Nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Liêm

Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu : Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát triển. Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất, nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các HTX b

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu thử nghiệm. Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là "nông nghiệp, nông thôn và nông dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn. Vốn tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc mở rộng cho vay hộ sản xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động này, món vay nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng nhất là trong môi trường kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp, nông thôn. Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài : - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của TDNH đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. - Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn tại, trên cơ sở đó có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị để thực hiện giải pháp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm trong năm 1998 - 2000. 4. Phương pháp nghiên cứu : - Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích thống kê, so sánh. - Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn vận dụng vào NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. 5. Kết cấu khoá luận : Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương. Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất. Chương I Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường : Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời. 1. Khái niệm hộ sản xuất : Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia đình. Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên. Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian qua. 2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường: Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất để có hiệu quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn. a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá. Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ. Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển. b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn. Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất , lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13 triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử dụng hợp lý nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn. 3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất : Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn. Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán cho nông nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí của nó. Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn. Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày 2/ 3/ 1992 cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998, luật công ty. .. thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 : "kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển". Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng. Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị quyết TW 5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ được khuyến khích phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng". II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất: 1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng : Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng , tín dụng Nhà nước , tín dụng tiêu dùng. Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định : "Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng" "Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác" Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có. Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tài sản thể chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng điều kiện vay vốn Ngân hàng. Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/ CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ, thông tư 01/ TD - NH ngày 26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng chính phủ, văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện quy định trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp sau đó một loạt các thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số 283/ QĐ - NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ. Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện giải pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/ 2000/ NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT - NHNo & PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng mới gần đây nhất ngày 18/ 1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã giải quyết cơ bản những khó khăn thắc mắc về cơ chế thủ tục tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép. 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất : Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất. a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho mọi người. Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của NHNo ngày càng tăng. b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng Ngân hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay. Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng. Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. c. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động. Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế , đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được số lao động nhàn dỗi, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ. d. Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội : Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội. Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại gần nhau hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội , giữ vững an ninh chính trị. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở lên khá hơn, hộ khá trở lên giầu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như : rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan... nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước 3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất : Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng giống như các quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng mặt khác đó còn là chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng này. - Chính sách của chính phủ : trên 80% dân số ở nước ta sống ở nông thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Vì vậy, chính sách đối với hộ sản xuất có vị trí quan trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính sách về đầu tư vốn có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết khó khăn về vốn sản xuất kinh doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ sở để vốn tín dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất. - Chính sách của Ngân hàng : Trong sản xuất kinh doanh , mục tiêu hàng đầu là đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều trong công việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đối với NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ chính, do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng tới quy định đến khối lượng cho vay các hộ sản xuất. - Sự phát triển của hộ sản xuất : Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn là quan hệ 2 chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay phần lớn hộ gia đình năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung, tự cấp, sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển , người nông dân còn chưa thực sự đặt quá trình sản xuất của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó, tìm phương hướng tự sử lý để phát triển. Cho nên, việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất : 1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng : Trong nền kinh tế thị trường., bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng phải là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng : "Chất lượng phù hợp với mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng là một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng". Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau : - Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về lãi xuất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. - Đối với Ngân hàng : Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có lợi nhuận. 2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất : Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được xác định là khách hàng chính của NHNo Việt Nam. Trong quá trình cung ứng sản phẩm của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan trọng và cần thiết là đánh giá được chất lượng của sản phẩm cung ứng, cụ thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất , nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cụ thể. 2.1. Chỉ tiêu định tính : a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay : Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đề được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế , chính trị, xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi Ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không. Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là : - Thứ nhất : Cho vay có mục đích kế hoạch. - Thứ hai : Cho vay có đảm bảo - Thứ ba : Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi. Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo. b. Cho vay bảo đảm có điều kiện : Chi tiêu định tính thứ 2 để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đó là cho vay đảm bảo có điều kiện. Các điều kiện để một khách hàng được vay tại NHNo & PTNT Việt Nam. - Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh. - Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn tren 6 tháng với Ngân hàng. - Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp luật phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. - Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi có hiệu quả. - Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay. + Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản + Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm, thủy hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất). Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5 điều kiện cho vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay. c. Quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất lượng.._. 2.2. Chỉ tiêu định lượng. Chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương đối. Bên cạnh mặt trừu tượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính thì mặt cụ thể của nó có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định lượng. a. Doanh số cho vay hộ sản xuất : Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm. Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm. D. số cho vay HSX Tỷ trọng cho vay HSX = ------------------------------------ x 100 (%) Tổng D. số cho vay b. Doanh số thu nợ sản xuất : Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ. Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của ngân hàng trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức : Doanh số thu nợ hộ sản xuất --------------------------------------------- x 100 (%) Doanh số cho vay hộ sản xuất c. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất : Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét. Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất : Dư nợ quá hạn HSX Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = ---------------------------------- x 100 (%) Tổng dư nợ HSX Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói tiêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan đến sự sống còn của Ngân hàng. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi. Tổng nợ khó đòi Tỷ lệ khó đòi = ---------------------------------- x 100 (%) Tổng nợ quá hạn Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề. d. Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất : D. số thu nợ HSX Vòng quay vốn tín dụng HSX = ----------------------------- Dư nợ bình quân HSX Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính bằng cách lấy trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần xuất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng. e. Lợi nhuận của Ngân hàng : Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với NHNo hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất. f. Một số chỉ tiêu khác. D. số cho vay HSX Chỉ tiêu 1 = ----------------------------------------- Tổng số lượt HSX vay vốn Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất cho vay nhiều hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi. Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ cho vay trung - dài hạn HSX = Dư nợ cho vay trung dài hạn HSX x 100 % Tổng dư nợ HSX Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng Ngân hàng thương mại. Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng của Ngân hàng. - Chỉ tiêu 3 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất : Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn làm tốt điều này, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. 3.1. Yếu tố môi trường : Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. - Môi trường kinh tế xã hội : Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho hộ sản xuất làm ăn có hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên. - Môi trường chính trị pháp lý : Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy các tranh chấp tín dụng. Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất. - Môi trường tự nhiên : Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất kinh doanh xuôn xẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế , việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhất nhiều khó khă. Diễn biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể tránh được khi thiên tai xảy ra. Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. 3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng : Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. - Trình độ của khách hàng : Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khách hàng không có khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. - Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích : Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ đầu khi vay hoặc sau khi đã vay được. Tuy nhiên, việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. - Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng cố ý lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có được hoàn trả lại hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng. 3.3. Yếu tố thuộc về Ngân hàng : Bên cạnh yếu tố môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế. - Chính sách tín dụng của Ngân hàng : Là một trong những chính sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. - Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng Ngân hàng có được thực hiện hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng. - Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng. - Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết định thông qua các chỉ tiêu định tính. - Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng giảm sút. - Hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định một khoản cho vay. Yếu tố này rất quan trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra. Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt kinh tế , chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của Nhà nước , là đòn bẩy kinh tế , là động lực thúc đẩy hộ sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng đối với Ngân hàng nói chung và NHNo Huyện Từ Liêm nói riêng. Chương II. thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm : 1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm : Huyện Từ Liêm là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên là 219.214 ha, dân số 2,3 triệu người, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, 80 % dân số sống ở nông thôn, tổng số khoảng 53 vạn hộ, trong đó hộ nghèo là 12 %. Địa bàn hành chính gồm 2 thị xã, 12 huyện, 15 xã trong đó 1/ 4 số xã có làng nghề Tiểu thủ công nghiệp với 130 nghìn lao động có tay nghề. Năm 2000 kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cụ thể là : - Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 1.027.000 tấn tăng 10,3% so với năm 1999. - Tổng sản phẩm trong tình (GDP) tăng 7,2 % so với năm 1999. - Giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng 4,6 % so với năm 1999. - Cơ cấu kinh tế : nông nghiệp 44 %, công nghiệp 31,65 %, dịch vụ 24,35 %. Đặc điểm kinh tế xã hội có nhiều ảnh hưởng thuận lợi cũng như khó khăn đối với hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. a. Thuận lợi : Huyện Từ Liêm là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng có lợi thế về cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm. Tỉnh có hệ thống đường liên huyện, liên xã, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa, tỉnh tập trung nhiều làng nghề với nhiều ngành nghề tiểu thủ công nổi tiếng đang được khôi phục và phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tích cực, cơ cấu trong nông nghiệp có su hướng tăng, tỷ trọng ngành chăn nuôi. Công tác chuyển đổi HTX nông nghiệp theo mô hình kiểu mới thực hiện tốt, đã xây dựng được 494/ 533 HTX nông nghiệp đạt 96 %. Bước đầu thực hiện chuyển đổi kinh tế từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn đạt 112/ 315 xã. Đây là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của Ngân hàng. Một số ngành có điều kiện phát huy tiềm năng đã mạnh dạnh áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhận thức của người nông dân về sự cần thiết đưa các giống mới năng suất cao vào trồng trọt, chăn nuôi ngày càng cao tạo điều kiện đầu tư vốn có hiệu quả. Ngành Ngân hàng dần dần hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp với thực tế địa bàn nông thôn, cũng như việc ban hành một số văn bản, chính sách của tỉnh cụ thể hoá các chính sách kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước , từ đó hoạt động của Ngân hàng được thuận lợi hơn trước. b. Khó khăn : Nền kinh tế của cả nước nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng phát triển chưa ổn định gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Công cuộc phục vụ nông nghiệp như cơ khí, chế biến trên địa bàn tỉnh chưa phát triển đã hạn chế rất lớn đến sức sản xuất của các hộ gia đình. Giá cả sản phẩm nông nghiệp so với giá hàng công nghiệp, dịch vụ có sự chênh lệch khá lớn theo hướng thiệt hại cho người nông dân. Vì vậy không khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và ảnh hưởng lớn đến đời sống các hộ nông dân. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu của tỉnh chưa tìm lại được hướng đi sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu. Do đó không tạo được động lực phát triển sản xuất nông nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp hiệu quả theo hướng có lợi cho nông dân. Từ Liêm là một huyện tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, do đó rất nhiều những người có trình độ KHKT cao sau khi được đào tạo đã ở lại Hà Nội làm việc. Vì vậy, nguồn nhân lực của Huyện Từ Liêm đã mất đi rất nhiều lợi thế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Huyện Từ Liêm trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Huyện Từ Liêm nói riêng. Từ đó tạo một lực cản hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm. Bên cạnh những đặc điểm kinh tế xã hội là những khó khăn tác động đến hoạt động của NHNo Huyện Từ Liêm ở trên thì sức cạnh tranh của các chi nhánh NHTM khác và các quỹ tín dụng nhân dân ngày càng tăng đã gây trở ngại không nhỏ trong NHNo. Mặc dù NHNo Huyện Từ Liêm chiếm ưu thế hơn hẳn về thị trường hoạt động nguồn vốn kinh doanh cũng như dư nợ cho vay các thành phần kinh tế, chuyên môn của đội ngũ lãnh đạo , cán bộ nhưng sức ép cạnh tranh của các tổ chức trên qua những chính sách lãi xuất huy động tiền gửi, chính sách thu hút khách hàng vay vốn. .. cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà trực tiếp là lợi nhuận NHNo. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi Ngân hàng phải nỗ lực phấn đấu bền bỉ, kiên quyết tự đổi mới hoạt động kinh doanh từng bước vượt qua những khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh năm 2000. 2. Quá trình hình thành, phát triển và chức năng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm : Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển , Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác. NHNo & PTNT Việt Nam thành lập ngày 26/ 3/ 1988 theo NĐ 53/ HĐBT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) NHNo & PTNT Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước dạng đặc biệt tổ chức theo mô hình tổng công ty Nhà nước , tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư. NHNo & PTNT huyện Từ Liêm là thành viên của NHNo & PTNT Việt Nam, được thành lập và đi vào hoạt động từ thágn 7/ 1988 trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị thuộc NHNo Hà Sơn Bình và 6 đơn vị thuộc NHNo thành phố Hà Nội. Về mô hình tổ chức toàn tỉnh có 14 chi nhánh NHNo huyện, thị xã, 45 Ngân hàng loại 4 và 8 Ngân hàng lưu động thực hiện việc giao dịch trực tiếp với khách hàng trên mạng lưới máy vi tính. NHNo & PTNT huyện Từ Liêm thực hiện chức năng kinh doanh đa năng, chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng đối với khách hàng trong và ngoài nước, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội; uỷ thác tín dụng đầu tư cho chính phủ, các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước trong các ngành kinh tế , trước hết trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong kinh tế đối ngoại NHNo Huyện Từ Liêm cung ứng các dịch vụ : thanh toán quốc tế, tài trợ XNK, bảo lãnh và tái bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, thanh toán biên giới. NHNo Huyện Từ Liêm chịu sự quản lý của NHNo Việt Nam, NHNN huyện Từ Liêm. NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển sang Ngân hàng thương mại quốc doanh, đối tượng đầu tư chủ yếu phục vụ nông nghiệp - nông thôn và nông dân, do đó chịu ảnh hưởng rất lớn vào thiên nhiên, nên hoạt động kinh doanh NHNo huyện Từ Liêm gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy NHNo huyện Từ Liêm đã kiên trì và kiết quyết tập trung chỉ đạo trong nhiều năm qua theo hướng hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với những định hướng lớn , đó là : - Có nguồn vốn lớn - Có mạng lưới rộng khắp chất lượng - Có đội ngũ cán bộ tốt. - Có công nghệ và công cụ điều hành hiện đại. - Có nguồn tài chính thường xuyên có lãi. 3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm : Đối tượng phục vụ chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm là các hộ nông dân. Toàn tỉnh có 53 vạn hộ gia đình, trong đó hộ sản xuất nông nghiệp hơn 49 vạn hộ. Trong đó, số hộ giầu là 4,7 vạn hộ chiếm tỷ trọng 85%, hộ khá có 95,6 vạn hộ, chiếm tỷ trọng 21,6 %, số hộ trung bình 28,1 vạn hộ chiếm tỷ trọng 53,0 %, hộ nghèo 6,4 vạn hộ tỷ trọng chiếm 12 % chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh có 112 làng nghề thủ công, mỹ nghệ, chế biến... đang được khôi phục và phát triển , 403 hộ gia đình làm kinh tế trang trại đang đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả. Với những đặc điểm về tự nhiên - kinh tế - xã hội riêng có của Hà Tây đã tác động đến đặc điểm của khách hàng chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm. Người nông dân là người bạn đáng tin cậy của NHNo huyện Từ Liêm, họ có sức lao động cần cù, chịu khó và sòng phẳng trong quan hệ vay trả. Đây là một trong những lý do của NHNo thực hiện chủ trương cho các HSX vay dưới 5 triệu đồng không cần tài sản thế chấp trước khi chính phủ ban hành quyết định 67/ 1999/ QĐ - TTg. Hiện nay theo quyết định 67, Chính phủ quyết định cho phép NHNo cho vay hộ nông dân dưới 10 triệu đồng không phải thế chấp. Tuy nhiên, hộ nông dân có thu nhập rất thấp, công cụ sản xuất thủ công, kỹ thuật lạc hậu, hoạt động sản xuất chịu nhiều ảnh hưởng lớn của thời tiết, môi trường tự nhiên, trình độ KHKT, trình độ quản lý của hộ rất thấp. Do đó khả năng mở rộng cho vay của NHNo huyện Từ Liêm cũng bị hạn chế. Với đặc điểm sản xuất kinh doanh nhỏ trong quy mô hộ gia đình, chưa hướng tới xuất khẩu, do đó thường những món vay có giá trị nhỏ, nhưng số lượng món vay rất lớn, địa bàn rộng nên chi phí cho một món vay còn cao. Mặc dù, hộ sản xuất còn một số hạn chế trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình nhưng hộ có nhu cầu vay vốn rất lớn để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, hộ sản xuất rất cần tới sự giúp đỡ về vốn của NHNo huyện Từ Liêm. II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển hẳn sang NHTM gặp không ít những khó khăn, nhưng NHNo huyện Từ Liêm vẫn kiên trì và kiên quyết đi theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và NHNo Việt Nam, sự ủng hộ của các cấp, các ngành, cùng sự cố gắng nỗ lực của tập thể từ lãnh đạo đến CBNV, NHNo huyện Từ Liêm đã từng bước khắc phục được khó khăn. NHNo huyện Từ Liêm đã phát triển kinh doanh đa năng, đổi mới công cụ điều hành, tổ chức khoán tài chính đến nhóm và người lao động, lấy kết quả kinh tế và mục tiêu sinh lời làm thước đo chính trong kinh doanh. Vì vậy, NHNo huyện Từ Liêm đã trở thành một trong những Ngân hàng đứng đầu trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam. 1. Huy động vốn: Nguồn vốn chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm bao gồm : vốn huy động (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi trung, dài hạn và vay các TCTD khác) và vốn tự có. Tổng nguồn vốn của NHNo huyện Từ Liêm tính đến ngày 31/ 12/ 2000 là 1.735 tỷ đồng gấp 10 lần so với mức ban đầu thành lập. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình quân giai đoạn 1995 - 2000 ở mức cao, xấp xỉ 50 %/ năm. Bình quân vốn đạt 1.740 triệu đồng/ cán bộ. Nguồn vốn huy động của NHNo huyện Từ Liêm chiếm khoảng 80% tổng nguồn vốn bao gồm : tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi trung dài hạn và vay các TCTD khác. Kết quả huy động vốn của NHNo huyện Từ Liêm được phản ánh trong bảng số 1, không kỳ hạn là chủ yếu là tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế (TCKT). Tỷ trọng trung bình của loại vốn này là 16 % trong tổng nguồn vốn huy động, với tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao, trung bình 38 %. Ưu điểm lớn của nguồn vốn này là chi phí thấp (lãi xuất không đáng kể) nên được các Ngân hàng rất trú trọng phát triển. Với phương án quản lý hợp lý có tính đến sự an toàn chi trả (tính thanh khoản) sẽ phát huy được hiệu quả của nguồn vốn này. Tiền gửi ngắn hạn tăng khá, mức tăng trung bình là 25 % trong đó tiền gửi kỳ phiếu nhỏ hơn 1 năm tăng rất mạnh chứng tỏ phương thức huy động này phù hợp với nhu cầu của người gửi tiền về kỳ hạn cũng như lãi suất tương ứng. Hiện nay kỳ phiếu nhỏ hơn 1 năm có các hình thức gửi 3 tháng, 6 tháng, trả lãi sau, 12 tháng tra lãi trước, lãi suất điều chỉnh theo tín hiệu thị trường. Tiền gửi ký phiếu năm 2000 đạt 611.315 tỷ đồng tăng 71 % so với năm 1999 chiếm tỷ trọng 49,4 % tổng nguồn vốn huy động. Đây là một kết quả đáng mừng vì trong khu vực thị trường này sự cạnh tranh đặc biệt là vấn đề lãi suất tiền gửi rất lớn. Hầu hết người gửi tiền đều mong muốn đầu tư an toàn và nhận được lãi suất cao do vậy một sự thay đổi nhỏ trong lãi suất tiền gửi sẽ có sự dịch chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác, một phần, lãi suất tiền gửi thực tế (trừ tốc độ lạm phát) là rất nhỏ. Huy động tiết kiệm là chiến lược chính của mỗi Ngân hàng nhằm mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn và tự lực về nguồn vốn. Đối với NHNo huyện Từ Liêm có địa bàn hoạt động rộng và chủ yếu ở nông thôn và phục vụ nông dân nên huy động tiết kiệm có những đặc điểm khác so với các Ngân hàng trên địa bàn. So sánh huy động tiết kiệm ở thành thị và nông thôn. Tại sở giao dịch của NHNo huyện Từ Liêm có thể huy động được 38,6 % tổng tiền gửi toàn tỉnh. Trong khi đó, tỷ trọng tiền gửi huy động được tại một chi nhánh huyện chiếm khoảng 4,2 - 7,6 %. Tại tất cả các chi nhánh huyện và liên xã của NHNo huyện Từ Liêm , vốn huy động chỉ có thể thoả mãn 20 - 25 % tổng nhu cầu về vốn của chi nhánh đó Bảng 1 : Huy động tiết kiệm tại NHNo huyện Từ Liêm (tính đến tháng 12/ 2000). Đơn vị : triệu đồng Số huyện : 13 1. Tổng số hộ trong khu vực 552.825 2. Tổng số người gửi tiền : 69.721 Tỷ trọng những người gửi tiền/ tổng số hộ (%) 12,6 3. Tổng số tiền gửi tại chi nhánh tỉnh : 714.652 4. Tổng số tiền gửi tại sở giao dịch : 256.956 Tỷ trọng tổng số tiêng gửi (%) : 35,9 5. Số tiền gửi trung bình : 97 Trong năm 2000 cả 14/ 14 NHNo huyện, thị đều có số dư nguồn vốn tăng, tuy nhiên có sự chênh lệch rất lớn giữa các địa bàn. Hai thị xã (Hà Đông, Sơn Tây) có mức huy động cao nhất, tương ứng là 370 tỷ và 209 tỷ trong khi trung bình huyện chỉ đạt trên dưới 56 tỷ đồng. Điều này tạo ra sự bất hợp lý giữa cân đối nguồn vốn huy động cho vay tại từng địa bàn, các chi huyện phụ thuộc vào vốn vay từ NHNo tỉnh. Do vậy, luôn phải có sự điều chỉnh vốn giữa các chi nhánh gây khó khưan cho công tác kế hoạch cũng như hoạt động kinh doanh của từng đơn vị và NHNo tỉnh Tóm lại , nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm luôn có mức tăng trưởng khá, ổn định và vững chắc, do vậy Ngân hàng luôn có đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trong tỉnh. 2. Hoạt động cho vay : Hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM là hoạt động cấp tín dụng cho các khách hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý Ngân hàng là lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Việc không đáp ứng các đòi hỏi hợp pháp của khách hàng về tín dụng sẽ dẫn đến thiệt hại trước mắt của kinh doanh và kết quả cuối cùng là vấn đề tồn tại của Ngân hàng. Vì vậy, xét về khía cạnh nào đó, khách hàng vay vốn chính là ân nhân của Ngân hàng. Có thể thấy qua số liệu báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã đạt được kế quả khá nổi bật. Dư nợ cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân giai đoạn 1995 - 2000 là 26 %. Đến cuối năm 2000 tổng mức dư nợ đạt hơn 1.031 tỷ đồng là một trong những chi nhánh có dư nợ cao toàn ngành. Tuy nhiên, mấy năm gần đây tốc độ tăng trưởng dư nợ có dấu hiệu chứng lại, năm 2000 tăng 27,3 % so với năm 1999. Kết quả này phản ánh chủ trương của NHNo Việt Nam đối với các Ngân hàng chi nhánh trong năm 2000 là phải tập trung củng cố chất lượng tín dụng và xử lý nợ quá hạn. 2.1. Cơ cấu cho vay : Có nhiều cách phân loại cơ cấu cho vay. Với mỗi cách phân loại có thể thấy mặt cụ thể của thực trạng cho vay. a. Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn cho vay : Bảng 2 : Phân loại dư nợ cho vay của NHNo huyện Từ Liêm theo kỳ hạn Năm Ngắn hạn (%) Trung, dài hạn (%) Tổng cộng 1995 63,4 36,6 100 1996 68 32 100 1997 63,6 36,4 100 1998 51,8 48,2 100 1999 51,5 48,5 100 2000 48,8 51,2 100 Xét về kỳ hạn cho vay, hoạt động tín dụng có nhiều biến đổi theo hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế. Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả hoạt động tín dụng giai đoạn 95 - 2000 có thể thấy rõ tỷ trọng cho vay trung, dài hạn có xu hướng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu cho vay của Ngân hàng. Nếu so mức phấn đấu toàn ngành đề ra là tỷ trọng vốn trung - dài hạn đạt 35 % tổng dư n ợ thì NHNo huyện Từ Liêm đã đạt mức kế hoạch đề ra ngay từ năm 1995 (hơn 36%) và đến cuối năm 2000 tỷ lệ này là 51,2 %, nếu tính số tuyệt đối thì con số đạt được khá ấn tượng là hơn 528 % tỷ đồng. Mặt khác, dễ thấy tỷ lệ này chưa phải là mức ổn định. Năm 1995 tỷ trọng là 36 %, năm 96 đạt 32 % năm 97 lên 36 %, năm 98 lên hơn 48 %, năm 99 đạt 49 % và năm 2000 đạt 51,2 %. Tuy nhiên với tỷ lệ cao hơn 30 % liên tục như vậy chứng tỏ hoạt động Ngân hàng đang dần dần phát triển theo chiều sâu đã đáp ứng được nhu cầu vốn trung - dài hạn của các thành phần kinh tế trên địa bàn, vốn này thường là vốn đầu tư mở rộng sản xuất, tăng cường trang thiết bị... thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ và vững chắc , do vậy nâng cao hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng , tạo ra nguồn thu ổn định cho Ngân hàng. b. Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế : Xét về cơ cấu dư nợ đối với các khu vực kinh tế cũng phản ánh sự chuyển hướng rõ n ét trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hướng về khách hàng đông đảo là các hộ nông dân và địa bàn nông thôn là chủ yếu. Điều hành thể hiện qua tỷ trọng vốn cho vay đối với hộ sản xuất rất cao. Bảng 3 : Phân loại dư nợ cho vay theo khu vực kinh doanh của NHNo Hà Tây. Năm Chỉ tiêu 95 96 97 98 99 2000 Tổng dư nợ 457.467 566.144 679.409 726.625 809.812 1.031.069 - Doanh nghiệp Nhà nước 38.524 29.664 43.677 56.634 46.626 106.921 Tỷ trọng % 7,1 5,6 6,4 7,7 5,8 6,3 - Hợp tác xã 5.051 4.434 2.060 3.347 2.961 3.000 Tỷ trọng % 1,1 0,7 0,4 0,4 0,35 0,30 - Hộ sản xuất 413.892 517.346 572.849 572.505 643.131 783.093 Tỷ trọng % 91,8 91,2 84,4 82,1 79,4 81,0 - Hộ nghèo 14.700 58.763 94.139 117.094 138.055 Tỷ trọng % 2,5 8,8 9,8 14,5 12,4 - Cho vay doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Nhìn chung khối lượng cho vay các DNNN rất nhỏ, ở khu vực này chỉ đạt dưới 14 % tổng dư nợ giai đoạn 95 - 2000. Một phần phản ánh sự chuyển hướng kinh doanh trong hệ thống NHNo, lấy hộ nông dân làm đối tượng phục vụ chủ yếu. Tính từ năm 1995 đến nay, lượng vốn đầu tư có tăng nhưng tốc độ tăng không đáng kể. Đây là điều Ngân hàng không mong muốn song nó phản ánh một thực tế là số DNNN trên địa bàn vẫn đang trong tình trạng khó khăn, quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có rất thấp, trang thiết bị công nghệ lạc hậu, quản lý kém dẫn đến sự cạnh tranh kém. Mặc dù các doanh nghiệp đã được sắp xếp cho phù hợp theo quy định của Chính phủ nhưng đến nay trong số 163 DNNN (có 76 DNNN Trung ương) toàn tỉnh chỉ có 139 đơn vị có quan hệ tín dụng vói Ngân hàng, trong đó khoảng 73 đơn vị có quan hệ thường xuyên. Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới, những DNNN sẽ có vai trò hết sức quan trọng. Thực tế trong số 462 doanh nghiệp hoạt động trong tỉnh số DNNN chiếm 45 % nhưng vốn kinh doanh chiếm tới 86 % , doanh thu bình quân chiếm 90 %, nộp ngân sách chiếm 92 %. Như vậy tiềm năng của khu vực này còn rất lớn, không tương xứng với khối lượng cho vay hiện tại - Cho vay hợp tác xã : Dư nợ cho vay giảm liên tục về khối lượng cũng như tỷ trọng trong tổng dư nợ và số hợp tác xã có quan hệ tín dụng với Ngân hàng rất nhỏ (26/ 176 hợp tác xã). Nguyên do chủ yếu là các HTX nông nghiệp đã bị thu hẹp vai trò, chức năng hoạt động sản xu._.ống thu nợ để nhắc nhở những khoản nợ đến hạn của khách hàng cũng như đôn đốc họ trả nợ. Hoạt động của hệ thống này rất quan trọng vì chứng tỏ rằng Ngân hàng : + Có hiệu quả trong việc kiểm tra và quản lý tài sản vay + Nghiêm khắc trong hoạt động kinh doanh + Muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với khách hàng Việc gửi thư nhắc nhở và tiến hành đòi nợ có tính hệ thống và đúng lúc phải được thực hiện đối với tất cả các tài khoản. Trong thông báo, lời lẽ phải lịch thiệp song cũng cần nghiêm khắc, cương quyết yêu cầu khách hàng thanh toán đủ và đúng hẹn. Ngân hàng luôn duy trì tổ chức phân tích tình hình dư nợ và tình hình dư nợ đến từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Qua việc phân tích xác định rõ món vay có vấn đề, nợ quá hạn theo mức độ khác nhau ; xác định xã trọng điểm, khách hàng trọng điểm. Định kỳ hàng tháng ngân hàng chia hoạt động tín dụng ra 4 phần để phân tích và chỉ đạo cụ thể từng phần như sau + Đối với nợ quá hạn : Tổ chức phân tích từng đối tượng và phân ra 3 loại : loại thu được ngay, loại thu dần một phần và loại khó thu. Từ đó, xác định rõ nguồn thu, biện pháp thu, thời gian thu phù hợp. + Đối với nợ sắp đến hạn : Từ ngày 01 đến ngày 10 tháng trước, tổ chức in ra những món nợ đến hạn của tháng sau , thông báo cho cán bộ tín dụng. Từ ngày 20 đến ngày 25 cán bộ tín dụng đi thâm nhập khách hàng để xác định khả năng thu của từng khách hàng đến hạng tháng sau, từ đó có biện pháp cụ thể đến từng khách hàng, nếu có khó khăn phải báo cáo lãnh đạo để có biện pháp giúp đỡ. Làm tốt phần này đã hạn chế nợ quá hạn phát sinh. + Đối với nợ chưa đến hạn : Sẽ tổ chức kiểm tra sau, chú ý những món nợ từ 10 triệu đồng trở lên và tập trung kiểm tra vào hai nội dung chính đó là : Vật tư bảo đảm tiền vay và diễn biến của tài sản thế chấp. Nếu có vấn đề thì xử lý theo các biện pháp tín dụng, giúp đỡ khách hàng sớm khắc phục khó khăn có điều kiện trả nợ Ngân hàng. + Đối với các món cho vay mới : Yêu cầu cho vay nghiêm chỉnh, đúng quy trình nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới chất lượng lành mạnh hơn. Để xử lý những khoản nợ quá hạn cần thực hiện các giải pháp sau * Đối với nợ quá hạn phải thu ngay : là loại nợ bị quá hạn do định kỳ hạn nợ chưa sát, do thu hoạch mùa vụ chậm, tiêu thụ sản phẩm và thanh toán chậm, do nguyên nhân khách quan như thiên tai mất mùa, cán bộ phải bám sát để theo dõi đôn đốc thu hồi nợ, cho phép khách hàng được gia hạn nợ. Khi khách hàng có đủ khả năng trả nợ phải thu ngay, thu đủ 100 %. Tuy nhiên, Ngân hàng cần ngăn chặn việc gia hạn nợ tuỳ tiện, gia hạn nhiều lần để chạy theo chỉ tiêu đề ra khi nhận khoán, giấu giếm khuyết điểm. Cán bộ tín dụng phải xác định được các nguồn hoàn trả của hộ vay, nếu điều này không thể thực hiện được thì không được phép gia hạn. Đối với hhộ vay có tài sản thế chấp khi gia hạn không đủ giá trị theo quy định thì phải yêu cầu có thêm tài sản thế chấp khác. * Đối với nợ quá hạn phải thu dần : là loại nợ khách hàng thiếu khả năng thanh toán không đủ tiền trả ngay một lần, cán bộ tín dụng phải chia số nợ ra nhiều kỳ để khách hàng trả dần, mỗi lần ít nhất 20 % số nợ ghi trên khế ước. * Đối với nợ khó đòi : Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng số nợ quá hạn của ngân hàng cao do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan như khách hàng sử dụng sai mục đích vốn vay, kinh doanh kém dẫn đến thua lỗ. Có thể áp dụng các biện pháp như thu giữ tài sản thế chấp, thu hồi sản phẩm vào mùa vụ. .. g. Ngân hàng chủ động tìm các dự án và tư vấn cho v khách hàng. Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và tiêu thụ ở đâu. Vì vậy nhu cầu tư vấn của khách hàng rất lớn. Để giải quyết vấn đề n ày, Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau : - Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn, cho khách hàng. Ngân hàng giúp khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án. - Ngân hàng phối hợp với các cơ quan khoa học, kỹ thuật để giúp tư vấn cho khách hàng về kỹ thuật sản xuát, về các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh , về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về KHKT liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật. .. để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng. - Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến các hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu. - Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm thị trường cung ứng và thị trường tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các Công ty cung ứng vật tư và tổ chức bao tiêu sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng, với quy trình tín dụng có cơ cấu ba bên : Ngân hàng, công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất h. Ngân hàng đưa ra các sản phẩm khuyến khích : Các sản phẩm này vừa khuyến khích hộ sản xuất vay vốn vừa khuyến khích hộ trả nợ đúng kỳ hạn. Khuyến khích hoàn vốn nhanh : Theo đặc tính này, Ngân hàng định ra một mức lãi xuất cao hơn mức lãi suất vay thông thường. Nếu khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn hoặc trước hạn thì vào ngày đáo hạn khách hàng đó sẽ được hưởng 20 % số lãi mà họ đã thanh toán trong Ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy họ thanh toán đúng hạn. Bên cạnh đó, đặc tính này tạo ra sự gặp gỡ thường xuyên giữa Ngân hàng và khách hàng và đến lượt nó sự giao thiệp thường xuyên này giúp Ngân hàng giám sát và đưa ra giải pháp giải quyết nợ khó đòi có thể xảy ra hoặc hỗ trợ khách hàng trong sản xuất. Cho vay trả góp : Việc thu nợ gốc vào cuối kỳ hạn nợ đã không tạo cho khách hàng thói quen trả nợ, đặc biệt đối với những hộ thu nhập thấp. Vì vậy., Ngân hàng đưa ra phương thức cho vay trả góp, phương thức này cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong kỳ hạn vay. Số lần trả nợ gốc phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập để trả nợ của khách hàng. Lãi suất linh hoạt : Ngân hàng định ra nhiều mức lãi xuất khác nhau ứng với từng mức tiền vay cụ thể, từng loại hình sản xuất , kinh doanh cụ thể để khuyến khích khách hàng vay vốn tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và của địa phương. Kết hợp tín dụng với tiết kiệm : Ngân hàng đưa ra sản phẩm tiết kiệm nhằm khuyến khích hộ sản xuất đặc biệt là hộ có thu nhập thấp gửi tiết kiệm và vay vốn hoàn trả đúng hạn, ứng với mỗi số tiền tiết kiệm, khách hàng được vay một hạn mức tín dụng có ưu đãi hơn về lãi suất, thời hạn. Sản phẩm này vừa giải quyết được vấn đề tài sản thế chấp, vừa là một bảo đảm để khách hàng hoàn trả tiền vay đúng hạn, vừa góp phần giúp các hộ sản xuất tiết kiệm tiền nâng cao mức sống, mở rộng sản xuất kinh doanh của họ. y. Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng vay vốn : Mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng vay vốn là quan hệ hai chiều chặt chẽ. Ngân hàng hỗ trợ về vốn sản xuất kinh doanh cho khách hàng và ngược lại, khách hàng vay vốn đem lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Vì vậy, chính sách đối với khách hàng vay vốn là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh của bất kỳ khách hàng thương mại nào. Đối với NHNo huyện Từ Liêm , thiết lập được mối quan lâu dài với hộ sản xuất sẽ đem lại lợi ích. + Biết được nhu cầu vay thực tế cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ để có hình thức tài trợ thích hợp, đáp ứng nhu cầu vốn. + Giảm chi phí để điều tiết về khách hàng trước khi ra quyết định cho vay vì thông tin về khách hàng đã được lưu trữ tại Ngân hàng + Bảo đảm an toàn vốn vay và chất lượng tín dụng món vay vì những khách hàng có quan hệ lâu dài thường kinh doanh có hiệu quả và ý thức trả nợ Ngân hàng tốt. Từ đó tạo ra nguồn thu ổn định, vững chắc cho Ngân hàng. Tuỳ từng đối tượng hộ vay, Ngân hàng có những chính sách thích hợp. Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, nhân viên Ngân hàng phải xoá bỏ tâm lý e ngại ban đầu thông qua sự chủ động giúp đỡ họ giải quyết vướng mắc về thủ tục cho vay, cách thức giải ngân, thu lãi và nợ gốc; tiến hành giải ngân nhanh chóng sau khi xét duyệt cho vay để tạo ra ấn tượng ban đầu tốt đẹp về hình ảnh của Ngân hàng. Đối với khách hàng đã quan hệ từ trước có tín nhiệm, ngân hàng có thể ưu đãi về lãi xuất cho vay, giảm bớt các điều kiện vay vốn... Mặt khác, trong quá trình kinh doanh nếu khách hàng gặp khó khăn chưa trả nợ, Ngân hàng có thể gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ để họ tiếp tục sản xuất kinh doanh. Các cán bộ Ngân hàng nên thăm hỏi, tặng quà nhân dịp lễ tết đối với khách hàng vay lớn có tín nhiệm cao để thắt chặt quan hệ. 2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay hộ sản xuất : a. Lập kế hoạch cho vay : Hoạt động cho vay hộ sản xuất tạo ra thu nhập hàng đầu của Ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cơ cấu vốn đầu tư và được đảm bảo khi có sự lựa chọn khách hàng cẩn thận. Tất cả những điều này nằm trong chính sách cho vay hay kế hoạch chiến lược các hoạt động cho vay của Ngân hàng. Cơ cấu kế hoạch có thể chia ra 2 phần cụ thể là : - Xác định thị trường : Là đề ra phương hướng cho vay của Ngân hàng bao gồm việc lựa chọn các ngành hoặc hoạt động kinh tế có phát triển phục vụ có hiệu quả và lâu dài, hạn chế cho vay ngành kém hiệu quả. - Thiết lập đường lối tín dụng : Là xác định phương hướng chung phân bổ các khoản cho vay khách hàng thuộc các nhóm ngành. Điều này giúp Ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững trong ngành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động , phân tán rủi ro cho vay. Việc lập kế hoạch căn cứ trên mục tiêu chương trình phát triển kinh tế của tỉnh cũng như định hướng của ngành, phân định chức năng rõ ràng với từng đơn vị cơ sở. Các chi nhánh Ngân hàng huyện, thị (Ngân hàng cấp III) cung cấp dữ liệu kinh tế xã hội, báo cáo về cơ cấu cho vay, phân tích cung cầu tín dụng của hộ sản xuất tại địa bàn hoạt động. Yêu cầu đặt ra là thông tin phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, kịp thời và thường xuyên được cập nhật. NHNo huyện Từ Liêm sẽ tổng hợp và sàng lọc thông tin lập ra kế hoạch cho vay thường xuyên và thời kỳ 3 năm, 5 năm. .. Việc lập kế hoạch chính xác và khoa học sẽ hướng dẫn các nhân viên Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính một cách hiệu quả hơn. b. Tăng cường tiếp cận đến từng hộ sản xuất : Việc xây dựng và củng cố mạng lưới Ngân hàng cơ sở rộng khắp với nhiều điểm giao dịch và điều kiện thuận lợi giúp Ngân hàng tiếp xúc gần hơn đến các hộ gia đình nhưng chưa đủ để các khách hàng nhỏ đến với Ngân hàng. Một số lý do các hộ sản xuất còn ít tiếp cận đến tín dụng chính thức (tín dụng Ngân hàng ) đã được tổng kết lại : 1. Thiếu thông tin bao gồm sự thiếu quan tâm của Ngân hàng , thiếu một nền văn minh Ngân hàng và các chương trình tín dụng. 2. Nhiều vùng còn xa với các điểm giao dịch của Ngân hàng 3. Chi phí cho vay cao 4. Yêu cầu thế chấp ngặt nghèo 5. Hồ sơ giấy tờ phức tạp. 6. Rủi ro trong nông nghiệp có thể dẫn đến không trả đươc nợ Do vậy việc tiếp xúc trực tiếp với các hộ gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiếp cận. Ngân hàng cần một hệ thống thông tin, tuyên truyền về lợi ích khi quan hệ với Ngân hàng cũng như giúp đỡ tìm ra vướng mắc của họ để cùng nhau tháo gỡ. Để mở rộng tiếp cận đến từng hộ sản xuất , Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau : - Đối với các món vay nhỏ dưới 5 triệu đồng, Ngân hàng nên đơn giản hoá quy trình cho vay để đẩy mạnh tiến độ mở rộng khả năng tiếp cận. - Cần tăng cường lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện với những thủ tục riêng để đơn giản hoá hoạt động phân tích dự án. Cần soạn thảo các bẳng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác như : chăn nuôi, trồng trọt. .. - Khi đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ tín dụng, nên bổ sung thêm một tiêu thức đó là số lượng người vay do cán bộ tín dụng quản lý. - Cán bộ tín dụng không nên bị bắt buộc phải đình chỉ hoạt động cho vay của mình trong trường hợp đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Nếu như cán bộ tín dụng đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay, họ không nên bị quy trách nhiệm đối với những rủi ro đã xảy ra. Rủi ro của các khoản vay trong trường hợp đó là mang tính chất thể chế hơn là rủi ro của cá nhân cán bộ tín dụng c. Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay : Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay, mạnh dạn áp dụng các phương thức cho vay mới khi có điều kiện. Hiện nay Ngân hàng chủ yếu cho vay theo phương thức từng lần. Phương thức này thích hợp với hộ vay vốn không thường xuyên sản xuất theo mùa vụ, chu chuyển vốn chậm. Do thủ tục vay vốn còn phức tạp, cần nhiều giấy tờ gây khó khăn cho khách hàng thường xuyên. Đối với những khách hàng có vòng quay vốn thường xuyên và quá trình vay trả sòng phẳng, có tín nhiệm trong quan hệ giao dịch, Ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức này cho phép khách hàng có thể duy trì một hạn mức tín dụng trong thời hạn nhất định theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi hạn mức tín dụng và thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần rút vốn cho vay khách hàng chỉ phải lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí quản lý hồ sơ của Ngân hàng. Về lâu dài, khi tỉnh có vùng chuyên canh trồng lúa có hai vụ liền kề, Ngân hàng có thể cho vay lưu vụ nếu xét thấy phương án sản xuất của hộ đang có hiệu quả và lãi món vay trước đã trả đủ. Theo phương thức này, hộ nông dân sau một chu kỳ sản xuất chỉ cần trả hết lãi có thể xin vay lưu vụ mà không cần làm lại thủ tục vay từ đầu. Cho vay bằng phương thức này giúp các hộ sản xuất có điều kiện chủ động về vốn, giảm chi phí giao dịch, giảm các thủ tục phiền hà và gắn bó người nông dân với Ngân hàng hơn. 3. Giải pháp bổ trợ : a. Giải pháp về huy động vốn : Vốn huy động phải đáp ứng được hai yêu cầu : + Một là : đáp ứng đủ cho nhu cầu vốn của các hộ sản xuất, đặc biệt là vốn trung và dài hạn để đầu tư và phát triển chiều sâu + Hai là : Giảm chi phí huy động nhằm tăng chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào. Khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng vì mục đích muốn có thu nhập, thuận tiện khi sử dụng và an toàn. VIệc đánh giá mục đích nào quan trọng tuỳ thuộc vào từng đối tượng gửi tiền. Thường thì các tổ chức kinh tế gửi vào mục đích thanh toán thuận tiện và an toàn, lãi suất tiền gửi không phải là vấn đề họ quan tâm. Trong khi đa số các khoản tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục đích chính là muốn có thu nhập một cách an toàn. Các khoản tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, do đó Ngân hàng phải có biện pháp kích thích đoạn thị trường này. Để giải quyết tốt hoạt động huy động vốn Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau : - Định mức về huy động tiết kiệm nên được sử dụng như là một tiêu thức đánh giá cán bộ tín dụng. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng khi giải ngân, thu nợ và thăm khách hàng phải có trách nhiệm huy động tiết kiệm. - Ngân hàng đưa ra những sản phẩm khuyến khích tiết kiệm. Ngân hàng cần thiết kế và áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với nhiều mức lãi suất khác nhau tuỳ thuộc vào số dư trên tài khoản. Sản phẩm này sẽ kết hợp được nhiều điểm lợi như khả năng rút tiền dễ dàng (không kỳ hạn) mức lãi suất tăng dần, có tính hấp dẫn cao (không quy định số dư tối thiểu) - Ngân hàng cần có sản phẩm tiết kiệm nhằm huy động các món tiền gửi nhỏ. Sản phẩm này có đặc tính khuyến khích hộ nghèo có thu nhập thấp gửi tiết kiệm, từ đó giúp họ tăng vốn sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. - Ngân hàng tích cực xây dựng, củng cố mạng lưới Ngân hàng lưu động và Ngân hàng liên xã tiếp cận gần dân, sát dân tăng thời gian giao dịch với khách hàng. - Ngân hàng phải trú trọng đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Bởi vì yếu tố cạnh tranh về giá bị hạn chế, các khách hàng rất khó nâng hơn nữa lãi suất tiền gửi vì chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra hiện tại rất nhỏ (0,35%) không đảm bảo cho kinh doanh có lãi. Ngân hàng cần thực hiện theo hướng : + Nâng cao năng lực của nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng, những người được coi là bộ mặt của Ngân hàng. Họ giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra những dịch vụ Ngân hàng có chất lượng cao. Sự tham gia của họ thể hiện ở sự giao tiếp nhằm tạo ấn tượng đẹp về hình ảnh Ngân hàng , sự tự tin và tính chuyên nghiệp trong nhận biết ý muốn của khách hàng, xử lý thành thạo nhanh chóng các thủ tục dịch vụ, chủ động đề nghị giúp đỡ những khó khăn, vướng m ắc có thể phát sinh từ phía khách hàng. + Tăng cường trang thiết bị phương tiện vật chất, thiết bị Ngân hàng nhanh chóng, chính xác, giảm các thủ tục thao tác thủ công. Sự tham gia của các vật chất hiện đại sẽ nâng cao chất lượng phcụ vụ tạo ra bầu không khí tin cậy đối với khách hàng, thể hiện tính chuyên nghiệp cao của hoạt động Ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của Ngân hàng. b. Giải pháp về công tác cán bộ Con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng , cũng như trong việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng. Nghiệp vụ Ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao. Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng cần thực hiện hai giải pháp sau : - Đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức kinh tế , kinh tế ngoại ngành, pháp luật cho nhân viên Ngân hàng đặc biệt là đối với các cán bộ tín dụng để họ có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức đảm đương tốt công việc được giao. - Bố trí sử dụng nguồn nhân lực. Việc bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ giữ vị trí rất quan trọng trong quản ý Ngân hàng. Một khi nguồn lực được sử dụng đúng đắn và hợp lý sẽ tạo điều kiện cho từng cán bộ phát huy hết năng lực của mình, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Muốn làm tốt việc này, trước hết Ban lãnh đạo Ngân hàng phải đánh giá chính xác trình độ năng lực mỗi người làm cơ sở bố trí đúng người, đúng việc. Mặt khác, cần lưu ý đến tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao và tiếp thu những nguyện vọng, ý kiến phản hồi từ mỗi người để ra quyết định một cách chính xác. Ngân hàng cần tiếp tục tăng số lượng cán bộ tín dụng giảm cán bộ hành chính để gảm chi phí quản lý và giảm áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng hiện tại. Ngân hàng cần có chính sách ưu đãi thông qua thu nhập, chế độ đãi ngộ phù hợp với cường độ, thời gian lao động và trách nhiệm nặng nề mà họ phải đảm nhiệm. III. Kiến nghị : 1. Kiến nghị với Nhà nước : * Nhà nước có chính sách đầu tư cho nông nghiệp. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các chính sách này, Nhà nước cần có một hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp ở tầm quốc gia. Hệ thống chính sách bao gồm các chính sách : * Chính sách tài chính - tiền tệ : + Chính phủ nên nới lỏng chính sách lãi suất để đảm bảo rằng các định chế tài chính nông thôn có đủ khả năng trang trải tất cả các chi phí bao gồm chi phí vốn theo giá thị trường, chi phí hoạt động , lạm phát, chi phí bù đắp những khoản mất vốn đồng thời đảm bảo một mức lợi nhuận hợp lý. + Chính phủ cần khuyến khích sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn qua đó nâng cao chất lượng của dịch vụ này. Sẽ có nhiều chương trình tiết kiệm và tín dụng được chuyển đổi thành hợp tác xã tín dụng hơn nếu như các thủ tục đăng ký hoạt động được đơn giản hoá và mức vốn pháp định cần thiết được hạ thấp hơn nữa. + Chính phủ nên áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo đối với khu vực dịch vụ tài chính nông thôn. Các biện pháp đó có thể bao gồm việc phân bổ theo một tỷ lệ phần trăm tối thiểu đã được xác định trước trong tổng chi phí cho ngân sách đào tạo. Việc chia sẻ chi phí giữa Chính phủ và các định chế tài chính sẽ đẩy nhanh quá trình thực hiện. * Chính sách trợ giá : + Trợ giá đầu vào : Nhà nước nên có trợ giá để khuyến khích nông dân áp dụng KHKT mới hoặc tài trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư, thiết bị, phân bón, thuốc trừ sâu để bán cho hộ sản xuất với giá cả ổn định. + Trợ giá đầu ra : Sản phẩm nông nghiệp mang tính chất thời vụ, việc tiêu thụ sản phẩm thường gặp khó khăn. Nhà nước cần gia tăng quỹ bình ổn giá cả, bù đắp cho nông dân đảm bảo không bị rớt giá, gây thua lỗ. Hoặc Nhà nước trợ giá cho các đơn vị thu mua sản phẩm của người nông dân khi kết thúc mùa vụ. - Chính phủ bảo hiểm : Nhà nước đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm ở nông thôn như : bảo hiểm mùa màng, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm tàu thuyền đánh bắt thuỷ hải sản. - Chính sách bảo trợ xuất khẩu - Chính sách tiêu thụ nông sản nhằm tạo thị trường ổn định cho người nông dân. - Chính sách đất đai : Nhà nước đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Chính sách thương mại ; * Chính phủ nên xem xét việc công nhận về tư cách pháp lý cho các tổ , nhóm tín chấp vay vốn giúp Ngân hàng thuận lợi hơn trong quá trình cho vay nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng. * Các hộ làm kinh tế quy mô lớn, sản xuất sản phẩm hàng hoá đang xuất hiện ngày càng nhiều tạo ra động lực thúc đẩy quá trình phân công lao động, tăng sản phẩm hàng hoá. Về vốn kinh doanh của các hộ này chủ yếu là vốn tự lực nhưng nhu cầu vốn bổ sung là phổ biến, nhất là vốn trung - dài hạn. Nhưng khó khăn chính đối với các hộ này khi vay vốn Ngân hàng là vấnn đề thế chấp tài sản. Nếu tính giá trị đất sử dụng được giao để thế chấp thì mức vốn được vay không đủ chi phí vì suát đầu tư ban đầu khá cao. Điều này thường gặp ở các hộ vay vốn trồng cây ăn quả, cây công nghiệp. Nếu tính giá trị tài sản trên đất, ví dụ giá trị vườn cây ăn để thế chấp, thì căn cứ để xác định giá trị tài sản và cơ quan xác nhận Nhà nước chưa có quy định cụ thể. * Nhà nước cần xem xét miễn thuế trong vài năm tới cho các Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cấp đủ kịp thời các khoản nợ khoanh hàng năm đã được xác định. Có như vậy hệ thống NHNo mới có đủ vốn cần thiết để tồn tại và tăng trưởng quy mô hoạt động. Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ điều tiết thu nhập thoả đáng cho hệ thống NHNo như vấn đề dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn, nguồn vốn tín dụng ưu đãi để tạo thêm thu nhập cho NHNo. 2. Kiến nghị với chính quyền địa phương : * Trong những năm tới, tỉnh Hà Tây phải xây dựng các vùng kinh tế phát triển cây con làm tiền đề cho giai đoạn đầu tư tiếp theo, vì không có quy hoạch thì không thể đầu tư có hiệu quả. Nhiều địa phương khi nói đến vốn thì thiếu nhiều nhưng yêu cầu tính nhu cầu vốn cụ thể và phương án hay dự án vay vốn thì lại không xác định được. Tỉnh có thể xây dựng các vùng trồng lúa xuất khẩu tậpt rung ; vùng trồng cây công nghiệp ; vùng trồng cây ăn quả ; vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm, lợn hướng nạc, bò sữa, chế biến nông sản. .. Xây dựng hệ thống khép kín khâu nguyên liệu, sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng nông thôn, trước mắt xây dựng các công trình thuỷ nông phục vụ tưới tiêu cho cây trồng, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp. Đây là vấn đề cần thiết đảm bảo xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi. * Trên cơ sở các quy hoạch kinh tế theo vùng, ngành nghề, cây con, tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng xây dựng các dự án khả thi để giúp NHNo tiếp cận và thẩm định để mở rộng cho vay theo dự án phục vụ phát triển kinh tế địa phương. * Đối với khu vực HTX, tỉnh có chủ trương củng cố các HTX, tạo điều kiện cho NHNo mở rộng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn như cứng hoá kênh mương, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi nội đồng, điện, đường, trường, trạm theo đúng luật. 3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam : * Theo quy định hiện hành, các hộ nông dân được giao đất sử dụng lâu dài khi vay trên 10 triệu đồng phải thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tuy nhiên, điều này chỉ có giá trị trên lý thuyết vì trên thực tế khi người vay không hoàn trả được nợ thì tài sản là đất nông nghiệp rất khó phát mại và gần như là không thể được. Mặt khác, nông dân được giao đất với thời hạn rất dài, thường là trên 20 năm. Do vậy nếu bị Ngân hàng phát mại thì sẽ kiếm sống như thế nào khi mà sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất phi nông nghiệp còn rất hạn chế, gây ra hậu quả nặng nề về mặt xã hội. Vì vậy, NHNo & PTNT Việt Nam cần tìm một hình thức bảo đảm có khả năng thực thi cao nhằm hỗ trợ công tác cho vay của Ngân hàng cũng như việc sản xuất của hộ nông dân. - NHNo & PTNT cần nghiên cứu, tổng kết và cải tiến cho phù hợp hơn về cơ chế cho vay qua tổ, nhóm, cơ chế giải ngân, thu nợ, mô hình tổ chức cho vay lưu động, xác định rõ hình thức cho vay trang trại để nhân rộng các mô hình có hiệu quả, tạo thành hành lang pháp lý rõ rằng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. - NHNo & PTNT nên trao quyền tự chủ ở mức cao hơn nữa cho các chi nhánh NHNo tỉnh trong việc quyết định cơ cấu kỳ hạn nợ,. các sản phẩm tiết kiệm và tín dụng mới. Kết luận Hoạt động tín dụng đóng vai trò rất quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế do vậy việc đầu tư vốn có hiệu quả hay không, có ý nghĩa rất lớn đến sự thành bại trong kinh doanh Ngân hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Bước chuyển trong hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất là nhân tố quyết định đến những thành công trong hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây những năm qua, trong đó thành tích nổi bật là dư nợ không ngừng mở rộng và chất lượng tín dụng không ngừng đảm bảo. Tuy nhiên hoạt động này đang gặp nhiều khó khăn do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như đã phân tích ở trên, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Qua việc nghiên cứu và phân tích, đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết những mặt tồn tại và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất nhằm phát triển kinh tế. Tuy nhiên do trình độ và kiến thức có hạn nên giải pháp đưa ra cũng như kiến nghị thực hiện chắc chắn còn nhiều hạn chế. Em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của thầy cô đối với khoá luận. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Sơn, các thầy cô trong khoa nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng và Ban lãnh đạo NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây đã tạo điều kiện cho em hoàn thành khoá luận. Tài liệu tham khảo 1. Ngân hàng thương mại - NXB TP Hồ Chí Minh 1993. 2. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại - NXB CTQG 1997. 3. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính 4. Luật NHNN và Luật TCTD 5. Quy định 499A - TDNT 02/ 09/ 1993 NHNo Việt Nam hướng dẫn nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp 6. Quyết định 180/ QĐ - HĐQT NHNo Việt Nam quy định cho vay đối với khách hàng. 7. Quy chế cho vay đối với khách hàng. NHNo & PTNT Việt Nam 12/ 1998./ 8. Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo & PTNT huyện Từ Liêm năm 96, 97, 98, 99, 2000. 9. Báo cáo tổng kết công tác tín dụng NHNo & PTNT huyện Từ Liêm các năm 96, 97, 98, 99, 2000. 10. Kinh tế hộ - Lịch sử và triển vọng phát triển. Vũ Tuấn Anh NXB KHXH 1997. 11. Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam. Chu Văn Vũ - NXB KHXH 1995. 12. Đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân phát triển kinh tế hộ gia đình. Nguyễn Hữu Đạt - NXB KHXH 1995 13. Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn CNH - HĐH. Đặng Thọ Xương - NXB Chính trị quốc gia 1997. 14. Văn hiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII. 15. Tạp chí Ngân hàng 16. Tạp chí thông tin NHNo. mục lục Nội dung Trang - Lời mở đầu : 3 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 3 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Kết cấu khoá luận 5 - Chương I : Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. 6 I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường 6 1. Khái niệm hộ sản xuất 6 2. Vai trò của của HSX trong nền kinh tế thị trường 7 3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế HSX 9 II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế HSX 11 1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng 11 2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với HSX 13 3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và HSX 16 III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX 17 1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng 17 2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX 18 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX 23 - Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. 27 I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 27 1. Đặc điểm kinh tế xã hội tác động đến kinh doanh kinh doanh của NHNo huyện Từ Liêm 27 2. Quá trình hình thành phát triển và chức năng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 29 3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 31 II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Hà Tây 32 1. Huy động vốn 32 2. Hoạt động cho vay 34 III. Thực trạng tín dụng đối với HSX tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 40 1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo huyện Từ Liêm 40 2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo huyện Từ Liêm trong thời gian qua 42 IV. Đánh giá về hoạt động tín dụng đối với HSX tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 58 1. Kết quả đạt được 58 2. Hạn chế trong hoạt động cho vay hộ sản xuất 62 - Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất 68 I. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX 68 1. Chính sách tín dụng đối với HSX của Nhà nước 68 2. Định hướng chung của NHNo & PTNT Việt Nam 68 3. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây 69 4. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX của NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây 70 II. Một số giải pháp cơ bản 71 1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với HSX 71 2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay HSX 81 3. Giải pháp bổ trợ 84 III. Kiến nghị 86 1. Kiến nghị với Nhà nước 86 2. Kiến nghị với chính quyền địa phương 88 3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam 89 Kết luận 90 Tài liệu tham khảo 91 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0261.doc
Tài liệu liên quan