề được đặt ra đối với quá trình phát triển của Chi nhánh. Chất lượng tín dụng ngắn hạn đạt đến mức độ nào không chỉ phụ thuộc vào 1 cá nhân đơn lẻ mà là sự cố gắng, nỗ lực của cả tập thể Chi nhánh và đòi hỏi sự hợp tác thiện chí từ phía các doanh nghiệp thi công xây lắp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạp chí Ngân hàng 2005 Tạp chí Ngân hàng 2006 Thời báo Ngân hàng 2004, 2005, 2006 Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ : PGS.TS Nguyễn Hữu Tài Giáo trình Ngân hàng thương mại : TS. Phan Thị Thu Hà Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính : F.Mishkin Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng : PGS.TS Thái Bá Cần Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2003, 2004, 2005 của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy Các công văn, văn bản hướng dẫn thực hiện cho vay của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36518.doc
Tài liệu liên quan