Nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Thanh Xuân

Mục lục Lời nói đầu Chương I: Lý luận chung về hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản của Ngân hàng thương mại(NHTM). 1.1 Khái niệm và sự cần thiết của bảo đảm tiền vay bằng tài sản 1.1.1 Khái niệm 1.1.2 Sự thiết của bảo đảm tiền vay bằng tài sản 1.2 Các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản 1.2.1 Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay. 1.2.2 Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay 1.2.3 Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. 1.2.4 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ vốn vay 1.3 Định giá TSBĐ 1.3.1 Vai trò của định giá TSBĐ 1.3.2 Điều kiện đối với TSBĐ 1.3.3 Xác định giá trị của một số TTSBĐ 1.4 Xử lý TSBĐ 1.4.1 Phạm vi áp dụng 1.4.2 Các nguyên tắc chung 1.5 Hiệu quả BĐTV 1.5.1 Khái niệm hiệu quả BĐTV 1.5.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả BĐTV bằng tài sản 1.5.2.1 Nhóm chỉ tiêu định lượng 1.5.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính 1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả BĐTV bằng tài sản 1.6.1 Nhân tố từ phía Ngân hàng 1.6.2 Nhân tố từ phía khách hàng 1.6.3 Nhân tố khác Chương II. Thực trạng Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân I. Khái quát Chi nhánh NHCT Thanh Xuân 1. Lịch sử hình thành và phát triển 2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 3. Kết quả kinh doanh của Chi nhánh những năm gần đây. 3.1. Công tác huy động vốn 3.2. Công tác đầu tư và cho vay. 3.3.Công tác kinh doanh đối ngoại – Tài trợ thương mại. 3.4. Công tác tiền tệ kho quỹ. II. Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 1. Cơ sơ pháp lý về Bảo đảm tiền vay bằng tài sản. 2. Thực trạng Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 2.1. Định giá TSBĐ tại Chi nhánh. 2.2. Quản lý TSBĐ tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 2.3. Xử lý TSBĐ. 2.4 Tình hình cho vay có TSBĐ tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân 2.4.1 Dư nợ phân theo tính chất bảo đảm 2.4.2 Những tài sản được dùng làm TSBĐ tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 3. Đánh giá về hiệu quả BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 3.1. Những thành tựu đạt được. 3.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân. Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. I. Phương hướng hoạt động của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 1. Nâng cao chất lượng của cán bộ tín dụng. 2. Nâng cao chất lượng công tác định giá TSBĐ. 3. Thường xuyên đánh giá lại giá trị của TSBĐ. 4. Đa dạng hóa các loại TSBĐ. 5. Chi nhánh có thể yêu cầu khách hàng mua Bảo hiểm cho TSBĐ. 6. Quan tâm hơn đến việc quản lý TSBĐ 7. Nâng cao hiệu quả công tác xử lý TSBĐ. 8. Thiết lập hệ thống thông tin trong suốt. III. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị với NHCT Việt Nam. 2. Kiến nghị với NHNN. 3. Kiến nghị với các bộ ban ngành liên quan. 4. Kiến nghị với Chính phủ. Kết luận Lời nói đầu Ngân hàng thương mại (NHTM) có vị trí quan trọng trong mọi nền kinh tế đặc biệt là các quốc gia chưa có thị trường vốn phát triển như Việt Nam.Thực tế trong những năm qua, NHTM đã phát huy tốt vai trò là kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế, góp phần tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Theo kết quả thống kê, trong mấy năm gần đây, dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống NHTM đóng góp trên 10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước. Với chức năng là trung gian tài chính giữa người đi vay và người cho vay, hoạt động kinh doanh của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, trong đó nghiêm trọng nhất là rủi ro tín dụng. ở Việt Nam, hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản Có của hầu hết các NHTM, tới 60- 70 %, thậm chí có ngân hàng lên tới 90%, do đó nguy cơ rủi ro tín dụng lại càng lớn. Rủi ro tín dụng luôn đồng hành trong hoạt động ngân hàng, không thể loại trừ, chỉ có thể giảm thiểu, do đó luôn đòi hỏi phải có biện pháp đối phó và cho vay có Tài sản bảo đảm là một biện pháp được hầu hết các NHTM hiện nay đang tích cực áp dụng và Chi nhánh NHCT Thanh Xuân cũng không là ngoại lệ. Qua một thời gian thực tập tại Chi nhánh, được thực tế tìm hiểu công tác Bảo đảm tiền vay (BĐTV) bằng tài sản tại Chi nhánh, em nhận thấy công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, còn nảy sinh một số khó khăn, bất cập, cần sớm khắc phục. Do đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại chi nhánh NHCT Thanh Xuân”, cho chuyên đề thực tập của mình. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản của Ngân hàng thương mại(NHTM). Chương II: Thực trạng Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Th.s Lê Hương Lan, cùng toàn thể cán bộ trong Chi nhánh NHCT Thanh Xuân, đặc biệt là các cán bộ tín dụng Phòng khách hàng doanh nghiệp đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề của mình. Sinh viên Nguyễn Trần Thu Thủy Nội dung Chương I: Lý luận chung về hoạt động bảo đảm tiền vay (BĐTV) bằng tài sản của Ngân hàng thương mại (NHTM). Khái niệm & sự cần thiết của bảo đảm tiền vay bằng tài sản. 1.1.1 Khái niệm. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc biệt, đi vay để cho vay. Sự hoàn trả đủ và đúng hạn cả gốc và lãi của khách hàng, của doanh nghiệp vay vốn có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mỗi ngân hàng, đảm bảo luân chuyển vốn của TCTD tuần hoàn liên tục và sinh lời. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh khách hàng luôn phải đối mặt với vô vàn rủi ro không báo trước dẫn đến mất khả năng trả nợ cho ngân hàng hay nói cách khác dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Do đó, việc áp dụng bảo đảm tiền vay bằng tài sản là cần thiết, được coi là biện pháp nhằm phòng ngừa với rủi ro không thể loại bỏ như rủi ro tín dụng. Vậy, bảo đảm tiền vay bằng tài sản là gì? “Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc các TCTD yêu cầu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có tài sản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng”. Tài sản được dùng làm bảo đảm có thể là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc tài sản của bên thứ ba đứng ra bảo lãnh. Tùy vào từng loại tài sản, mà ngân hàng có thể nhận thế chấp hoặc cầm cố. Khi cung cấp một khoản tín dụng cho khách hàng, ngân hàng luôn kì vọng khách hàng sẽ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để tạo ra thu nhâp làm nguồn trả nợ cho ngân hàng. Đây được coi là khoản vay có hiệu quả, đạt được mục tiêu cho vay của Ngân hàng. Có thể gặp khó khăn trong kinh doanh hoặc do chủ định lừa đảo mà khách hàng đã không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình, lúc đó, ngân hàng sẽ tiến hành xử lý Tài sản bảo đảm (TSBĐ) của khách hàng để thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ thông qua xử lý TSBĐ chỉ là giải pháp cuối cùng, là điều ngân hàng không hề mong đợi, nhằm hỗ trợ cho việc thu hồi nợ của ngân hàng Như vậy, bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của người cho vay, được coi là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất là nguồn từ thu nhập do chính khoản vay tạo ra không được thực hiện. 1.1.2 Sự cần thiết của Bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong NHTM bao gồm hai mặt: Sinh lời và rủi ro. Rủi ro càng cao, sinh lợi kì vọng càng lớn. Có thể nói, rủi ro từ hoạt động tín dụng là rất lớn. Tổn thất nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính và nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản hoặc đổ vỡ ngân hàng và đây thường là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế, chính trị- xã hội. Trong khi đó rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan chỉ có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Vì vậy, trong hoạt động tín dụng, các NHTM phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm hạn chế tối đa tổn thất khi xảy ra rủi ro tín dụng. Tùy từng khách hàng mà ngân hàng có thể lựa chọn biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc bảo đảm bằng tín chấp. Bảo đảm bằng tín chấp là việc Ngân hàng tài trợ cho khách hàng dựa hoàn toàn vào uy tín của khách hàng. Uy tín của khách hàng, trên quan điểm của ngân hàng, được cấu thành bởi nhiều yếu tố như: quan hệ lâu dài, thường xuyên, trả nợ sòng phẳng, tình hình tài chính mạnh hoặc dự án có hiệu quả…Mặc dù uy tín có thể được coi là tài sản rất lớn của khách hàng hàng, một khách hàng có thể có nhiều lần trả nợ sòng phẳng song khi gặp bất trắc lớn, có thể vẫn không trả nợ được và lúc đó ngân hàng không thể bán uy tín đó để thu nợ. Như vậy, bảo đảm bằng tín chấp thì uy tín của khách hàng được coi là yếu tố quan trọng để hạn chế rủi ro tín dụng nhưng nó là yếu tố khó định lượng, không dễ dàng xác định và đặc biệt càng khó hơn đối với các nước mà môi trường kinh tế luôn biến động, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chồng chéo như Việt Nam và do đó rủi ro tín dụng được loại trừ rất ít. Vì vậy, việc cấp tín dụng sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều nếu nó được bảo đảm bằng tài sản, nhất là các loại tài sản có tính thanh khoản và giá trị cao. Việc ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi vay vốn cũng là lẽ thường tình xuất phát từ hai lí do: Thứ nhất: Cho vay có Tài sản bảo đảm góp phần nâng cao chất lượng các khoản vay, hạn chế tổn thất cho NHTM trong trường hợp các khoản vay quá hạn, khách hàng không trả được nợ, buộc phải xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Thứ hai: Cho vay có Tài sản đảm bảo tạo ra động lực thúc đẩy khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nếu không có bảo đảm có thể dẫn đến việc lơ là nghĩa vụ trả nợ. Ngược lại, nếu có bảo đảm sẽ tạo động lực tốt hơn cho nghĩa vụ trả nợ, vì nếu không sẽ mất tài sản và tốn kém chi phí nhiều hơn. Mặt khác, bảo đảm tiền vay bằng tài sản còn là rào cản đối với những người đi vay mang dòng máu lừa đảo. Măc dù, TSBĐ có ý nghĩa rất lớn trong hạn chế rủi ro tín dụng nhưng quá chú trọng yếu tố này cũng chưa hẳn là tốt bởi vì có nhiều trường hợp cán bộ tín dụng xem TSBĐ là cơ sở để quyết định cho vay mà xem nhẹ các yếu tố khác, đây chính là nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng. Như vậy, bảo đảm tiền vay bằng tài sản chỉ là biện pháp phòng vệ khi gặp các sự cố trong thực hiện hợp đồng tín dụng chứ không phải là cơ sở để quyết định cho vay và không bao giờ coi đó là nguồn trả nợ, mà chỉ là cái gì đó để dựa vào khi nguồn trả nợ dự kiến không thành. Cán bộ tín dụng cần phải dựa vào từng hợp đồng vay mà đặt vai trò của TSĐB cho đúng mức để tránh đánh mất những cơ hội kinh doanh. 1.2 Các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản. 1.2.1 Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay. Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Như vậy, tài sản cầm cố thuộc quyền kiểm soát của ngân hàng. Do đó, ngân hàng là người sở hữu trực tiếp, còn người vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố. Ngân hàng có quyền bán tài sản nếu nợ không được trả. Việc cầm cố này phải đảm bảo không những trả đủ nợ, mà còn cả số lãi tiền vay và tiền bội ước do không thực hiện được các cam kết. Căn cứ vào tính chất quản lý, tài sản cầm cố được chia ra làm hai loại: có đăng ký quyền sở hữu và không đăng ký quyền sở hữu. Ngân hàng chỉ nhận cầm cố những tài sản thỏa mãn những điều kiện: - Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý, bảo quản. - ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên, và đồng thời các tài sản mà ngân hàng nhận cầm cố không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ. - Tài sản cầm cố có giá trị ổn định, dễ bán trên thị trường. - Tài sản cầm cố phải thuộc sở hữu của khách hàng. Khách hàng không được dùng tài sản đi thuê, mượn hoặc đang tranh chấp quyền sở hữu để cầm cố. Nếu tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản thuộc sở hữu của nhiều người thì phải được sự đồng ý của người đó bằng văn bản. * Về nghĩa vụ của các bên đối với tài sản cầm cố: - Về phía khách hàng vay: Khi cầm cố tài sản phải giao toàn bộ tài sản cầm cố cho ngân hàng. Nếu có giấy chứng nhận quyền sở hữu cầm cố thì cũng phải giao giấy tờ đó. Trường hợp tài sản cầm cố là các loại phương tiện vận tải, đi lại, nếu được ngân hàng thỏa thuận cho khách hàng được sử dụng, trường hợp này ngân hàng giữ bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu có chứng nhận của cơ quan công chứng. Trong trường hợp bên cầm cố vẫn giữ tài sản thì phải bảo quản tài sản, không được bán, tặng, cho thuê, cho mượn, trao đổi tài sản cầm cố, không được dùng tài sản cầm cố để đảm bảo nghĩa vụ khác, chỉ được sử dụng tài sản cầm cố nếu được sự đồng ý của ngân hàng. - Về phía ngân hàng: Phải kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại. Khi nhận giữ tài sản thì ngân hàng phải bảo quản tài sản, không được bán tặng, cho thuê, cho mượn, trao đổi và sử dụng tài sản cầm cố. Ngân hàng phải trả lại tài sản cầm cố và các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu cho bên vay, khi bên vay trả hết nợ gốc và lãi. * Danh mục các tài sản đem cầm cố bao gồm: - Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý và các vật có giá trị khác. - Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ. - Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền, cổ phiếu do TCTD khác phát hành. - Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ Hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác. - Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. -Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo qui định của pháp luật. - Tàu biển theo quy định của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố. - Tài sản được hình thành trong tương lai là động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch cấm cố và sẽ thuộc sở hữu của các bên cầm cố như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, các động sản khác mà bên cầm cố có quyền nhận - Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. 1.2.2 Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay. Thế chấp là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. * Phân loại thế chấp tài sản bao gồm: Thế chấp pháp lý và công bằng. - Thế chấp pháp lý là hình thức thế chấp mà trong đó người đi vay (người thế chấp) thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Theo hình thức này, khi người vay không thanh toán được nợ, ngân hàng được quyền bán tài sản họăc cho thuê với tư cách là người chủ sở hữu mà không cần thực hiện các thủ tục tố tụng để nhờ sự can thiệp của toà án. - Thế chấp công bằng (thế chấp thông thường) là hình thức thế chấp trong đó ngân hàng chỉ nắm giữ giấy chứng nhận sở hữu tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm cho món vay. Theo hình thức này, khi người vay không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng, việc xử lý tài sản phải dựa trên cơ sở thoả thuận giữa người cho vay và người đi vay hoặc phải nhờ đến sự can thiệp của toà án, nếu có tranh chấp. Như vậy, so với thế chấp công bằng thì thế chấp pháp lý là hình thức thế chấp tạo ra tính chủ động cho ngân hàng trong xử lý TSBĐ và bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng khi không thu hồi được nợ. Thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai. - Thế chấp thứ nhất là việc thế chấp tài sản để đảm bảo cho món nợ thứ nhất. Đó có thể bảo đảm cho một khoản vay duy nhất hoặc cho khoản vay đầu tiên trong trường hợp một tài sản làm bảo đảm cho nhiều khoản vay. - Thế chấp thứ hai là hình thức thế chấp, trong đó người đi vay sử dụng phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tài sản thế chấp và khoản nợ thứ nhất được bảo đảm bằng tài sản đó để bảo đảm cho khoản nợ thứ hai. Khi quyết định cấp tín dụng cho khoản vay thứ hai cùng được đảm bảo bởi một tài sản thế chấp, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải xác định được phần giá trị tài sản thế chấp còn lại và kiểm soát việc sử dụng khoản vay thứ nhất của người vay. Trong thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ (thế chấp thứ nhất và thứ hai) có một số điểm lưu ý sau: Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản nợ đến hạn thì các khoản nợ khác chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. Như vậy, người đi vay khi dùng một tài sản thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ cần phải có kế hoạch sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả, chú ý đến các kì hạn trả nợ và có kế hoạch về nguồn tài chính phòng khi có một khoản vay đến hạn để bổ sung kịp thời, tránh việc cùng có nhiều khoản vay đến hạn cùng một lúc khi có một khoản vay không đựơc hoàn trả. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp. Thế chấp trực tiếp và thế chấp gián tiếp. - Thế chấp trực tiếp hay còn gọi là thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức thế chấp mà tài sản thế chấp do vốn vay tạo nên. - Thế chấp gián tiếp là hình thức thế chấp mà trong đó tài sản thế chấp và tài sản dùng vốn vay để mua là hai tài sản khác nhau. Thế chấp toàn bộ và thế chấp một phần bất động sản Trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp, thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận. Riêng đối với thế chấp quyền sử dụng đất, thì nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng trồng vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận. Trong thực tế, các ngân hàng thường nhận thế chấp toàn bộ bất động sản. Thế chấp một phần chỉ áp dụng trong trường hợp phần tài sản thế chấp có thể phát mại riêng mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận thế chấp. * Danh mục các tài sản đem thế chấp bao gồm: - Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. - Giá trị quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp. - Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp. - Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ Tài sản thế chấp (TSTC) cũng thuộc TSTC, nếu ngân hàng và khách hàng có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định, trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp. - Trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản cũng thuộc TSTC. Trong trường hợp, thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc TSTC nếu có thoả thuận. Thế chấp được sử dụng phổ biến và được người vay rất ưa thích vì người vay vẫn được phép sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho hoạt động kinh doanh và do tài sản đảm bảo thường lớn vì vậy, người vay có thể vay ngân hàng với qui mô lớn. Tuy nhiên, do khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng. Do đó, khi tài trợ dựa trên TSĐB bằng thế chấp, ngân hàng phải xem xét kĩ vật thế chấp. Trong hợp đồng thế chấp, phải có phần mô tả vật thế chấp (diện tích, giấy tờ sở hữu đối với đất, giá trị thị trường, công dụng, loại, công nghệ, quyền sở hữu … đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, năm tuổi, khả năng sinh trưởng … đối với cây trồng, vật nuôi, các sản phẩm gắn với đất…). Như vậy, ngân hàng cần phải có các nhà chuyên môn (hoặc thuê) đủ khả năng đánh giá đảm bảo. Sau khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận về nội quy sử dụng đảm bảo, quyền của ngân hàng giám sát đảm bảo, phát mại đảm bảo khi khách hàng vi phạm hợp đồng tài trợ. 1.2.3 Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Là việc bên bảo lãnh cam kết với ngân hàng về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình, đối với DNNN là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Hình thức này được các ngân hàng áp dụng trong trường hợp người đi vay không có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc trong trường hợp người đi vay có tài sản nhưng việc thế chấp hoặc cầm cố tài sản đó có mức độ an toàn thấp. Trong hình thức bảo lãnh vay vốn này, ngân hàng cho vay gọi là bên nhận bảo lãnh, bên đi vay gọi là bên được bảo lãnh và bên thứ ba chính là bên bảo lãnh. Khi bên được bảo lãnh thực hiện không đúng hoặc không đủ nghĩa vụ thì bên bảo lãnh trở thành con nợ của ngân hàng. Vì có sự tham gia của bên thứ ba - bên bảo lãnh nên rủi ro nảy sinh từ đối tượng này khá cao, xảy ra trong hai trường hợp: Bên bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết. Người bảo lãnh chết, hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt hoạt động. Theo quy định của Luật dân sự, trong thế chấp hoặc cầm cố nếu bên thế chấp hoặc cầm cố chấm dứt (cá nhân chết hoặc chấm dứt hoạt động) thì việc thế chấp hoặc cầm cố vẫn có hiệu lực đối với bên chủ nợ. Trái lại, trong bảo lãnh nếu bên bảo lãnh chấm dứt thì chấm dứt việc bảo lãnh. Do đó, để giảm thiểu rủi ro khi lựa chọn hình thức bảo đảm này, cán bộ tín dụng cần phải thẩm định kĩ càng bên bảo lãnh các mặt sau: Uy tín của bên bảo lãnh. Về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự. Về tài sản đảm bảo của bên bảo lãnh để thực hiện bảo đảm tiền vay. Tài sản của bên bảo lãnh cũng được thế chấp hoặc cầm cố tại ngân hàng và danh mục tài sản của bên bảo lãnh cũng giống như của khách hàng vay khi thực hiện cầm cố hoặc thế chấp. Theo phương thức bảo lãnh bằng tài sản như thế này, khi khách hàng vay vốn không trả được nợ thì người bảo lãnh sẽ phải trả nợ thay. Trong trường hợp bên bảo lãnh từ chối không thực hiện cam kết như trong hợp đồng bảo lãnh thì ngân hàng cho vay có thể thu hồi nợ vay thông qua việc bán tài sản đã được thế chấp hay cầm cố của bên bảo lãnh theo quy định của pháp luật. Bên bảo lãnh có thể là thể nhân hay pháp nhân. Một món vay có thể có nhiều bên tham gia bảo lãnh. Mỗi bên bảo lãnh có thể chấp thuận bảo lãnh một phần hay toàn bộ nợ vay cho bên được bảo lãnh. Mỗi bên bảo lãnh sẽ ký một hợp đồng bảo lãnh độc lập với nhau. Một bên bảo lãnh cũng có thể bảo lãnh cho nhiều khách hàng vay khác nhau. Bên bảo lãnh có quyền được nhận lại giấy tờ của tài sản đã đem cầm cố hay thế chấp để bảo đảm cho bên đi vay khi hợp đồng bảo lãnh chấm dứt, có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh trả lại khoản nợ mà mình đã trả thay. Vì việc bảo lãnh được thực hiện bằng tài sản của bên bảo lãnh dưới hình thức cầm cố hay thế chấp nên ngân hàng cũng sẽ áp dụng mức cho vay như trong trường hợp bảo đảm tiền vay bằng cách cầm cố hay thế chấp tài sản của chính khách hàng vay. 1.2.4 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng. Như vậy, tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của người vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng. Đây được coi là hình thức bảo đảm mang lại rủi ro hơn so với các hình thức bảo đảm khác bởi tài sản dùng làm bảo đảm vẫn chưa có khi kí hợp đồng bảo đảm và nó được hình thành trong quá trình sử dụng vốn vay. Mặt khác, hình thức bảo đảm này thường áp dụng cho những khoản vay trung dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Với những khoản vay trung dài hạn thời gian thực hiện dự án kéo dài lại càng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn: rủi ro trong kinh doanh của khách hàng, rủi ro xuất phát từ tài sản đảm bảo ( mất giá, hao mòn …). Do đó, hình thức bảo đảm này rất ít được áp dụng, chỉ áp dụng cho những dự án có tính khả thi cao hoặc những dự án theo chỉ định của Chính phủ. Để được vay vốn theo hình thức bảo đảm này, khách hàng vay phải đáp ứng một số điều kiện như: * Đối với khách hàng vay: Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật. Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% vốn đầu tư của dự án hoặc phương án đó. * Đối với tài sản: Tài sản hình thành từ vốn vay được đem ra bảo đảm cho món vay phải được quyền sở hữu hoặc được giao quyền sử dụng, xác định được giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay là vật tư hàng hoá thì ngoài các điều kiện trên, các ngân hàng còn phải có khả năng quản lý, giám sát tài sản bảo đảm. Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm, thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng. Đối với hình thức bảo đảm này, để hạn chế rủi ro, về phía ngân hàng, bên cạnh thực hiện tốt thẩm định hiệu quả dự án, kiểm tra, xem xét các điều kiện vay của khách hàng thì còn phải thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình như sau: - Ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng vay phải thông báo về tiến độ hình thành tài sản bảo đảm và sự thay đổi của tài sản bảo đảm tiền vay. - Ngân hàng có quyền xử lý tài sản hình thành từ vốn vay để thu nợ khi khách hàng vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. - Ngân hàng có nghĩa vụ bảo quản tài sản hình thành từ vốn vay được cầm cố cũng như phải có nghĩa vụ giữ gìn các giấy tờ liên quan đến tài sản hình thành từ vốn vay được thế chấp tại ngân hàng mình. Và ngân hàng phải trả lại giấy tờ có liên quan đến tài sản thế chấp, hoặc trả lại tài sản cầm cố cho khách hàng vay sau khi khách hàng vay hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. 1.3 Định giá tài sản đảm bảo. 1.3.1 Vai trò của định giá tài sản bảo đảm. Định giá tài sản đảm bảo là một khâu rất quan trọng trong quy trình cho vay có bảo đảm bằng tài sản, là cơ sở để ngân hàng xác định mức cho vay. Tuy nhiên, đây là công việc phức tạp vì định giá tài sản đảm bảo liên quan đến nhiều yếu tố: công dụng, tính thị trường, loại công nghệ… của tài sản đảm bảo. Một yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm tiền vay là phải chắc chắn rằng, nếu cần phải thanh lý thì số tiền bán tài sản có thể đủ để thu hồi nợ vay và chi phí thu nợ phát sinh. Để làm được việc này, TSBĐ trước tiên phải được định giá đúng. Việc xác định đúng giá trị TSBĐ là cần thiết, bảo vệ được quyền lợi cho ngân hàng lẫn khách hàng bởi vì: Nếu tài sản đảm bảo được định giá cao, qui mô tài trợ có thể lớn, có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại, nếu định giá thấp sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Như vậy, TSBĐ được định giá đúng bên cạnh giảm tổn thất cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng, còn tạo ra tin tưởng cho khách hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng mở rộng tín dụng. Để có thể định giá TSBĐ đúng, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần phải quan tâm tới một số khía cạnh của TSBĐ như: - Tài sản phải có thị trường tiêu thụ: khả năng thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Khả năng thanh khoản đó là khả năng chuyển hoán nhanh thành tiền của một tài sản. Mức độ thanh khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán trên thị trường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Tài sản bảo đảm nợ vay càng chuyển hoán nhanh bao nhiêu thì giá trị của nó được định giá càng lớn. Tính thanh khoản của tài sản đảm bảo được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: + Các cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán dễ mua bán trên thị trường + Các khoản phải thu. + Hàng tồn kho. + Máy móc, thiết bị, nhà cửa, đất đai. - Đặc tính của TSBĐ: Tuổi thọ kỹ thuật, giá trị sử dụng, khả năng sinh lời của tài sản, tốc độ hao mòn hữu hình và vô hình của tài sản. - Hiện trạng của tài sản. - Giá trị có thể thu hồi khi phải xử lý TSBĐ. Bên cạnh đó, trong định giá tài sản đảm bảo, cán bộ tín dụng phải đáp ứng những nguyên tắc sau: TSBĐ tiền vay phải xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm, việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho vay và không áp dụng khi xử lý để tài sản để thu hồi nợ Việc xác định giá trị TSBĐ tiền vay cần lập thành văn bản riêng, đặc biệt là đối với các trường hợp tài sản đảm bảo là các tài sản có giá trị lớn, giá cả biến động, hoặc quyền sử dụng đất. Giá trị TSBĐ được xác định bao gồm cả hoa lợi lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản đó. Trong trường hợp TSTC là toàn bộ bất động sản có vật phụ, thì giá trị của vật phụ cũng thuộc giá trị TSTC, nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản có vật phụ thì giá trị vật phụ chỉ thuộc TSTC khi các bên có thỏa thuận. Trong trường hợp có thỏa thuận với khách hàng về việc thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì giá trị TSBĐ bao gồm giá trị quyền sử dụng đất cộng với giá trị tài sản gắn liền với đất. 1.3.2 Điều kiện đối với tài sản bảo đảm. Việc cho vay có đảm bảo bằng tài sản thì yếu tố TSBĐ được cán bộ tín dụng thẩm định khá kĩ lưỡng vì TSBĐ là một mắc xích khá quan trọng đối với một món vay: giá trị ban đầu của TSBĐ làm cơ sở xác định mức cho vay cho khách hàng, TSBĐ là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không được thực hiện. Vịêc xem xét điều kịên đối với tài sản bảo đảm là khâu đầu tiên của việc lập Hợp đồng bảo đảm, quyết định các khâu tiếp của quy trình cho vay có bảo đảm bằng tài sản. TSBĐ có thể là tài sản của khách hàng, của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ bao gồm: Tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của khách hàng vay, của bên bảo lãnh, tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay, của bên bảo lãnh là DNNN, tài sản hình thành từ vốn vay. Tùy nguồn gốc hình thành nên tài sản, đặc điểm của từng loại tài sản mà có những điều kiện ràng buộc riêng đối với tài sản bảo đảm nhưng tối thiểu phải đáp ứng 4 điều kiện sau: -Thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh. Để chứng minh được điều này, khách h._.àng vay hoặc bên bảo lãnh phải xuất trình giấy chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài sản. Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của luật đất đai. Đối với tài sản mà Nhà nước giao cho Doanh nghiệp nhà nước quản lý, sử dụng, doanh nghiệp phải chứng minh được quyền cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản đó. - Thuộc loại tài sản được phép giao dịch. Tài sản được phép giao dịch được hiểu là các loại tài sản mà pháp luật cho phép hoặc không cấm mua, bán, tặng, cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giao dịch khác. - Không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Để thỏa mãn điều kiện này, Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản về việc tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý tài sản đó và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình. - Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật có quy định. Đối với các tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì ngân hàng yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh xuất trình Hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn bảo đảm tiền vay. Trường hợp khoản vay có thời hạn dài, khách hàng vay và bên bảo lãnh có thể xuất trình Hợp đồng mua bảo hiểm là ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Trường hợp không thỏa thuận được điều này, ngân hàng buộc khách hàng phải cam kết bằng văn bản về việc chuyển toàn bộ số tiền được đền bù theo hợp đồng bảo hiểm để thanh toán nợ gốc, nợ lãi và các chi phí khác tại ngân hàng. 1.3.3 Xác định giá trị của một số TSBĐ +TSBĐ không phải là quyền sử dụng đất. Đối với tài sản bảo đảm tiền vay không phải là quyền sử dụng đất, thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay do các bên thoả thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. - Đối với tài sản là ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại Tổ chức tín dụng bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ: Giá trị TSBĐ bằng đúng với giá trị ngoại tệ bằng tiền mặt hoặc số dư tiền Việt Nam trên tài khoản. - Đối với tài sản là giấy tờ trị giá được bằng tiền: Ngân hàng căn cứ giá trị ghi trên mặt chứng từ có giá, tham khảo thêm giá thị trường công khai nếu có ( tin công bố của NHNN, Công ty chứng khoán, báo chí…) và các nguồn thông tin khác để thỏa thuận với khách hàng vay/ bên bảo lãnh về mức giá trị của TSBĐ. - Đối với tài sản là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu hàng tiêu dùng: Ngân hàng căn cứ giá trị ghi trên hóa đơn mua hàng, giá trị còn lại ghi trên sổ sách sau khi trừ đi giá trị khấu hao, giá công bố trên báo chí, giá chào bán của các đại lý bán hàng… để thỏa thuận với khách hàng vay/ bên bảo lãnh về giá trị bảo đảm. + TSBĐ là quyền sử dụng đất. a) Đất do Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; đất ở; đất mà hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp; đất do Nhà nước giao có thu tiền đối với tổ chức kinh tế; đất mà tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, thì giá trị quyền sử dụng đất thế chấp, bảo lãnh do tổ chức tín dụng và khách hàng vay, bên bảo lãnh thoả thuận theo giá đất thực tế chuyển nhượng ở địa phương đó tại thời điểm thế chấp. Tổ chức tín dụng xem xét, quyết định mức cho vay và tự chịu trách nhiệm về rủi ro vốn cho vay. b) Theo Luật đất đai năm 2003 đã quy định: Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất không được thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất thuê mà chỉ được thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê tại các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam để vay vốn phát triển sản xuất. Nếu tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất trước ngày luật này có hiệu lực thi hành mà đã tiền thuê đất cho cả thời gian hoặc trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì tổ chức kinh tế đó mới được quyền thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất cùng với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình gắn với đất thuê tại các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam. Lúc này, giá trị quyền sử dụng đất được thế chấp, bảo lãnh gồm tiền đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng khi được Nhà nước cho thuê đất (nếu có), tiền thuê đất đã trả cho Nhà nước sau khi trừ đi tiền thuê đất cho thời gian đã sử dụng. 1.4 Xử lý TSBĐ. Khi cấp một khoản tín dụng cho khách hàng, ngân hàng luôn mong muốn khách hàng sử dụng hiệu quả vốn đó, tạo ra thu nhập làm nguồn trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khách hàng luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Lúc này, ngân hàng có thể sử dụng các giải pháp để xử lý các món nợ có vấn đề : -Tư vấn giúp đỡ khách hàng tháo gỡ khó khăn. -Yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm. - Đồng ý cho khách hàng gia hạn nợ, khoanh nợ hoặc xóa nợ. - Xử lý các tài sản bảo đảm tiền vay. Xử lý TSBĐ làm cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi không những được giảm xuống mức an toàn (dưới 5%) mà tình trạng tài chính cũng được cải thiện một cách đáng kể. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc xử lý TSBĐ là điều mà ngân hàng không hề mong đợi, được coi là biện pháp cuối cùng để thu hồi nợ vì khi thực hiện xử lý TSBĐ cho dù có thu hồi được toàn bộ cả gốc và lãi đi nữa thì ngân hàng vẫn gánh chịu tổn thất : giảm uy tín (yếu kém trong khâu thẩm định khách hàng, thẩm định phương án kinh doanh, yếu kém trong khâu quản lý khoản vay…), mất khách hàng, bên cạnh đó kéo theo nhiều khoản chi phí và việc xử lý TSBĐ là rất phức tạp qua nhiều khâu và nó càng trở nên phức tạp nếu các bên không tự thỏa thuận được mà phải nhờ sự can thiệp của Tòa án. Vì vậy, khi cho vay có đảm bảo bằng tài sản, ngân hàng luôn xác định trước nguyên tắc không bao giờ coi TSBĐ là nguồn trả nợ chủ yếu. 1.4.1 Phạm vi áp dụng: Việc xử lý các TSBĐ được thực hiện trong các trường hợp sau: - Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ, mà tài sản bảo đảm tiền vay chưa được xử lý theo thoả thuận. - Khách hàng phải trả nợ trước hạn do vi phạm các thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng hoặc theo quy định của pháp luật nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. - Khách hàng vay là tổ chức kinh tế bị giải thể trước khi đến hạn trả nợ, thì nghĩa vụ trả nợ tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn, nếu khách hàng vay không trả nợ và không xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để trả nợ, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản để thu hồi nợ. - Khách hàng vay được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản, nhưng bên thứ ba không thực hiện đúng cam kết. 1.4.2 Các nguyên tắc chung: Việc xử lý tài sản bảo đảm là điều không đơn giản, liên quan đến lợi ích của cả bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm, vì vậy, việc xử lý bảo đảm tiền vay phải tuân thủ những nguyên tắc sau: + Tài sản bảo đảm được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh (sau đây gọi chung là hợp đồng bảo đảm) giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, bên bảo lãnh (sau đây gọi chung là bên bảo đảm). Trong trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm theo phương thức đã thoả thuận, thì ngân hàng có quyền chủ động lựa chọn áp dụng một hoặc một số trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm sau đây để thu hồi nợ: - Bán trực tiếp tài sản bảo đảm cho người mua: Bán theo phương thức này có ưu điểm là giảm được chi phí, thủ tục đơn giản hơn so với bán thông qua bán đấu giá. Tuy nhiên, để bán theo phương thức này, tìm được người mua không phải là dễ, đòi hỏi cán bộ ngân hàng có chuyên môn để đánh giá, xác định giá trị TSBĐ và không phải tài sản nào cũng được bán theo phương thức này. Theo quy định thì đối với tài sản thế chấp là Bất động sản (Quyền sử dụng đất và hoặc tài sản gắn liền với đất) thì ngoại trừ TSBĐ cho các khoản nợ vay tồn đọng từ 31/12/2000 trở về trước, ngân hàng (người nhận thế chấp) không được trực tiếp bán tài sản thế chấp để thu nợ - Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Cách này giúp ngân hàng giảm được các chi phí liên quan như chi phí quảng cáo bán tài sản, chi phí bán đấu giá và một số các chi phí khác. Tuy nhiên, cách này được sử dụng hạn chế vì chỉ có một ít tài sản thực sự đáp ứng nhu cầu ngân hàng thì mới được ngân hàng chấp nhận như: Quyền sử dụng đất, nhà ở, văn phòng.... - ủy quyền bán đấu giá tài sản cho trung tâm bán đấu giá hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản theo quy định của Pháp luật về bán đấu giá tài sản. Đây là cách được áp dụng ngày càng phổ biến. áp dụng cách này giúp cho người có tài sản bán đấu giá có thể dễ dàng tìm được người mua và bán được tài sản với giá cao nhất. Tuy nhiên, theo cách này thì người có tài sản bán đấu giá phải thanh toán một khoản chi phí khá lớn gồm chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản và phí đấu giá (nếu bán được TSBĐ). Để bán được TSBĐ theo cách này, mất nhiều thời gian do thủ tục bán đấu giá tài sản trải qua nhiều bước. Ngoài ra, khi bán theo cách này, ngân hàng vẫn có thể gặp tổn thất do việc quản lý lỏng lẻo mà dẫn đến việc người tham gia đấu giá tài sản thông đồng dìm giá làm cho giá bán TSBĐ thấp đi so với thực tế. Việc bán được TSBĐ với giá cao hay thấp tùy thuộc rất lớn vào cách thức thực hiện, khả năng kiểm soát của các tổ chức bán đấu giá. Vì vậy, Luật pháp cần ban hành đầy đủ và chặt chẽ các quy định cho hoạt động của các tổ chức bán đấu giá để các tổ chức này phát huy được quyền và nghĩa vụ của mình. - ủy quyền hoặc chuyển giao cho tổ chức có chức năng mua bán tài sản để bán. Tổ chức có chức năng được mua tài sản để bán là: * Các Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của Ngân hàng Thương mại được thành lập theo Quyết định số 305/2000/QĐ-NHNN5 ngày 15/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; * Các công ty được thành lập nhằm quản lý và giải quyết các khoản nợ khó đòi của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. - Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên bảo đảm. + Tổ chức tín dụng có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm. Trong trường hợp được tổ chức tín dụng chuyển giao quyền thu hồi nợ, bên thứ ba có quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm như tổ chức tín dụng. Trường hợp được tổ chức tín dụng uỷ quyền xử lý tài sản, thì bên thứ ba được xử lý tài sản bảo đảm trong phạm vi được uỷ quyền. + Việc xử lý tài sản bảo đảm phải tuân thủ nguyên tắc công khai, thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích của các bên và tiết kiệm chi phí. + Trong trường hợp chủ sở hữu tài sản bảo đảm bị khởi tố về một hành vi phạm tội không liên quan đến việc vay vốn của tổ chức tín dụng hoặc không liên quan đến nguồn gốc hình thành tài sản bảo đảm, thì tài sản bảo đảm của người đó không bị kê biên và được xử lý theo quy định tại Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN- BTP-BCA-BTC-TCĐC trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. + Trường hợp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nếu phải xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thực hiện một nghĩa vụ trả nợ đến hạn, thì các nghĩa vụ trả nợ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và được xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ. + Các chi phí phát sinh trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay do bên bảo đảm chịu. Tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ chi phí xử lý, thì tổ chức tín dụng thu nợ theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các khoản phí khác (nếu có). Tài sản bảo đảm tiền vay sau khi được xử lý nếu không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay, bên bảo lãnh phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. + Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện pháp để thu hồi nợ, không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của tổ chức tín dụng. 1.5 Hiệu quả bảo đảm tiền vay. 1.5.1 Khái niệm hiệu quả Bảo đảm tiền vay: Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt, kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng có vị trí quan trọng trong mọi nền kinh tế, đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia chưa có thị trường vốn phát triển. Nếu ngân hàng gặp những rủi ro, đặc biệt rủi ro về tài chính sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với kinh tế – xã hội. Vì vậy, mục tiêu kinh doanh mà các NHTM luôn hướng tới là lợi nhuận và an toàn hay tối đa hóa lợi nhuận trong phát triển bền vững. Rủi ro tín dụng luôn đồng hành với hoạt động cho vay. Bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp được các ngân hàng áp dụng để giảm thiểu rủi ro. Vậy bảo đảm tiền vay bằng tài sản được coi là hiệu quả khi nó đáp ứng được cả hai tiêu chí là sinh lợi và an toàn. Một khoản tín dụng được coi là an toàn là khoản tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. Sinh lời là yếu tố sống còn đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tăng khả năng sinh lời được coi là cách đảm bảo an toàn nhất. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản được coi là hiệu quả khi nó phát huy được những mặt sau: - Bảo đảm tiền vay bằng tài sản nâng cao trách nhiệm của người vay từ đó hướng khách hàng sử dụng hiệu quả vốn vay tạo ra nguồn thu nhập trả nợ ngân hàng. Việc khách hàng sử dụng hiệu quả tiền vay của ngân hàng và tạo ra thu nhập trả nợ ngân hàng góp phần gia tăng lợi nhuận, phát triển an toàn và bền vững cho ngân hàng. - Trong trường hợp rủi ro xảy ra hoặc bên bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ cam kết thì TSBĐ thanh lý phải đủ thu hồi nợ vay và chi phí thu nợ phát sinh. Đây được coi là biện pháp cuối cùng và xấu nhất được ngân hàng sử dụng để thu hồi khoản vay. Như vậy, bảo đảm tiền vay bằng tài sản có hiệu quả dưới giác độ ngân hàng phải là những khoản vay đáp ứng được mục tiêu kinh doanh của ngân hàng là an toàn và sinh lợi, góp phần nâng cao chất lượng khoản vay. Mặt khác, hoạt động ngân hàng mang tính xã hội hóa cao. Ngân hàng có vai trò như là “Bà đỡ” đối với các doanh nghiệp, mục tiêu hoạt động cho vay của ngân hàng là phát triển kinh doanh của doanh nghiệp và rộng ra là phát triển kinh tế chung của mỗi nước. Do đó, hiệu quả bảo đảm tiền vay ở phạm vi rộng hơn được thể hiện ở sự phát triển ổn định của doanh nghiệp và sự phát triển chung của cả nền kinh tế. Để bảo đảm tiền vay bằng tài sản phát huy được hiệu quả đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực hiện một cách thống nhất trong một tổng thể tất cả các khâu của công tác bảo đảm tiền vay từ việc thẩm định các điều kiện của TSBĐ, định giá TSBĐ, quyết định mức cho vay, quản lý và kiểm soát TSBĐ, đến khâu xử lý TSBĐ. Mỗi một khâu trong tổng thể đó đều có một ảnh hưởng nhất định đến yêu cầu bảo đảm chung. Để đánh giá hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản, người ta thường sử dụng tổng hợp một nhóm các chỉ tiêu như sau: 1.5.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả BĐTV bằng tài sản 1.5.2.1 Nhóm chỉ tiêu định lượng * Nhóm chỉ tiêu sinh lời. + Chênh lệch thu chi từ lãi của khoản cho vay có TSBĐ Doanh số cho vay có TSBĐ Chỉ tiêu này cho biết thu nhập mang lại cho ngân hàng khi một đồng vốn cho vay có TSBĐ được cung cấp cho khách hàng. + Chênh lệch thu chi từ lãi của khoản cho vay có TSBĐ Chênh lệch thu chi của tất cả các khoản vay Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng thu nhập của khoản cho vay có TSBĐ trong tổng thu nhập của các khoản cho vay. * Nhóm chỉ tiêu an toàn + Nợ quá hạn của khoản vay có TSBĐ Tổng nợ quá hạn + Nợ quá hạn của khoản cho vay có TSBĐ Dư nợ cho vay có TSBĐ + Thu nợ từ việc xử lý TSBĐ Tổng thu nợ của các khoản cho vay có TSBĐ + Thu nợ thực tế của các khoản vay có TSBĐ Thu nợ dự tính của các khoản vay có TSBĐ + Tỷ lệ các khoản vay phải xử lý TSBĐ trên tổng số khoản cho vay có TSBĐ Các tỷ lệ trên mà cao chứng tỏ biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản chưa đạt được hiệu quả * Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ tuân thủ + Tỷ lệ các khoản vay có TSBĐ vi phạm chế độ, quy định cho vay trên tổng số các khoản đã cho vay. Các chỉ tiêu trên được tính toán đơn giản.Việc tính toán cụ thể các chỉ tiêu trên sẽ tạo cơ sở giúp các nhà quản trị ngân hàng thấy được thực trạng của bảo đảm tiền vay bằng tài sản để từ đó có giải pháp kịp thời. 1.5.2.2 Nhóm chỉ tiêu định tính. Để đánh giá đúng hiệu quả của bảo đảm tiền vay bằng tài sản, thì cần kết hợp với các chỉ tiêu định tính. Đây là các chỉ tiêu chủ yếu tính trước các rủi ro mà khoản vay mang lại gồm có rủi ro khách hàng không trả được nợ và rủi ro khi thanh lý TSBĐ bằng cách phân chia ra các mức đạt được của một khoản vay. Để bảo đảm tiền vay bằng tài sản có hiệu quả, điều khá quan trọng đối với các nhà quản lý ngân hàng là phải sớm nhận biết những khoản nợ có vấn đề, từ đó phân chia các mức chất lượng của khoản vay. Các chỉ tiêu này cụ thể, chi tiết giúp ngân hàng xác định chính xác mức độ rủi ro để có biện pháp quản lý, phòng ngừa kịp thời và biện pháp xử lý thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro. Mức đạt đư ợc Tiêu chí Mức I: Chất lượng cao nhất - Những khoản vay có khả năng thanh khoản cao, điều kiện tài chính hoàn hảo, thu nhập ổn định trong quá khứ và có thể dự đoán trong tương lai, sẵn có nguồn vốn thay thế, quản lý mạnh, có xu hướng phát triển thuận lợi - Các khoản vay hoàn hảo về hồ sơ cho vay, hoàn chỉnh về quyền lợi bảo đảm đối với TSBĐ có khả năng thanh khoản cao: bảo đảm đầy đủ bằng chứng chỉ tiền gửi, chứng khoán chính phủ, giá trị tiền mặt của bảo hiểm … Mức II: Chất lượng tốt - Những khoản vay được mô tả ở mức I. Tuy nhiên, một số đặc điểm không thật sự mạnh, ví dụ: thu nhập có tính chu kỳ hơn và kém sẵn có nguồn vốn thay thế trong những giai đoạn suy thoái kinh tế. - TSBĐ có khả năng thanh khoản thấp hơn như bất động sản, cổ phiếu công ty mạnh - Tiềm năng thu nhập hiện tại và tương lai mạnh Mức III: Chất lượng chấp nhận được hay đạt yêu cầu - Có khả năng thanh khoản tương đối và điều kiện tài chính hợp lý. - Thu nhập có thể thất thường và khả năng thanh toán đầy đủ nhưng không đảm bảo trong mọi điều kiện. - Khoản vay được đảm bảo bằng các khoản phải thu và hàng lưu kho mà việc chuyển đổi thành tiền mặt là khó khăn và không chắc chắn. - Những nguồn vốn thay thế thường hay bị hạn chế Mức IV: Chất lượng dưới mức trung bình cần theo dõi - Khả năng thanh khoản thấp, thu nhập thất thường hoặc lỗ - Nguồn trả nợ không rõ ràng và TSBĐ là nguồn trả nợ duy nhất. - Thông tin trong hồ sơ tín dụng không đầy đủ để đưa ra bất kỳ một kết luận nào về chất lượng - Không tuân thủ lịch trình trả nợ, có dấu hiệu trả nợ không đúng kì hạn Mức V: Các khoản vay chất lượng thấp - TSBĐ, khả năng thanh toán và lưu chuyển tiền mặt không đủ để hỗ trợ mức vốn vay. - Các nguồn trả nợ không được xác định rõ ràng. Nếu không có sự giảm sát thường xuyên chặt chẽ, khả năng tổn thất một phần hoặc toàn bộ là hoàn toàn có thể xảy ra. - Trả nợ không đúng kỳ hạn, nếu không có sự giám sát thường xuyên, chặt chẽ khả năng tổn thất một phần hoặc toàn bộ là hoàn toàn có thể xảy ra. - Phải có thêm TSBĐ và khả năng tổn thất là rõ ràng. - Trả nợ không đúng kỳ hạn, có thể phải áp dụng các biện pháp điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ… Mức VI: Các khoản vay khó đòi -Trả nợ không đúng kỳ hạn nợ - Nguồn trả nợ chỉ còn TSBĐ - Có thể phải sử dụng các biện pháp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, giãn nợ…. đặc biệt có thể cả khoanh nợ, xử lý rủi ro - Nợ quá hạn dưới 360 ngày. - Phải áp dụng các biện pháp thu hồi nợ Mức VII: Các khoản vay tồn đọng - Nợ khoanh, nợ xóa chưa có nguồn , nợ quá hạn trên 360 ngày. - Không còn khả năng trả nợ - Còn TSBĐ nhưng không còn đối tượng để thu. - Không còn TSBĐ và không còn đối tượng để thu. - Không còn TSBĐ, con nợ vẫn còn tồn tại đang hoạt động nhưng thua lỗ kéo dài, không còn khả năng trả nợ. - Phải sử dụng tới các biện pháp để thu hồi nợ. Tóm lại, việc sử dụng tổng hợp các nhóm chỉ tiêu trên giúp ngân hàng đánh giá công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản, nhận ra các món vay hiệu quả và chưa hiệu quả. Tổng hợp các chỉ tiêu trên được coi như là hình thức biểu hiện hiệu quả của công tác BĐTV bằng tài sản. Vấn đề quan trọng là cần đi vào tìm hiểu bản chất của nó tức là đi vào tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản. 1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả Bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản đạt được không chỉ có được bởi sự nỗ lực của cán bộ ngân hàng mà nó còn phụ thuộc rất lớn vào tinh thần hợp tác của khách hàng, môi trường kinh doanh… Việc xác định đúng các nhân tố tác động đến hiệu quả BĐTV bằng tài sản có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở giúp ngân hàng đưa ra các biện pháp kịp thời hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. BĐTV bằng tài sản đạt hiệu quả có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, có thể do khách hàng, do chủ quan của ngân hàng, hoặc thay đổi của môi trường kinh tế vĩ mô. 1.6.1 Nhân tố từ phía Ngân hàng. - Về chất lượng nhân sự: Con người được coi là yếu tố quyết định cho việc thành bại của doanh nghiệp và đặc biệt quan trong hoạt động ngân hàng. Một khoản vay được thực hiện bao gồm nhiều khâu rất phức tạp và càng phức tạp hơn khi khoản vay được đảm bảo bằng tài sản. Để món vay đạt được hiệu quả, đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có kiến thức tổng hợp về trình độ nghiệp vụ, am hiểu về khách hàng cũng như lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, nắm vững luật pháp, có khả năng phân tích và phán đoán tình hình, có khả năng đánh giá và quản lý TSBĐ… Kiến thức mà cán bộ ngân hàng có được xuất phát từ việc được đào tạo qua các trường lớp và quá trình tích lũy kinh nghiệm công việc. Đáp ứng những yêu cầu trên sẽ giúp quá trình xét duyệt khoản vay được nhanh chóng, giúp ngân hàng chọn được khách hàng vay tốt, dự án cho vay hiệu quả, góp phần giảm thiểu rủi ro. Chất lượng nhân sự không chỉ được đánh giá ở mặt kiến thức trình độ mà còn phải được nhìn nhận ở mặt tư cách đạo đức. Yêu cầu về tư cách đạo đức càng phải được đặt ra đối với cán bộ ngân hàng vì phải làm việc trong môi trường liên quan đến tiền bạc, dễ bị cám dỗ của đồng tiền mà dẫn đến những động cơ xấu. Họ cố tình làm sai các nguyên tắc trong quy trình cho vay để tiếp tay cho khách hàng lừa đảo rút tiền ngân hàng. Chỉ vì thói tham lam mà nhiều cán bộ ngân hàng đã đánh mất tư cách đạo đức của mình, làm giảm uy tín đối với khách hàng gây ra nhiều tổn thất cho ngân hàng. Như vậy chất lượng nhân sự bao gồm trình độ và tư cách đạo đức không được đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng, hậu quả là BĐTV không phát huy được hiệu quả. - Công tác thẩm định: Quy trình cho vay có thể tóm lược qua các bước: Thẩm định cho vay, giải ngân, kiểm tra, giám sát khoản vay và thu hồi nợ. Công tác thẩm định là khâu đầu tiên của quá trình xét duyệt khoản vay nhưng lại là bước quan trọng nhất, làm cơ sở cho một loạt các quyết định: phê duyệt khoản vay, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay,hình thức BĐTV .... Vì vậy, công tác thẩm định cần phải thực hiện chặt chẽ và đúng quy trình. Đối với cho vay có TSBĐ thì công tác thẩm định lại càng yêu cầu khắt khe và phức tạp hơn bên cạnh các nội dung: thẩm định khách hàng, thẩm định phương án vay vốn và thêm phần thẩm định TSBĐ. Công tác thẩm định được thực hiện tốt ở tất cả các nội dung thì rủi ro sẽ được giảm đáng kể. - Công tác thu thập và xử lý thông tin: Trong kinh doanh đặc biệt trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì việc cập nhật thông tin là yếu tố sống còn, quyết định thành công của doanh nghiệp. Bạn chỉ chậm sau đối thủ trong việc tiếp nhận thông tin là bạn có thể coi như là thất bại. Và thông tin lại càng trở nên quan trọng đối với hoạt động kinh doanh đầy rủi ro, phần lớn dựa trên “chữ tín” như Ngân hàng. Việc thu thập và xử lý thông tin nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhất là công tác thẩm định và xét duyệt khoản vay, phục vụ cho hoạt động phân tích, dự báo, dự đoán tình hình thị trường, tình hình phát triển kinh tế … cũng như đánh giá hiệu quả dự án. Nguồn thu thập thông tin có thể là: Hồ sơ vay vốn của khách hàng. Thông qua Trung tâm Thông tin Tín dụng. Các bạn hàng/ đối tác làm ăn, bao gồm các nhà cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị và những khách hàng tiêu thụ sản phẩm của khách hàng. Các cơ quan quản lý trực tiếp khách hàng xin vay. Các ngân hàng mà khách hàng hiện vay vốn hoặc trước đó đã vay vốn. Các phương tiện thông tin đại chúng và cơ quan pháp luật. Để cho vay bằng TSBĐ phát huy được hiệu quả thì TSBĐ phải có giá trị, là tài sản mà khách hàng mong muốn nhận lại tức là phải đóng vai trò gắn kết trách nhiệm của khách hàng, tạo động lực để khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Bên cạnh đó, TSBĐ khi xử lý phải đủ thu hồi nợ. Do đó, các thông tin về TSBĐ cần được thu thập kĩ lưỡng như: tình trạng tài sản, về pháp lý, về khả năng thanh khoản…. để là nguồn chất lượng cho việc thực hiện tốt công tác thẩm định TSBĐ. Như vậy, việc thu thập và xử lý chính xác thông tin thu được sẽ hỗ trợ tốt cho công tác thẩm định cũng như công tác dự đoán, dự báo từ đó giúp cho Ngân hàng quyết định cho vay hiệu quả và an toàn . - Công tác quản trị rủi ro tín dụng: Quản trị rủi ro tín dụng nằm trong khuôn khổ quản trị rủi ro chung của NHTM. Quản trị rủi ro tín dụng là việc ngân hàng sử dụng các biện pháp khác nhau để xác định mức độ rủi ro dự báo có thể xảy ra trong hoạt động và đưa ra các giải pháp để giảm thiểu mức độ của từng loại rủi ro. Quản trị rủi ro tín dụng là một quy trình gồm các bước cơ bản sau: Nhận biết được rủi ro Đo lường rủi ro Điều tiết rủi ro Giám sát rủi ro Công tác quản trị rủi ro tín dụng được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả sẽ tạo ra thế chủ động cho ngân hàng đối diện với rủi ro và tìm ra các biện pháp xử lý kịp thời qua đó, hạn chế thấp nhất tổn thất và nâng cao an toàn cho hoạt động ngân hàng. Quản trị rủi ro tín dụng được thực hiện hiệu quả là giải pháp tốt nhất nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả cho vay. Quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả là điểm căn bản cho một phương pháp quản trị rủi ro toàn diện và thành công của bất kỳ ngân hàng nào. Muốn cho công tác quản trị rủi ro tín dụng được hiệu quả thì nhất thiết công tác thẩm định và công tác thu thập và xử lý thông tin cần thực hiện đúng nguyên tắc và hiệu quả. - Công tác quản lý và xử lý tài sản bảo đảm. Công tác quản lý và xử lý TSBĐ là yêu cầu bắt buộc và quan trọng trong cho vay có TSBĐ. Việc quản lý tốt TSBĐ sẽ bảo vệ quyền lợi, lợi ích cho cả bên vay lẫn ngân hàng, tạo niềm tin cho khách hàng, từ đó khuyến khích họ vay có TSBĐ. Công tác xử lý TSBĐ rất phức tạp, phát sinh nhiều chi phí. Vì vậy,công tác xử lý TSBĐ với phương thức xử lý phù hợp, tiết kiệm chi phí góp phần giúp ngân hàng giảm bớt tổn thất khi thu nợ. Để công tác quản lý và xử lý TSBĐ phát huy hiệu quả trong hợp đồng BĐTV cần ghi rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi bên. - Chính sách tín dụng: Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác, hoạt động của các NHTM cũng vì mục tiêu lợi nhuận, chính sách tín dụng, vì thế sẽ quy định những vấn đề cụ thể nhằm đạt được mức lợi nhuận đã đặt ra trong từng giai đoạn và thời kỳ cụ thể. Những quy định này thể hiện mục tiêu của ngân hàng về lợi nhuận cần đạt được cao hay thấp và chính mục tiêu này sẽ chi phối việc lỏng hay chặt của chính sách tín dụng. Nếu NHTM muốn có lợi nhuận cao thì chính sách tín dụng thường lỏng và do đó khả năng rủi ro cũng cao, ngược lại NHTM nào không quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, thì chính sách tín dụng thường chặt và do đó, khả năng xảy ra rủi ro thấp hơn. Như vậy, tùy từng thời kì, từng ngân hàng mà chính sách tín dụng ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng. 1.6.2 Nhân tố từ phía khách hàng. Phần lớn những nguyên nhân dẫn đến khoản vay kém và mất an toàn bắt nguồn từ tình trạng mất khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng bị suy yếu hoặc không còn khả năng có thể do những nguyên nhân sau: *Nguyên nhân chủ quan: - Do năng lực và trình độ quản lý yếu kém: dẫn đến phương án sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích. - Thiếu vốn hoặc tỷ trọng vốn vay quá lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động: phản ánh khả năng tự chủ tài chính của khách hàng thấp, dẫn đến bị động trong sản xuất kinh doanh,gây khó khăn cho khách hàng khi phải thanh toán nợ đến hạn. - Công nghệ sản xuất lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiếu đa dạng, không đáp ứng được nhu cầu trên thị trường: Là nguyên nhân dẫn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, doanh thu của khách hàng vì vậy khách hàng gặp khó khăn trong khai thác nguồn để trả nợ. * Nguyên nhân khách quan - Sự suy yếu hoặc phá sản của đối tác. - Thị trường bị thu hẹp, bị nước ngoài áp đặt hạn chế thương mại không tiêu thụ được sản phẩm. - Cơ chế chính sách và quy hoạch của nhà nước, các cấp chính quyền thay đổi theo hướng không có lợi: tăng thuế, nâng giá các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào … - Rủi ro do thiên tai như mất mùa, dịch bệnh hoặc rủi ro trong đời sống như ốm đau, tai nạn hoặc bị chết…. Bên cạnh những nguyên nhân trên, để bảo đảm cho vay có hiệu quả, một yếu tố quan trọng trong thẩm định khách hàng là tư cách đạo đức người vay. Tư cách đạo đức người vay được biểu hiện trong quá khứ, trong quá trình cung cấp thông tin trong hồ sơ xin vay, trong quá trình sử dụng vốn vay và khi thu hồi nợ. Khách hàng có tư cách đạo đức tốt luôn thể hiện một tinh thần hợp tác với ngân hàng để khai thác vốn vay có hiệu quả. Còn những khách hàng vay có tư cách đạo đức tồi, nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tiền vay, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như: Cung cấp thông tin sai lệch để đánh lừa ngân hàng, sử dụng vốn sai mục đích, lợi dụng những kẽ hỡ của pháp luật, của những quy định trong hợp đồng cho vay để chây ỳ, gây khó khăn trong việc trả nợ. Đây là những rủi ro tiềm ẩn không dễ gì mà ngân hàng phát hiện và khi xảy ra gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng. 1.6.3 Nhân tố khác. * Môi trường kinh tế: Nếu coi hệ thống ngân hàng là một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là nền kinh tế thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không, có đủ máu để lưu thông và chất lượng máu cũng như hệ thống mao mạch có tốt hay không lại phụ thuộc vào sức khỏe của cơ thể sống ấy. Ngân hàng là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro. M._.c, thiết bị vẫn do khách hàng nắm giữ để tiến hành sản xuất, kinh doanh. Do đó, phát sinh nhiều rủi ro: Người vay dễ có động cơ tẩu tán tài sản, cho thuê hoặc sử dụng tài sản sai mục đích, không có ý thức bảo vệ tài sản, sử dụng quá mức công suất cho phép…. Bên cạnh đó, Khách hàng chủ yếu của Chi nhánh là các doanh nghiệp sản xuất, các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và giao thông nên phần lớn máy móc, thiết bị nằm rải rác trên các công trường, bến bãi, trong các doanh nghiệp sản xuất, rất khó kiểm soát. Đối với các máy móc thiết bị dùng trong xây dựng và giao thông phần lớn phải để ngoài trời, dưới tác động của môi trường thiên nhiên nên hao mòn rất nhanh, giảm nhanh giá trị. - Diện tích Chi nhánh khá nhỏ, nên việc cất giữ TSBĐ lớn phải thuê kho của bên thứ ba hoặc sử dụng kho của chính khách hàng vay. Do đó, khả năng kiểm soát rất hạn chế, nguy cơ rủi ro lớn. - Do chưa nhận thức đúng vai trò quan trọng quan trọng của việc quản lý TSBĐ, nên nhiều khi có một số bộ phận CBTD thực hiện qua quýt, cho đúng nghĩa vụ. 3.2.5 Xử lý TSBĐ vẫn chưa hiệu quả: Tốc độ xử lý TSBĐ còn chậm. Việc kéo dài thời gian xử lý TSBĐ không chỉ làm phát sinh thêm nợ quá hạn mà còn ảnh hưởng đến việc thanh lý TSBĐ, làm cho việc xử lý TSBĐ nhiều khi không đủ thu hồi nợ. Bất cập trong việc xử lý TSBĐ tại Chi nhánh do các lý do sau: - Việc xử lý TSBĐ tại Chi nhánh phần lớn để cho khách hàng tự bán. Việc để cho khách hàng tự bán TSBĐ, Chi nhánh muốn tạo sự chủ động cao nhất cho khách hàng, nhưng cách này mang lại nhiều rủi ro: Ngân hàng không thể kiểm soát hết được việc bán TSBĐ của khách hàng. Khách hàng có thể viện đủ lý do để không thực hiện việc bán TSBĐ, kéo dài thời gian xử lý TSBĐ. Thậm chí, khách hàng có thể khai khống số tiền bán được TSBĐ ít hơn so với thực tế, dẫn đến việc không thu hồi đủ nợ. - Mặc dù, pháp luật đã quy định cho phép Ngân hàng được xử lý TSBĐ để thu hồi nợ nhưng trên thực tế Chi nhánh vẫn không chủ động tự xử lý được số tài sản này vì luôn gặp phải thái độ bất hợp tác của khách hàng vay. Khi phải xử lý TSBĐ, khách hàng luôn cố tình chây ỳ giao nộp tài sản, có những hành vi chống đối, cản trở gây nhiều khó khăn trong việc xử lý TSBĐ. Trong khi đó, sự phối hợp của UBND và cơ quan Công an để buộc bên bảo đảm phải giao tài sản còn nhiều hạn chế. *Ngoài ra, còn tồn tại một số nguyên nhân khách quan gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả BĐTV tại Chi nhánh. Trước hết, là hạn chế xuất phát từ các văn bản pháp lý về bảo đảm tiền vay: Bảo đảm tiền vay không chỉ bó hẹp trong các văn bản của Luật TCTD, Luật Ngân hàng mà còn liên quan tới nhiều bộ Luật khác: Bộ luật dân sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp…. Trong khi đó, các nội dung quy định trong các điều Luật này về bảo đảm tiền vay nhiều khi còn chồng chéo, thiếu đồng bộ gây nhiều lúng túng cho các TCTD khi triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý ở nước ta vẫn chưa hoàn thiện, thường xuyên thay đổi, gây không ít khó khăn: Đơn cử như Luật đất đai được ban hành năm 1993, đến năm 1998 được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, sang năm 2001 được sửa đổi, bổ sung lần hai và đến năm 2003 ban hành Luật đất đai mới thay thế Luật đất đai năm 1993 và các luật sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2001. Sự thay đổi thường xuyên của bộ Luật nói trên, kéo theo sự thay đổi của các Nghị định, thông tư hướng dẫn ….Và đặc biệt, trong thời gian qua, những người làm trong ngành ngân hàng không khỏi băn khoăn, lúng túng với sự ra đời Bộ Luật dân sự 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 thay thế Bộ luật dân sự năm 1995 với nhiều điểm thay đổi tiến bộ về bảo đảm tiền vay khắc phục những hạn chế, bất cập của các văn bản trước đó : tách bạch rõ ràng về nội dung thế chấp, cầm cố, về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, về điều kiện của TSBĐ…. Tuy nhiên, các Ngân hàng vẫn chưa nhận được các văn bản hướng dẫn từ NHNN để thực hiện theo sự thay đổi này. Thứ hai: Sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành hỗ trợ cho công tác bảo đảm tiền vay: Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Công an, Bộ tư pháp, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính…. còn thiếu chặt chẽ và tích cực, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng triển khai cơ chế bảo đảm tiền vay: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và công trình xây dựng trên đất còn nhiều rối rắm, phiền hà. Hoạt động của phòng công chứng và phòng đăng ký giao dịch bảo đảm luôn trong tình trạng quá tải, thái độ phục vụ còn quan liêu, cựa quyền hay sách nhiễu, gây tốn rất nhiều thời gian. Ước tính để vay được một món vay, thì thời gian tối đa phải mất khoảng 15 ngày. Ngân hàng thẩm định hồ sơ TSTC khoảng 3 ngày, ký hợp đồng tại Phòng công chứng 1 ngày, đăng ký giao dịch bảo đảm 10 ngày. Với thời gian dài như vậy đã làm hạn chế cơ hội kinh doanh của khách hàng, đồng thời cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đẩy mạnh cho vay. Thứ ba: Môi trường kinh tế chưa có sự ổn định tương đối, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc dự báo, hoạch định chính sách cho vay và thu hồi nợ. Đặc biệt, trong năm 2005, thị trường bất động sản có sự chững lại đột ngột gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. I. Phương hướng hoạt động của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Đứng trước khó khăn chung của nền kinh tế, nhưng trong năm 2005, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cánh cửa WTO đang dần mở ra, mức độ cạnh tranh dự báo trong hoạt động ngân hàng ngày càng khốc liệt hơn. Để có thể tiếp tục đứng vững và ngày càng phát triển, sang năm 2006 Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã xây dựng cho mình một phương hướng kinh doanh với những biện pháp rất cụ thể. Tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn bằng cách mở rộng, quy hoạch lại mạng lưới các điểm giao dịch. Thường xuyên bám sát thị trường, tăng cường mở rộng khai thác các khách hàng có nguồn tiền nhàn rỗi lớn. Có chính sách lãi suất phù hợp, tăng cường làm tốt chính sách khách hàng, đặc biệt giữ gìn và phát triển quan hệ gắn bó mật thiết với các Ban quản lý dự án, những khách hàng lớn, khách hàng truyền thống của Chi nhánh. Trong công tác tín dụng, đối với những khoản nợ gia hạn, nợ quá hạn phát sinh trong năm 2005 tập trung đôn đốc, theo dõi chặt chẽ các nguồn tài chính của doanh nghiệp. Bám sát tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, theo sát từng công trình, từng hạng mục, từng dự án đầu tư để tập trung thu hồi nợ. Phấn đấu trong năm 2006 không để phát sinh nợ quá hạn. Trong hoạt động tín dụng, luôn đề cao nguyên tắc tăng trưởng trong an toàn.Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về bảo đảm tiền vay của Chính phủ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của NHNN và của NHCT Việt Nam. Tăng dần tỷ trọng cho vay có TSBĐ, khuyến khích cho vay đối với các khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố. Khắc phục những tồn tại, hạn chế tại Chi nhánh trong công tác định giá, quản lý, xử lý TSBĐ, nâng cao uy tín đối với khách hàng, tạo thuận lợi cho khách hàng vay vốn bằng bảo đảm bằng tài sản. Bên cạnh đó, cần chú trọng tới công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng cần được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên. Để có thể đạt vượt mức kết quả năm 2005, Chi nhánh đã đặt ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được trong năm 2006 như sau: Huy động vốn: 3.100 tỷ Sử dụng vốn: 1.900 tỷ Phát hành thẻ đạt 10.000 thẻ Thu phí dịch vụ đạt: trên 3 tỷ đồng Lợi nhuận tăng so với năm 2005 là 10% II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. 1. Nâng cao chất lượng của cán bộ tín dụng. Con người luôn là nhân tố quyết định tới thành công hay thất bại trong bất kì hoạt động nào. Đặc biệt, với hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro như hoạt động tín dụng, yếu tố con người lại càng đặt lên hàng đầu. Chất lượng CBTD được đánh giá cả về mặt chuyên môn nghiệp vụ lẫn tư cách đạo đức. Đội ngũ CBTD đảm bảo chất lượng, có tác dụng lớn trong việc hạn chế rủi ro. Để có được đội ngũ CBTD có chất lượng, ngay từ khâu tuyển chọn phải được sàng lọc kĩ lưỡng. Hình thức thi tuyển được coi là hình thức khách quan nhất để có thể lựa chọn được những CBTD tốt. Để luôn duy trì tốt chất lượng của đội ngũ CBTD, Chi nhánh luôn phải chú trọng nâng cao trình độ cho các CBTD thông qua việc khuyến khích và tạo điều kiện cho CBTD học lên, cử CBTD tham gia các khóa đào tạo về nghiệp vụ, các buổi tọa đàm về hoạt động ngân hàng, tại Chi nhánh cần thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận để phổ biến các văn bản mới, tạo điều kiện để CBTD có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Đặc biệt, Chi nhánh cần chú trọng đào tạo đội ngũ CBTD trẻ. Họ là những người năng nổ, nhiệt tình, tiếp thu nhanh, sẽ là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong tương lai của Chi nhánh. 2. Nâng cao chất lượng công tác định giá TSBĐ. Hạn chế lớn nhất trong công tác định giá tại Chi nhánh vẫn do CBTD kiêm nhiệm, do đó tính chuyên môn hóa không cao, kết quả định giá không được đảm bảo. Có thể nói, công tác định giá có ảnh hưởng quyết định suốt quá trình cho vay. Định giá TSBĐ được thực hiện tốt, góp phần quan trọng tới hiệu quả bảo đảm tiền vay. Vậy để nâng cao chất lượng công tác định giá TSBĐ, Chi nhánh cần sớm thành lập tổ định giá TSBĐ riêng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tổ định giá quan trọng nhất cần phải có đội ngũ nhân sự chất lượng. Đó là những cán bộ có chuyên môn sâu về nghiệp vụ định giá, có khả năng tổng hợp, phân tích, dự báo xu thế phát triển của TSBĐ. Tùy vào điều kiện thực tế tại Chi nhánh, mà có thể tuyển nhân sự có chuyên môn về định giá từ bên ngoài hoặc điều chuyển một số CBTD sang tổ định giá và tổ chức đào tạo lại về nghiệp vụ định giá cho số cán bộ này. Bên cạnh đó, Chi nhánh cần quan tâm đầu tư hệ thống thông tin: báo chí, máy tính nối mạng…, góp phần hỗ trợ cho các cán bộ định giá trong việc cập nhật thông tin về: các văn bản liên quan đến định giá, sự thay đổi giá cả các tài sản trên thị trường, sự phát triển của khoa học công nghệ…. Dựa trên những thông tin xác thực, có căn cứ khoa học, tổ định giá cần xây dựng hệ thống các tiêu thức để đánh giá giá trị TSBĐ, làm cơ sở giúp cán bộ định giá dễ dàng hơn trong việc định giá. Ngoài ra, đối với những tài sản phức tạp, khó định giá, tổ định giá có thể tham khảo thêm từ tổ chức chuyên môn định giá. 3. Thường xuyên đánh giá lại giá trị của TSBĐ. Với tốc độ phát triển khoa học công nghệ như hiện nay, tài sản dễ hao mòn vô hình nhanh chóng. Bên cạnh đó, phần lớn TSBĐ tại chi nhánh là các máy móc thiết bị xây dựng thường xuyên để ngoài trời, cường độ sử dụng cao, do đó tốc độ hao mòn rất nhanh. Do đó, công tác đánh giá lại giá trị TSBĐ cần được tiền hành thường xuyên, qua đó để có giải pháp hạn chế rủi ro. Từ việc xem xét thực trạng tài sản và tham khảo các thông tin trên thị trường: giá cả, xu hướng phát triển công nghệ, các mặt hàng thay thế.... cán bộ định giá tiến hành định giá lại. Trong trường hợp, tài sản được đánh giá lại giảm giá mạnh, CBTD yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản đảm bảo, hoặc giảm số tiền giải ngân hoặc số lần giải ngân (nếu món vay được giải ngân nhiều lần). Như vậy, đánh giá lại giá trị TSBĐ là biện pháp giúp TCTD hạn chế nhiều rủi ro, đảm bảo TSBĐ khi xử lý có thể thu đủ nợ. 4. Đa dạng hóa các loại TSBĐ. Phần lớn, TSBĐ mà Chi nhánh nhận cầm cố, thế chấp là Quyền sử dụng đất, máy móc thiết bị trong khi đó việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản ở nước ta còn nhiều bất cập, gây ảnh hưởng không nhỏ cho khách hàng vay vốn trong khi đó, có nhiều TSBĐ mà khách hàng có thể dễ dàng đáp ứng hơn: Các khoản phải thu, vàng, các hợp đồng nhận thầu, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Do đó, danh mục TSBĐ được mở rộng, không những giúp khách hàng dễ dàng đáp ứng được điều kiện vay vốn, góp phần mở rộng tín dụng mà còn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Ưu điểm chung của các TSBĐ này là không tốn kém về chi phí quản lý và định giá. Riêng với hình thức bảo đảm bằng vàng, Ngân hàng với nghiệp vụ kinh doanh vàng của mình, sẽ dễ dàng trong việc phân kim và định giá vàng, làm cơ sở để xác định mức cho vay. Đối với các khoản phải thu, tạo thuận lợi cho Chi nhánh mở rộng các khoản cho vay ngắn hạn, nhanh thu hồi vốn. Phần lớn khách hàng của Chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và giao thông, tình trạng các công trình chưa được quyết toán do dở dang, chưa thể hoàn thành vì còn thiếu vốn là rất lớn. Việc ngân hàng chấp nhận nhận hợp đồng nhận thầu làm TSBĐ, là “lời giải” cho bài toán thiếu vốn của các doanh nghiệp, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công trình và sớm được quyết toán. Ngoài ra, Chi nhánh cần đi đầu trong việc nhận Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ làm TSBĐ. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam, trong thời gian qua đã có những bước phát triển khởi sắc, đặc biệt đối với loại hình bảo hiểm nhân thọ, đã đưa ra nhiều mức bảo hiểm cùng với các dịch vụ hỗ trợ liên quan, do đó số lượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ngày càng gia tăng, đây là cơ sở để ngân hàng có thể khai thác để mở rộng tín dụng. Bên cạnh đó, hình thức bảo đảm này tương đối thuận lợi vì tính thanh khoản cao, dễ dàng trong quản lý. Bên cạnh những ưu điểm kể trên, những TSBĐ cần bổ sung trên cũng ẩn chứa nhiều rủi ro. Điều đó, đòi hỏi CBTD cần xem kĩ lưỡng các yếu tố về khách hàng, hiệu quả dự án để lựa chọn TSBĐ cho phù hợp. Việc đưa cái mới vào áp dụng ban đầu bao giờ cũng khó khăn, nhưng nếu thực hiện tốt kết quả thu được rất khả quan. Vì vậy, ban đầu Chi nhánh nên áp dụng đối với các khách hàng có quan hệ lâu dài, dự án có tính khả thi cao, ít rủi ro. Từ đó, tiếp tục mở rộng đối tượng áp dụng. Với cách làm như vậy, Chi nhánh không chỉ thu hút một số lượng khách hàng đáng kể mà còn hạn chế rất lớn rủi ro. 5. Chi nhánh có thể yêu cầu khách hàng mua Bảo hiểm cho TSBĐ. Đối với những loại TSBĐ mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm, Chi nhánh yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm. Do đó, đối với tài sản bắt buộc phải mua bảo hiểm, việc thẩm định TSBĐ lại càng phải được thực hiện chặt chẽ, kĩ lưỡng. Kết quả thẩm định là cơ sở để ngân hàng yêu cầu khách hàng mua loại bảo hiểm với mức phù hợp. Việc quản lý TSBĐ dù có tốt đến đâu, cũng khó tránh khỏi những rủi ro bất ngờ xảy ra đối với TSBĐ: lũ lụt, lốc, bão và các nguyên nhân bất khả kháng khác.... Khi đó, Bảo hiểm sẽ đứng ra thanh toán những tổn thất xảy ra đối với TSBĐ. Việc mua bảo hiểm cho TSBĐ cũng là biện pháp nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, để đảm bảo thu nợ, khi mua bảo hiểm cho TSBĐ, Chi nhánh cần phải thỏa thuận với khách hàng vay, bên bảo lãnh về việc chuyển tên người thụ hưởng trong Hợp đồng bảo hiểm là Chi nhánh trong trường hợp có rủi ro xảy ra. 6. Quan tâm hơn đến việc quản lý TSBĐ. Kết quả quản lý TSBĐ có ảnh hưởng rất lớn đến việc kết quả xử lý TSBĐ. TSBĐ được quản lý tốt thì việc xử lý TSBĐ được dễ dàng, nhanh chóng hơn. Do đó, quản lý TSBĐ luôn phải được chú trọng và quan tâm. Đối với các loại giấy tờ phải bảo quản nơi khô ráo, tránh chuột bọ, mối mọt và thuận tiện cho việc thường xuyên lấy ra kiểm tra. Đối với các TSBĐ cần phải cất giữ ở các kho, thì hệ thống kho phải đảm bảo có các yếu tố an toàn: phải đặt ở vị trí có an ninh tốt, người trông coi kho phải có uy tín và tư cách đạo đức tốt, có hệ thống chống trộm, hệ thống phòng cháy, chữa cháy.... Khó khăn nhất trong công tác quản lý TSBĐ tại Chi nhánh là khó kiểm soát được TSBĐ do khách hàng nắm giữ, đặc biệt là những máy móc có giá trị lớn nằm ở các công trường. Do đó, đối với những tài sản này, CBTD cần tiến hành những đợt xuống cơ sở đột xuất để kiểm tra tình trạng tài sản, định kỳ thường xuyên định giá lại tài sản để có biện pháp bổ sung thêm tài sản hoặc dừng cho vay. Quan tâm tới công tác quản lý TSBĐ là giải pháp giúp ngân hàng bảo vệ chính mình, giảm bớt rủi ro. 7. Nâng cao hiệu quả công tác xử lý TSBĐ. Việc tiến hành xử lý TSBĐ là điều mà ngân hàng cũng như khách hàng không hề mong muốn. Xử lý TSBĐ là khâu cuối cùng nhưng kết quả của nó lại phần nào phản ánh kết quả của định giá cũng như quản lý TSBĐ. TSBĐ xử lý đảm bảo thu hồi đủ nợ, chứng tỏ công tác định giá và quản lý TSBĐ đã được thực hiện khá tốt. Để nâng cao hiệu quả công tác xử lý TSBĐ, Chi nhánh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: - Chi nhánh cần áp dụng nhiều hình thức xử lý TSBĐ, không nên tập trung quá vào hình thức để cho khách hàng tự bán vì cách này rất khó kiểm soát. Tùy từng loại TSBĐ và điều kiện cụ thể mà Chi nhánh cần lựa chọn hình thức xử lý cho phù hợp. - Để cho TSBĐ sau khi xử lý có thể đủ thu hồi nợ, ngân hàng phải cập nhật các thông tin về TSBĐ: giá cả, nhu cầu thị trường, các văn bản pháp luật mới liên quan đến xử lý TSBĐ.... là cơ sở để đánh giá đúng giá trị TSBĐ tại thời điểm xử lý. - Cần phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan chức năng nhà nước như Công an, Tòa án, Thi hành án, ủy ban nhân dân các cấp, Tư pháp.... 8. Thiết lập hệ thống thông tin trong suốt. Thông tin được coi là nguồn “nguyên liệu” đầu vào quan trọng cho quá trình phân tích tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Với đăc trưng hoạt động đầy rủi ro như hoạt động tín dụng, khối lượng thông tin cần thu thập càng lớn: thông tin về khách hàng, thông tin về tài sản, thông tin về thị trường, thông tin về các văn bản…. Bên cạnh đó, thông tin càng đảm bảo chất lượng, có độ tin cậy cao, góp phần hỗ trợ cho quá trình xét duyệt khoản vay được nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí đồng thời nâng cao chất lượng của khoản vay. Do đó, thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác là yêu cầu tất yếu, nhất thiết cần được quan tâm đúng mức. Để có hệ thống tin đảm bảo chất lượng cần tập trung vào những nội dung sau: - Trước hết cần đẩy nhanh việc hiện đại hóa công nghệ. Cần trang bị hệ thống máy tính nối mạng nội bộ trong Chi nhánh, cũng như với toàn hệ thống NHCT Việt Nam để giúp cho CBTD có thể truy cập nhanh chóng các Thông tin tín dụng, các văn bản, các sự kiện ... của NHCT Việt Nam cũng như chia sẻ thông tin về khách hàng, trao đổi về kinh nghiệm, chuyên môn giữa các CBTD với nhau trong toàn hệ thống. Mạng Internet là kênh cung cấp thông tin khổng lồ về tất cả các lĩnh vực trên toàn cầu. Với tiện ích của mạng toàn cầu Internet, hệ thống máy tính nối mạng Internet cần được đưa vào ứng dụng rộng rãi, giúp cho CBTD có thể khai thác các thông tin về giá cả, sự biến động thị trường của TSBĐ cũng như ngành nghề lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh làm cơ sở cho CBTD có thể phân tích, dự báo nhằm đưa ra quyết định. - Cần phối hợp chặt chẽ với các TCTD mà khách hàng vay, đối tác, nhà cung cấp của khách hàng để có thể khai thác các thông tin về khách hàng. Đây là những nguồn thông tin quan trọng, phản ánh khá chính xác về tư cách đạo đức, về tình trạng tài chính của khách hàng. -Nguồn thông tin có được từ mỗi khoản vay cần được lưu trữ cẩn thận trong hệ thống thông tin nội bộ, làm cơ sở cho việc xét duyệt các khoản vay tiếp theo cũng như chia sẻ thông tin với các đối tượng cần quan tâm. III. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị với NHCT Việt Nam. - Cần tăng thêm tính tự quyết cho Chi nhánh: Hơn ai hết CBTD của Chi nhánh là người trực tiếp tiếp cận với khoản vay, do đó tăng tính tự quyết cho Chi nhánh, giúp Chi nhánh có thể chủ động đưa ra những quyết định kịp thời về số tiền vay, về tài sản nhận bảo đảm, về xử lý TSBĐ… tránh đánh mất những cơ hội chỉ vì những quy định cứng nhắc, máy móc không phù hợp với thực tế của Chi nhánh. - NHCT Việt Nam cần tập trung chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Trung tâm Phòng ngừa & Xử lý rủi ro NHCT Việt Nam, qua đó CBTD của Chi nhánh có thể khai thác được kịp thời và chính xác các thông tin phòng ngừa: về tình hình thị trường sản phẩm, dự báo sự biến động của giá cả, thị phần, về những lĩnh vực đang có sự biến động lớn (thuận lợi, khó khăn), về xu thế giải thể, sáp nhập…. - Cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo để qua đó CBTD có thể trao đổi những bất cập, vướng mắc của các văn bản khi triển khai tại cơ sở, để qua đó NHCT Việt Nam có thể tập hợp để tự sửa đổi hoặc trình lên các cơ quan cấp trên yêu cầu sửa đổi. Đồng thời, qua các buổi hội thảo, CBTD có thể cập nhật các văn bản, quy định mới của NHCT Việt Nam, của NHNN, cùng học tập, trao đổi, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam phải có chính sách đào tạo cán bộ: có thể tự tổ chức lớp đào tạo hoặc gửi đi đào tạo ở các trường trong nước hoặc nước ngoài. - NHCT Việt Nam đã thực hiện xong giai đoạn 1 của đề án tái cơ cấu ngân hàng. Hịên tại, NHCT Việt Nam đang trong quá trình triển khai giai đoạn 2 của đề án. Trong thời gian còn lại của đề án, NHCT Việt Nam tập trung đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, để giúp CBTD có thể rút ngắn thời gian phân tích tín dụng, tiếp cận thông tin, dần làm quen với môi trường làm việc hiện đại. 2. Kiến nghị với NHNN. - Trước những hạn chế và bất cập của Bộ luật dân sự năm 1995, ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 thay thế cho Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995. Do đó, có nhiều quy định hiện hành của các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay được xây dựng trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 không còn phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 nữa. Do đó, NHNN cần sớm xây dựng và hoàn thiện dự thảo nghị định về bảo đảm tiền vay trình Chính phủ xem xét, ký ban hành, làm cơ sở pháp lý cho các TCTD thực hiện. Nghị định về bảo đảm tiền vay trình Chính phủ ký lần này cần được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điều khoản còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung những quy định lỗi thời, lạc hậu của Nghị định số 178, Nghị định số 85 cho phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, các văn bản pháp luật có liên quan khác và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tín dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng. Cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để các NHTM nhận thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng. - NHNN cần có sự chỉ đạo các NHTM báo cáo rõ các vướng mắc, tồn tại, bất cập trong các văn bản pháp luật về Bảo đảm tiền vay đã ban hành cũng như các yêu cầu về những vấn đề trong thực tiễn hoạt động bảo đảm tiền vay đã phát sinh cần có văn bản pháp quy pháp luật để điều chỉnh, để NHNN kịp thời xem xét, cùng phối hợp với các cơ quan liên quan chỉnh sửa, bổ sung hoặc ban hành mới, tạo môi trường thể chế thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. - NHNN đề xuất với Chính phủ chỉ đạo các Bộ ban ngành thống nhất thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm khi cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thủ tục cấp giấy chứng nhận sở hữu bất động sản cho rõ ràng. - Phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cập nhật để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích kiểm soát rủi ro tín dụng. - Tăng cường hiệu quả thanh tra kiểm soát hoạt động tín dụng tại các NHTM nhằm hạn chế phòng ngừa rủi ro tín dụng. 3. Kiến nghị với các bộ ban ngành liên quan. * Bộ tư pháp và Bộ TN&MT - Phòng công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm luôn ở trong tình trạng quá tải, gây mất rất nhiều thời gian cho dân. Thiết nghĩ, Bộ TN&MT và Cục đăng ký Quốc gia giao dịch bảo đảm cần có kế hoạch tuyển thêm nhân sự, mở thêm các phòng làm việc tại nhiều quận, tạo thuận lợi cho người dân đến giao dịch. Và hiện nay, Bộ TN&MT và Cục đăng ký Quốc gia giao dịch bảo đảm chưa quy định rõ công chứng trước hay giao dịch bảo đảm trước. Do đó, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện đăng ký Giao dịch bảo đảm trước hay công chứng trước để hai cơ quan này không đùn đẩy cho nhau, gây phiền hà cho khách hàng và ngân hàng. - Đề nghị Bộ TN&MT và Bộ tư pháp có quy định đối với những trường hợp tài sản thế chấp là bất động sản trước khi luật đất đai năm 2003 có hiệu lực còn thiếu giấy tờ theo quy định hiện nay nhưng không nằm trong quy hoạch, không chuyển mục đích sử dụng, không có tranh chấp thì cho phép các TCTD bán và người mua được cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, giúp ngân hàng xử lý TSTC thu hồi vốn. - Về cách tính lãi nợ quá hạn do chậm thi hành án, theo quy định của NHNN, các TCTD được tự xác định mức lãi suất cho vay và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn cũng được ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, cơ quan thi hành án không chấp nhận lấy mức lãi suất cho vay đã thỏa thuận trong HĐTD giữa ngân hàng và khách hàng làm căn cứ để xử lý nợ quá hạn đối với tài sản phát mại mà lấy lãi suất cơ bản của NHNN (là mức lãi suất mang tính định hướng, thấp hơn nhiều so với lãi suất thực tế của các TCTD) nên đã gây thiệt hại cho các TCTD. Vì vậy, Bộ tư pháp cần làm việc với NHNN để có hướng dẫn xử lý lãi suất nợ quá hạn đối với tài sản phát mại. * Bộ Công an: Đề nghị Bộ Công an có hướng dẫn cảnh sát giao thông thống nhất việc cho phép chủ phương tiện lưu thông sử dụng bản sao Giấy chứng nhận đăng ký (có chứng nhận của cơ quan Công chứng) đối với các phương tiện vận tải đã được cầm cố, thế chấp tại Ngân hàng (theo quy định, bản chính Giấy tờ đăng ký các phương tiện này đã được các TCTD giữ khi nhận cầm cố, thế chấp). * Bộ Tài chính: Theo quy định của Bộ Tài chính, khi Ngân hàng bán TSBĐ để thu hồi nợ, thì thu nhập từ việc bán TSBĐ này phải chịu thuế TNDN. Quy định không hợp lý ở chỗ việc bán TSBĐ là biện pháp ngoài mong muốn của ngân hàng nhằm mục đích thu hồi nợ vay, hoàn toàn không phải là hoạt động kinh doanh. Do đó, đề nghị Bộ Tài chính xem xét bỏ quy định này, tạo điều kiện cho các ngân hàng không phát sinh một khoản chi phí, để có thể thu đủ nợ. 4. Kiến nghị với Chính phủ. - Việc xây dựng xếp hạng tín dụng nội bộ tại NHTM còn gặp nhiều khó khăn vì việc tiếp cận các thông tin giúp cho việc đánh giá, xếp hạng tín dụng khách hàng (như tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản, uy tín đối với NHTM đã giao dịch trước đây) hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện tại, Việt Nam mới chỉ có một Công ty xếp hạng tín nhiệm của Vietnamnet được thành lập, tuy nhiên khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm trong nước chưa hoàn chỉnh, do đó, các NHTM chưa thể tham khảo kết quả xếp hạng doanh nghiệp do công ty xếp hạng tín nhiệm trong nước thực hiện khi phân tích, đánh giá, xếp hạng tín nhiệm. Vì vậy, Chính phủ cần giao cho Bộ Tài Chính sớm ban hành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm. -Chỉ đạo các Bộ, ngành ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật cần kịp thời, đồng bộ, rõ ràng, thống nhất và sát thực tế hơn, loại bỏ những bất cập và chồng chéo, tránh tình trạng Luật đã có hiệu lực thì hành mà chưa có văn bản hướng dẫn. - Cần có sự chỉ đạo các cơ quan ban ngành có giải pháp kịp thời để làm “tan băng” thị trường bất động sản như hiện nay. - Hiện nay, có nhiều cơ quan của các Bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ đăng ký giao dịch bảo đảm: Bộ TN& MT đăng ký Bất động sản. Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm – Bộ Tư pháp đăng ký động sản, Cơ quan quản lý đường biển, đăng ký tàu thuyền, Cục hàng không dân dụng Việt Nam đăng ký máy bay….Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được thống nhất, đặc biệt ở các địa phương, gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Thiết nghĩ, Chính phủ xem xét thống nhất giao cho một cơ quan đảm nhận. Kết luận Hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu và là đòi hỏi khách quan của quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Trong xu thế đó, các thị trường tài chính ngày càng phát triển, mở rộng, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường quốc tế, ngay cả thị trường nội địa tăng nhanh. Trong điều kiện kinh doanh mới, thị trường luôn sôi động và biến động khó lường, nguy cơ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng lại càng lớn. Do đó, việc sử dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được coi là giải pháp hữu hiệu để các NHTM Việt Nam duy trì được sự phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Và điều đó đã được chứng minh tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân. Việc áp dụng biện pháp BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh, không những góp phần mở rộng qui mô tín dụng mà chất lượng tín dụng cũng được nâng cao. Tuy vây, trong quá trình thực hiện công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh đã phát sinh một số vướng mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả BĐTV tại Chi nhánh. Việc tìm hiểu nguyên nhân và có những giải pháp xử lý kịp thời luôn được Chi nhánh hết sức quan tâm. Qua việc nghiên cứu lý thuyết, cũng như được thực tế tại Chi nhánh, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với mong muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác BĐTV bằng tài sản tại Chi nhánh. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu cũng như hiểu biết thực tế còn nhiều hạn chế, nên bài viết của không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sách. - “ Ngân hàng thương mại” của PGS.TS Phan Thị Thu Hà - Nhà xuất bản thống kê. - “ Các nghiệp vụ NHTM” của GS.TS Lê Văn Tư - Nhà xuất bản thống kê - “ Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại” của David Cox- Nhà xuất bản quốc gia Hà Nội 1997. - “ Một số nghiệp vụ NHTM” của TS Nguyễn Văn Ngôn - Nhà xuất bản thống kê 1996 2. Báo và tạp chí. - Bài “Bàn về một số khía cạnh trong nhận cầm cố tài sản là máy móc, thiết bị làm đảm bảo tiền vay – vấn đề quan tâm của doanh nghiệp”- Đào Văn Chung, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 15/2/2005. - Bài “Chính sách tài sản đảm bảo trên quan điểm an toàn và sinh lợi của NHTM” – Phan Thị Thu Hà, Tạp chí Ngân hàng số 9/2004. - Bài “Xử lí TSBĐ thu hồi nợ của NHTM còn nhiều bất cập”- Bình Minh, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 8/2005. - Bài “Quản trị danh mục TSBĐ - một yêu cầu cấp thiết” – Phạm Xuân Hòe, Tạp chí Ngân hàng số 7/2005. 3. Các tài liệu khác. - Luật đất đai 2003. - Sổ tay tín dụng của NHCT 2004. - Luật dân sự 2005. - Các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay được nêu trong bài. Nhận xét của cơ sở thực tập Ngày...... tháng ....... năm 2006 Thủ trưởng đơn vị (Ký tên, đóng dấu) Nhận xét của giáo viên hướng dẫn Ngày...... tháng ....... năm 2006 GV hướng dẫn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29441.doc